Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Mặc dù có cơ hội lịch sử, Berlin không muốn đảm đương vai trò lãnh đạo. Thay vào đó, các quốc gia Đông Âu đang thế chân vào khoảng trống và trở thành trung tâm mới của lục địa này. Ngoài việc mất quyền lực, điều này còn để lại hậu quả cho nền kinh tế và sự thịnh vượng của nước Đức.

duc1

Kaja Kallas (nữ Thủ tướng Estonia – NBT) là "Tương lai của Châu Âu". Trên mạng xã hội nhiều người bày tỏ sự tin tưởng về điều này. Người ta chia sẻ một bức ảnh của vị Thủ tướng Estonia cùng với Sanna Marin, Thủ tướng Phần Lan. Bên cạnh đó, họ đặt một bức chân dung cựu Thủ tướng Angela Merkel, phía dưới có hàng chữ : "Quá khứ của Châu Âu".

Kể từ cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào Ukraine ngày 24 tháng 2, EU đã và đang tự tổ chức lại. Trung tâm của EU dịch chuyển xa hơn về phía đông. Điều này không chỉ thể hiện qua việc các thành viên phía đông của cộng đồng, đặc biệt là các nước Estonia, Ba Lan và Cộng hòa Czech, ủng hộ quân đội Ukraine mạnh mẽ thông qua việc chuyển giao ồ ạt vũ khí. Các nước này cũng là những nước đã tiếp nhận hầu hết trong số 7 triệu người Ukraine chạy loạn ra nước ngoài.

Thực tế là cấu trúc quyền lực của Châu Âu đang thay đổi gắn liền với thay đổi về văn hóa, điều đó thể hiện qua các hình ảnh được lưu truyền trên mạng xã hội tôn vinh các chính khách như Kaja Kallas, so sánh bà với Angela Merkel, người từng được coi là nhà lãnh đạo của Châu Âu trong nhiều năm qua.

Điều đó gây ấn tượng : nước Đức là quá khứ, bây giờ là thời điểm của EU ở phía Đông. Thực tế là, với cuộc chiến xâm lược của Nga ở Ukraine, khu vực Đông Trung Âu đã trở thành tâm điểm chú ý của dư luận thế giới. Theo quan điểm lỗi thời của Đức, đây là những quốc gia "nằm giữa Châu Âu", tức là nằm giữa Đức, Nga và Áo, từ lâu ít được chú ý trên chính trường Châu Âu. Nhưng giờ đây các nước này đã vươn lên trở thành người điều khiển nhịp độ thực hiện chính sách trừng phạt của Châu Âu đối với Nga.

Warsaw hay Tallin luôn là những nước đầu tiên lên tiếng đòi thi hành các biện pháp cứng rắn hơn với Moscow,và sau đó nước Đức mới lên tiếng tán thành.

Ba Lan là một ngã ba trung tâm

Slovakia, Romania hay Ba Lan – những quốc gia từ lâu đã cảnh báo về một nước Nga hung hăng, hiếu chiến nhưng luôn bị Brussels hoặc Berlin coi là sự hoảng loạn vô căn cứ – giờ đây là những quốc gia tiền tuyến. Ba Lan đã trở thành một đầu cầu không thể thiếu trong việc vận chuyển vũ khí của phương Tây cho Ukraine. Ngoài ra, Ba Lan hơn hẳn các nước thành viên NATO trong việc tăng cường vũ trang sẵn sàng chiến đấu. Các nước Baltic và Slovakia cũng sẵn sàng bảo vệ lâu dài sườn phía đông của liên minh, với quan niệm Moscow sẽ vẫn thù địch với Châu Âu ngay cả khi cuộc chiến ở Ukraine đã lắng xuống.

Đường ranh giới của sự đối đầu giữa hai khối mới sau này sẽ chạy dọc theo biên giới Đông-Trung Âu, không còn dọc theo biên giới của Đức như đã từng diễn ra trong nhiều thập niên sau Thế chiến II.

Từ đó, theo quan điểm của Hoa Kỳ, điều này làm tăng tầm quan trọng chiến lược của khu vực này. Trọng lượng của các quốc gia này đối với chính sách an ninh đang tăng lên trong khi trọng lượng của Đức giảm đi.

Đối với nền chính trị Đức thì "Bước ngoặt thời đại" có thể là một cuộc cách mạng. Tuy nhiên, ở nước ngoài, các nhà bình luận có thiện chí cho rằng điều này quá lắm cũng chỉ là một sự điều chỉnh muộn màng để thích ứng với các tiêu chuẩn của NATO. Việc Berlin khá do dự trong việc viện trợ cho Ukraine cũng khiến vai trò lãnh đạo của Đức ở Châu Âu trong con mắt người dân Trung – Đông Âu lúc này là không thể chấp nhận được.

Niềm tin vào nền chính trị Đức ở các nước đối tác đã bị tổn thương, nhưng nhiều người vẫn chưa nhìn thấy điều đó. Điều này sẽ không thể không để lại hậu quả đối với vị trí của Berlin.

Hình ảnh của nước Đức như một người lính không đáng tin cậy sẽ không dễ gì rũ bỏ, và có khả năng sẽ dẫn đến những biến động về kinh tế. Việc được coi là một đối tác đáng tin cậy, đặc biệt là ở Trung và Đông Âu, là lợi ích của chính nước Đức. Đối với Đức, phía đông EU là một khu vực kinh tế quan trọng hơn so với Trung Quốc. Riêng Ba Lan là đối tác thương mại quan trọng thứ tư của Đức, sau Ý, với kim ngạch thương mại hơn 122 tỷ euro vào năm 2021.

Khu vực này sẽ tiếp tục phát triển năng động. Trong những năm gần đây, một số nền kinh tế ở phía đông EU đã tăng trưởng hơn 5% mỗi năm. Khủng hoảng năng lượng và lạm phát đang dẫn đến những bất ổn ở khu vực này cũng như ở Châu Âu nói chung. Tuy nhiên, một số chuyên gia xác định khu vực này vẫn là động lực tăng trưởng.

Đông Trung Âu thay thế cho Trung Quốc

Có nhận định cho rằng do căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington, các nhà đầu tư đang ngày càng quay lưng lại với Trung Quốc, và các doanh nghiệp Châu Âu và Mỹ thậm chí sẽ thu hẹp sự hợp tác của họ với Trung Quốc trong vài năm tới. Sau đó họ sẽ tập trung vào Trung và Đông Âu, do vị trí của nó và cũng như số lượng lớn lao động được đào tạo tốt ở đây.

Ukraine hoàn toàn không nằm ngoài toan tính này. Ngay cả khi quốc gia này không sớm trở thành thành viên của EU, thì có thể thấy trước nước này sẽ hợp tác chặt chẽ hơn với Liên minh Châu Âu. Sự trao đổi này chủ yếu liên quan đến giao thông ở biên giới, cơ sở hạ tầng năng lượng, đầu tư chung vào đường sắt, đường bộ và nhiều lĩnh vực khác. Một số hiện đang được triển khai.

Chủ yếu vùng phía đông của EU sẽ được hưởng lợi từ điều này. Tại đây đang hình thành một không gian kinh tế tổng hợp với hơn 150 triệu dân. Nhà kinh tế Marcin Kedzierski ở Kraków cho rằng sẽ có "sự cạnh tranh về kinh tế và chính trị sòng phẳng với phần EU do Pháp và Đức dẫn dắt".

Ngay cả những người không đồng ý với luận điểm của Kedzierski về sự cạnh tranh giữa Đông và Tây cũng phải thừa nhận rằng EU hiện đang có những thay đổi triệt để hơn so với những thập kỷ trước. Đức, trong vai trò một cường quốc định hình khu vực, đang có nguy cơ tụt hậu. Berlin không chỉ đánh mất niềm tin ở phía Đông.

Nếu giá năng lượng vẫn ở mức cao trong một thời gian dài, thì toàn bộ địa bàn kinh tế Đức sẽ gặp nguy hiểm. Tại sao Tesla, Google hay các tập đoàn bản địa như Volkswagen hay Bosch lại phải tạo ra việc làm ở Đức nếu điện ở đó quá đắt, trong khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật số lại không an toàn ?

Các nỗ lực để đạt được độc lập với Nga đã được thực hiện sớm hơn nhiều ở phía đông EU. Một ví dụ là đường ống dẫn khí Baltic Pipe của Ba Lan-Na Uy. Nó được khai trương bởi Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki và người đồng cấp Đan Mạch Mette Frederiksen vào đúng ngày đường ống Nord Stream bị phá hoại. Biểu tượng của chính sách năng lượng thất bại này cũng cho thấy cán cân ở Châu Âu đang nghiêng sang phía đông và rời xa nước Đức.

Sẽ là thái quá nếu miêu tả Đông – Trung Âu như một học sinh xuất sắc về mọi mặt. Tuy vậy, chắc chắn khu vực này sẽ trở thành trung tâm vì nó là đầu mối đàm phán mọi sự phát triển mà EU đang đối diện. Đầu tiên và quan trọng nhất là cuộc chiến ở Ukraine và hậu quả của nó, nhưng vấn đề di cư cũng đang là một vấn đề lớn.

Ngày càng có nhiều người đến EU thông qua ngả Balkan, và họ cũng đang đến Đức qua Slovakia và Cộng hòa Czech. Những người tị nạn từ Trung Đông hoặc Châu Phi vẫn đang cố gắng vượt biên sang Ba Lan qua ngả Belarus. Cuộc khủng hoảng của nhà nước pháp quyền Châu Âu cũng phải được quyết định ở phía đông, ở Ba Lan và Hungary. Cả hai quốc gia đều bị chỉ trích trong nhiều năm vì tái cấu trúc bộ máy tư pháp hoặc tấn công báo chí.

Vấn đề nhà nước pháp quyền cho thấy, nằm ở trung tâm sự chú ý không nhất thiết đồng nghĩa với việc là một tấm gương. Nhưng thông thường nó đi đôi với việc giành được ảnh hưởng. Giờ là lúc sẽ quyết định nơi nào là trung tâm, nơi nào là vùng ngoại vi trong tương lai Châu Âu. Tiến triển này có thể mang lại thêm những bất ngờ mới.

Philipp Fritz

Nguyên tác : "Deutschland war gestern, jetzt kommt das Europa des Ostens", WELT, 11/10/2022.

Nguyễn Xuân Hoài biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 16/10/2022

Published in Diễn đàn

Nước chảy đá mòn

Andrew Curry, Wilson Quarterly, 2009

Chúng ta nhớ Bức Tường Berlin sụp đổ vào năm 1989 vì đấy là ẩn dụ rất tuyệt vời-những người Đức vui sướng ôm chầm lấy nhau khi toàn bộ chế độ sụp đổ, họ thắp sáng màn đêm bằng bao hân hoan nhẹ nhõm dâng lên trong lòng. Vào ngày 9 tháng Mười Một, thế giới kỷ niệm ngày cáo chung của chủ nghĩa cộng sản và ngày giải phóng hàng triệu người ra khỏi hàng thập niên áp bức.

wall1

Ngày nay, mấy ai nhớ đến những năm dài kiên trì nỗ lực của các nhà bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động từ Warszawa đến Budapest mà đã mở đường cho cái đêm rất quan trọng ấy. Ngay ở Cộng hòa Dân chủ Đức -thường được gọi là Đông Đức- sự cáo chung bắt đầu diễn ra không phải ở thủ đô Berlin bị chia cắt mà ở những thành phố ít nổi tiếng hơn như Leipzig, Dresden, và Plauen. Trong hai mươi năm đầy sóng gió kể từ khi cáo chung của chủ nghĩa cộng sản ở Đức và Đông Âu, sự tập trung vào những hình ảnh của cái đêm duy nhất hôm ấy khiến ta khó lòng nhận thức rằng thật ra biết bao nhiêu công việc cần phải làm để cho phong trào dân chủ thành công.

Hơn ở hầu hết, bất kỳ nước nào khác trong khối cộng sản, ở Đông Đức những sự kiện trở thành đồng nghĩa với sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản là thành quả của phong trào phản kháng bắt đầu từ nhiều năm trước nhưng không hy vọng lật đổ chế độ. Không có biểu tượng hay chiến lược lớn lao gì. Tham vọng lớn nhất của phong trào là buộc Đông Đức - đã trở thành một trong những chế độ nòng cốt trung kiên nhất của khối cộng sản sau khi thành lập vào năm 1949 ở khu vực Đức bị Liên Xô chiếm đóng- phải thực hiện đúng theo lý tưởng của chính họ. Không ai dám mơ tưởng đến lật đổ Đảng Cộng Sản, chứ đừng nói đến chuyện thống nhất nước Đức.

