Kính tặng những người đã đổ máu, sức lực cho biên giới mãi trường tồn
1. Nguyên nhân và mục tiêu
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến đi bí mật của cố vấn Kissinger đã đưa đến sự bắt tay Mỹ–Trung năm 1972 tại Thượng Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn các tính toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trung Quốc muốn duy trì hai miền Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ–Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình.
Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm 1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm 1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác. Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao Trung Quốc đánh Việt Nam ? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không ? Số lượng quân tham chiến mỗi bên ? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất ? Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979 ?… Các tài liệu chiến tranh đều không được hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài. Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh này là do Trung Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì ? Đâu là mục tiêu chính ?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự : biên giới, chính trị, quân sự, kinh tế.
Mục tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ :
"Chỉ trong vòng sáu tháng qua người Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn Châu Á.
Lập trường kiên định của Chính phủ và nhân dân Trung Hoa là "chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị tấn công,–nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công". Các đạo quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý " [1].
Theo tuyên bố này, hành động của Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân : tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến), chống lại sự "tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt–Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa" để "có một đường biên giới hòa bình và ổn định" theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc chiến do Trung Quốc phát động là : "tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn" [2].
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà chính quyền cộng sản Trung Hoa đã phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà chính quyền cộng sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến. Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp–Thanh chưa giải quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975 : Pol Pot tấn công ở Tây Nam ; xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều ; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết : "Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần".
Theo Nguyễn Ngọc Minh [3], từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974 : 179 vụ ; 1975 : 294 vụ ; 1976 : 812 vụ ; 1977 : 873 vụ ; 1978 : 2175 vụ ; 1979 : trước ngày 17/2/1979, 230 vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết : năm 1974–179 vụ, trong đó có vụ rất nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh–Cao Bằng) và vào 16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông–Sóc Giang, Cao Bằng ; dùng hàng ngàn người gây nên trận "mưa đá" làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương) ; năm 1975–294 vụ (gấp đôi năm 1974) ; năm 1976–812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3 lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam lên đến 300 người ; năm 1977–873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với hung khí (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng) ; năm 1978–2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương 72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam [4].
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng "từ năm 1975 đến 16/2/1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số liệu các sự việc đó như sau : năm 1975 : 439 vụ ; năm 1976 : 986 vụ ; năm 1977 : 572 vụ ; năm 1978 : 1108 vụ ; năm 1979 (tính đến ngày 16/2/1979) : 129 vụ".
Khó có thể đánh giá con số nào là chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh 180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng 20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng, cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước ngoài định cư khác [5].
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ở miền Nam Việt Nam đã vào quốc tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất [6]. Trong khi hai bên chưa thống nhất thì người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức "Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội", "Hoa kiều tiến bộ", "Hoa kiều cứu vong hội", "Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac–Lenin", "Hội học sinh Hoa kiều yêu nước", "Mặt trận thống nhất Hoa kiều", v.v. mà không có sự đồng ý của Hà Nội [7]. Các tổ chức này tuyên truyền, nhập khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang [8]. Để đối phó với sức ép chiến tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân Việt Nam tiến hành cuộc "cải tạo tư sản công thương nghiệp" năm 1978. Nó tác động đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa [9]. Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt Nam "xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa", gây ra vấn đề "nạn kiều" cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp lực với chính quyền sở tại. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Đây là động thái gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam Châu Á và Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng "đạo quân thứ năm" cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau [10]. Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tổ chức cho người Việt gốc Hoa vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt–Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày 28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc không muốn đón "những khúc ruột ngoài ngàn dặm" khi họ không có giấy nhập cảnh của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người có quốc tịch Việt Nam. Đáng chú ý, trong khi phản ứng với chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều–"đội quân thứ năm" của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại. Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với lục địa ; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc ; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa… [11]. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống "tiểu bá" Việt Nam và "đại bá" Liên Xô [12]. Trung Quốc cũng có chính sách phân biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Pol Pot, đồng minh của Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại. Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc "đến cuối năm 1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt kinh tế và xã hội, v.v. Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955 giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5/1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp và sự "phản bội" của đồng chí Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những "sư đoàn sơn cước" chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là các nguyên nhân sau :
1. Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
2. Việt Nam đánh tư sản mại bản xua đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
3. Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
4. Cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Womack lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Hoa–Việt Nam bao gồm, "liên minh của Việt Nam với Liên Xô, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia trong tháng 12/1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Hoa của Việt Nam, và các tranh cãi về lãnh thổ" [13].
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới, chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy [14].
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận cảnh cáo rằng "sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh" [15]. "Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội" [16]. Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các bài xã luận : "Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ nghĩa Nga Xô" [17].
Tại họp báo trong chuyến thăm Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc "sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia" [18]. Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học [19]. Herbert S. Yee bình luận "Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung Quốc hy vọng rằng "với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn", Việt Nam sẽ bị "sa vào trong một vũng lầy" tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng bóng mục tiêu được che giấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố "hoàn kích tự vệ" của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất mặt ; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam [20]. Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc, hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình [21], thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt–Xô quy định : "Trong trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước". Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn : "Không bên nào tìm kiếm bá quyền tại Châu Á-Thái Bình Dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền" [22].
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt–Xô là mối de dọa đối với các nước ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để "trận này nhất định phải đánh" là : "Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới" và "nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới" trong khi "Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam" [23]. Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một từ biên giới Xô–Trung, hai từ biên giới Việt–Trung thông qua vai trò của Việt Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô đứng đầu.
Bruce Elleman nhận định "một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô–Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam [24]. Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống xã hội chủ nghĩa, hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn phát triển quan hệ với Mỹ [25].
Mục tiêu quân sự : Tiêu diệt một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các "cối xay thịt" để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế : Làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội : Tấn công Việt Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng, Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết [26], Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt Nam : Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô. Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô–Trung 1969 ta thấy có những điểm khá tương đồng. Xung đột tháng 3/1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4/1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt–Trung cho Đặng Tiểu Bình cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền chỉ có tính "tự vệ" song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới Việt–Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
Mục tiêu của Việt Nam
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại. Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/2/1979 : "Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17/2/1979, những kẻ cầm quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh thổ nước ta dọc theo biên giới, từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn, các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta… Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc".
Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi ít được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm :
- Bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Bắc.
- Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
- Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
- Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy mô lớn.
- Đánh bại về mặt chiến thuật lực lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém [27].
Cuộc chiến 1979 được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo diễn biến và mục tiêu phía Trung Quốc đặt ra. Lúc đầu nó được gọi là cuộc chiến "dạy cho Việt Nam một bài học", là "phản kích tự vệ", sau đó lại đổi thành "đánh trả", dù nghĩa đó dùng cho phía Việt Nam mới tương xứng. Việt Nam xác định Trung Quốc "phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17/2/1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km" [28]. Phương Tây gọi nó là cuộc chiến giữa những người anh em đỏ. Song cái tên đúng nghĩa về cả không gian và thời gian của cuộc chiến vẫn là chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979. Cuộc chiến này được Trung Quốc coi là "phản kích tự vệ" các hành động xâm lược của Việt Nam, một nước có diện tích, số dân và tiềm lực kinh tế nhỏ hơn Trung Quốc hàng chục, hàng trăm lần. Cuộc chiến 1979 xảy ra ngay sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia để thực hiện quyền tự vệ chính đáng và cứu dân tộc anh em khỏi họa diệt chủng. Phía Trung Quốc hoàn toàn chủ động lựa chọn thời điểm tấn công, quy mô chiến tranh và chỉ phải đối phó với lực lượng dân quân du lích của Việt Nam trong khi quân chính quy Việt Nam còn ở phía Nam. Trên góc độ chính trị, quân sự, rõ ràng Việt Nam không có lý do gì để "xâm lược Trung Quốc", tự tạo ra thế bị ép hai mặt, khó tránh khỏi diệt vong.
Phía Việt Nam cho rằng đây là một cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh, Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra "mô hình dạy một bài học" của Trung Quốc lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc–Ấn Độ 33 ngày năm 1962. "Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất lực của quốc gia nạn nhân. Cũng với cùng "mô hình dạy một bài học" này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam. Bất hạnh thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ" [29]. Gerald Segal kết luận "những tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công" [30].
Hai lý do chính liên quan đến biên giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế, hoàn toàn có thể giải quyết hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì không thể gọi là "phản kích tự vệ". Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định nghĩa "xâm lược" trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là "dạy cho Việt Nam bài học" đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một "hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé", một "hành động trả thù vô cớ", một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc vẫn được coi là một bên sáng lập.
Việt Long
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 13/02/2019
———–
[1] Statement by Xinhua News Agency upon Authorization of the Government of PRC on February 17, 1979.
[2] Sự thật quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Nhà xuất bản Sự Thật, tháng 10 năm 1979, phần 4.
[3] Nguyễn Ngọc Minh, "Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế ;" Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội : Khoa học Xã hội, 1979), tr. 126-127, 130-131
[4] Huỳnh Văn Trình, Sự hình thành đường biên giới Việt Nam–Trung Quốc, 1979, Ủy ban Biên giới quốc gia.
[5] Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978.
[6] Statement of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China on the expulsion of Chinese residents by Vietnam on June 12. 1978
[7] Sự thật về quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội tháng 10 năm 1979, phần 4
[8] Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, chương V Nạn Kiều, tr. 67
[9] King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 : Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, 1987, pp. 51-53 (King C. Chen, China’s War with Vietnam)
[10] Sự thật về quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on question of Hoa people in Vietnam on June 6, 1978.
[11] D.V. Mosiakov, Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á từ quá khứ đến hiện tại, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia–Sự Thật, Hà Nội 2016, 358 trang.
[12] Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War : China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India), Volume 16, No 1, 1980, p. 15-32.
- Womack, Brantly. China and Vietnam : The Politics of Asymmetry, Cambridge University Press 2006, p. 192
- Vogel, Ezra F. Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard University Press, 2013. Chapter 9. The Soviet-Vietnamese Threat 1978– 1979, pp 266-276
[14] King C. Chen, China’s War Against Vietnam, A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[15] Renmin Ribao, 9 Tháng Một 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 12 Tháng Một 1979).
[16] Ramesh Thakur : Coexistence to Conflict : Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War, The Australian Outlook, Volume 34, No 1, 1980, p. 69.
[17] "Regional hegemonist policy", "Indochina Federation", They found a patron in Soviet social-imperialism ; "Tighter to the apron strings of social-imperialism". Renmin Ribao (Beijing), 4/9/1978 ; Peking Review No 36, 8/9/1978, pp. 23-4.
[18] Renmin Ribao, 9 November 1978.
[19] Beijing Review, 9 February 1979, p. 13 ; và New York Times, 1 February 1979.
[20] Herbert S. Yee,The Sino-Vietnamese Border War : China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report, New Delhi, India Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[21] Nayan Chanda, Brother Enemy : The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego–New York–London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, p.134
[22] Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979.
[23] 邓小平当年在中越边境作战情况报告会上的讲话,Junshi.xilu.com .
[24] Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996
[25] Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt Nam "Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng Sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món quà tặng cho Mỹ".
[26] Thẩm Thính Tuyết, diễn đàn "Điểm lại cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979" tổ chức ngày 9/2/2015 ở Hồng Kông, trích lại từ Kiều Tỉnh, 18/2/2016.
