Nguyên bản (PDF)
Phần Hai - 2
Cõng rắn cắn gà nhà
Nếu nỗi oan khiên kéo dài của Lê Chiêu Thống có thể giải thích được thì sự lên án Nguyễn Ánh là cõng rắn cắn gà nhà lại càng khó hiểu.
Nguyễn Ánh bị nhiều người lên án là đã rước quân Pháp vào Việt Nam, để rồi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Điều này hoàn toàn sai.
Nguyễn Ánh chết năm 1820, trong khi người Pháp chỉ bắt đầu xâm chiếm nước ta từ năm 1858, nghĩa là 38 năm sau dưới triều Tự Đức, cháu nội ông. Hai vị vua nhà Nguyễn, Minh Mạng và Tự Đức, xứng đáng bị lên án nặng nề, nhưng không phải vì họ đã thỏa hiệp với Pháp mà vì họ đã chống Pháp một cách điên cuồng và mù quáng.
Nguyễn Ánh không phải đã không làm những việc sai trái. Năm 1784, ông đã gởi hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện Louis XVI. Hai bên ký kết thỏa ước, theo đó Nguyễn Ánh sau khi thành công sẽ dành nhiều đặc quyền lớn cho người Pháp và nhượng đứt đảo Côn Lôn cho Pháp. Ông cũng đã cầu viện quân Xiêm sang Việt Nam giúp đánh quân Tây Sơn. Nhưng cả hai việc làm đáng trách này đã không giúp được gì cho ông. Thỏa ước ký với Louis XVI đã không được thực hiện, còn đám quân Xiêm thì đã bị Nguyễn Huệ đánh tan nhanh chóng. Sau này Nguyễn Ánh thành công, khôi phục được nhà Nguyễn hoàn toàn dựa vào cố gắng của chính ông. Nguyễn Ánh có sử dụng một số tay đánh thuê người Pháp, nhưng đó chỉ là những cá nhân, điều này rất bình thường thời đó. Anh em Tây Sơn cũng đã sử dụng bọn cướp biển Lý Tài và Tập Đình ; họ cũng cố tranh thủ sự ủng hộ của người phương Tây mà không được vì người phương Tây chỉ coi Tây Sơn là quân cướp.
Có người nói vì Nguyễn Ánh cầu viện mà người Pháp mới biết tới Việt Nam. Lời buộc tội này lại càng ngây ngô hơn nữa.
Người châu Âu nói chung và người Pháp nói riêng đã đến Việt Nam từ đầu thế kỷ 16, lúc tổ tiên Nguyễn Ánh là Nguyễn Hoàng chưa ra đời, rồi liên tục gia tăng sự hiện diện. Họ đã thiết lập nhiều trung tâm thương mại tại Hội An, Hà Nội và Hưng Yên. Người châu Âu đến nước ta là lẽ tự nhiên vì lúc đó họ đã mạnh và đang bung ra khám phá thế giới. Việc họ đến nước ta, đem theo một văn hóa và một kỹ thuật mới đáng lẽ phải là một may mắn lớn cho nước ta, chỉ tiếc rằng chúng ta đã không đủ sáng suốt để lợi dụng.
Nguyễn Ánh có công lớn với đất nước. Chính ông đã thống nhất được đất nước. Không có ông không chừng ngày nay miền Nam và miền Bắc vẫn còn là hai quốc gia riêng biệt.
Phe cộng sản mạt sát Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu, nhưng điều ngạc nhiên là Nguyễn Ánh bị lên án một cách hồ đồ như thế mà không được minh oan một cách rõ rệt, trong khi tôn thất nhà Nguyễn, ngày trước và ngay bây giờ, không thiếu những người có kiến thức và trình độ cao. Đó là vì một bên có lý do để ra sức buộc tội Nguyễn Ánh, còn một bên dù muốn bênh Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa cho ông một cách thông suốt. Nếu muốn bào chữa cho Nguyễn Ánh thì phải mổ xẻ sự nghiệp của ông một cách khách quan nhưng điều này lại khó làm. Muốn nói rõ về Nguyễn Ánh thì bắt buộc phải nhìn nhận những sai phạm của ông đối với đất nước - cầu viện Pháp, cầu viện Xiêm -, và cách đối xử thô bạo của ông đối với con cháu Tây Sơn. Cũng phải luận việc ông bội bạc và giết hại các công thần. Điều này các vua nhà Nguyễn không cho phép vì họ không thể chấp nhận một phê phán nào về ông tổ của họ. Sau này Ngô Đình Diệm, sau khi đã truất phế vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng không dại gì mà bênh vực ông tổ nhà Nguyễn. Sau Ngô Đình Diệm là chế độ của các tướng tá, trong đó những vấn đề văn hóa, lịch sử không đặt ra nữa.