Nếu như ta phải chỉ ra chính xác một nguyên nhân đã gây ra những kẽ rạn nứt đầu tiên ở bức tường, thì đấy có thể là hỏa tiễn Pershing II của Mỹ. Khi vào năm 1978 NATO tuyên bố kế hoạch triển khai hỏa tiễn hạt nhân tầm trung ở Châu Âu nhằm đáp lại việc Liên Xô tăng cường vũ khí hạt nhân, các nhà hoạt động ở cả hai bên của quốc gia bị chia cắt này đều phản đối ý tưởng đặt vũ khí hạt nhân trên đất Đức. Trong khi hàng trăm ngàn người ở phía Tây ký kiến nghị và biểu tình thì chế độ cộng sản ở phía Đông lại sử dụng các cuộc biểu tình cho mục đích tuyên truyền và họ rất vui khi thấy nhân dân đồng thời cũng qua đó biểu tình chống Mỹ.

Nhưng khi phong trào hòa bình ở Cộng hòa dân chủ Đức dâng cao, phong trào bắt đầu đặt những câu hỏi khó trả lời về tình hình trong nước. Các nhà thờ Tin Lành được hoạt động chính thức mặc dù không được liên lạc với các nhà thờ Tin Lành ở phía Tây và thường xuyên bị nhà cầm quyền theo dõi chặt chẽ. Tuy nhiên, nhà thờ trở thành không gian an toàn cho phong trào hòa bình, và nhiều mục sư tổ chức các lễ cầu nguyện cho hòa bình và các cuộc biểu tình chống lại sự quân sự hóa, lớp học quân sự ở các trường tiểu học, và cưỡng bức quân dịch.

Vào năm 1982, Rainer Eppelmann -một mục sư nổi tiếng vì tổ chức những cuộc trình diễn nhạc Jazz cho các thanh niên bất mãn ở nhà thờ trong khu lao động ở Đông Berlin- cùng viết chung lời kêu gọi giải trừ quân bị mà được phân phát bất hợp pháp ở Đông Đức và được trao cho các phóng viên Phương Tây. "Lời kêu gọi Berlin" khiến ông trở thành kẻ thù của mật vụ đáng sợ của Đông Đức là Stasi. (Sau khi bức tường sụp đổ, hồ sơ về Eppelmann của Stasi tiết lộ trong suốt nhiều năm trời ông là mục tiêu nghe lén, giám sát, và chiến dịch tin đồn nhắm phá hoại cuộc hôn nhân và chức mục sư của ông. Thậm chí cả kế hoạch ngấm ngầm dự định "trừ khử" ông bằng tai nạn giao thông ngụy tạo).

"Chính quyền nói với chúng tôi hỏa tiễn Pershing và hỏa tiễn hành trình là công cụ của quỷ, nhưng hỏa tiễn liên lục địa SS13 của Liên Xô lại là những cánh chim bồ câu hòa bình", Eppelmann nói, "Đây là cơ hội cho chúng tôi, những người dân ở Cộng hòa dân chủ Đức, đứng lên bày tỏ ý kiến về đường lối chính trị của Cộng hòa dân chủ Đức và cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân". Những người phản kháng vì hòa bình đã làm đảo lộn mọi tuyên truyền của chế độ. "Lưỡi kiếm thành lưỡi cày" -chủ đề của tác phẩm điêu khắc Liên Xô tặng cho Liên Hiệp Quốc- đã trở thành khẩu hiệu. Các thiếu niên may vào áo khoác của họ những miếng vải mang hình ảnh cách điệu về tác phẩm điêu khắc ấy chỉ để thấy mình bị giáo viên và công an đe dọa.

Một khi phong trào hòa bình chuyển sang chỉ trích Cộng hòa dân chủ Đức, phong trào không còn được hoan nghênh nữa, và các nhà hoạt động thấy mình bị theo dõi và bị trấn áp. Một nơi trú ẩn an toàn là nhà thờ. Khoảng chừng cùng thời gian Eppelmann viết Lời kêu gọi Berlin, Christian Führer và Christoph Wonneberger -hai mục sư trẻ ở Leipzig, thành phố lớn thứ hai ở Đông Đức- bắt đầu tổ chức những buổi lễ cầu nguyện cho hòa bình đều đặn vào mỗi tối thứ Hai ở nhà thờ Thánh Nicholas.

Dưới sự che chở của nhà thờ, những cuộc gặp gỡ vào thứ Hai là diễn đàn cho những ai cảm thấy Đông Đức đã phản bội lý tưởng của nó. "Nhà thờ là một không gian người ta có thể nói ra điều họ suy nghĩ", Führer nói. "Chúng tôi đã có độc quyền tự do, cả về thể chất lẫn tinh thần".

Hồi tưởng lại thời ấy, các nhà hoạt động nhớ lại bao hân hoan và sợ hãi lẫn lộn. Ngồi trong văn phòng mình ở viện bảo tàng Diễn đàn Lịch sử Đương thời ở Leipzig, nhà lịch sử bảo tàng Uwe Schwabe -người thả tóc đuôi gà dài thân thiện và nói nhiều- nhớ lại cảm giác như mình đã thay đổi hoàn toàn khi ông bắt đầu tham dự những cuộc họp mặt vào ngày thứ Hai ở nhà thờ Thánh Nicholas vào năm 1984. Ông mới vừa xuất ngũ sau thời gian bị cưỡng bức quân dịch. "Lần đầu tiên ở tuổi 22 tôi thấy những người trẻ nói chuyện chính trị thoải mái". ông hồi tưởng.

Tự do ấy phải trả giá đắt : đi nhà thờ, chứ đừng nói dự những buổi lễ cầu nguyện, có thể mất việc làm hay không được vào đại học. Dưới áp lực từ nhà cầm quyền, vào giữa thập niên 1980 số người tham dự những buổi lễ cầu nguyện vào thứ Hai rút xuống chỉ còn lại chưa đến 10 người tham dự thường xuyên. Tụ tập lại bên nhau trong nhà thờ lạnh lẽo lâu đời hàng thế kỷ này ở trung tâm thành phố, dưới sự giám sát thường xuyên, họ hầu như không thể nào được coi là phong trào, càng không thể coi họ là mối đe dọa cho chế độ.

"Chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng", Führer nói, môt người mập mạp thấp bé vẫn mặc áo khoác jean xanh mà đã trở thành biểu tượng của ông vào thập niên 1980, khi những cuộc họp mặt vào ngày thứ Hai khiến ông trở thành một trong những nhân vật nổi bật nhất trong phong trào bất đồng chính kiến Đông Đức. "Có lần một người tham dự nói với tôi, 'Chúng ta không nên bỏ cuộc, vì nếu chúng ta bỏ cuộc thì sẽ chẳng còn bất kỳ hy vọng gì'".

Dần dần tin đồn lan ra. "Khắp nước Đức đều biết, và mọi người ở Leipzig đều biết những cuộc họp mặt này", Schwabe nói. "Lợi thế so với Berlin hay Dresden là có điểm cố định này suốt trong nhiều năm trời". Những cuộc họp mặt vào thứ Hai càng đông thêm. Một trong những nhóm tham dự lớn nhất là những người Đông Đức đã nạp đơn xuất cảnh. Những di dân tràn trề hy vọng này bị rơi vào hoàn cảnh chờ đợi mòn mỏi, đôi khi phải chờ đến hàng bao nhiêu năm trời mới biết họ có có được phép ra đi hay không. Trong thời gian ấy, họ mất việc làm và bị bạn bè và hàng xóm xa lánh. (Nhiều người trong phong trào bất đồng chính kiến quyết tâm ở lại để thay đổi chế độ coi họ cũng như là những kẻ phản quốc cho nên miễn cưỡng đón nhận họ ; nhà thờ Thánh Nicholas là một trong vài nơi ở Đông Đức hai nhóm có thể giao thiệp với nhau).

Những người khác cũng bắt đầu đến : những người bảo vệ môi trường, những người chống quân dịch, những nhà hoạt động dân chủ. Mỗi tuần một nhóm khác nhau tổ chức cuộc họp mặt qua đó nối kết với những người mà sự nghiệp chung duy nhất của họ là sự mong muốn thay đổi. Đến tháng Hai 1988, số người tham dự đã lên đến 600 người. "Có những người nuôi dưỡng nên phong trào", Führer nói. "Những nhà hoạt động, người người nộp đơn di dân, và những người hiếu kỳ từ khắp mọi nơi- tất cả đều gặp nhau ở những buổi lễ cầu nguyện cho hòa bình".

Những cuộc gặp mặt ở Leipzig là sao Bắc đẩu trong chòm sao phát triển nhanh chóng của những nhóm công dân ủng hộ cải cách. Những sự kiện bên ngoài biên giới Đông Đức đã mau chóng làm dịu đi sự căng thẳng chính trị trong nước. Mikhail Gorbachev lên nắm quyền vào năm 1985, và chẳng bao lâu sau bắt đầu thực hiện những cải cách mà truyền hy vọng và sức sống cho nhân dân trong khắp khối Xô Viết và phơi bày sự lãnh đạo cứng ngắc trong nước họ. Dù sao, nếu Liên Xô, vốn từ lâu đã được các đảng cộng sản trên khắp thế giới ca tụng là xã hội mẫu mực, đang nới lỏng, thì tại sao Đông Đức lại không thể làm như thế ?

Đồng thời mối quan hệ thân thiện hơn với Phương Tây đã khiến cho các nhà hoạt động Đông Đức dễ thở hơn. (Người đứng đầu nhà nước là Eric Honecker lần đầu tiên thăm viếng chính thức Tây Đức vào năm 1987, và cũng quyết tâm đạt cho được lời mời đến Washington). Chẳng hạn, Phương Tây mau chóng lên án việc bỏ tù các nhà bất đồng chính kiến nổi bật. Đến năm 1989, nhân viên Stasi theo dõi gần 200 nhóm công dân riêng biệt mà đòi hỏi các cải cách từ môi trường đến các hạn chế về du lịch.

Đa phần bất ổn là phi chính trị, nhưng bất kỳ sự thách thức nào đối với thực trạng cũng là sự thách thức ngấm ngầm đối với đảng cai trị. Tuy nhiên, tâm trạng dân chúng thay đổi mau chóng. "Người dân bình thường chán lắm rồi", sử gia Jens Schöne ở Berlin nói. "Họ không muốn chờ 15 năm cho một chiếc xe ô tô, họ không muốn làm việc trong nhà máy ; họ muốn có thể đi du lịch mua sắm". Thực tế là chế độ không bao giờ có thể ngăn chặn thành công các chương trình truyền hình Tây Đức có nghĩa là toàn bộ thế hệ sinh ra sau cuộc trấn áp của Liên Xô ở Praha vào năm 1968 đều ao ước cuộc sống họ thấy được chiếu hằng đêm trên truyền hình trong phòng khách nhà họ.

Vào năm 1987, Schöne nhớ lại, Stasi vội vàng cấm đường ở Đông Berlin khi cuộc trình diễn của David Bowie ở Tây Berlin khiến hàng trăm thiếu niên tức giận vì họ không thể tham dự được, liền tập trung lại hô vang, "Dẹp bức tường đi". Một năm sau, Stasi tung các mật vụ ra để theo dõi Michael Jackson trong khi ca sĩ này đến Tây Berlin trình diễn. Những nhóm địa phương đi trồng cây hay đi dọn rác ở bờ sông đều thấy mình bị công an ngăn chặn và bị Stasi giám sát chặt chẽ.

Cọng rơm cuối cùng xuất hiện vào ngày 7 tháng Năm, 1989 khi cuộc bầu cử thường lệ chọn ra các viên chức đảng địa phương trên khắp Đông Đức bị một mạng lưới lỏng lẻo những tình nguyện viên tố cáo gian lận. Những tình nguyện viên này quan sát cuộc đếm phiếu ở những địa điểm bầu cử địa phương -một quyền được ghi trong hiến pháp Đông Đức nhưng trước đây chưa bao giờ được thực thi một cách có tổ chức- và rồi họ tập trung lại ở các nhà thờ để so sánh kết quả. Những kết quả khác biệt được báo cáo lại trong các bài viết được lưu hành bí mật và được trao cho các phóng viên Phương Tây. "Chúng tôi có thể chứng minh rằng những kẻ cai trị đất nước chúng tôi chính là bọn tội phạm", Eppelmann giờ đây nói, mà giọng ông vẫn còn cất cao vì phẫn nộ và kinh ngạc. "Họ không bằng lòng với 70 hay 80 phần trăm (số phiếu). Họ cần gần như 100 phần trăm. Thật là quá bệnh hoạn và tội phạm".