[27] John M. Peppers, Lieutenant Colonel, United States Army, Strategy In Regional Conflicy : A Case Study of China in the Third Indochina Conflict of 1979, Carlisle Barracks, Pennsylvania : U. S. Army War College, 2001, 48 p.
[28] Sự thật về quan hệ Việt Nam–Trung Quốc trong 30 năm qua, phần 4.
[29] Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War–1979 : Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July–September 2000.
[30] Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 211-227
****************************
2. Thời điểm và lực lượng tham chiến
Chuẩn bị chiến tranh
Trung Quốc thể hiện rõ sự chủ động trong chuẩn bị chiến tranh và chọn thời điểm khai hỏa. Về chuẩn bị, Bắc Kinh đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này ít nhất một năm trước khi xảy ra thông qua các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao [1]. Các hoạt động này càng đẩy mạnh dồn dập trong khoảng 3 tháng từ sau khi có Hiệp ước Việt-Xô tháng 11/1978.
Trung Quốc đã nỗ lực tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi cho chiến tranh. Đầu tiên là tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và Nhật. Tháng 5/1978, Trung Quốc thuyết phục lãnh đạo Mỹ từ bỏ ý định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Tháng 8/1978, Trung Quốc ký với Nhật Hiệp ước Hữu nghị và Hòa bình, thuyết phục Nhật Bản không viện trợ cho Việt Nam. Đầu tháng 11/1978, Đặng Tiểu Bình thăm chính thức Thái Lan, Malaysia và Singapore.
Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia [2]. Ngày 8/11/1978 tại Bangkok, Thái Lan, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt-Xô gây đe dọa cho hòa bình và an ninh thế giới. Ông nhận định Việt Nam đang trở thành một Cuba ở phương Đông và thi hành mệnh lệnh của Liên Xô. Trung Quốc đã khéo léo từ bỏ chính sách can thiệp vào các nước Đông Nam Á ; thúc đẩy quan hệ kinh tế, tranh thủ vốn từ các nước này phục vụ chiến lược "bốn hiện đại hóa" ; đồng thời, tập hợp được lực lượng chống Việt Nam [3]. Ngày 1/1/1979, Washington chính thức bình thường hóa ngoại giao với Bắc Kinh chấm dứt ba thập niên phong tỏa và cấm vận từ ngày "mất Trung Hoa" [4]. Ngày 28/1/1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, thông báo với Mỹ ý định đánh Việt Nam. Trên đường về đầu tháng 2/1979, qua Tokyo, ông tuyên bố "Cần dạy cho Việt Nam một bài học". Lãnh đạo Trung Quốc khẳng định sẽ đánh Việt Nam, qua đó hạ thấp vai trò của Liên Xô, chứng minh mâu thuẫn Trung–Xô gay gắt và Mỹ, Nhật sẽ được hưởng lợi [5].
Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 là một cuộc chiến tranh hạn chế về không gian và thời gian mà ẩn đằng sau nó là hai trục (Bắc Kinh–Phnom Penh ; Hà Nội–Moskva). Hai nước trực tiếp tham chiến đều phải dàn lực ra hai hướng (dù mức độ có khác nhau), tính đến mối đe dọa từ hai phía. Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng luôn nghe ngóng phản ứng của Liên Xô ; Việt Nam chống trả Trung Quốc song vẫn phải tiếp tục đối phó với Khơme Đỏ ở phía Tây Nam. Trung Quốc tính toán rằng phần lớn quân chính quy Liên Xô tập trung ở phía Tây chống lại sự tấn công của Mỹ và phương Tây cũng như làm rào chắn cho khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Liên Xô có khoảng 1 triệu quân [6] canh giữ biên giới Xô-Trung khá dài nên không đủ lính để gác từng km. Liên Xô sẽ không đưa ra một cuộc tấn công nếu không chắc thắng và kéo dài. Liên Xô đang ở vào các giai đoạn cuối cùng tế nhị trong các cuộc thường thảo hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân SALT II với Hoa Kỳ, và được phán đoán có ít xác suất muốn gây gián đoạn cho tiến trình đó bằng việc phản ứng một cách mạnh mẽ chống lại Trung Quốc [7]. Đặng Tiểu Bình trong một cuộc họp bí mật đánh giá : "Chúng ta nhận thức được họ không muốn có bất kỳ một chiến dịch quy mô lớn nào nhưng nếu có chúng ta sẽ đương đầu, chúng ta đã có sự chuẩn bị thỏa đáng" [8].
Trung Quốc tự tin trong các tính toán và hành động vì :
Một là, Trung Quốc đã "rào dậu" kỹ càng về ngoại giao với hai đối tác quan trọng là Mỹ, Nhật trên cơ sở liên minh "chống chủ nghĩa bá quyền".
Hai là, chuẩn bị dư luận thế giới về một cuộc "phản kích tự vệ" đuổi quân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc.
Ba là, tiếp tục những cuộc hội đàm thường lệ với Liên Xô về vấn đề biên giới, tỏ rõ cho Liên Xô biết cuộc tấn công Việt Nam là một vấn đề riêng biệt, không ảnh hưởng đến việc cải thiện quan hệ giữa hai nước.
Bốn là, nắm bắt nhu cầu của Liên Xô trong "đàm phán hạn chế vũ khí hạt nhân lần thứ hai" với Mỹ–nhu cầu ấy không cho phép Liên Xô mạo hiểm phá vỡ mối quan hệ Mỹ–Xô.
Năm là, lực lượng của Liên Xô ở biên giới Xô-Trung không đủ cho một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Nếu muốn mở mặt trận, Liên Xô cần một tháng để điều quân từ Đông Âu sang. Đây là một trong những lý do Trung Quốc hạn chế thời gian chiến sự, muốn đánh nhanh giải quyết nhanh trong vòng 1 tháng.
Có thể nói vào tháng 1/1979, Trung Quốc đã yên tâm phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam mà không e ngại sự lên án hoặc chống đối từ Mỹ, Nhật hay ASEAN. Trung Quốc đã giành được sự ủng hộ của Mỹ trong việc "dạy cho Việt Nam một bài học" với cách thức đánh nhanh, và một cuộc tấn công trừng phạt như vậy sẽ không gây phương hại đến các quan hệ ngoại giao mới được thiết lập với Mỹ [9]. Theo các tài liệu được công bố, Hoa Kỳ đã ngầm đồng thuận khi cung cấp tin tinh báo cho Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ có 54 sư đoàn không đủ quân số ở biên giới Xô–Trung và vì vậy sẽ không có động thái quân sự lớn nào. Đặng Tiểu Bình chắc chắn có con bài Mỹ trong tính toán chiến lược để chống lại bất kỳ động tác quân sự có thể nào của Liên Xô [10]. Ngày 16/3/1979, tổng kết chiến tranh, Đặng Tiểu Bình tiết lộ : Khi quân đội Trung Quốc tấn công Việt Nam cũng là lúc "Hoa Kỳ đã gửi Hạm đội 7 thực hiện tuần tra, giám sát nhằm đối trọng với Hải quân Liên Xô đang có mặt tại phía Nam biển Nam Trung Hoa".
Thực tế, chỉ mười ngay sau giao tranh, Mỹ, Nhật, ASEAN mới dần thay đổi thái độ từ ủng hộ Trung Quốc sang biện pháp trung lập. Chính phủ Mỹ phản đối hành động của Trung Quốc một cách nhẹ nhàng, phê chuẩn một chính sách mới, nhằm "làm cho ảnh hưởng của cuộc chiến tranh này giảm tới mức thấp nhất sự trầm trọng thêm trong quan hệ Mỹ–Xô và Mỹ–Trung ; đảm bảo quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam, quân Việt Nam rút khỏi Campuchia và ngăn chặn Liên Xô mở rộng cuộc xung đột". Tokyo và ASEAN phản đối chiến tranh, yêu cầu ngừng chiến tranh và đề nghị quân đội nước ngoài rút khỏi Đông Dương (Trung Quốc rút khỏi Việt Nam và Việt Nam rút khỏi Campuchia) [11]. Đây thực sự là một sự đánh đồng bản chất của hai cuộc chiến. Trong khi lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa bình và ổn định", tuyên bố của Mỹ về cuộc tấn công của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc tấn công Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia". Một lần nữa Mỹ lại bật đèn xanh cho Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam sau khi đã ngầm ủng hộ Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa. Xâu chuỗi các sự kiện Washington tiếp tục cự tuyệt các nỗ lực bình thường hóa quan hệ của Hà Nội, chính quyền Carter tiếp tục chính sách cấm vận kinh tế bao vây Việt Nam, bình thường hóa quan hệ Mỹ-Trung ngày 1/1/1979 [12], điều chuyển lực lượng Hạm đội 7 có thể cho thấy Mỹ vẫn nuôi mộng thông qua bàn tay Trung Quốc để trả món hận với cựu thù Việt Nam trong thời gian đó. Chính Henry Kissinger đã nhận xét : "Chiến tranh Việt Nam lần thứ ba cũng là đỉnh cao của hợp tác chiến lược Trung-Mỹ trong Chiến tranh Lạnh" [13]. Việt Nam hoàn toàn bị cô lập trong cuộc chiến biên giới 1979 bởi tính toán chiến lược của các siêu cường.
Thời điểm chiến tranh
Ngày 7/12/1978, Quân ủy Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập một cuộc họp kéo dài bốn, năm tiếng, quyết định mở một cuộc chiến tranh hạn chế ở phía nam biên giới để "phản kích tự vệ" Việt Nam. Ngày 8/12/1978, quân khu Quảng Châu và Côn Minh được lệnh phải hoàn tất việc chuẩn bị trước ngày 10/1/1979 [14]. Chỉ thị nhấn mạnh rằng chiến tranh phải hết sức hạn chế, chỉ được diễn ra cách biên giới không quá 50km và kéo dài trong hai tuần [15]. Nhằm giảm thiểu những phản ứng tiêu cực ở trong và ngoài nước, Đặng Tiểu Bình đặt tên cuộc tấn công xâm lược của mình là "một cuộc phản công tự vệ", và hạn chế quy mô, thời gian và không gian của cuộc chiến. Đặng có thể đã rút kinh nghiệm từ hai cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ năm 1962 và Liên Xô năm 1969. Một cuộc chiến hạn chế sẽ không đủ để khiêu khích Liên Xô có sự can thiệp và tránh được sự nổi giận của cộng đồng quốc tế [16]. Thời điểm lệnh tấn công cho thấy Bắc Kinh đã dự trù, tính toán từ trước và việc đánh Việt Nam là không tránh khỏi, phụ thuộc rất ít vào việc quân tình nguyện Việt Nam tiến quân vào Phnom Penh ngày 7/1/1979, cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Có lẽ Trung Quốc cũng không ngờ tới nghệ thuật tác chiến của Việt Nam kết thúc nhanh chóng trận chiến ở Phnom Penh và sự đổ vỡ nhanh chóng của quân đội Khmer Đỏ. Việt Nam đã thoát được cái bẫy gọng kìm mà Bắc Kinh giăng ra trong gang tấc nhưng không thể ngăn chặn xảy ra một cuộc chiến ở biên giới phía Bắc. Robert Ross đã đi đến kết luận chính kết quả của việc Liên Xô thành công trong bao vây Trung Quốc đã dẫn đến sự cần thiết phải có một cuộc xâm lược hạn chế chống Việt Nam [17].
Ngày 11/02/1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17/02/1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam.
Mùa xuân là thời điểm thích hợp khi Trung Quốc tấn công Việt Nam mà không sợ có phản ứng mạnh từ Liên Xô. Nếu từ tháng 4 trở đi, mùa mưa có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Miền Bắc Việt Nam đang vào xuân, thời tiết thuận lợi. Đây cũng là thời điểm sau Tết, nhiều hoạt động vui chơi, dễ mất cảnh giác.
Trung Quốc cũng tính toán tấn công chớp nhoáng Việt Nam khi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt-Xô chưa kịp có hiệu lực và viện trợ quân sự của Liên Xô đến Việt Nam chưa nhiều. Chiến tranh cũng nổ ra 2 ngày sau khi Hiệp ước Hợp tác hữu nghị, đồng minh và giúp đỡ lẫn nhau Xô-Trung có thời hạn 30 năm hết hiệu lực (15/2/1979). Liên Xô muốn kéo dài thời gian hiệu lực của Hiệp ước nhưng Trung Quốc không muốn. Đây là dịp tốt để Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn mọi khả năng ký lại Hiệp ước này [18]. Ngày 18/02/1979 Trung Quốc đưa ra Tuyên bố chiến tranh hạn chế với Việt Nam, đồng thời răn đe khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô [19]. Trung Quốc tập trung dọc tuyến biên giới Xô–Trung khoảng 1,5 triệu quân trên tổng số quân thường trực chiến đấu là 3,6 triệu người để đối phó với hơn 40 sư đoàn Hồng quân Liên Xô triển khai ở đây [20].
Quân đội Việt Nam đang tập trung ở biên giới Tây Nam. Tại miền Bắc chỉ còn Quân đoàn 1 quân số thiếu làm nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Ngoài một sư đoàn 3 Sao Vàng được điều về sau [21], biên giới hầu như chỉ còn lính biên phòng và dân quân tự vệ mà Bắc Kinh đánh giá không phải là đối thủ. Việc di chuyển quân từ Tây Nam ra Bắc qua hàng ngàn km đòi hỏi thời gian lớn ngay cả khi Việt Nam được Liên Xô hỗ trợ lập cầu hàng không. Cửa ngõ đến Hà Nội hầu như bỏ ngỏ.
Việt Nam có bị bất ngờ về chiến tranh biên giới không ? Căn cứ vào các Bị vong lục của Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc chuyển các công điện khẩn của Bộ Ngoại giao Việt Nam tới Tổng Thư ký Liên hợp quốc [22], Việt Nam đã được báo động trước về khả năng có xung đột biên giới. Công điện chuyển thư của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nêu rõ Trung Quốc đã tập trung hơn 20 sư đoàn tại biên giới và đe dọa sử dụng vũ lực với Việt Nam, đi ngược lại các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 14/2/1979 lưu chiểu Liên Hợp Quốc ngày 16/2/1979, trích dẫn rất nhiều nguồn tin quốc tế nêu rõ đến ngày 9/2/1979 Trung Quốc đã triển khai khoảng 160.000 quân và 700 máy bay chiến đấu gồm cả máy bay ném bom F9 do Trung Quốc sản xuất tới biên giới Việt Nam, đào hầm hào, chuẩn bị tiến đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam [23]. Tuy nhiên tình cảm quốc tế vô sản và niềm tin vào những người anh em xã hội chủ nghĩa sâu đậm đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin vào khả năng chiến tranh thực sự mà chỉ là những xung đột, đe dọa. Có thể kết luận Việt Nam bị bất ngờ về thời điểm và quy mô chiến tranh.
Lãnh đạo Việt Nam đều phân tán không có mặt đủ ở Hà Nội. Ngày 16/2/1979, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Campuchia và Việt Nam được ký tại Phnom Penh. Tham dự lễ ký có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị và Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Văn Tiến Dũng. Phái đoàn chỉ kịp quay về nước vào ngày 20/2/1979.
Đám cưới con của Tổng bí thư Lê Duẩn trong tối 17/2/1979 cũng là một nhân tố [24] có thể được tính đến với giả định thu hút các lãnh đạo Đảng và Chính phủ Việt Nam tham dự sự kiện mang tính gia đình đó.
Cũng là một sự trùng hợp khi đồn trưởng các đồn biên phòng được triệu tập về tỉnh trong ngày 15-16/2 để tham dự họp vào sáng Chủ nhật ngày 17/2/1979 đối phó với tình hình căng thẳng ở biên giới và nghe phổ biến nhận định Trung Quốc có thể tấn công [25]. Khi chiến tranh nổ ra, chỉ huy tác chiến chủ yếu là các chính trị viên và cấp phó. Cấp trưởng chỉ kịp hủy họp trở về chỉ huy chiến đấu sau khi quân Trung Quốc đã tiến sâu vào lãnh thổ. Yếu tố này cho thấy, mặc dù có nhiều dấu hiệu Trung Quốc sẽ tấn công nhưng tình báo Việt Nam đã không có tin tức đúng ngày khai chiến. Phần lớn người Việt Nam không tin rằng giữa hai người anh em đỏ lại đánh nhau dù vẫn có các cuộc xung đột biên giới nhỏ [26]. Trung Quốc đã chủ động quyết định tiến đánh và thời điểm khai chiến trong khi Việt Nam bị động và bất ngờ vào những ngày đầu cuộc chiến. Song cũng sẽ là sai lầm nếu kết luận Việt Nam không dự phòng và có kế hoạch đối phó. Tổng bí thư Lê Duẩn đã có dự kiến : "Trong thời gian sắp tới, Trung Quốc có thể sẽ phát động một cuộc chiến tranh trong phạm vi và không gian lớn. Có thể chúng ta phải đụng với 1–1,5 triệu quân của Trung Quốc. Các tỉnh biên giới phải hết sức cảnh giác và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu" [27]. Tại mặt trận Lạng Sơn, Việt Nam đã chủ động đào sẵn hơn 60 cây số chiến hào phòng thủ cùng với khoảng 2.000 cứ điểm chiến đấu. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc thời điểm đó đánh giá : "Cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình - phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới…".
Lực lượng tham chiến
Tổng số quân đội Trung Quốc vào thời điểm 1979 ước khoảng 4,5 triệu [28], trong đó số quân được tập trung ở biên giới Việt-Trung khoảng 250.000. Trung Quốc có 121 sư đoàn bộ binh, 11 sư đoàn thiết giáp, 40 sư đoàn pháo binh, 3 sư đoàn không quân với 5.000 máy bay chiến đấu, 400.000 lính phòng không và 300.000 lính hải quân. Vào đầu cuộc chiến tranh, Trung Quốc huy động quân của hai đại quân khu Quảng Tây và Vân Nam, gồm 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập ; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn [29]. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người [30]. Hải quân phái một lực lượng đặc nhiệm (gồm hai tàu khu trục tên lửa cùng ba đội tàu phóng lôi nhanh có hỏa tiễn) tới quần đảo Hoàng Sa (mà Bắc Kinh xâm chiếm từ tháng 1/1974) để phòng trường hợp Liên Xô can thiệp bằng hải quân. Hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đã huy động hàng chục ngàn quân và dân công để hỗ trợ hoạt động quân sự [31]. Không quân Trung Quốc không tham dự trực tiếp nhưng đã có 8.500 chuyến bay trinh thám và 228 chuyến bay trực thăng vận tải [32].
Quân đội Nhân dân Việt Nam được đánh giá có khoảng 600.000 bộ binh, 3.000 lính thủy, 300 máy bay và 12.000 lính phòng không, trong đó 19 sư đoàn tập trung ở biên giới Tây Nam, 4 sư đoàn ở biên giới Lào trước cuộc chiến tranh Việt-Trung [33]. Lực lượng còn lại giữ Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ chỉ khoảng 100.000. Niên giám Châu Á năm 1980 cho biết lực lượng Việt Nam đóng ở biên giới gồm sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Các lực lượng còn lại gồm bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang–Tuyên Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Con số tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân [34]. Như vậy, quân Trung Quốc tham chiến gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Quân đội Việt Nam được đánh giá là thiện nghệ, có kinh nghiệm chiến đấu, có vũ khí trang bị hiện đại từ kho chiến lợi phẩm thu được từ Mỹ và sự giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên các yếu tố này không phát huy được nhiều tại biên giới Việt-Trung lúc xảy ra chiến sự vì hầu như chỉ có quân địa phương, công an vũ trang trang bị vũ khí nhẹ và dân quân tự vệ bảo vệ biên giới [35].
Quân đội Trung Quốc là bậc thầy về sử dụng pháo binh. Trong chiến tranh, Trung Quốc đã huy động 18.000 khẩu pháo các loại từ 37, 57, 82 ly cho đến 130, 160, 180 ly, dàn hỏa tiễn. Khoảng 700 máy bay đã được huy động nhưng không tung vào tham chiến vì e ngại lưới lửa phòng không và lực lượng không quân có tiếng của Việt Nam. Từ chiến tranh biên giới Trung–Ấn năm 1962, quân đội Trung Quốc không đánh trận, không có kinh nghiệm chiến trường. Hậu quả 10 năm cách mạng văn hóa cũng làm quân đội Trung Quốc suy yếu, nhiều lính mới nhập ngũ. Bù lại, Trung Quốc có đội quân "sơn cước" tuyển mộ từ những người Hoa ở Việt Nam lâu năm quen biết địa hình, thông thổ, dẫn đường cho quân đội.
Địa hình miền núi phía Bắc Việt Nam phức tạp, không thuận lợi cho Trung Quốc triển khai các đơn vị tăng thiết giáp và ngăn cản các thiết bị thông tin lạc hậu. Tuy nhiên, các tướng lĩnh Trung Quốc với chiến thuật biển người truyền thống tin tưởng rằng họ sẽ đè bẹp đối phương trong thời gian ngắn.
So sánh lực lượng, Trung Quốc có thế áp đảo hơn Việt Nam nhiều lần. Đặng Tiểu Bình đặt quyết tâm chỉ có thể thắng — hoặc có thể giải thích là đã thắng trong cuộc chiến — để dẹp tan mọi dư luận chống đối. Tình hình nội bộ Trung Quốc còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ sau khi Đặng quay lại nắm quyền lần thứ hai. Bè lũ bốn tên đã bị loại khỏi quyền lực, nhưng nhóm Hoa Quốc Phong - Uông Ðông Hưng còn đó ; đang chờ cơ hội phản công. Đặng Tiểu Bình đã quá lớn tuổi không cho phép làm lại lần thứ ba. Cuộc tấn công Việt Nam là một biện pháp tranh giành quyền lực và thúc đẩy bốn hiện đại hóa quân đội Trung Quốc, củng cố quyền lực cho Đặng.
Phương châm quân sự chủ đạo của quân đội Trung Quốc là tập trung binh lực, đánh đòn phủ đầu, nhanh chóng chia cắt, tiêu diệt sinh lực đối phương. Tướng Hứa Thế Hữu đã triển khai cụ thể phương châm này bằng một chiến thuật gọi là "ngưu đao sát kê" (dùng dao mổ trâu để cắt tiết gà). Hứa Thế Hữu chủ trương : "Ðánh nhanh toàn tuyến, chiến thuật biển người, bao gạo súng trường, người Hoa dẫn đường" [36]. Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm : tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch ; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt ; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này, Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch. Lãnh đạo quân đội Trung Quốc còn tuyên bố rất mạnh bạo với quân lính "sáng ăn cơm Đồng Đăng, chiều ăn cơm Hà Nội".