Sau mùa xuân bất an, mùa hè báo trước tình hình có thể theo chiều hướng rất xấu. Vào đầu tháng Sáu, xe tăng và lính Trung Quốc tiến đến gần những người biểu tình tay không ủng hộ dân chủ tập trung tại Quảng trường Thiên An Môn ; hàng trăm người bị sát hại.

Đối với những người Đông Đức lớn tuổi, sự kiện ở Bắc Kinh không có gì ngạc nhiên. Những ai sống qua thời Đệ Nhị Thế Chiến nhớ lại sự tàn ác trong thời kỳ Liên Xô chiếm đóng. Và có những vụ hoàn toàn tương tự. Vào năm 1953, công nhân ở 700 thành phố Đông Đức tuyên bố đối lập với Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất Đức hay SED, đảng mà đồng nghĩa với nhà nước Đông Đức, và yêu cầu thống nhất đất nước. Lính Liên Xô bắn vào người biểu tình, và hơn 100 người bị giết. Từ đấy tất cả các phong trào đối lập trong khối Xô Viết trong những năm về sau đều chịu chung số phận : "53 ở Đức, 56 ở Hungary, 68 ở Praha, 89 ở Trung Quốc - đó là cách cộng sản đối phó với những người chỉ trích", Führer nói.

Ở Leipzig, vào cuối tháng ấy một cuộc trình diễn nhạc đường phố không chính thức kết thúc với cảnh những người chơi đàn violoncello thuộc đoàn nhạc Leipzig bị tống vào các xe tải công an. "Tưởng như Quốc Xã lại hiện ra ở khắp mọi nơi, và nhiều người rơm rớm nước mắt", Tobias Hollitzer, cựu nhà hoạt động môi trường bây giờ đứng đầu viện bảo tàng ở Leipzig chuyên về phơi bày sự thật về Stasi, nói. "Cuối cùng nó tác động đến những ai đã hoài nghi về những điều đang diễn ra ở nhà thờ Thánh Nicholas".

Chưa có tiền lệ chuyển giao quyền lực ôn hòa. Trong suốt lịch sử Đức, các cuộc cách mạng đều đẫm máu. Ngay cả đối với nhà hoạt động hòa bình nhiệt tâm như Führer, người hồi còn thanh niên thay vì đi lính đã ở tù tám tháng, thay đổi chính trị không có bạo lực là điều hầu như hoàn toàn không tưởng : "Không ai ngờ Cộng hòa dân chủ Đức chấm dứt. Chuyện họ sẽ sẵn sàng từ bỏ quyền lực là điều không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng như vậy (phong trào đối lập) giành quyền lực bằng vũ lực là điều không thể nào tưởng tượng nổi".

Sau vụ Thiên An Môn, nỗi sợ mới thấm vào lòng những người dự lễ cầu nguyện cho hòa bình vào ngày thứ Hai. Egon Krenz, người chẳng bao lâu sẽ thay thế Honecker lên làm lãnh đạo đảng SED, nhiều ngày sau đấy đã thăm viếng Bắc Kinh và khen ngợi cách chính quyền Trung Quốc đã giải cứu chủ nghĩa cộng sản khỏi "những phần tử phản cách mạng". Ở Leipzig, nỗi sợ hãi về "giải pháp Trung Quốc" ngày càng tăng cao. "Người dân đã thấy hình ảnh ở Bắc Kinh, rõ ràng điều này hoàn toàn chẳng ôn hòa", Schöne nói.

Nhưng đằng sau hậu trường, bí thư đảng năng động của Liên Xô đã nói rõ ràng với các nhà lãnh đạo đảng trong toàn khối cộng sản là Liên Xô không còn quan tâm đến việc can thiệp vào chính trị trong nước của các nước láng giềng với họ và các nước chư hầu. Bất chấp sự hiện diện của gần một triệu lính Liên Xô ở Đông Đức, thông điệp của Gorbachev là rõ ràng : Các đồng chí hãy tự lo lấy. Ba Lan tổ chức bầu cử tự do vào tháng Sáu dẫn đến sự toàn thắng của Công Đoàn Đoàn Kết đối lập. Hungary nới lỏng những hạn chế về biên giới với Áo và bắt đầu quá trình dân chủ hóa của mình vào mùa xuân.

Lần đầu tiên, người dân Đông Đức muốn di cư có thể tránh phải vượt qua Bức Tường Berlin. Suốt mùa hè, hàng ngàn người Đông Đức bỏ phiếu bằng chân, đào thoát sang Phương Tây theo ngả đường từ Hungary sang Áo. Thêm hàng ngàn người khác vất xe ô tô của họ lại trên đường phố Praha để leo qua hàng rào bao quanh Tòa Đại Sứ Tây Đức, xin tỵ nạn - một kỳ công mà trước đây suốt bao nhiêu năm trời chỉ có rất ít người Đông Đức cố gắng thực hiện. Vào cuối tháng Chín, 4.500 người cắm trại trong khuôn viên tòa đại sứ bất chấp nhiệt độ lên đến hơn 90 độ F.

Tình huống thật là vô cùng bẽ mặt cho giới lãnh đạo ở Đông Berlin, vào ngày trước ngày lễ hội mừng 40 năm ngày thành lập Đông Đức, hàng ngàn người lại thích thà sống như người tỵ nạn còn hơn trở về nước. Nhưng đối với những ai bao năm qua cố gắng thay đổi chế độ từ trong nước, sự biến động này cũng hầu như lớn lao không kém. "Mọi người bất ngờ mất bạn bè. Bác sĩ của ta biến mất qua đêm, hay người bán bánh ở góc đường chợt mất tích", Schwabe hồi tưởng. "Mọi người phải đối diện với tương lai mà tự hỏi, 'Phải chăng tôi muốn ở lại để thay đổi mọi sự, hay nên ra đi ?'".

Phản ứng chính thức từ Đông Berlin đối với những người đào thoát là khinh bỉ. "Qua hành vi của mình, họ đã chà đạp lên các giá trị của chúng ta và đoạn tuyệt với xã hội chúng ta. Ta không nên nhỏ giọt lệ nào khóc cho họ", một xã luận trên tờ Neues Deutschland, tờ báo chính thức của đảng, viết. Phản ứng này càng khiến các công dân bình thường phẫn nộ và họ nhận thức rằng những người lãnh đạo họ hoàn toàn xa rời thực tế. "Thật là nhục nhã", Schwabe nói. "Những người này là anh chị em chúng tôi, những người thân mà chúng tôi biết đâu không thể gặp lại trong 30 năm".

Sau kỳ nghỉ hè (vài thứ ở Đức là thiêng liêng bất chấp tình hình chính trị), hàng ngàn người đến nhà thờ Thánh Nicholas vào thứ Hai ngày 4 tháng Chín. Trước các máy quay phim truyền hình Phương Tây đang ở trong thành phố nhân dịp hội chợ thương mại tổ chức hai năm một lần, những người trẻ biểu tình trước nhà thờ giương biểu ngữ đòi tự do du lịch. "Stasi giật biểu ngữ xuống rồi bắt giữ bọn nhóc", Führer nhớ lại ; ngày hôm sau hàng triệu người Đức nhìn thấy cảnh ấy phát trên chương trình tin tức.

Khẩu hiệu mới đi vào từ vựng Đông Đức : "Chúng tôi ở lại đây". Tuần sau, số người tham dự nhà thờ tăng gấp đôi. Lần này, gần 100 người bị bắt và mật vụ gần như đóng hẳn trung tâm thành phố. Quá trễ : ngọn lửa do đài truyền hình Tây Đức thổi bùng lên bắt đầu lan rộng. Cùng ngày, được khích lệ bởi các buổi lễ cầu nguyện cho hòa bình ở Leipzig, "Những cuộc biểu tình ngày thứ hai" giờ được tổ chức ở các nhà thờ Tin Lành trên khắp Đông Đức. Phong trào mất tám năm hình thành bây giờ càng ngày càng phát triển rất nhanh chóng.

Cuối cùng cùng đường, các viên chức chính quyền đành phải cho phép những người tỵ nạn ở tòa đại sứ ở Praha và Warszawa đáp những chuyến tàu đặc biệt, bị đóng kín mít đi ngang qua Đông Đức để đến Phương Tây, đồng thời họ cũng đóng hoàn toàn biên giới với Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan. Người Đông Đức bây giờ trở thành người tù thật sự trong nước họ.

Vào ngày 3 tháng Mười, tin đồn các chuyến tàu chở đầy người tỵ nạn ở tòa đại sứ trên đường sang Phương Tây sẽ dừng lại ở Dresden lan rộng ra. Hàng ngàn người bất ngờ ùn ùn kéo đến nhà ga để cố gắng lên cho được chuyến tàu mà họ thấy sẽ là chuyến tàu cuối cùng rời khỏi Cộng hòa dân chủ Đức. "Đóng cửa biên giới giống như đậy nắp lại cái nồi đang sôi", Hollitzer nói. Các cuộc hỗn chiến thực sự bùng phát giữa công an trang bị dùi cui và súng nước với những người nổi loạn tìm mọi cách lên tàu ; hàng chục người bị thương.

Lễ hội mừng 40 năm ngày thành lập nước đã chuẩn bị từ lâu ở Đông Berlin diễn ra bốn ngày sau đấy, vào ngày thứ Bảy. Một cuộc phản biểu tình tự phát lên đến hàng ngàn người tuần hành qua trung tâm thành phố trong lúc cuộc diễu hành chính thức diễn ra. Khi những người biểu tình bước vào khu dân cư ở phía bắc độ hơn cây số, công an và mật vụ Stasi ập đến đánh đập và bắt giữ hàng trăm người. Ở Plauen, một thành phố công nghiệp ảm đạm gần biên giới Tiệp, công an dùng súng đại bác nước để dẹp tan đám đông 10.000 người tập trung ôn hòa ở quảng trường chính.

Trong khoảng năm ngày mùa thu, các nhà lãnh đạo Cộng hòa dân chủ Đức đã chứng tỏ họ có khả năng làm gì. Sau những sự kiện trong tuần lễ hỗn loạn ấy, những người phản kháng vì hòa bình vào ngày thứ Hai ở nhà thờ Thánh Nicholas càng trở nên đối đầu trực diện với một chế độ càng ngày càng tuyệt vọng. "Ngày thứ Hai là ngày quyết định", Führer nói. "Hoặc là 'giải pháp Trung Quốc' hay - chúng tôi cũng chẳng có thể biết 'hay' là cái gì".

Hollitzer, giám đốc viện bảo tàng về Stasi ở Leipzig, nói bằng chứng lưu trữ cũng là bằng chứng buộc tội. Vào tuần lễ đầu tiên tháng Mười, gần 3.500 người Đông Đức bị bắt khi công an ra sức bỏ tù bất kỳ ai mà họ nghĩ có khả năng tổ chức biểu tình. Các bệnh viện ở Leipzig được ra lệnh phải chuẩn bị thêm nhiều giường bệnh, các trung tâm giam giữ được lập ra ở ngoại ô thành phố để giải quyết những người bị bắt, và lực lượng công an được tăng cường thêm 8.000 người đủ để đối phó thô bạo với 20.000 người biểu tình. Trước đấy vài ngày, những người đồng tổ chức những cuộc biểu tình ngày thứ Hai, Führer và Wonneberger, bị bắt giam và viên chức mật vụ Stasi rất tức giận cảnh cáo họ phải hủy bỏ tất cả mọi thứ, rồi nhanh chóng thả họ ra. "Không ai còn nghi ngờ chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày 9 tháng Mười", Hollitzer nói. "Họ sẽ dẹp tan".

Vào lúc 3 giờ chiều ngày thứ Hai, Schwabe đi đến nhà thờ ngang qua một thành phố vắng vẻ đến rợn người. "Tưởng như sự yên lặng trước cơn bão", ông nói. Lúc 5 giờ chiều, gần 8.000 người chen chúc bên trong nhà thờ Thánh Nicholas. Ba nhà thờ khác ở trung tâm thành phố mở cửa để tiếp nhận những người tràn ra ngoài đường.