Các sử gia phương Tây kết luận chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc phản kích tự vệ hạn chế như Trung Quốc tuyên truyền. Chiến dịch năm 1979 đã là một hoạt động quân sự lớn liên quan đến gần mười một đoàn quân Trung Quốc, có quy mô tương đương với cuộc tấn công của quân Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên tháng 11/1950, và vượt quá sâu biên giới Trung Quốc–Việt Nam [37].
Việt Long
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 14/02/2019
———–
[1] Theo King C. Chen, thời gian chuẩn bị cho một sự "trừng phạt" từ Trung Quốc là hai năm (1977-1979).
- King C. Chen, China’s War Against Vietnam : A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch ;
- Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment" (Tháng 9/1978, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã có cuộc họp về vấn đề "làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam".
[2] Christopher Marsh, Unparalleled Reforms, New York : Lexington, 2005, p. 72.
- Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47.
- Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam, New York, St. Martin’s Press, 1992, p. 287
[4] Joint Communiqué on the Establishment of Diplomatic Relations between the United States of America and the People’s Republic of China, January 1, 1979.
[5] Henry Kisinger, On China, p. 488-499.
[6] Robert A. Scalapino "Asia in a Global Context : Strategic Issue for the Soviet Union", in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup, Dover, MA, Auburn House Publishing Company, 1986, p.28.
[7] Harlan W. Jencks, China’s "Punitive" War on Vietnam, : A Military Assessment, Asian Survey [U.C. Berkeley], Vol. XIX, No. 8, August 1979, các trang 801-815. Ngô Bắc dịch.
[8] Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 32.
[9] Henry Kissinger, On China, p. 496
[10] Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War : China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report (xuất bản tại New Delhi, India), Tom 16, Volume 1, 1980, p. 15-32.
[11] Robert Hoppens, The 1979 Sino-Vietnamese War and the transformation of Japan’s relations with China in diplomacy and discourse, Department of History and Philosophy , University of Texas Pan American Volume 14, Issue 2 (Article 6 in 2014).
[12] Bruce Burton, Contending explanations of the 1979 Sino–VietnameseWar, International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, p. 699-722.
[13] Henry Kissinger, On China, p. 373, 503-504.
[14] Xiaoming Zhang, China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment, The China Quarterly, No. 184 (Dec., 2005), pp. 857
[15] Sông Hồng, Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, 1999-2005 ; Nayan Chanda, Brother Enemy : The War After The War, A History of Indonchina after the fall of Saigon, San Diego–New York–London, Harcourt Brace Jovanovic Publishers 1986, 479 p.
[16] Xiaoming Zhang, China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment, The China Quarterly, No. 184 (Dec., 2005), pp. 859.
- Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment" (Trương Hiếu Minh, Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979) The China Quarterly, bộ 184, tháng 12/2005 Air War College Montgomery, Alabama, Mỹ, tr. 851-874 ;
- Ross, Robert S. (1988). The Indochina Tangle : China’s Vietnam Policy, 1975-79 ;
- Bruce Elleman, Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict, 20 April 1996 (tham luận của tác giả Bruce Elleman, đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium, "After the Cold War : Reassessing Vietnam", được tổ chức vào các ngày 18-20/4/1996 tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas, Ngô Bắc dịch
[18] Mongolian Memorandum of conversation with O.B. Rakhmanin, April 12, 1979 Moscow.
[19] Bruce Elleman (20 tháng 4 năm 1996). "Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict" . 1996 Vietnam Symposium–Vietnam Center and Archive, Texas Tech University.
[20] Theo tình báo Mỹ (đã dẫn ở trên) là 54 sư đoàn quân số thiếu.
[21] Theo Thượng tướng Khuất Duy Tiến, nguyên Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu (Bộ Quốc phòng), Tư lệnh Quân đoàn 3, Chiến tranh biên giới 1979 không thể quên lãng, Tuần Việt Nam, ngày 17/2/2015
[22] Note 030/79/ HC of the Permanent Mission of SRV to the United Nation dated 10 February 1979, accessed date 18 February 2018
[23] Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 14/2/1979, Memorandum of the Ministry of Foreign Affairs of the Socialist Republic of Vietnam on the Chinese Authoritie’s intensified armed activities on the Vietnam border and their frantic war preparations against Vietnam (14 February 1979).
[24] Ông Lê Kiên Thành nói về cha và ngày 17/2/1979, Tuần Việt Nam 17/2/2018
[25] Huy Đức, Bên thắng cuộc, Quyển I – Giải phóng, tr. 98
[26] Tài liệu cần kiểm chứng qua Video lời kể của Đại tá Quách Hải Lượng, Nguyên Trưởng phòng tác chiến quân chủng Phòng không Không quân cho biết, tháng 2 sau Tết đã có lệnh hạ cấp báo động chiến đấu cấp 2 cho bộ đội nghỉ ngơi, bồi bổ sức khỏe.
[27] Theo lời kể của Thiếu tướng Lê Mã Lương, Anh hùng lực lượng vũ trang, Giám đốc Viện bảo tàng quân sự Việt Nam, "Tướng Lương : Dù Tổng bí thư Lê Duẫn đã dự kiến tôi vẫn chưa tin Trung Quốc đánh", ngày 30/7/2014.
Tài liệu cần kiểm chứng qua Video lời kể của Đại tá Quách Hải Lượng, Nguyên Trưởng phòng tác chiến quân chủng Phòng không Không quân.
[28] Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 33.
[29] 35 năm cuộc chiến biên giới phía bắc ngày truy cập 27/7/2015.
[30] "Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc" Tạp chí Cộng sản 5/1979 (Hà Nội : 1979), tr. 25 ; Trường Chinh, "Nhân Dân Việt Nam kiên quyết đánh bại mọi mưu mô xâm lược của chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc (Hà Nội : 1982), Tạp chí Cộng sản 3/1982, tr. 35.
[31] Về vạch kế hoạch và chuẩn bị đánh Việt Nam của quân đội Trung Quốc xin xem Zhang, Xiaoming, Deng Xiaoping’s Long War : The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The New Cold War History). The University of North Carolina Press, 2015, p. 67-89.
[32] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", p. 865.
[33] Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 33-34.
[34] 35 năm cuộc chiến biên giới phía bắc ngày truy cập 27/7/2015.
[35] Theo nguồn tài liệu của Liên Xô : Ðến ngày 20/2/1979, các cố vấn Liên Xô kết luận rằng lực lượng phòng ngự của Việt Nam, chủ yếu là du kích và không được phối hợp, không thể cản bước tiến của Trung Cộng. Ðã có đề nghị vận chuyển đường không một quân đoàn (30.000 quân) từ Kampuchia để tăng cường lực lượng phòng ngự từ Lạng Sơn về Hà Nội. Dẫn từ Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", p. 851-874.
[36] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", p. 861.
[37] Edward C. O’Dowd,Chinese Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge : New York, 2007, Chapter 4 : The 1979 Campaign,p. 45-73 ; Ngô Bắc dịch.
***************************
3. Diễn biến và hậu quả
Diễn biến chiến tranh 1979
Cuộc tấn công được bắt đầu vào 3 giờ sáng ngày 17/2/1979. Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km. Từ đêm 16/2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" bí mật cắt các đường dây điện thoại, phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, cây cầu, khai quật các hầm vũ khí đã được chôn lấp chuẩn bị trước. Được sự dẫn đường của lính sơn cước và đạo quân thứ năm, quân Trung Quốc vòng qua các vị trí đồn công an vũ trang Việt Nam, thọc sâu, đánh chiếm các vị trí huyện lỵ quan trọng [1] . Có thể nói Trung Quốc đã hoàn toàn giữ được yếu tố bất ngờ và chủ động trong dụng binh.
Tối 17/2/1979, Thông tấn xã Việt Nam kêu gọi Liên Xô và các nước anh em giúp đỡ bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng gửi ngay Công hàm cho Liên Hợp Quốc kêu gọi Trung Quốc ngừng ngay cuộc chiến xâm lược.
Ngày 18/2/1979, Liên Xô ra tuyên bố ủng hộ cuộc chiến đấu của Việt Nam ; "Nhân dân Việt Nam anh hùng, lại vừa trở thành nạn nhân của cuộc xâm lược hôm nay, có đủ khả năng để quật khởi cho chính họ một lần nữa, và hơn thế họ có những người bạn tin cậy được. Liên Xô sẽ nghiêm chỉnh tôn trọng những cam kết theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [2]. Liên Xô cũng cảnh báo Trung Quốc bằng việc đặt các lực lượng vũ trang Liên Xô ở Siberia vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam một số thông tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Ngày 19/2/1979, một nhóm các cố vấn quân sự của Liên Xô do đại tướng Gennady Obaturov dẫn đầu tới Hà Nội [3]. Trong giai đoạn từ khi cuộc xung đột bắt đầu (giữa tháng 2) đến cuối tháng 3/1979, bằng đường thủy, Liên Xô đã hỗ trợ cho Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe bọc thép, xe chở quân, 400 cỗ pháo và súng phóng lựu, 50 dàn phóng đạn phản lực 40 nòng, cỡ 122 mm "Grad", hơn 100 cỗ pháo cao xạ, 400 đồng bộ cao xạ di động cùng hàng ngàn tên lửa đi theo, 800 súng chống tăng của bộ binh, 20 máy bay tiêm kích [4]. Hai hoạt động trợ giúp quân sự đáng kể nhất của Liên Xô là giúp hỗ trợ vận chuyển hàng không quân đội Việt Nam từ biên giới Tây Nam về Bắc và triển khai một số tàu chiến ngăn chặn tàu Mỹ ở Biển Đông vào những tuần đầu tháng 3. Liên Xô cũng triển khai một cuộc tập trận từ ngày 12 đến 26/3/1979 trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái Bình Dương [5]. Phản ứng ngoại giao và quân sự của Liên Xô cho thấy họ sẽ không can thiệp khi cuộc xung đột chỉ ở mức độ hạn chế [6]. Liên Xô không có ý định động binh ở một quy mô lớn nguy hiểm với Trung Quốc chỉ để cứu Việt Nam. Trong cùng thời gian, các cuộc đàm phán biên giới Xô–Trung vẫn được tiến hành và đạt được một số thỏa thuận về hải hành trên sông biên giới [7].
Nghiên cứu của Trung Quốc chia cuộc chiến 29 ngày thành hai giai đoạn : cuộc chiến phản kích tự vệ (17/2-5/3) và cuộc rút lui (5/3-16/3).
Trong những ngày đầu tiên, quân Trung Quốc đã tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam có chỗ đến 15-20 km [8]. Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng công an vũ trang và dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày. Trung Quốc chỉ vào được Lạng Sơn ngày 5/3 [9] trước khi tuyên bố rút quân. Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên đã không đạt được mục tiêu hợp điểm ở thị xã Cao Bằng. Một lực lượng nhỏ bộ đội Việt Nam và dân quân tự vệ đã kiên cường chặn đứng bước tiến của quân đoàn Trung Quốc tại đèo Khau Chỉa, thuộc địa phận thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa, Cao Bằng), Trung Quốc buộc phải đưa thêm xe tăng, xe bọc thép và lực lượng dự bị vào vòng chiến. Tại các tuyến Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, quân Trung Quốc cũng chịu những tổn thất nặng nề.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc [10]. Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút quân. Tuyên bố rút quân có đoạn : "Quân đội biên phòng Trung Hoa sau khi đạt được những mục đích đề ra vì buộc phải mở cuộc phản công tự vệ ngày 17 tháng 2 chống lại những cuộc xâm lấn và xâm lược có vũ trang không dứt của quân xâm lược Việt Nam chống Trung Hoa, nay Chính phủ Trung Hoa tuyên bố kể từ ngày 5/3 tất cả các quân biên giới Trung Hoa sẽ rút lui về lãnh thổ Trung Hoa. Chính phủ Trung Hoa nhấn mạnh rằng chúng tôi không muốn một phân đất của Việt Nam nhưng chúng tôi cũng không chịu được những cuộc xâm nhập phá hoại vào trong lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả những gì mà chúng tôi muốn là một đường biên giới hòa bình và bền vững…" [11]. Trung Quốc cũng kêu gọi nối lại các cuộc đàm phán mà ngay từ đầu chiến tranh Việt Nam đã từng đề nghị nhưng không được đáp ứng. Đặng Tiểu Bình phát biểu quân đội Trung Quốc có thể đánh thẳng đến Hà Nội nếu muốn song chiếm đóng thủ đô Việt Nam không phù hợp với mục tiêu cuộc "phản kích tự vệ" của Trung Quốc [12]. Quân giải phóng Trung Hoa đã đánh bại hoang tưởng bất khả chiến bại và đội quân mạnh thứ ba thế giới của Việt Nam. Trung Quốc đã chứng tỏ Việt Nam không mạnh như họ tưởng [13].
Các tác giả Trung Quốc coi đây là 16 ngày gây sốc cho thế giới [14] vì hành vi dạy cho Việt Nam một bài học từ Trung Quốc, hai nước anh em xã hội chủ nghĩa. Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới [15]. Các nước đều chăm chú theo dõi với quan ngại cuộc chiến có thể kéo theo sự can thiệp của các cường quốc khác như Liên Xô và Mỹ. Từ phía khác, đây đúng là những ngày gây sốc vì :
1. Tính chất ác liệt của chiến tranh và sức chiến đấu kiên cường của dân quân tự vệ, bộ đội địa phương Việt Nam đã làm phá sản nhanh chóng kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của đội quân mạnh hơn gấp 10 lần. Sức chiến đấu và lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam đã làm ngạc nhiên thế giới trong điều kiện không có giúp đỡ vật chất từ nước khác, ngoài các tuyên bố lên án chiến tranh, ủng hộ Việt Nam từ các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ [16].
2. Năng lực chiến đấu của Quân giải phóng Trung Hoa không như đánh giá. Các tướng Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ đổ gục ngay từ cú đánh đầu tiên và họ sẽ dễ dàng bị quét sạch. Thực tế quân đội Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề. Quân Việt Nam cũng thực hiện những cú giáng trả ngay vào hậu phương Trung Quốc. Ngày 1/3/1979, AFP và Tân Hoa Xã đều xác nhận có một cuộc đột kích "cảm tử" vào phi trường Ninh Minh (Ningming) trong tỉnh Quảng Tây, cách xa biên giới bốn mươi cây số.
3. Tuyên bố rút quân nhanh chóng của Đặng Tiểu Bình khi Trung Quốc thông báo đã chiếm được Lạng Sơn mở toang cánh cửa vào Hà Nội. Ngoài sức chiến đấu không ngờ tới của quân địa phương Việt Nam, lý do Quân giải phóng Trung Quốc phải rút còn do những trở ngại khó khắc phục về hậu cần và khả năng đụng độ lớn với quân chủ lực Việt Nam được điều động từ chiến trường Tây Nam ra Bắc. Một lý do khác là những người lãnh đạo ở hai bên chiến tuyến đã quá hiểu nhau. Đặng Tiểu Bình và Lê Duẩn đã có nhiều lần gặp mặt và đều là những người quyết đoán. Trong bài phát biểu của mình sau chiến tranh 1979, Lê Duẩn đã khái quát : "Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới Trung–Xô để phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó nếu họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có sáu trăm ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc… Phải đối mặt với những làng mạc, thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tiến công hiệu quả chống lại từng người dân. Thậm chí có phải đánh nhau hai, ba năm hoặc bốn năm, họ cũng không thể tiến vào được… Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể xâm nhập vào được" [17]. Lý do thứ tư, Trung Quốc chủ động rút quân theo kế hoạch khi mục tiêu hợp thức hóa các tranh chấp lãnh thổ đã đạt được và Trung Quốc tính toán đủ để vấn đề không bị đưa ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, không gây cớ cho sự can thiệp nếu có từ phía Liên Xô hay khó xử cho Mỹ, nước ngầm ủng hộ cuộc chiến tranh. Tuyên bố rút quân được đưa ra vài giờ trước khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng ban hành lệnh tổng động viên. Khi đó hoàn toàn là một cuộc chiến tranh xâm lược, đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, buộc Hội đồng Bảo an phải xem xét. Đặng Tiểu Bình hiểu rõ quyết tâm của Việt Nam và sự lợi hại của chiến tranh du kích. Tuyên bố rút quân của ông đã được tính toán kỹ song nó gây sốc cho công chúng, những người chưa hiểu rõ thế mạnh chiến tranh du kích của Việt Nam. Lịch sử nhiều lần chứng minh các cuộc tấn công thần tốc từ phương Bắc cuối cùng đều bị đánh bại khi tiến sâu vào đồng bằng Bắc Bộ.
4. Mức độ tàn ác của quân Trung Quốc khi thực hiện lệnh của Hứa Thế Hữu "sát cách vô luận", bất kể là gặp người Việt Nam nào dù già hay trẻ, nam hay nữ đều là kẻ địch và phải giết hết [18]… Ngày 22/2/1979, lính Trung Quốc thả hơi độc vào pháo đài Đồng Đăng giết hại hơn 400 dân và thương binh ; ngày 9/3/1979, trong vụ thảm sát ở thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, lính Trung Quốc trên đường rút quân về nước đã dùng gậy, cuốc đập sọ 43 người, phần lớn là phụ nữ, trẻ em và quẳng tất cả thi thể xuống giếng cổ.
Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ : "Nhân dân Việt Nam tôn trọng nhân dân Trung Hoa, cố gắng duy trì tình hữu nghĩ bền vững và mong muốn lập lại hòa bình trong khu vực Đông Nam Á… Nếu việc triệt thoái là một âm mưu che đậy chính sách xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ đánh trả. Lệnh tổng động viên đã có hiệu lực và nhân dân Việt Nam sẽ đáp ứng lời kêu gọi để sẵn sàng chiến đấu" [19]. Các cuộc đàm phán ở cấp Thứ trưởng ngoại giao sẽ được tiến hành với điều kiện quân Trung Quốc phải rút hết về nước. Quân đội Việt Nam thi hành chính sách nhân đạo "trải thảm đỏ" cho quân Trung Quốc rút lui mà không tổ chức các cuộc truy kích. Ngược lại, cuộc rút quân của Trung Quốc với chính sách tận diệt đã mang lại biết bao đau thương, thiệt hại cho Việt Nam. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Các nhà báo nước ngoài đưa tin quân Trung Quốc trên đường rút đã cướp bóc, tàn sát và phá hoại, đốt phá nhà cửa của dân chúng Việt Nam [20]. Chiến dịch tàn phá này được lính Trung Quốc gọi là "nụ hôn từ biệt".
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra một "Bị vong lục", tố cáo Trung Quốc :
1. xâm canh, xâm cư, xâm lược lấn đất ;
2. lợi dụng các công trình hữu nghị để di chuyển những trụ mốc ;
3. đơn phương xây dựng các công trình biên giới lấn vào lãnh thổ Việt Nam ;
4. "mượn đất Việt Nam để lấn vào lãnh thổ" ;
5. xê dịch mốc biên giới và xuyên tạc luật pháp để lấn đất ;
6. làm đường biên giới lấn sang Việt Nam ;
7. lợi dụng việc vẽ bản đồ cho Việt Nam để sửa biên giới ;
8. dùng lực lượng vũ trang để đóng đồn, lấn đất ;
9. chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, nhưng nhai đi nhai lại luận điểm "Trung Quốc không thèm một tấc đất của Việt Nam" [21].
Ngày 16/3/1979, Bắc Kinh tuyên bố đã hoàn tất việc rút quân, và kêu gọi Việt Nam triệt thoái khỏi Campuchia.
Tuy nhiên, một số tài liệu chưa được kiểm chứng cho biết ngày 22/3/1979, Trung Quốc huy động thêm quân, chiếm 30 điểm trên lãnh thổ Việt Nam, dời 6 cột mốc biên giới ở Lạng Sơn ; 10 ở Hoàng Liên Sơn ; 10 ở Hà Tuyên. Lỗ Minh, Ðại biện Trung Quốc ở Hà Nội, tuyên bố quân Trung Quốc chỉ chiếm lại lãnh thổ Trung Hoa. Thực sự cho đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân như tuyên bố. Suốt hơn 10 năm (1979-1990), chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất là năm 1984-1985. Chiến sự tập trung ở những khu vực không được biết đến, xa đường giao thông, cửa khẩu quốc tế nhằm hạ thấp sự chú ý của dư luận quốc tế. Nhiều đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển tới biên giới, biến biên giới Bắc Việt Nam thành thao trường.
Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự lớn dọc biên giới.
Hậu quả chiến tranh
Hoàn Cầu Thời báo bản điện tử ngày 2/3/2015 dẫn nguồn Trung Quốc viết rằng : "Trong cuộc phản kích tự vệ này, quân ta đã chiếm được Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tuyên và 21 huyện, thị trấn khác nhau của Việt Nam ; tiêu diệt 4 sư đoàn, 7 trung đoàn, 25 tiểu đoàn của Việt Nam. Tổng số binh lính Việt Nam bị tiêu diệt là hơn 50.000 người ; 2.173 lính đầu hàng ; thu giữ 916 khẩu pháo các loại ; 16.000 súng, hỏa tiễn ; 236 xe ô tô. Quân ta cũng phá hủy nhiều pháo, xe tăng, xe thiết giáp, thu được thắng lợi huy hoàng" [22]. Hà Nội cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên tục, gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho đối phương.
Theo VnExpress ngày 17/2/2015, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ ; 400.000 gia súc bị giết và bị cướp ; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản [23]. Hầu hết các thị xã, thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ thống. Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ công trình gì từ công sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu. Tại thị xã Cam Đường trên bờ sông Hồng, cách biên giới khoảng 10km, ngoài việc phá hủy thị xã, quân Trung Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit. Những hoạt động này một phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức với mục đích đánh vào nền kinh tế Việt Nam, một phần do binh lính Trung Quốc sang Việt Nam bị sốc vì sự khốc liệt, sức kháng cự của quân đội Việt Nam cũng như sự bất hợp tác, xa lánh, chống đối của dân bản xứ. Giáo sư sử học Edward C. O’dowd tổng kết "người Việt Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không dễ bị lung lạc…" [24].