"Lúc tôi đi ra ngoài, quảng trường trước nhà thờ đông nghẹt người", Schwabe hồi tưởng. Công an đã chặn con đường dẫn tới khu chợ xưa của thành phố, cho nên đám đông đi như thác đổ về hướng khác. "Nơi dừng chân kế tiếp là Augustusplatz" -quảng trường mở lớn nhất ở trung tâm Leipzig, nằm giữa nhạc viện và nhà hát opera- "nơi đây cũng kín đầy cả người, đen đặc người là người".

Cuối cùng, vào tối hôm ấy gần 70.000 người Leipzig, một phần sáu dân số thành phố, đổ xô ra đường biểu tình ôn hòa. Hô vang "Keine Gewalt" (Bất Bạo Động) và những lời hô sẽ trở thành khẩu hiệu biểu tượng của phong trào đối lập, "Wir sind das Volk" (Chúng tôi là Nhân Dân), đám đông cầm nến đi vào con đường vành đai quanh trung tâm thành phố, họ đi ngang qua trụ sở Stasi và qua hàng trăm công an tập trung ở trước nhà ga. "Đây là dấu hiệu hy vọng. Để cầm nến, ta cần cả hai tay - một tay giữ nến, còn tay kia che nến cho khỏi bị thổi tắt", Führer nói. "Ta không thể nào cầm đá ở tay kia".

Toàn thành phố bị cuốn hút theo dòng thác người. Xe điện ngừng chạy, những người lái xe ô tô bỏ xe lại ở ngay giữa đường để nhập vào dòng người xuống đường. Sau khi liên tục yêu cầu Đông Berlin cho chỉ thị hành động không được trả lời, công an thu dọn đồ ra về. "Họ sẵn sàng cho tất cả mọi thứ chỉ ngoại trừ nến và lời cầu nguyện", Führer nói. "Tối hôm ấy, Cộng hòa dân chủ Đức đã thành nơi khác, không còn là nơi giống như lúc ban sáng".

Đoạn phim dài 10 phút về cuộc tuần hành, được nhóm làm phim núp trong gác chuông nhà thờ quay lén, từ đấy được đưa lén trở lại Đông Berlin để đưa qua Bức Tường, rồi được chiếu trên đài truyền hình Tây Đức. (Mãi cho tới sau khi hồ sơ Stasi được mở ra thì rất nhiều bức hình về các cuộc biểu tình -dưới góc nhìn của mật vụ- mới được đưa ra ánh sáng). Chính số người xuống đường ở Leipzig cực kỳ đông đảo đã tước sạch vũ khí của chế độ Đông Đức. "Ngày quyết định ấy chính là ở Leipzig", Eppelmann nói. "Họ hoàn toàn sẵn sàng trấn áp 30.000 người, nhưng 30.000 người không xuất hiện, mà 70.000 người xuất hiện. Bảy chục ngàn người không biết họ có bình an trở về nhà hay không hay không biết có còn gặp lại được gia đình. Hành động xuống đường của họ là hành động can đảm về đạo đức mà quả thật anh hùng và phi thường".

Những tuần lễ sau đấy là hỗn loạn đằng sau hậu trường ở Đông Berlin khi đảng cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu chính sinh mạng của đảng. Nhiều đảng viên SED theo đường lối cứng rắn bị gạt ra khỏi các chức vụ lãnh đạo với hy vọng biết đâu có thể đạt được thỏa hiệp với phong trào đối lập. Nhưng đập đã vỡ, nước đã tràn bờ. Vào ngày 16 tháng Mười, cuộc diễu hành của 150.000 người tuần hành quanh đường vành đai của Leipzig ; tuần sau đó lên 300.000 người, nhân dân trên khắp Đông Đức cùng gia nhập với những đám đông người Leipzig. Vào ngày 4 tháng Mười Một, hơn 400.000 người tràn ngập quảng trường Alexanderplatz ở Đông Berlin.

Sau những cuộc Biểu tình thứ Hai đầy phấn khích thì sự sụp đổ của bức tường kém phần ngoạn mục hơn. Vào ngày 9 tháng Mười Một, ngày sau khi đại hội đảng dự định SED phải đứng lên lại để giành lại quyền kiểm soát, một cuộc họp báo thường lệ được tổ chức để tuyên bố những quyết định mới nhất của đảng. Khi cuộc họp báo gần kết thúc, một nhà báo người Ý hỏi thành viên bộ chính trị Günter Schabowski liệu sẽ có sự thay đổi nào đối với hạn chế du lịch khắc nghiệt của Đông Đức. Schabowski lúng túng đáp rằng theo như ông biết tất cả các hạn chế sẽ được bãi bỏ ngay lập tức. Tuyên bố ngẫu nhiên của ông được truyền hình trực tiếp đã khiến hàng ngàn người kéo đến cổng biên giới của Berlin vào tối ngày 9 tháng Mười Một, nơi lính gác biên phòng lúng túng bị áp lực trước số đông áp đảo phải đứng tránh ra để dân chúng đi qua.

Sau những ngày tháng đối lập đầy thử thách thì sự sụp đổ đến thật bất ngờ sửng sốt. Ngay cả lúc ấy, thống nhất nước Đức vẫn là điều không tưởng. Đối với các nhà bất đồng chính kiến lòng chứa chan biết bao hy vọng khi thấy những người Đông Đức tập hợp lại để ủng hộ sự nghiệp của họ thì sự sụp đổ bức tường thoạt đầu được coi là một trở ngại rất lớn. "Chúng tôi thất vọng", Schwabe thú nhận. "Chúng tôi tưởng mọi người mà sẽ giúp chúng tôi thay đổi đất nước sẽ ra đi, rồi sẽ không còn lý do để xuống đường". Tối hôm ấy một người bạn của Eppelmann chạy được vài trăm mét qua khỏi biên giới thì chợt hoàng hốt chạy trở lại Đông Berlin vì sợ toàn bộ cảnh này chỉ là mưu chước của Stasi nhằm tống khứ những kẻ gây rối đi để rồi có thể đóng chặt cửa biên giới lại sau lưng họ.

Tất nhiên, bây giờ chúng ta biết ngày 9 tháng Mười Một chỉ là dấu chấm hết của một kết thúc. Trong vòng một năm, hai nước Đức -bị chia cắt trong gần nửa thế kỷ- đã thống nhất trở lại, và chủ nghĩa cộng sản thành tàn tích. Nhưng do cách chúng ta nhớ về sự sụp đổ của bức tường mà từ đấy đến nay chúng ta cứ cho rằng sự sụp đổ đột ngột của một chế độ mất lòng dân -như ở Serbia, ở Iraq, ở Ukraine, ở Georgia- là đủ để sao chép lại những thành công của năm 1989 và cho rằng những thể chế và thái độ hình thành nên nền tảng xã hội dân sự có thể được tạo ra rất nhanh chóng. Cũng chính vì lý do này, phong trào đối lập nào không thành công ngay thường không nhận được nhiều quan tâm lâu dài.

Nhưng qua trò chuyện với những người đã liều mất tất cả mọi thứ để đi đến nhà thờ Thánh Nicholas từ thứ Hai này đến thứ Hai khác, mà không bao giờ dám mơ tưởng đến đêm nào đấy họ không cần phải đi nữa, thì một điều trở nên rõ ràng : ở những nơi quan trọng -như ở Warszawa, ở Budapest, ở Đông Berlin- thay đổi phải cần thời gian. Sau khi bức tường sụp đổ, Rainer Epplemann trải qua 15 năm là nghị viên còn bây giờ đứng đầu Hội Nghiên cứu Chế độ Độc tài SED được chính quyền tài trợ. Hồi tưởng lại, ông nói các cuộc cách mạng không thể và không nên vội vàng. "Không có thủ tướng Tây Đức nào, không có tổng thống Mỹ nào, không có thủ tướng Anh nào, có thể đưa quân vào Trung Âu để giải phóng nhân dân. Như thế là chiến tranh", ông nói. "Điều đã xảy ra chính là tự giải phóng. Nước mềm làm vỡ tan đá cứng nhất".

Andrew Curry

Nguyên tác : "Before the Fall", tạp chí Wilson Quarterly, số mùa thu năm 2009. Tựa đề tiếng Việt của người dịch

Trần Quốc Việt dịch

**********************

Cuộc cách mạng bất bạo động ở Đông Đức vào năm 1989 từ bên dưới và trên đường phố qua những con số 

Roland Bleiker, The Albert Einstein Institution, mùa thu 1993

7 tháng Năm - Hơn 100 người biểu tình chống gian lận bầu cử bị bắt ở Leipzig.

wall2

18 tháng Chín - Hơn 100 người biểu tình bị bắt sau buổi lễ cầu nguyện vào ngày thứ Hai tại Nhà thờ Thánh Nicholas ở Leipzig.

25 tháng Chín - Cuộc biểu tình vào ngày thứ Hai ở Leipzig : 6.000 người xuống đường đòi quyền tự do đi lại và tự do ngôn luận.

2 tháng Mười - Cuộc biểu tình lớn lần đầu tiên ở Leipzig : 25.000 người xuống đường đòi cải cách và công an giải tán họ bằng bạo lực.

7 tháng Mười - Nhân ngày lễ 40 năm thành lập Đông Đức, hàng loạt các cuộc biểu tình diễn ra nhiều nơi. Công an dùng bạo lực và bắt rất nhiều người.

9 tháng Mười - Sau buổi lễ cầu nguyện vào ngày thứ Hai tại các nhà thờ ở Leipzig, cuộc biểu tình lớn nhất lần đầu tiên ở Leipzig : 70.000 người xuống đường đòi cải cách và họ hô vang "chúng tôi là nhân dân". Cuộc biểu tình diễn ra hoàn toàn ôn hòa.

16 tháng Mười - Hơn 120.000người biểu tình ở Leipzig, 10.000 người ở Dresden và Magdeburg, 5.000 người ở Halle, và 3.000 người ở Berlin.

18 tháng Mười - Bộ Chính trị buộc Erich Honecker từ chức.

20 tháng Mười - 50.000 người xuống đường ở Dresden đòi tự do bầu cử.

21 tháng Mười - Biểu tình diễn ra nhiều nơi. Ở Plauen, một thành phố công nghiệp có 80.000 dân có 35.000 người xuống đường.

23 tháng Mười - Những cuộc biểu tình rất lớn ở nhiều nơi. Riêng ở Leipzig, 300.000 người xuống đường đòi cải cách và tự do bầu cử. 

24 tháng Mười - 12.000 người biểu tình tình ở Berlin.

26 tháng Mười - Các cuộc biểu tình diễn ra ở Rostock (25.000 người), Erfurt (15.000 người) và Gera (5.000 người).

28 tháng Mười - Biểu tình ở Plauen (30.000 người) và tại nhiều nơi khác.

30 tháng Mười - Hơn 400.000 người biểu tình tại nhiều thành phố đòi cải cách, tự do bầu cử, và tự do đi lại. Riêng ở Leipzig 200.000 người xuống đường, 50.000 người ở Halle, 40.000 người ở Schwerin.

31 tháng Mười - 15.000 người biểu tình ở Wittenberg.

2 tháng Mười Một - Biểu tình ở Gera (10.000 người), Erfurt (30.000 người), Halle (10.000 người), và Guben (15.000 người).

4 tháng Mười Một - Cuộc biểu tình lớn nhất toàn quốc từ trước đên nay. Riêng ở Đông Berlin ước tính khoảng độ từ 500.000 đến 1.000.000 người xuống đường đòi cải cách. Hàng loạt các cuộc biểu tình nhỏ hơn diễn ra ở nhiều nơi.

6 tháng Mười Một - Biểu tình đông người càng nhiều : ở Leipzig (500.000 người), Karl Marx-Stadt ( 50.000 người), Schwerin, Halle (60.000 người). Ở Dresden các đảng viên lãnh đạo bất đồng chính kiến lãnh đạo 70.000 người tuàn hành phản đối.

7 tháng Mười Một - Toàn bộ chính quyền Đông Đức từ chức.

8 tháng Mười Một - Toàn thể Bộ Chính trị từ chức.

9 tháng Mười Một - Các cuộc biểu tình ở Erfurt (80.000 người) và Gera (10.000 người). Tối hôm ấy Bức tường Berlin sụp đổ !