Theo tướng Ngũ Tu Quyền, Phó Tổng tư lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Trung Quốc có hơn 2 vạn chiến binh tử trận trên chiến trường Bắc Việt Nam [25]. Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy... Russell D. Howard thì cho rằng quân Trung Quốc thương vong 6 vạn người, trong đó số chết là 26.000. Sử gia Mỹ gốc Hoa King C. Chen nói phía Trung Quốc có 26.000 quân bị chết và 37.000 người bị thương. Trương Hiểu Minh sử dụng con số này [26]. Phía Việt Nam có 30.000 binh sĩ bị chết và 32.000 người bị thương ; phía Trung Quốc đã trao trả 1.638 tù binh Việt Nam đổi lấy 260 tù binh Trung Quốc [27]. Tạp chí Time của Mỹ lại đưa ra con số khá khác biệt : ít nhất 20.000 lính Trung Quốc thiệt mạng, trong khi số bộ đội Việt Nam chết chưa tới 10.000 [28].
Gần đây, phía Trung Quốc đưa ra số liệu khác, giảm tổn thất, cho rằng chỉ có 6.900 lính chết và 15.000 bị thương, tổng số thương vong là 21.000 trong tổng số lực lượng tham gia chiến hơn 300.000 tức chưa tới 1% (0,7%) [29]. Tạp chí Quân đội Nhân dân và Tạp chí Cộng sản của Việt Nam số tháng 4/1979 cho biết Việt Nam đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 280 xe tăng và xe bọc thép, 279 xe vận tải, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự, bắt nhiều tù binh" [30]. Con số ước lượng của Việt Nam về tổng thiệt hại và thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người trên tổng số 600.000 quân tham chiến (chiếm 1,04%). Đã có cả một đại đội sơn cước Trung Quốc gồm cả phó chỉnh ủy trung đoàn đi cùng ra đầu hàng [31].
Dù theo con số nào thì các nghiên cứu nước ngoài đều cho rằng Việt Nam "trên thực tế đã chiến đấu tốt hơn" quân Trung Quốc và thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, trung bình một ngày mất một trung đoàn, phản ánh chiến thuật biển người của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sẵn sàng thí quân [32]. Henry Kissinger trong cuốn On China đã đưa ra một so sánh : "…PLA tiến quân rất chậm và phải trả giá đắt. Theo thống kê của một số nhà phân tích, trong một tháng giao tranh với Việt Nam, số thiệt mạng của PLA ngang với số lính Mỹ bị giết trong những năm tháng khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam" [33]. Ông cũng nhận định : Cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của Trung Quốc khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình cải cách kinh tế. Việt Nam cũng bị tổn hại nặng nề về kinh tế, chịu hậu quả bởi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và Trung Quốc. Hai nước có hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới, trong đó Việt Nam bị ảnh hưởng nặng hơn do buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả mất cân đối, mất cân bằng, tác động xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng tiêu cực.
Việt Long
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 15/02/2019
————————–
[1] Bài học đau đớn từ "đội quân thứ 5" của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh 1979, Lao Động, 18/2/2015.
[2] Sông Hồng, Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, in tại Mỹ, 1999-2005.
[3] Các cố vấn Liên Xô và cuộc chiến tranh 30 ngày ở Việt Nam.
Vị Đại tướng Liên Xô đã sát cánh cùng Việt Nam năm 1979 là ai ? ngày 18/2/2016
[4] Tháng 2/1979 : Liên Xô cảnh cáo "Không được động đến Việt Nam" ngày 18/2/2016.
[5] Các cuộc diễn tập quy mô lớn nhất diễn ra trên lãnh thổ Mông Cổ, huy động tới 6 sư đoàn bộ binh cơ giới và sư đoàn tăng, trong đó có 3 sư đoàn được điều động tới Mông Cổ từ Sibir và Zabaikal. Trong khuôn khổ cuộc diễn tập này còn có sự góp mặt gần 3 sư đoàn không quân, 2 lữ đoàn độc lập và một số liên binh đoàn và đơn vị tăng cường. Tại biển Đông, và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến hành tập trận đánh tiêu diệt hải quân đối phương. "Tháng 2/1979 : Liên Xô cảnh cáo "Không được động đến Việt Nam" ngày 18/2/2016.
[6] John Blodgett, "Vietnam : Soviet Pawn or Regional Power ?" in Rodney W. Jones and Steven A. Hildreth, eds., Emerging Powers Defense and Security in the Third World, New York, Praeger Publishers, 1986, 98
[7] Xinhua (Tân Hoa Xã), 27/2/1979.
[8] Edward C. O’Dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War : The Last Maoist War. Routledge., p. 46
[9] Videoclip"Tái hiện cuộc chiến tranh tự vệ phản kích Việt Nam". Đài phát thanh truyền hình tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc thực hiện, Bản điện tử của Hoàn Cầu thời báo ngày 2/3/2015
[10] Quyết định Tổng động viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Lệnh Tổng động viên của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ngày 5/3/1079, Nhân Dân ngày 6/3/1979.
[11] New York Times, March 6, 1979.
[12] Henry Kissinger, On China, p. 501-503.
[13] Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, Kingsway International Publications, Hongkong 1981, ISBN 962-7051-02-2, p. 58.
[14] Li Man Kin, Sino-Vietnanese War, p. 56.
[15] Herbert S. Yee, The Sino-Vietnamese Border War : China’s Motives, Calculations and Strategies, China Report (New Delhi, India), Vol. 16, No 1, 1980, p. 15-32.
[16] Liên Xô có yêu cầu gửi phi công chiến đấu sang Việt Nam nhưng Hà Nội đã từ chối. Laurent Cesari (1995). L’Indochine en guerres 1945-1993. Paris : Belin, 1995, p.266.
[17] Bài phát biểu của Lê Duẩn.(Tài liệu lưu tại thư viện quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Bùi Xuân Bách lại chuyển ngữ ngược lại từ Anh sang Việt.
[18] Những tư liệu quý về cuộc chiến chống bành trướng Bắc Kinh 1979.
[19] Nhân Dân, 7/3/1979.
King C. Chen, China’s War Against Vietnam : A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch.
[20] Linda Mathew, Los Angeles Times, March 7. 1979, p. 1 and 19.
Henrry Kamm, New York Times, March 9, 1979.
[21] Nguyễn Ngọc Minh, "Bọn bành trướng và bá quyền nước lớn Trung Quốc phạm tội ác xâm lược, tội ác chống hòa bình và an ninh quốc tế ;" Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Phê phán chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của giới cầm quyền phản động Bắc Kinh (Hà Nội : Khoa học Xã hội, 1979), tr. 134-135.
[22] Videoclip"Tái hiện cuộc chiến tranh tự vệ phản kích Việt Nam".Đài phát thanh truyền hình tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc thực hiện, Bản điện tử của Hoàn Cầu thời báo ngày 2/3/2015.
[23] 35 năm cuộc chiến biện giới phía Bắc, VnExpress ngày truy cập 27/7/2015
[24] Edward C. O’Dowd, Chinese Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge : New York, 2007, Chapter 4 : The 1979 Campaign, p. 45-73 ; Chapter 5 : The Battle of Lang Son, February–March 1979, p. 74-88 ; Chapter 10 : Conclusion : the legacy of an "incredible, shrinking war", p. 159-166. Ngô Bắc dịch.
[25] Trả lời phỏng vấn của tướng Ngũ Tu Quyền với nhà báo Pháp AFP, 2/5/1979, trong Foreign Broadcast Information Service, Daily Report, China (FBIS), số 80, các trang E1-E2.
Edward C. O’Dowd,Chinese Military Strategy In The Third Indochina War, The Last Maoist War, Routledge : New York, 2007, Chapter 4 : The 1979 Campaign,p. 45-73 ; Ngô Bắc dịch.
[26] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", p. 866
[27] King C. Chen, China’s War With Vietnam, 1979 : Issues, Decisions and Implications, Stanford, CA : Hoover Institution Press, 1987, p. 114. Tác giả Nayan Chanda tường thuật rằng phía Trung Quốc đã bắt giữ "khoảng 2.000 người Việt Nam" trong khi Việt Nam bắt giữ "ít hơn 1.000 quân Trung Quốc". Xem, "A Breather Between Rounds" trong tờ Far Eastern Economic Review (FEER), 20 April, 1979, p.17.
[28] BBC Vietnamese, Trung Quốc nói về chiến tranh biên giới 1979.htm ngày 16/2/2012
[29] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment"
[30] Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc (Hà Nội : 1982), tr. 20 [trích đăng "Xã luận" của Tạp chí Cộng sản, 4/1979]
[31] Nguyễn Nguyên Bình, Chuyện hỏi cung đại đội tù binh Trung Quốc ra hàng quân du lích ở Cao Bằng tháng 3/1979. "Cái đại đội ra hàng đó là thuộc trung đoàn bộ binh 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50, quân khu Thành Đô. Đơn vị còn có đầy đủ cả bộ sậu : Đại đội trưởng, chính trị viên, cả ban chi ủy, các trung đội trưởng…và đầy đủ vũ khí trang bị. Cùng đi với đại đội còn có hai cán bộ do trung đoàn phái xuống để đốc chiến, một ‘vị’là tham mưu phó trung đoàn, ‘vị’kia là phó chính ủy trung đoàn. Cả đại đội còn đầy đủ cả trăm con người. Đơn vị này thuộc thê đội hai của chiến dịch, mới ngơ ngáo tiến vào vùng núi Cao Bằng trập trùng bí hiểm, bị quân dân địa phương dồn đuổi mấy ngày, hoang mang quá, không biết làm thế nào, đã bàn nhau(bàn trong chi ủy Đảng cộng sản Trung Quốc hẳn hoi) kéo cờ trắng ra hàng". Tư liệu này cũng được phóng viên chiến trường Lý Bảo Tồn xác nhận tr ong cuốn tiểu thuyết Vòng hoa dưới chân núi do Dương Danh Dy dịch sang tiếng Việt.
[32] Trong một tháng giao tranh, quân Trung Quốc thiệt hại 62.500 người trên tông số 600.000 quân tham chiến trong khi Mỹ đưa nửa triệu quân vào chiến tranh Việt Nam, chịu tổn thất khoảng 58.000 binh chết và hơn 305.000 người bị thương trong vòng 21 năm dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Xem Congressional Research Service, American War and Military Operations Casualties : Lists and Statistics, January 2, 2015.
[33] Henry Kissinger, On China, p. 503.
****************************
4. Chiến tranh Việt-Trung 1979 : Các bài học
Mục tiêu tuyên bố của cuộc "phản kích tự vệ" là để dạy cho Việt Nam một bài học. Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình [1]. Đánh giá về hệ quả cuộc chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 cần đối chiếu với các mục tiêu của các bên đề ra trước cuộc chiến.
Về mục tiêu chính trị : Trung Quốc không thể "dạy cho Việt Nam một bài học" như lời Đặng Tiểu Bình đã nói. Trung Quốc không tác động được đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của Việt Nam. Họ đã không buộc được Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot. Trung Quốc cũng không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều, chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, với Liên Xô, với Mỹ. Họ cũng không đánh bại được ý chí của người Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc chiến tranh này tiếp tục thể hiện truyền thống Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới, các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc, chịu sự dạy dỗ của Trung Quốc. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là "dạy cho Việt Nam bài học" đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một "hành động trả thù" [2]. Cuộc chiến tranh đã làm các nước trong khu vực lo sợ về hình ảnh một nước lớn sẵn sàng đặt mình trên nước khác, sử dụng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức. Không nước ASEAN nào vui vẻ với sự trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc. Đại diện của Singapore tại Liên Hiệp Quốc, Tommy Koh nói tại Liên Hiệp Quốc : "Lẽ ra Trung Quốc không nên tự mình quyết định luật lệ…" [3]. Thái độ kẻ cả, không tôn trọng bình đẳng chủ quyền giữa các nước, không phù hợp với luật pháp quốc tế đã bị nhân loại phê phán. "Bất kể vì lý do gì", Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Sunao Sonoda bình luận rằng "việc gửi quân xâm nhập nước khác là không đúng" [4]. Tuy nhiên, Trung Quốc đạt được những mục tiêu nhất định trong quan hệ với các cường quốc. "Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á.
Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành "một bức tường ngăn chặn có giá trị" chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt. Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô" [5]. Trung Quốc tỏ rõ quyết tâm ngả về Mỹ, làm hả hê Mỹ vì trả được nhục thất bại tại Việt Nam, tận dụng được viện trợ Mỹ và tiếp tục gây sức ép làm Việt Nam kiệt quệ chảy máu, buộc phải rút khỏi Campuchia vào năm 1989. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng phản ứng của Liên Xô qua đó đạt được phần nào mục tiêu hạ thấp vai trò và uy tín của Liên Xô. Với quyết tâm của mình, sự giúp đỡ của Mỹ và khả năng tận dụng các biến cố chính trị, Trung Quốc có đủ thời gian và điều kiện thực hiện hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu "cường quốc, cường quân" và vươn lên trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới.
Về mục tiêu quân sự : Trung Quốc không thể tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam. Họ đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 Quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một Quân đoàn khác cần 10 ngày để tiến vào Lào Cai và Cam Đường – hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 Quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 người trong quân số 2.800 của trung đoàn này [6]. Số chết và thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến là quá cao [7]. Mục tiêu quân sự lớn nhất mà Trung Quốc đạt được có lẽ là Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc sử dụng các thiệt hại đau đớn của cuộc chiến tranh Trung–Việt để thuyết phục lãnh đạo Trung Quốc về nhu cầu cần hiện đại hóa [8].
Về mục tiêu kinh tế : Trung Quốc đã phá hủy tận diệt các cơ sở kinh tế của Việt Nam ở vùng biên giới song không làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc. King C. Chen đã mô tả mức độ triệt hạ như sau : "Ở mọi nơi các cây cầu bị giật sập và các đường xá bị gài mìn và phá hủy. Các bệnh viện tại Lào Cai, Lạng Sơn và Cao Bằng bị triệt hạ. Tại cả ba thị trấn… mọi sự bị đổ nát và tất cả đều câm lặng. Khoảng 80% các kiến trúc bị phá hủy. Không một cột điện duy nhất nào còn đứng lại trong hay quanh ba thị trấn… Có sự khan hiếm nước uống khắp nơi trong vùng và dòng điện bị cắt đứt. Các ngôi làng kề cận cũng nằm trong sự đổ nát…" [9]. Các thiệt hại này cộng thêm bao vây cấm vận của Mỹ về lâu dài đã làm cho kinh tế Việt Nam khó khăn.
Về mục tiêu biên giới lãnh thổ : Trung Quốc không thay đổi được đường biên giới Việt–Trung theo ý Trung Quốc nhất là tại những nơi Công ước Pháp–Thanh chưa giải quyết triệt để. Song Trung Quốc cũng không tôn trọng tuyên bố rút quân ngày 5/3/1979 của mình, vẫn tiếp tục chiếm đóng một số vùng đất và điểm cao trong lãnh thổ Việt Nam, khống chế để hợp thức hóa và gây áp lực trong đàm phán [10]. Chiến tranh biên giới vẫn tiếp diễn ở quy mô nhỏ hơn nhưng không kém phần ác liệt cho đến tận 1988. Tình hình này buộc Việt Nam luôn ở trong tình trạng chiến tranh, duy trì lực lượng quân thường trực lớn, gây khó khăn cho kinh tế.
Gerald Segal kết luận, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn : "Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô" [11]. Harlan W. Jencks đánh giá : Bất kể mọi tính toán bá đạo tinh vi kiểu Machiavelli trong việc ấn định thời biểu của cuộc "tự vệ hoàn kích", và bất kể mọi sự hy sinh của các binh sĩ và dân chúng của họ, các giới chức thẩm quyền Trung Quốc có lẽ đã thiệt hại nhiều hơn những gì họ thu được" [12]. James Mulvenon và một số tác giả khác kết luận : "cuộc xâm lăng của Trung Quốc đã là một sự thất bại đáng kinh ngạc" [13].
Lãnh đạo và các nhà nghiên cứu Trung Quốc lại có cái nhìn khác về chiến thắng khi coi trọng các kết quả địa chính trị hơn là hiệu năng tác chiến trên chiến trường [14]. Đặng Tiểu Bình đã xác quyết một sự chiến thắng chính trị của cuộc chiến tranh bất kể có một số tổn thất về quân sự và tuyên bố nó vẫn là một cuộc chiến thắng của Trung Quốc. Alnie Ginck trong nghiên cứu công bố năm 1992 lại cho rằng : "Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc" [15].
Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc, nhận xét về thành công của Trung Quốc trong chiến tranh 1979 : "Cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ… Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, thực hiện chương trình cải cách mở cửa, cần thống nhất quyền lực. Cách tốt nhất là qua chiến tranh. Đánh Việt Nam là lấy lòng tin của Mỹ, không phải giúp Mỹ trả nợ thất bại ở Việt Nam mà vì chính lợi ích của Trung Quốc. Cuộc chiến đã tạo nền tảng bình thường hóa quan hệ với Mỹ, có 10 năm quan hệ nồng ấm, mang lại cho Trung Quốc sự viện trợ ồ ạt kinh tế, kỹ thuật, khoa học, nguồn vốn và cả quân sự cần thiết cho cải cách… Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng.
Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì ? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô cùng" [16]. Trương Hiếu Minh đưa ra nhận xét : "Đối với Đặng, dạy Việt Nam "bài học" là thông điệp không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây.
Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc, tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ trợ tài chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ không còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến tranh Lạnh. Bên trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế. Liên Xô ở trong tình thế nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với Mỹ trên toàn cầu, Moskva cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở Châu Á.
Từ góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cuối thập niên 1980. Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ 1978. Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược" [17]. Cuộc chiến cũng thay đổi cách nhìn nhận chuẩn bị chiến tranh hiện đại cho quân đôi Trung Quốc. Bắc Kinh đã rút ra các bài học cần thiết để hiện đại hóa quân đội. Những thay đổi sau 1979 đã tái sinh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, giúp họ vươn xa, vươn rộng hơn trên cục diện địa chính trị quân sự thế giới [18]. Lực lượng đặc biệt tinh nhuệ (SOF–special-operations forces) của Trung Quốc, một mô hình giống đặc công Việt Nam, được thành lập và triển khai ngay trong chiến dịch Lão Sơn ở biên giới Việt-Trung [19].
Cuộc chiến biên giới kéo dài và những bất ổn của tình hình quốc tế buộc Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, sớm tính đến bình thường hóa quan hệ và nhanh chóng giải quyết vấn đề biên giới.
Một số nhà bình luận quốc tế cũng cho rằng Trung Quốc chịu thất bại về chiến thuật và quân sự trên chiến trường nhưng đạt được một số thành công trong dài hạn [20]. Đây là trận cần đánh để thể hiện với Mỹ sự dứt khoát không chung đường với Liên Xô và Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ để thực hiện bốn hiện đại hóa. Washington nhìn thấy mối quan tâm của Bắc Kinh và tìm kiếm quan hệ chặt chẽ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á thông qua Việt Nam. Cuộc chiến cũng làm phơi bày sự yếu kém lạc hậu về quân sự và kinh tế của Trung Quốc, lý do để Đặng Tiểu Bình nắm thế lãnh đạo thực hiện hiện đại hóa.
Sau năm 1989 (khởi đầu sự sụp đổ của Liên Xô), Việt Nam phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình do hậu quả cuộc chiến biên giới và 10 năm suy thoái kinh tế. John M. Peppers [21] phân tích : Thứ nhất, Việt Nam đánh mất sự cân băng ảnh hưởng truyền thống, quý giá giữa các cường quốc, nối kết nhiều hơn với Liên Xô. Chính vì thế, Việt Nam, giống như Cuba, đã phải trả giá đắt hơn phần lớn các nước khác với sự sụp đổ của Liên Xô. Thứ nhì, Việt Nam đã không đạt được mục đích hay vấn đề gì của mình với Trung Quốc. Từ ngay chính vấn đề biên giới, cho đến vùng biển Vịnh Bắc Bộ và các quyền đánh cá, cho đến Quần đảo Trường Sa, các cuộc đàm phán và tiến triển đã bị trì hoãn trong 20 năm. Thứ ba, Việt Nam đã bị gán nhãn hiệu trên bình diện quốc tế như một mối đe dọa cấp vùng (và một chư hầu của Liên Xô), mất đi viện trợ thiết yếu từ Australia, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, cũng như dầu hỏa của Trung Quốc. Kết quả là một hiệu ứng tàn phá chồng chất trên nền kinh tế trong thời gian dài. Sau cùng, sự căng thẳng và cạn kiệt các nguồn lực trong năm 1979 và hậu quả của nó trên các vấn đề đối nội của Việt Nam không thể bị đánh giá thấp, "bởi đối với Việt Nam, cái giá chiến đấu hai trận chiến tranh trong một thời kỳ ba tháng là quá đắt. Nền kinh tế dọc biên giới Trung Quốc đã bị tàn phá".
Trương Hiêu Minh tổng kết 6 bài học cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ cuộc chiến tranh biên giới 1979 :
1. Bài học thứ nhất là đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy Quân Giải phóng Nhân dân quan tâm rất ít đến binh pháp và chiến thuật của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi tấn công Việt Nam, vì vậy đã chịu tổn thất nặng, không đạt được các mục tiêu đề ra. Các tướng lĩnh Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng chiến thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc.
2. Bài học thứ hai liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình miền Bắc Việt Nam của Quân Giải phóng Nhân dân thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai lực lượng dân quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của Quân Giải phóng Nhân dân cho thấy, dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy Quân đội Nhân dân Việt Nam.
3. Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của Quân Giải phóng Nhân dân vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến.
4. Bài học thứ tư, Quân Giải phóng Nhân dân yếu kém về hiệu năng chỉ huy và điều khiển,
5. Bài học thứ năm, Quân Giải phóng Nhân dân thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi.
6. Bài học thứ sáu là làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc [22].
Mục tiêu của Việt Nam trong cuộc chiến biên giới là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ ; tiếp tục ủng hộ nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot đồng thời bảo vệ được sườn phía nam đất nước ; bảo vệ được tính độc lập trong chính sách đối ngoại ; giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình. Hầu hết các mục tiêu này đều đã đạt được. Về tầm nhìn chiến lược, Việt Nam đã thành công trong cứu mình, cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ. Dù muộn mằn nhưng thế giới cũng đã nhìn nhận lại những cống hiến của Việt Nam trong đấu tranh chống tội ác diệt chủng của Pol Pot [23] và giúp dân tộc Campuchia hồi sinh trong nền hòa bình lâu dài. Quân tình nguyện Việt Nam đã đưa ra một thực tiễn sống động, đặt nền móng cho lý thuyết can thiệp nhân đạo mà thập niên 1990 Liên Hợp Quốc và các nước phương Tây áp dụng. Xét từ góc độ lý thuyết, trường hợp Campuchia là kết quả hoàn hảo của can thiệp nhân đạo từ ngoài vào, trong đó quốc gia được hỗ trợ đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ trong hòa bình trong khi các trường hợp Aghanistan, Iraq, Nam Tư cũ, Syria với sự can thiệp của Mỹ, phương Tây, NATO, Nga đến nay vẫn chưa giải quyết xong hậu quả.