Roland Bleiker

Nguyên tác : "Nonviolent Struggle and the Revolution in Eastern Germany", phụ lục, The Albert Einstein Institution xuất bản, 1993. Tựa đề của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

 

**********************

Cuộc Cách mạng Nhung

Jan Bubeník, Index on Censorship, 7/11/2009

Vào ngày 17 tháng Mười Một 1989, công an dẹp tan cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên ở Prague. Cuộc trấn áp này đưa đến các cuộc phản kháng trên toàn quốc, kết thúc bằng cuộc tổng đình công. Trong vòng 11 ngày, những cuộc biểu tình rất đông người đã lật đổ chế độ cộng sản. Václav Havel được bầu làm tổng thống vào ngày 29 tháng Mười Hai. Jan Bubeník trở thành nhà chính trị trẻ nhất trong chính phủ mới. Ông nói chuyện với Jo Glanville.

635938421

Cuộc cách mạng nhung tại Praha, Tiệp Khắc, 1989

*

Chế độ cộng sản có rất nhiều cách trừng phạt khác nhau. Họ rất sáng tạo và nếu họ bắt quả tang anh làm điều gì đấy chống lại chế độ, thường thường họ sẽ chắc chắn làm cho anh rớt vào kỳ thi tới hay họ sẽ yêu cầu giáo sư đánh rớt anh. Tôi tham gia vào câu lạc bộ văn hóa ở trường y khoa, ở ký túc xá. Chúng tôi thường mời hoặc các nhà thơ hay các nhóm chơi nhạc rock hay những nghệ sĩ sân khấu không được phép thu âm chính thức, hay không được trình diễn trên đài, nhưng thỉnh thoảng được phép chơi ở các câu lạc bộ nhỏ. Chúng tôi làm những chuyện như thế. Chúng tôi trao đổi sách cấm, có một vài câu lạc bộ thảo luận.

Nhưng tôi tin chúng tôi chắc chắn không phải là những nhà bất đồng chính kiến. Gia đình từ trước đến nay đều có ảnh hưởng lớn đến đời tôi. Cha tôi là giáo sư ở trường đại học Charles cho đến sau năm 1968 thì bị đuổi việc vì ông từ chối hoan nghênh quân đội Xô-viết. Mặc dù ông không có tên trong danh sách những người bị sa thải vì ủng hộ Mùa Xuân Prague, nhưng việc không bỏ phiếu tán thành việc đuổi họ ra khỏi trường đại học đồng nghĩa là họ điền thêm tên anh vào danh sách ấy.

Sau khi mất việc, ông trở thành phu đường sắt. Trong cái rủi cũng có cái may - chồng của một người học trò cũ ông gặp ông trên đường ray liền hỏi : "Giáo sư, phải thầy đó không ? Trời, thầy làm gì ở đây vậy ?" Ông đáp đây là công việc duy nhất ông có thể tìm được để nuôi gia đình. Thế là anh ấy cho cha tôi công việc nhân viên an toàn lao động.

Ông ngoại tôi, từng đứng đầu bộ thuế vào thập niên 1950, được yêu cầu làm thống đốc một vùng của Sudetenland.

Ông tôi từ chối và cuối cùng làm việc ở mỏ than tại Bắc Moravia. Vào 1968 họ đến gặp ông và muốn phục hồi ông, nhưng ông nói xét vì những người đang nắm quyền, ông thà ở lại đấy. Vì vậy ông tôi không thể hành nghề luật, mà trở thành công chức ở nhà máy thủy tinh.

Ông tôi và cha tôi đều là những người rất quan tâm đến hạnh phúc và đoàn kết của những người khác. Cha tôi xuất thân trong gia đình chín người, gia đình rất nghèo. Ông tôi trở thành như người cha đối với tám người em ở trại cưỡng bức lao động Đức. Cho nên họ rất thiên tả, nhưng họ ghét chủ nghĩa cộng sản dưới hình thức như ở đây. Tôi lớn lên trong xã hội như thế và với những chuyện đời riêng như thế. Tôi cảm thấy xã hội sống hai mặt - tức ta trả lời hoàn toàn khác nhau cho cùng câu hỏi khi được hỏi ở nhà hay trước những sinh viên khác.

Về sợ hãi và thối nát

Thời ấy (năm 1989) tôi sợ. Tôi rất sợ. Người ta chỉ cần phát biểu không đồng ý thôi là đã vô cớ bị bắt giam rồi. Một bạn học tôi say rượu hạ lá cờ Nga ở ngoài đường xuống đã bị đuổi học và đi tù chắc chắn. Trong mỗi nhóm học ở đại học, thường có từ mười đến mười lăm sinh viên, chúng tôi biết chắc là sẽ có một hay hai kẻ chỉ điểm của mật vụ, cho nên chúng tôi luôn luôn hơi dè chừng.

Cho nên chúng tôi hơi cẩn thận và chúng tôi sợ sức mạnh và bạo lực của chế độ. Nhưng hiển nhiên là chế độ đã rất thối nát về phương diện kinh tế và đạo đức. Ngay cả mấy đứa bạn học của tôi trong những gia đình cộng sản cao cấp đều nói bọn chúng không tin tưởng chế độ và cha mẹ chúng cũng chẳng tin tưởng gì chế độ. Họ chỉ biết thu lợi rất nhiều từ chế độ. Vì thế rất rõ ràng ai đúng ai sai. Cũng có tình hình quốc tế, perestroika, Gorbachev... Chúng tôi nói về tin tức chúng tôi có được từ đài Tiếng Nói Hoa Kỳ và đài Châu Âu Tự Do. Cho dù ta không muốn chú ý đến tin tức - ta cũng không thể nào tránh được. Chúng tôi có thể thấy bức Tường đang tan rã dần nhưng dù sao để hình dung cuộc cách mạng ta vẫn cần có can đảm để dám hình dung - tôi không có hình ảnh ấy hay mục đích ấy trong đầu.

Vào ngày 17 tháng Mười Một tôi biết một số người đang tổ chức những sự kiện để tưởng niệm ngày Quốc xã đóng cửa các trường đại học Tiệp - cuộc biểu tình sinh viên chính thức được cho phép. Tôi giúp phân phát các biểu ngữ ở ký túc xá và câu lạc bộ, mà nói chung kêu gọi mọi người hãy mang nến và hoa đến trường đại học Charles. Chẳng ai biết liệu chưa chắc có một hay hai người sẽ đến cho nên chúng tôi rất ngạc nhiên trước số người có mặt ở đấy. Chính tôi có mặt ở đấy với tư cách người tham dự thường xuyên và lẩn tránh khi mật vụ quay phim chúng tôi. Nhưng vài người can đảm hơn ; họ giơ cao biểu ngữ kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng và kêu gọi bầu cử tự do. Từ đấy chúng tôi bắt đầu la to và truyền can đảm cho nhau - chúng tôi không phải là những kẻ điên cuồng, có rất nhiều người trong chúng tôi suy nghĩ rất giống nhau. Thế là tôi đi tuần hành từ trường đến nghĩa trang nơi an nghỉ của người sinh viên bị Quốc xã bắn chết rồi ai đấy hướng dẫn cuộc tuần hành đi vào trung tâm thành phố.

Tôi không biết cuộc biểu tình sẽ kết thúc bằng bạo lực. Tôi muốn nói, tôi thật sự không biết đoán trước gì. Tôi chỉ cảm thấy rằng việc cuộc biểu tình là chính thức đã cho tôi can đảm để đến tham dự. Khi chúng tôi đến Nhà hát Quốc Gia trên Đại lộ Quốc Gia, ngay trung tâm, cảnh sát bạo động đã dàn sẵn. Một đầu đường đã bị hàng dài cảnh sát chống bạo động với mũ sắt, khiên, và dùi cui trắng ngăn chặn. Đầu kia là hai xe tăng có hàng rào phía trước xe. Và hai xe tăng này tiến tới nhằm nói chung dồn ép đoàn người cuối cùng độ từ hai ngàn đến năm ngàn người này lại - khiến mọi người cực kỳ sợ hãi vì họ không thể nào di chuyển.

Hai bên là các tòa nhà còn cảnh sát bạo động dàn ở bên thứ ba, họ bao vây chúng tôi lại nên mọi người không thể nào rời khỏi được mà còn bị gãy chân hay phải chui xuống dưới gầm xe chỉ để có thể thở. Họ tạo ra những lối đi ra rất hẹp và nhỏ mà mọi người muốn thoát ra đều phải đi qua để họ bắt đầu đánh đập người từ cả hai bên. Có đội đặc nhiệm SAS dẫn chó theo và họ đánh tất cả mọi người đi ra từ lối nhỏ họ đã tạo ra ấy.

Vì vậy chúng tôi rất hoảng sợ và chỉ muốn thoát ra ngoài. Tôi thật sự sợ mình sẽ bị giết và chúng tôi đi qua lối ra ấy và họ tha hồ đánh chúng tôi từ cả hai bên. Tôi có ba lô vì tôi trước đấy đã đi lấy áo quần mới giặt mà mẹ tôi gởi lên cho tôi theo xe lửa, cho nên tôi dùng nó để bảo vệ đầu mình. Boris, bạn cùng phòng với tôi, đi cùng với người yêu Dana ; tôi cao hai mét và cô ấy chỉ cao gần bằng nửa tôi. Chúng tôi phải đỡ cô ấy lên, vì tôi nghĩ biết đâu bắp vế tôi đè lên phổi cô ấy khiến cô ấy không thở được, thế là chúng tôi mang cô ấy giữa hai chúng tôi và đi qua lối nhỏ ấy. Boris bị đánh vào đầu, ngã xuống bất tỉnh. Tôi chỉ bị đánh vào chân và bắp vế nhưng lúc ấy tôi chỉ hơi bị tê, chỉ sau đó tôi mới biết dây chìa khóa có các chìa khóa của mình ghim chặt vào bắp vế tôi. Chúng tôi bị ép chặc vào nhau như cá mòi cho nên nó đâm vào thịt tôi nhưng lúc ấy tôi chẳng cảm thấy gì. Tôi chỉ đỡ Boris lên, còn Dana thét lên khi một gã mũ nồi đỏ khác muốn đánh bạn cô dù anh ấy đã nằm gục dưới đất, và cô cứ thét lên và la lên và hắn liền đánh vào chân cô. Vì vậy tôi gần như cố gắng đỡ cả hai bạn lên rồi bỏ chạy ngay, rồi cuối cùng chúng tôi cũng chạy thoát được sau khi bị đánh bồi thêm vài lần nữa.

Về cách mạng

Về sau ở ký túc xá chúng tôi ngồi lại nói chuyện với nhau và chúng tôi nói cách mạng thật sự chẳng phải dành cho chúng tôi, chúng tôi có lẽ sẽ không thay đổi được gì với cảnh u đầu sứt trán như thế này. Tôi đoán chúng tôi vẫn còn rất bàng hoàng và sợ hãi nhưng chúng tôi nói chuyện với nhau thâu đêm. Khi chúng tôi nghe trên đài Châu Âu Tự Do hay đài Tiếng Nói Hoa Kỳ rằng có người chết trong cuộc biểu tình, chúng tôi bắt đầu thu thập thông tin và nối kết với những người khác mà chúng tôi biết ở nhiều trường khác nhau nên biết được vào ngày Chủ Nhật mọi người sẽ quay trở lại chỗ sinh viên được cho là đã chết ấy.

Chúng tôi lấy hết can đảm để nhủ lòng rằng đây chính là lúc phải hành động, chẳng ai đáng phải chết cả. Vì chúng tôi đã có mặt ở đấy, nên chúng tôi là nhân chứng, nên chúng tôi hoàn toàn ghê tởm trước phản ứng của chính quyền mà hoặc làm ngơ không nói đến hay chỉ nhắc sơ qua rằng đã có nhiều côn đồ phá rối an ninh chứ chẳng có chuyện gì quan trọng đã xảy ra.

Vì thế chúng tôi đi từ phòng này đến phòng khác. Có hai khu ký túc xá mỗi khu 15 tầng và chúng tôi thật sự gõ cửa từng phòng một để bảo cho mọi người biết chuyện gì đã xảy ra rồi kêu gọi họ cùng tham gia với chúng tôi một lần nữa vào Chủ Nhật trên đại lộ Quốc Gia và đấy nói chung là cách tôi thật sự tham gia và gắn bó với các cuộc biểu tình.

Rồi khi chúng tôi trở lại vào đêm Chủ Nhật, lần này nhiều người cũng lại bị đánh đập. Chúng tôi muốn đi đến Lâu đài Prague để biểu tình trước Phủ Chủ Tịch nhưng họ chặn không cho chúng tôi đi.