Tuy nhiên một lần nữa, lịch sử lại nhắc lại các bài học đáng giá cho Việt Nam :
1. Bài học cảnh giác và lợi ích quốc gia trên hết. Niềm tin vào những người anh em cùng chung ý thức hệ đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin bị tấn công trong cả hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc [24]. Cuộc chiến 1979 cho thấy trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia là cao nhất, trên cả tinh thần quốc tế vô sản và nhiều khi các bên sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục tiêu chính trị. Henry J. Kenny nhận xét : "Dù có một điều nhìn chung được công nhận là Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc" [25].
Trung Quốc có thể đã nhận được những bài học và tổn thất về mặt chiến thuật tại chiến trường Campuchia và chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979 nhưng sự kiên trì ngoại giao của Bắc Kinh đã giúp họ đạt được phần lớn các mục tiêu chính trị sau một giai đoạn chiến lược. Không phải vô cớ, Trung Quốc đã kiên trì kéo dài cuộc chiến ở biên giới phía Bắc tới tận năm 1989 trước khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Trung Quốc đã tận dụng tốt thời gian 10 năm Mỹ ủng hộ vật chất, khoa học kỹ thuật làm đối trọng với Liên Xô để vươn lên thành cường quốc thứ hai thế giới và hiện đại hóa quân đội. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc bao vây, cô lập và kìm hãm kinh tế Việt Nam. Chiến tranh biên giới 1979 là không thể tránh khỏi, khi Trung Quốc đã quyết tâm sử dụng biện pháp quân sự để đạt mục tiêu chính trị. Câu hỏi chỉ còn là làm thế nào, trong các hoàn cảnh tương tự, khôn khéo hạn chế thấp nhất những hậu quả không mong muốn và tránh được những cuộc chiến trong tương lai ?
2. Bài học tự cường, độc lập trong các quyết định. Là nước nhỏ, Việt Nam rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước khác, cần đồng minh trong các mối quan hệ quốc tế song cũng cần tỉnh táo không nghiêng về bên nào, không đánh đổi độc lập chủ quyền lấy một sự giúp đỡ vật chất hay tinh thần. Cuộc chiến 1979 là hậu quả của hai trục quan hệ, ở cấp khu vực là Việt Nam–Campuchia–Trung Quốc, ở cấp quốc tế là trục Trung Quốc–Liên Xô–Mỹ. Hiệp ước Việt–Xô 1978 đóng vai trò phụ trong cuộc chiến. Liên Xô chỉ tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chưa sẵn sàng dùng quân đội giúp Việt Nam chống xâm lược. Bằng sự độc lập, tự cường và lòng yêu nước cao độ của mình, Việt Nam đã thoát khỏi thế là con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Cuộc chiến đấu của Việt Nam đã được nhiều nước trên thế giới đồng tình, ủng hộ không vụ lợi. Chiến tranh 1979 đã tạo cảm hứng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam những năm sau này ; muốn làm bạn và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt ý thức hệ, thể chế, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng luật quốc tế. Đó cũng là tiền đề cho chính sách "ba không" của quốc phòng Việt Nam : "không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia"... [26]. Đây là sự phát triển đã được đúc kết trong các sách trắng quốc phòng 1998, 2004 và 2009 [27].
3. Bài học chung sống với các nước láng giềng. Việt Nam cần áp dụng nhuần nhuyễn kinh nghiệm chung sống từ lịch sử của cha ông. Một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, "phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn" [28]. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Việt Nam đã không tiến hành truy kích, một quyết sách giống như Lý Thường Kiệt mở đường cho đội quân của Quách Quỳ về nước năm 1077 hay Nguyễn Trãi ở Hội thề Đông Quan 1427 mở đường cho Vương Thông về nước. Chính trong những ngày tháng ác liệt nhất của chiến tranh biên giới 1979-1989, quyết định tưởng như không tưởng về tìm đường bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đã dần được hình thành.
4. Bài học phải tận dụng mọi thời cơ để giảỉ quyết dứt điểm vấn đề biên giới lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Tranh chấp biên giới lãnh thổ luôn là ngòi nổ cho hầu hết các cuộc chiến tranh. Khía cạnh tranh chấp biên giới đã bị các yếu tố khác của cuộc chiến làm lu mờ [29] nhưng thực sự đó là vấn đề lớn. Vì vậy một trong những nhiệm vụ đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ là đàm phán giải quyết biên giới lãnh thổ.
5. Bài học về xây dựng đất nước. Muốn xây dựng đất nước phải giữ cho được "trong ấm ngoài êm" [30]. Việt Nam mạnh lên mới có thể bảo đảm tránh được các cuộc xung đột vũ trang, mới có tiếng nói và tự quyết định vận mệnh mình. Chính sách đối ngoại của Việt Nam phải tạo được môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng tiềm lực cho đất nước.
Các bài học này có những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Việc bình thường hóa và tập trung giải quyết vấn đề biên giới chính nhằm mục tiêu tạo môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển một Việt Nam hùng cường trong tương lai.
Cuộc chiến 1979 là một vết đen trong quan hệ hai nước anh em, đã từng sát cánh giúp đỡ nhau trong đấu tranh giành độc lập. Quan hệ hữu nghị không thù nghịch giữa nhân dân hai nước không dễ thay đổi và một lần nữa lại vượt lên những bất đồng. Song nó không còn là quan hệ như trước vì vẫn còn tồn tại những bất đồng về đánh giá cuộc chiến [31]. Sau bình thường hóa quan hệ năm 1991, hai nước thỏa thuận không tuyên truyền nhiều về cuộc chiến 1979, không kỷ niệm chính thức cuộc chiến [32]. Trung Quốc không muốn gợi lại cuộc chiến với những yếu kém của quân đội ; không muốn có những bằng chứng liên quan đến Khmer Đỏ khi Tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt chủng ; không muốn gây lại thù hằn với Việt Nam, đẩy nước này xích lại gần Mỹ [33]. Việt Nam không muốn lại tái hiện tình thế nằm giữa hai gọng kìm trên bộ và biển ; không muốn bị cô lập với thị trường lớn thứ hai thế giới và đóng vai trò quan trọng trong trao đổi thương mại ; không muốn các thế lực bên ngoài lợi dụng chủ nghĩa dân tộc gây mất ổn định. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 19/2/2014 đã phát biểu : "Đảng, Nhà nước không bao giờ quên công lao của đồng chí, đồng bào chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới xâm lược của Trung Quốc… Các hoạt động kỷ niệm cũng phải tính có lợi cho đất nước nhất" [34].
Lịch sử là lịch sử. Những bài học rút ra từ hai phía là cần thiết, không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để tránh những sai lầm lặp lại, vun đắp cho tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng anh em.
Trong giai đoạn này, biên giới Việt–Trung trở lại vai trò phong vũ biểu phản ánh quan hệ xa gần giữa hai nước. Vấn đề biên giới đã bị chính trị hóa, đẩy từ xung đột lên chiến tranh. Cả hai bên đều không muốn những tác hại không lường được của cuộc chiến với mình, nhất là trường hợp của Việt Nam, song cũng không thể tránh khỏi cuộc chiến do tác động của các lực đẩy toan tính chính trị từ bên ngoài và trong nội bộ mỗi nước. Mối quan hệ địa chính trị lâu đời một lần nữa vẫn là dòng chảy chính để hai nước xếp lại bất đồng./.
Việt Long
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 16/02/2019
- Xiaoming Zhang, China’s 1979 war with Vietnam : A reassessment, The China Quarterly, No. 184 (Dec., 2005), pp. 851 Published by : Cambridge University Press on behalf of the School of Oriental and African Studies ;
- Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 211-227 ; Nayan Chanda, Brother Enemy : the War after the War, Harcourt Brace Jovanovic 1986 ; Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare 1785-1989 : London Routedge 2001, ch.17
[2] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment"
[3] Ang Cheng Guan, 30 năm cuộc chiến Việt–Trung. BBCVietnamese.com , 12/2/2009
[4] Christian Science Monitor, 6 March 1979
[5] Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment"
[6] Edward C. O’Dowd, Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge : New York, 2007, Chapter 4 : The 1979 Campaign,p. 45-73 ; Ngô Bắc dịch
[7] Theo Dương Danh Dy dịch. Tài liệu chưa kiểm chứng. Bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong hội nghị tổng kết nội bộ ngày 16/3/1979 chính thức thừa nhận : "Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh 1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6 đánh 1, 7 đánh 1" và "Thương vong của chúng ta là 4 lần so với 1. Thần thoại của chúng ta đã bị hủy diệt". Xem "Cuộc chiến tranh 17/2/1979 thảm bại của người khổng lồ chân đất sét", Đất Việt, 5/3/2016,
[8] Colonel G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War–1979 : Case Studies in Limited Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July–September 2000. Ngô Bắc dịch
[9] King C. Chen, China’s War Against Vietnam : A Military Analysis, The Journal of East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[10] Theo Hoàng Trọng Lập, số điểm cao và cụm điểm cao trên biên giới Việt-Trung mà Trung Quốc chiếm giữ trước năm 1991 là 48. Ví dụ, các điểm cao 1422, 1397, 1291 ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, Hà Giang. 2002 ở Vị Xuyên, 1251 Yên Minh Hà Giang, điểm cao 583 (Pò Pùn–Léo Cao), điểm cao 371 (Hữu Nghị Quan), Bình độ 400, núi Phạ Khả mốc 26 Đông, điểm cao 636 mốc 52 Đông ở Lạng Sơn v.v. Hoàng Trọng Lập, Xây dựng cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tang cường quản lý Nhà nước tuyến biên giới Việt-Trung, ĐTNN 2001.
[11] Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 213-217
[12] Harlan W. Jencks, China’s "Punitive" War on Vietnam, : A Military Assessment, Asian Survey [U. C. Berkeley], Vol. XIX, No. 8, August 1979, các trang 801-815.
[13] James Mulvenon, The Limits of Coercive Diplomacy : The 1979 Sino-Vietnamese Border War, Journal of Northeast Asian Studies ; Fall 95, Vol. 14 Issue 3, p. 68-88. Ngô Bắc dịch.
[14] Tui Fei-Yueh Chan-cheng chih Yen-chiu (Một Nghiên Cứu về Chiến Tranh Trung–Việt) Taipei, 1979, p. 2-5 ; Mei-chou T’ung-hsin, 23 March, 27 July, 1979, p. 9-10 and 14-16.
- Xiaoming Zhang, "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", p. 867.
- Annie Gilks, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance 1970-1979, Berkeley CA : Institute of East Asian Studies University of California, 1992, p. 233
[16] Lưu Á Châu, bài nói chuyện tại Quân khu Côn Minh. Bài đã đăng lần đầu tại trang Đông Tác Giao lưu dưới tiêu đề "Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam ?", Nghiên cứu quốc tế, ngày 18/2/2016 đăng lại với tiêu đề "Chiến tranh 1979 dưới con mắt một viên tướng Trung Quốc".