Nhưng họ cũng để cho chúng tôi đi về. Từ đấy chúng tôi nói chung bắt đầu sắp đặt công việc tổ chức. Chúng tôi chờ các bạn sinh viên trở lại sau kỳ nghỉ cuối tuần rồi lập ra nhóm đình công và bắt đầu sắp đặt công việc tổ chức. Đấy là lý do tại sao những người mà trước đây đã từng tổ chức mọi thứ từ các bữa tiệc sinh nhật đến những buổi đọc thơ tinh tế hơn hay những buổi trình diễn trên sân khấu nay tự nhiên trở thành những người lãnh đạo và chính thức được bầu.

Vào sáng Thứ Hai, những người ở Prague và những ai sống ở nơi ở riêng gặp gỡ các khoa phòng và tôi là người đọc các yêu cầu. Vào tối Chủ Nhật chúng tôi đã phối hợp với các sinh viên học sinh từ các trường đại học và các trường học khác và cả từ các thành phố khác. Tôi đã tổ chức phong trào ở cấp cơ sở trường y như thế.

Về chính nghĩa và phi nghĩa

Tôi nghĩ chính cuộc đối đầu lần thứ nhất, sự nhận thức chế độ có thể rất tàn bạo và rất phi nghĩa đã truyền cho tôi can đảm để trở thành người lãnh đạo. Tôi nghĩ hai điều đối với tôi, đứa trẻ đang thành người lớn : chính niềm tin là tôi không muốn cuộc sống này cho đời tôi và cho bao tuổi trẻ thơ ngây. Tôi biết bản chất chế độ và chúng tôi được dạy không nên nổi bật trong đám đông hay tạo ra bất kỳ sự chú ý nào về mình- điều dễ làm nhất là hãy sống gần như thờ ơ, mờ nhạt và bình bình. Nhưng tôi thật sự không chịu được. Hơn nữa người khác còn trông chờ ở tôi sự lãnh đạo và ý kiến- cũng hơi đúng là tôi không thể nào thoái thác được. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng điều ban cho tôi sức mạnh chính là niềm xác tín rằng chúng tôi chính nghĩa còn họ phi nghĩa.

Tôi nghĩ trong bốn hay năm ngày đầu cha mẹ tôi không hay biết gì, nhưng rồi tôi gọi về nhà thăm vì tôi biết cha tôi rất chăm nghe đài Châu Âu Tự Do và Tiếng Nói Hoa Kỳ, cho nên chỉ là vấn đề thời gian trước khi cha mẹ tôi hay biết. Và tôi phải nói rằng đây cũng là một trong những lúc quyết định mà ban cho tôi sức mạnh và sự ủng hộ để tham gia cho dù tôi đã hoàn toàn ở trong phong trào.

Tôi gọi về nhà cho cha mẹ hay tôi bình an và mẹ tôi trả lời điện thoại và nói, "Con có tham gia không ? Mẹ chắc chắn con thuộc về một trong những ủy ban đình công, phải không ?" Và tôi nói, "Mẹ ơi, đúng, nhưng con bình an". Rồi bà nói, "Mẹ bảo con về nhà ngay lập tức !" Chúng tôi sống cách Prague hai tiếng. Bà nói những lời như thế này : "Con không nhớ chuyện gì đã xảy ra với bố sao ? Con biết con sẽ làm tan nát đời con. Mẹ sợ cho con. Con đã học rất cần cù bao lâu nay chỉ để mong lấy được tấm bằng y khoa".

Rồi tôi đáp, "Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ, con không thể nào về nhà được. Con còn trách nhiệm ở đây".

Thế là mẹ tôi gọi cha tôi nói, "Josef, ông hãy nói với nó đi, bảo nó về nhà". Và cha tôi bước lại nói, "Con biết, nếu bố ở bên con, chắc bố sẽ tát con nổ đom đóm, nhưng con ơi, bố rất tự hào về con". Đối với tôi, lúc ấy tôi thật sung sướng vô vàn vì cha mẹ tôi hiểu - hay ít ra tôi nghĩ cả hai người đều hiểu. Khi bố nói thế, tôi biết tôi tự do đi làm bất kỳ điều gì cần thiết.

Về sinh viên

Quan điểm của tôi, hay có lẽ suy đoán, về việc tại sao sinh viên (đóng vai trò xúc tác) là điều này một phần do ngẫu nhiên, có thể còn có kích hoạt nào khác chăng, nhưng bất luận tình huống xúc tác nào khác cũng là tình huống khi chế độ mới vừa đi quá đà giới hạn và đồng thời khi nhân dân bùng lên phẫn nộ, và đối với nhân dân đó là thời điểm đột phá khi họ thật sự càng căm giận chế độ hơn hay càng bất mãn với chế độ hơn-nhưng trong trường hợp này xúc tác của phong trào chính là sinh viên.

Tôi sinh năm 1968 và chúng tôi là thế hệ đầu tiên không nhớ những trấn áp sau năm 1968 hay vào năm 1977 sau Hiến Chương 77, trong thời cái gọi là bình thường hóa khi chế độ kiểm soát càng chặt chẽ hơn rất nhiều cuộc sống của người dân. Vả lại chúng tôi quá tầm thường đến mức chế độ thật sự chẳng cần phải dùng đến toàn bộ vũ lực để đương đầu. Thời ấy chúng tôi vẫn chưa bị yêu cầu phải thỏa hiệp niềm xác tín và lòng ngay thẳng của mình để đổi lấy sự thăng tiến trong công việc hay thậm chí để có thể hành nghề vì thế tôi nghĩ chúng tôi vẫn còn rất lý tưởng và thơ ngây như bao người trẻ khác.

Hơn nữa chúng tôi vẫn bị coi là con cái của thế hệ năm 1968 những người mà ít nhất đã bị khiển trách vì thế nên họ rất sợ hãi và lo âu nhưng vì chế độ gần như giết con cái họ nên họ phải hành động mạnh mẽ hơn. Và vì chúng tôi con cái họ tham gia nên họ không còn chọn lựa nào nào khác ngoại trừ ủng hộ chúng tôi hay để mặc chúng tôi thất bại như họ vào năm 1968.

Tôi cực kỳ kinh ngạc trước diễn biến các sự kiện. Tựa như một... chuyến đi chơi xa. Chúng tôi náo nức không tài nào ngủ được. Chúng tôi chẳng muốn bỏ lỡ một giây phút nào và tưởng như chúng tôi hoàn toàn đang lâm chiến. Chúng tôi trẻ và tràn đầy lý tưởng, nhưng sinh viên chúng tôi thường cũng là những người thông minh có nhiều kỹ năng và trí tuệ để khéo léo sắp đặt công việc tổ chức. Chuyện xảy ra là sinh viên bắt đầu chiếm đóng các trường đại học mà có ít nhất vài hình thức cơ sở hạ tầng như điện thoại và hệ thống video, nhờ đấy chúng tôi thường sao chép lại những đoạn phim sinh viên đã quay cảnh đánh đập, vì trong suốt nhiều tuần chế độ đã hoàn toàn tuyên truyền dối trá với dân chúng về những gì đã xảy ra. Họ nói láo. Họ hoặc là im lặng hay họ nói láo.

Vì vậy chúng tôi bắt đầu phái các bạn sinh viên mang các cuộn phim ấy về quê họ để chiếu cho dân chúng xem, chủ yếu nhằm cố gắng nâng cao ý thức và kêu gọi nhân dân hãy ủng hộ chúng tôi mà tiếp tục đình công hay ít ra sau giờ làm việc hãy xuất hiện và đi đến các quãng trường chính để biểu tình ủng hộ chúng tôi. Nhờ thế chúng tôi rất thành công và vì chúng tôi đi đến nơi địa phương của chính mình, nên nhiều người biết chúng tôi. Đây chính gần như là cách thức tổ chức phong trào cơ sở rất hiệu quả. Mọi người chủ yếu đều chỉ mong muốn và cần ai đấy trong sạch, đáng tin tưởng và đáng khen để tuyên bố hoàng đế ở truồng.

Về sự sụp đổ của chế độ

Có lẽ sau tuần lễ đầu tôi đã đoán rằng việc chính quyền sắp sụp đổ là hiển nhiên. Những ai trong chúng tôi tham gia vào những ủy ban đình công và tổ chức đều luôn luôn thay phiên đi đến Quãng trường Wenceslas để được nạp lại nguồn sinh lực mới giữa hàng triệu hay vài trăm ngàn người lắng nghe Havel hay sinh viên chúng tôi, để cùng nhau hát và cảm nhận tình huynh đệ, mối liên kết giữa người trẻ, người già, giám đốc, công nhân, sinh viên với nhau-để hiểu rằng tất cả chúng tôi đang sát cánh bên nhau. Hoàn toàn rất rõ ràng rằng chúng tôi không muốn sống cuộc đời cũ như trước nữa. Ai đấy phải ở lại phía sau để sắp đặt công việc và theo dõi tình hình, nhưng mọi người đều muốn đi để cảm nhận sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua nỗi sợ hãi là xe tăng biết đâu tiến vào quãng trường và biết đâu chúng tôi bị bắn chết.

Người ta lo sợ ngày nào đấy xe tăng sẽ tiến vào Quãng trường Wencelas, vào trung tâm Prague, để bắt những thủ lĩnh của các tổ chức thuộc nhiều trường đại học khác nhau và chỉ về sau này tôi mới nghe rằng chính chỉ do hơn hai phiếu thôi mà Bộ Chính Trị cuối cùng đã không điều quân đội đến. Chính đường tơ kẽ tóc ấy quyết định sự khác biệt giữa năm 1968 và năm 1989. Tôi nghĩ chúng tôi có độ 100.000 lính Xô-viết đóng trên khắp cả nước chỉ cách các trường đại học vài phút, vì vậy nếu quân đội Tiệp Khắc được cho phép tiến vào... Tôi nghĩ chúng tôi quả thật là tài không bằng may. Tuổi trẻ không chấp nhận thấy mình chết vì họ tin họ bất khả chiến bại.

Về chính trị

Tôi cảm thấy giống như ngôi sao nhạc rock. Chúng tôi rõ ràng là những hiệp sĩ cứu nạn và tôi nghĩ tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế vào trước hay sau cuộc cách mạng. Nhưng trên hết chúng tôi đã chiến thắng. Một thời thật tuyệt vời và tôi cảm thấy biết ơn là nhờ hoàn toàn do ngẫu nhiên mà tôi đã có thể đóng trọn vai trò của mình.

Khi tôi được yêu cầu trở thành nghị sĩ để đại diện cho sinh viên, ba ngày liền tôi chẳng tài nào ngủ được - tưởng như toàn bộ gánh nặng xã hội đang đè lên đôi vai mình. Tôi nói với Otakar Motejl, một luật sư rất can đảm đã từng bào chữa cho hầu hết các nhà bất đồng chính kiến trong những phiên tòa đượm màu sắc chính trị, để ông cho tôi lời khuyên. Ông bảo tôi, "Jan này, chúng tôi cần người như cháu ở đấy".

Tôi đáp, "Nhưng cháu đâu có biết chuyện gì mà làm !"

Ông nói tiếp, "Không, cháu đã chứng tỏ rõ ràng rằng cháu có ý kiến, cháu có lương tri và cháu không có gánh nặng. Chúng tôi cần người như cháu để đại diện cho sinh viên. Hãy đến đấy và cứ xử sự tự nhiên như bình thường. Ở đấy có người cố vấn cho cháu về những vấn đề đặc biệt hay chuyên môn, nhưng cháu có uy tín và chúng tôi cần người như cháu ở đấy.

Hãy suy nghĩ hợp lý chín chắn và làm theo lương tâm mình".

Tôi theo lời khuyên ấy và thật sự kỳ diệu vì chúng tôi chủ yếu dẹp tan chế độ cũ và cho phép chính quyền mới chắc chắn được ra đời. Chúng tôi thay thế quốc hội cộng sản cũ và chúng tôi nói chung được bổ nhiệm hay nói cách khác được bầu (trong cuộc bầu cử đặc biệt). Có hiệp ước chính trị theo đấy cộng sản vẫn còn giữ lại một phần ba và các lực lượng chính trị khác thay thế hai phần ba còn lại. Tôi được yêu cầu có mặt ở đấy để thay mặt cho sinh viên, gần như ngay lập tức, cho Diễn Đàn Dân Sự, một liên minh chống cộng quy tụ nhiều thành phần khác nhau. Điều đầu tiên chúng tôi làm là xóa điều khoản về chế độ cai trị độc đảng ra khỏi hiến pháp.

Thật tuyệt vời. Tôi tuyên thệ vào ngày 28 tháng Mười Hai và vào ngày làm việc đầu tiên tôi bỏ phiếu bầu Vaclav Havel. Hôm nay chuyện ấy vẫn còn khiến tôi nổi da gà. Lúc ấy tôi gần như tin chắc chúng tôi đã thắng. Chúng tôi tham dự khóa họp đặc biệt của Quốc Hội Liên Bang Tiệp Khắc tại Phòng Vladislav ở Lâu Đài Prague nơi xưa kia thường diễn ra những lễ đăng quang của các vị vua Tiệp và chúng tôi chỉ có một điều duy nhất trong nghị trình-bầu Vaclav Havel làm tổng thống rồi tổ chức ăn mừng chuyện ấy.

Tất cả mọi người đều bỏ phiếu bầu ông - ngay cả những người cộng sản cũng bỏ phiếu cho ông. Lúc ấy thật là cực kỳ vui sướng như thể đây là vũ hội hóa trang ở Rio de Janeiro-có điều lạnh hơn rất nhiều.

Về tự do

Tôi đang thu âm bài diễn văn của mình trên đài phát thanh quốc gia và tôi rất lạ lẫm với chuyện ấy nên tôi rất mệt, tôi không thể làm tốt trong lần thu đầu tiên. Việc thu âm phải mất rất lâu mới xong cho nên sau khi thu xong tôi chỉ muốn đi về ký túc xá để ngủ. Phòng thu của đài phát thanh quốc gia Tiệp gần Quãng trường Wencelas và lúc ấy đã tám giờ tối và tôi mệt lử cho nên tôi chỉ muốn đáp xe điện ngầm đi về nhưng khi tôi đi xuống nhà ga, tôi gặp các bạn sinh viên ở trường y khoa-mặc áo choàng giải phẫu màu xanh lá cây để họ khỏi lạc nhau trong đám đông. Họ mang theo đàn guitar và bass cùng với một ít rượu và họ gần như nhắc bỗng tôi lên, công kênh tôi lên vai họ và rồi họ vừa chạy quanh vừa la to : "Hoan hô Jan !". Từ đấy người ta bắt đầu nhận ra tôi rồi ai đấy đưa rượu rum đến miệng tôi và tôi buộc lòng phải uống cạn. Họ trao đàn cho tôi và bảo tôi chơi.

Chúng tôi tình cờ gặp một cụ bà trên quãng trường và bà có xe cút kít với thùng rượu slivovice, tức rượu mận mạnh. Cụ là người từ vùng quê nào đấy nhân ngày cuối năm đáp tàu lửa lên Prague để tìm những sinh viên mà cụ muốn cho rượu slivovice. Chồng cụ đã chôn cất rượu dưới đất vào năm 1968 sau khi Liên Xô xâm lăng, sau đấy ông qua đời. Ông đã nói với bà ông sẽ khui rượu chỉ khi tự do trở lại. Cho nên đời có nhiều lúc rất giống như truyện cổ tích - và đấy quả là tuyệt vời.

Jan Bubeník

Nguyên tác : Nonviolent Struggle and the Revolution in Eastern Germany, Index on Censorship, Tập 28, số 3, 7/11/2009

Trần Quốc Việt dịch

Jan Bubeník, một sinh viên 21 tuổi năm 1989, đã trở thành người đi đầu trong các cuộc biểu tình ở Tiệp Khắc và giúp lật đổ chính phủ

Published in Tư liệu

Một bức màn sắt mới mọc lên ở Đông Âu

Trong bài "Một bức màn sắt mới ở Đông Âu", Le Monde nhận định thông điệp của Minsk và Moskva rất rõ : Châu Âu không còn là nơi trú ẩn an toàn cho những nhà đối lập lưu vong. Đây là thách thức cho các nền dân chủ phương Tây.

mansat1

Ảnh tư liệu chụp ngày 01/11/2020 : Cảnh sát vũ trang ngăn chặn biểu tình của đối lập ở Minsk, Belarus.AP

Từ đầu độc, bắt cóc đối lập đến bắn hạ máy bay dân sự

Bầu trời rõ ràng không khoan hòa với Đông Âu. Có hôm, một nhà đối lập hàng đầu với Vladimir Putin quặn người vì đau đớn và rơi vào hôn mê trong một chiếc phi cơ đang bay trên Siberia. Bị đầu độc bằng Novitchok, ông chỉ sống sót nhờ phi công đã sáng suốt quyết định hạ cánh khẩn cấp xuống Omsk, và đội ngũ y tế nhanh chóng cứu cấp. Được chữa trị tại Đức, Alexei Navalny từ chối tị nạn, và nay đang ngồi tù tại nước Nga quê hương.

Một ngày khác, đến lượt một nhà báo trẻ chọn lựa sống lưu vong, nhưng chế độ Belarus lại truy lùng đến tận bờ biển Địa Trung Hải. Khi chiếc phi cơ Ryanair tuyến Athens-Vilnius bay ngang không phận Belarus hôm Chủ nhật 23/05, Roman Protasevich rơi vào tình thế khủng hoảng : hai, ba hành khách khả nghi lúc lên tàu, có thể là nhân viên tình báo đã tổ chức đổi hướng bay sang Minsk, được một Mig-29 kèm sát. Hai mươi bốn giờ sau, nhà đối lập với khuôn mặt sưng húp, giọng nói vô hồn, xuất hiện trong video "thú tội" và trở thành tù nhân - cũng như cô bạn gái Sofia Sapega, sinh viên người Nga ở Vilnius bị bắt cùng lượt mà lãnh sự quán Nga không hề có ý kiến.

Bảy năm trước đó, trên bầu trời Ukraine, một máy bay Malaysia Airlines bị một hỏa tiễn địa không Buk của Nga bắn hạ. Tất cả 298 thường dân trên chuyến bay MH17 đi từ Amsterdam đến Kuala Lumpur đều thiệt mạng. Sau cuộc điều tra lâu dài, tỉ mỉ, Hà Lan năm 2018 kết luận hỏa tiễn trên được đưa từ Nga sang đông Ukraine, vùng xung đột với quân ly khai thân Nga, trong cùng ngày. Moskva chối cãi trách nhiệm.

Điểm chung của ba sự kiện trên là gì ? Đó là sự đàn áp mọi đối lập chính trị tại khu vực này của Châu Âu từ một thập niên qua.

Tại Moskva, tổng thống Vladimir Putin muốn duy trì chiếc ghế ở điện Kremlin từ năm 2000 cho đến tận 2036. Xã hội dân sự Nga : hiệp hội, tổ chức phi chính phủ, truyền thông độc lập ngày càng bị siết chặt, với chiếc mũ "yếu tố nước ngoài" hoặc "cực đoan". "Ngay cả đang ở tù, tôi vẫn phạm thêm nhiều tội" - Navalny mỉa mai khi biết được Viện Kiểm sát vừa cáo buộc ông thêm một số tội danh.

Châu Âu cần chiến lược đối phó như với bức màn sắt cũ

Có thể điện Kremlin không ra lệnh bắn chiếc hỏa tiễn Buk vào MH17, nhưng khi cung cấp loại vũ khí như thế cho quân ly khai Donbass, Nga đã tiếp tay cho thảm kịch này. Có thể điệp vụ chuyển hướng máy bay Ryanair do cơ quan KGB của Minsk vạch ra chứ không phải "công ty mẹ" FSB ở Moskva, nhưng phải chăng Alexander Lukashenko cho rằng có thể làm mọi thứ nhờ được ông anh láng giềng Nga ủng hộ ?

Các chuyên gia cho rằng Lukashenko và Putin không ưa nhau, nhưng có thể nhà độc tài Belarus được gợi hứng từ mô hình Putin. Lukashenko không bóp nghẹt, mà đè bẹp hẳn báo mạng. Tù nhân chính trị có đến hàng trăm tại Belarus, khoảng mấy chục nhà báo bị tống giam. Chẳng hạn gia đình của tù nhân lương tâm Vitold Achourok, án 5 năm vì đi biểu tình, cuối tuần trước được báo tin ông đã chết vì "ngưng tim".

Một bức màn sắt mới đã được dựng lên ở ngay ngưỡng cửa, mà Liên Hiệp Châu Âu (EU), quá tự hào với sự sụp đổ của bức màn sắt cũ năm 1989, không nhận ra. Nhưng nay Châu Âu không còn có thể nhắm mắt làm ngơ. Thông điệp từ vụ "không tặc Nhà nước" Belarus và vô số vụ can thiệp của tình báo Nga trên lãnh thổ EU chứng tỏ Châu Âu không còn là nơi lánh nạn an toàn.

Châu Âu có thể làm gì ? Trừng phạt thì đã hẳn, vào tối thứ Hai. Bên cạnh đó cần nhắm cụ thể vào những người đã ra quyết định đàn áp, cũng như tài sản của họ ở Vienna, Luân Đôn, Berlin, Paris có được nhờ tham nhũng ; không để trừng phạt làm ảnh hưởng đến xã hội dân sự. Ăn miếng trả miếng không đủ, nay còn phải nghĩ đến chiến lược lâu dài, như trong thời kỳ bức màn sắt cũ.

Belarus : Bắt đối lập ngay trên không quan trọng hơn việc đất nước bị cô lập

Le Figarocũng nhận định tương tự về vụ Belarus cưỡng bức chiếc máy bay dân sự hạ cánh : "Châu Âu có vấn đề lớn ở sườn phía đông". Tờ báo cho rằng đối với Minsk, nguy cơ bị cô lập không quan trọng bằng việc bắt bằng được nhà báo đối lập Protasevich.

Theo David Ignatius trên Washington Post, vụ bắt cóc ngay trên không trung này cho thấy quyết tâm của Belarus với các nhà bất đồng chính kiến : họ có thể bị bắt ở bất kỳ nơi nào. Nhà phân tích Mỹ cho rằng phong trào biểu tình "mùa xuân Belarus" có thể quay lại, nhưng chính viễn cảnh ấy đã làm Lukashenko trở nên nguy hiểm hơn, vì ông ta không còn gì để mất. Nhà độc tài tuyên bố đang trong cuộc chiến chống lại "những con gián" đối lập và phương Tây.

Có nhiều điểm chung giữa Minsk và Moskva : nỗi sợ một cuộc cách mạng vì tự do của nhân dân, thẳng tay đàn áp đối lập, tuyên truyền thô bỉ chống phương Tây, tung đặc vụ hoạt động khắp Châu Âu. Trong vụ Ryanair, sự can dự của Moskva vẫn chưa rõ ràng, nhưng báo chí nhà nước Nga công khai ca ngợi "ông em" Belarus đã "ra tay rất đẹp", "kế tục truyền thống tốt đẹp của KGB thời Liên Xô trước đây".

Azerbaijan : YouTuber tị nạn ở Pháp cũng bị mưu sát

Về một đất nước thuộc Liên Xô cũ là Azerbaijan, Libérationcó bài điều tra "Đối lập Azerbaijan lưu vong : Bịt miệng xuyên biên giới". Say men chiến thắng ở Karabagh thượng, chế độ độc tài của ông Ilh am Aliyev ra sức đàn áp tất cả các nhà đối lập tị nạn ở nước ngoài, mà nạn nhân mới nhất là Mahammad Mirzali, YouTuber nổi tiếng 27 tuổi, đã bị mưu sát hai lần tại Nantes (Pháp) trong vòng chưa đầy một năm.

Vụ đầu tiên vào tháng 10/2020, khi thế giới đang chú tâm đến cuộc chiến Azerbaijan-Armenia. Mirzaliđang đi giao hàng để kiếm sống thì một người đàn ông vai u thịt bắp cố mở cửa xe và nổ ba phát súng, anh kịp lăn xuống sàn thoát chết. Hai tháng sau, anh bị bốn người nói tiếng Azerbaijan tấn công bằng dao ngay trung tâm thành phố, hậu quả là những vết thẹo chằng chịt và di chứng trên cơ thể người thanh niên có khuôn mặt hiền lành. Cảnh sát không tìm được các hung thủ, nhưng Mirzali đoan chắc kẻ ra lệnh không ai khác hơn là ông bà chủ Azerbaijan.

Trên kênh YouTube "Made in Azerbaijan" có 268.000 người theo dõi, Mirzali tố cáo nạn tham nhũng và các gia tộc đang thao túng nguồn lợi từ dầu khí. Đó là gia đình Aliyev nắm quyền cha truyền con nối từ khi Liên Xô sụp đổ, và gia đình Pashayev giàu có, xuất thân của đệ nhất phu nhân kiêm phó tổng thống Mehriban Aliyeva. Một số video của anh thu hút đến 2 triệu lượt người xem, trong khi dân số Azerbaijan chỉ có 10 triệu.

Nga, Iran, Syria : Trò hề bầu cử

Không chỉ triệt hạ các khuôn mặt đối lập nổi bật, các chế độ độc tài còn muốn bịt hẳn khả năng các đối thủ giành được chiến thắng tại các phòng phiếu. Le Mondetrong bài "Điện Kremlin loại những ứng cử viên không ưa thích ra khỏi cuộc bầu cử", ghi nhận một dự luật mới được thông qua hôm 25/05 nhắm vào tất cả các cuộc bầu cử chứ không chỉ bầu Quốc Hội, vào "tất cả các dạng thức ủng hộ", có hiệu lực hồi tố trong ba năm.

Chẳng hạn một người tweet lại tin của Alexei Navalny cách đây một năm, khi tổ chức của ông chưa bị xếp loại "khủng bố", có thể bị cấm ứng cử hội đồng địa phương ; cũng như hàng ngàn người Nga khác đã công khai bình luận về vụ đầu độc nhà đối lập. Hệ thống bầu cử Nga lâu nay chỉ cho phép các đảng trung thành với chính quyền - cộng sản, dân tộc chủ nghĩa và các đảng nhỏ khác do Kremlin giựt dây - nhưng đã phải vất vả trước chiến lược của đối lập kêu gọi bỏ phiếu cho những ứng cử viên độc lập để đánh bại đảng Nước Nga Thống Nhất của tổng thống.

Tại Trung Đông, Libération cho biết trong số 600 ứng cử viên của cuộc bầu cử tổng thống Iran ngày 18/06, Hội đồng Vệ binh (tức Hội đồng Bảo hiến của Iran) chỉ duyệt cho 7 người được ra tranh cử ! Kể cả phó tổng thống cải cách Eshaq Jahangiri, niềm hy vọng của cánh tả Iran, hay cựu chủ tịch Quốc hội Ali Larijani vốn là người bảo thủ, cũng bị gạt ra bên lề.

Còn ở Syria, Le Figaronhận thấy "Assad chắc chắn tái đắc cử trong cuộc bầu cử bị phương Tây coi là vô giá trị". Ông ta còn công khai thách thức cộng đồng quốc tế khi cùng với vợ đi bỏ phiếu ở ngay Ghouta, thành trì nổi dậy đã bị Damascus tái chiếm năm 2018 sau khi thả chất độc hóa học giết hại hàng loạt dân thường vô tội. Hai ứng cử viên khác chỉ để trang trí, Bachar Al Assad nắm chắc trong tay một nhiệm kỳ tổng thống thứ tư kéo dài 7 năm.

Hamas đào hầm, Israel xây tường ngầm

Nhìn sang vùng Trung Đông, Le Mondenhận xét mạng lưới đường hầm do Hamas đào dưới lòng đất dải Gaza là công cụ phòng thủ chính của phe Hồi giáo cực đoan này. Hamas đầu tư rất nhiều tiền bạc cho hệ thống được mệnh danh là "métro Gaza", đặt các cơ sở quân sự chính ở đây trong đó có các trung tâm chỉ huy, đa số quả đạn rốc-kết bắn sang Israel là từ các đường hầm. Hồi năm 2016, nhờ hệ thống này mà Hamas bắt được quân nhân Gilad Shalit. Nhưng đến tháng 3/2021, sau bốn năm xây dựng, quân đội Israel đã hoàn thành bức tường thành nằm sâu dưới lòng đất bao quanh Gaza khiến phe Hồi giáo không còn xâm nhập được.

Quân đội Israel cũng huy động người và phương tiện để xác định vị trí các đường hầm. Tháng 10/2020 tổng tham mưu trưởng quân đội Aviv Kochavi cảnh báo không thể phá hủy được 50 đến 60% mục tiêu địch nếu không cho bộ binh tiến vào Gaza. Khả năng này bị gạt sang một bên, tuy nhiên quân đội Israel hôm 13/05 đã làm cho Hamas tưởng thật khi dàn nhiều xe bọc thép dọc theo biên giới. Chờ cho quân Hamas dồn vào đường hầm trú ẩn, Israel oanh tạc ồ ạt vào "métro" Gaza, nhưng dường như phe Hồi giáo thiệt hại rất ít. Các mặt hàng lưỡng dụng (dùng cho dân sự lẫn quân sự) đưa vào Gaza được Israel kiểm tra kỹ, nhưng từ khi được mở "ngõ Saladin" thông qua Ai Cập năm 2018, giám sát có phần lơi lỏng hơn nên Hamas có thể đưa vào vật liệu như xi-măng để xây dựng đường hầm.

Ba kịch bản về con virus từ Vũ Hán

Les Echoshôm 27/05/2021 dành tựa chính cho nỗ lực vực dậy nước Pháp bằng mọi giá với kế hoạch tái thúc đẩy. Về mặt xã hội,Le Mondequan tâm đến một dự luật về người cao tuổi với tham vọng giúp một số lớn người Pháp có thể vui hưởng tuổi già tại nhà qua trợ cấp và những dịch vụ cần thiết.

Về đối ngoại,La Croixchạy tựa "Pháp-Rwanda : Một chuyến đi vì lịch sử". Hôm nay tổng thống Emmanuel Macron đến thăm đất nước mà vụ diệt chủng năm 1994 đã làm gần 1 triệu người Tutsi bị thiệt mạng. Tương tự, Libérationđưa tít "Macron đến Rwanda : Đối diện lịch sử". Không hối tiếc cũng không chối cãi, nguyên thủ Pháp sáng nay đọc bài diễn văn tại Kigali nhìn nhận vai trò của Paris trong vụ này. Một giai đoạn quan trọng đối với Elysée để vượt qua những tranh cãi về quá khứ, như trường hợp Algérie.

Le Figarođặt câu hỏi trên trang nhất "Đại dịch Covid đã ở lại phía sau ?". Chiến dịch tiêm chủng được đẩy mạnh, các chỉ số dịch tễ đã cải thiện, viễn cảnh Pháp ra khỏi khủng hoảng có vẻ chưa bao giờ hiện thực như thế. Tờ báo đưa ra ba kịch bản cho tương lai con virus Sars-CoV-2. Kịch bản đầu tiên lạc quan nhất, là diệt trừ được hẳn con virus corona trên hành tinh chúng ta. Tuy nhiên những thành công như vậy rất hiếm hoi trong lịch sử nhân loại.

Đối với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), con virus duy nhất bị tiêu diệt là virus đậu mùa, được chính thức tuyên bố năm 1980 sau chiến dịch tiêm chủng quốc tế. Virus bại liệt cũng gần đạt mục tiêu này nhưng vẫn còn xuất hiện ở Afghanistan và Pakistan. Con virus xuất phát từ Vũ Hán có nhiều biến chủng xuất hiện nhanh chóng, khiến hy vọng đạt được miễn dịch toàn cầu chỉ có thể đến từ vac-xin, nhưng tỉ lệ tiêm chủng ở các nước nghèo hiện rất thấp. Ngay cả nếu chủng ngừa được cả thế giới, cũng không diệt trừ hoàn toàn được vì nếu virus tiếp tục truyền qua một con vật trung gian, chúng có thể gây ra đợt dịch mới nơi con người.

Trong hai kịch bản còn lại, tệ hại nhất là vac-xin không chống lại được những biến chủng mới gây ra Covid dạng nặng. Trường hợp này, vac-xin ARN có thể thích ứng nhanh chóng, và như vậy phải chích ngừa hàng năm. Kịch bản cuối cùng như hiện đang quan sát được : vac-xin tỏ ra hiệu quả, tránh được những thể nặng. Tuy nhiên các nhà khoa học vẫn thận trọng, vì kể từ đầu đại dịch đến nay, con virus đến từ Vũ Hán vẫn không ngớt gây ngạc nhiên.

Thụy My

Published in Quốc tế

Đã gần 30 năm trôi qua, từ khi bức tường Berlin sụp đổ và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu chuyển sang dân chủ. Đa số những nước này nay đã trở thành những nước văn minh, phú cường. Một số nước như Estonia đang trở thành giàu có và sung túc ngang với các quốc gia dân chủ Nam Âu trước đó.

danchu1

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã chuyển sang dân chủ. Ảnh minh họa

Nhưng những cuộc cách mạng tiếp theo đã không mang lại kết quả mong đợi. Cuộc cách mạng Cam của Ukraine đã chỉ đưa nước này vào tình trạng nội chiến và mất bán đảo Crimea. Các cuộc cách mạng mùa xuân ả-rập đã chỉ thay các chế độ độc tài cũ bằng những chính quyền hỗn hợp theo khuynh hướng độc tài, thậm chí một số còn cực đoan hơn trước. Thắng lợi của thủ lĩnh đối lập Aung San Suu Kyi tại Miến Điện cũng không làm nước này trở nên dân chủ hơn, người Hồi giáo ở đây còn bị quân đội gia tăng đàn áp. Cuộc chính biến tại Zimbabwe cũng không làm nước này trở thành dân chủ như được trông đợi.

Những gì xảy ra tại Venezuela hiện nay cũng là một ẩn số, tuy nhiên người viết cũng không lạc quan về trường hợp này.

Các ví dụ trên chỉ làm những chính quyền độc tài còn lại có thêm lý cớ để khẳng định lập trường, rằng dân chủ sẽ đưa đến hỗn loạn.

Vậy điều gì đã khiến các cuộc cách mạng thành công ở Đông Âu, nhưng thất bại ở các khu vực còn lại ?

danchu2

Bễ phun nước Tình hữu nghị giữa các dân tộc, Alexanplatz, Berlin, Đức

Câu trả lời là, các cuộc cách mạng ở Đông Âu đã được chuẩn bị tốt hơn những cuộc cách mạng sau này về mọi mặt.

Trước hết là về thời gian. Nhân dân Đông Âu đã đấu tranh đòi dân chủ ngay từ sau khi rơi vào quỹ đạo của Liên Xô cuối Thế Chiến thứ hai. Các cuộc nổi dậy ở Hungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, v.v. trong những thập niên 50, 60 và 70, mặc dù bị các chính quyền địa phương và Liên Xô đàn áp thẳng tay, nhưng đã hun đúc được cả một thế hệ những nhà cách mạng lỗi lạc, những người sau này lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân chủ cuối thập niên 80.

Thứ hai là về đạo đức và văn hóa của những người làm cách mạng. Họ làm cách mạng vì mục đích tối thượng là tương lai của dân tộc, không phải vì chức tước bổng lộc sau này. Rất nhiều nhà cách mạng sau này đã không theo nghiệp chính trị mà chuyển sang công tác từ thiện, làm báo v.v. Chính vì vậy, họ đã tránh được xung đột cá nhân và không để chính quyền cài cắm chia rẽ.

Thứ ba là dự án chính trị của những nhà cách mạng. Mục đích của họ không phải chỉ là thay đổi chế độ, mà họ đã có viễn kiến xây dựng tương lai đất nước. Nhờ vậy, sau khi chuyển đổi thể chế, họ đã giảm thiểu được những tổn thất kinh tế và có điều kiện hội nhập nhanh và toàn diện vào thế giới các nước dân chủ.

Trong các nước có thể chế độc tài, các cuộc cách mạng sẽ xảy ra như một quy luật tất yếu. Một chính quyền độc tài giống như một cỗ máy không được bảo trì, sớm muộn nó sẽ hư hỏng và sẽ phải được thay bằng một chính quyền khác. Nhưng một cuộc cách mạng có mang đến một chính thể dân chủ, hay chỉ mang lại một chính quyền độc tài khác, phụ thuộc hoàn toàn vào việc chuẩn bị của những nhà cách mạng.

Những cuộc cách mạng được tổ chức công phu trong 40 năm, có kết quả khác hẳn những cuộc chính biến được chuẩn bị trong vài năm bởi một số người cơ hội...

Xuân Văn

(26/01/2019)

Published in Quan điểm