Nguyễn Ánh bị buộc tội oan trong khi ông là người có công lớn, và hơn thế nữa tổ tiên ông còn có công rất lớn là đã khai phá ra một nửa đất nước.
Nếu ai hỏi tôi ai là người có công nhất đối với Việt Nam, tôi sẽ lưỡng lự giữa Lý Công Uẩn và Nguyễn Hoàng. Lý Công Uẩn có công lập ra một quốc gia Việt Nam thực sự, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho Việt Nam từ đó về sau (nhưng đồng thời ông cũng vô tình làm một điều tai hại là khẳng định vai trò của Khổng Giáo như một văn hóa chính thức). Nguyễn Hoàng có công mở ra một nửa đất nước, và đó cũng là nửa nước trù phú nhất. Lưỡng lự giữa hai người nhưng nếu bắt buộc phải chọn một người có lẽ tôi thiên về Nguyễn Hoàng.
Trước năm 1945, hình như không có chuyện buộc tội Nguyễn Ánh. Phan Chu Trinh, một người chủ trương dân chủ và công khai bài xích triều Nguyễn, khi xỉ vả vua Khải Định là hèn đốn đã viết :
"Ai về âm phủ hỏi Gia Long,
Khải Định thằng này phải cháu ông ?",
nghĩa là cũng nhìn nhận Nguyễn Ánh là bậc anh hùng.
Sau năm 1945, nhà Nguyễn đã thoái vị, đảng cộng sản đã nắm chính quyền tất nhiên không còn muốn lòng dân nhớ nhà Nguyễn nữa. Lời cáo buộc Gia Long cõng rắn cắn gà nhà bắt đầu từ đây. Khi cựu hoàng Bảo Đại trở về thành lập chính quyền quốc gia, mạt sát và hạ bệ Gia Long dĩ nhiên nằm trong chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản. Dưới chế độ cộng sản bênh vực Gia Long, chưa nói đến khen Gia Long, là phạm tội phản động.
Vụ án Gia Long tuy không ồn ào bề ngoài nhưng trong chiều sâu đã gây chia rẽ không nhỏ trong hàng ngũ miền Nam trước năm 1975. Tôi đã có nhiều dịp nhận ra điều đó. Một lần tôi được chứng kiến một cuộc cãi vã ngắn nhưng rất dữ dội. Trong một câu chuyện vãn, không hiểu tại sao hai nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh lại được đề cập tới. Một anh bạn khen Nguyễn Huệ là anh hùng, chê Gia Long là tầm thường, may nhờ Nguyễn Huệ mất sớm mà thắng được. Một anh bạn khác phản ứng một cách giận dữ : "Nguyễn Huệ là một tên tướng cướp gặp thời, Gia Long mới có công thống nhất đất nước". Anh kia cũng không chịu thua. Cả hai đi tới kết luận là người trước mặt mình không có trình độ, rồi họ chấm dứt cuộc thảo luận với cùng một nét mặt khinh bỉ. Về sau tôi có hỏi người nọ về người kia, cả hai đều nói về nhau một cách nặng lời, chắc chắn là không thể hợp tác với nhau được nữa. Tại sao một giai đoạn lịch sử hai trăm năm về trước lại có thể chia rẽ những con người ngày hôm nay ? Chúng ta đặt quá nhiều đam mê và xúc động vào một lịch sử rất không chính xác.
Thương nhau thương cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Có lẽ nhiều người đã giận các vua Minh Mạng, Tự Đức mù quáng và ngoan cố làm mất nước, ghét Bảo Đại hèn nhát trác táng, rồi ghét luôn cả Gia Long.
Nhưng cách vận dụng lịch sử thiếu lương thiện nhất vẫn thuộc về đảng cộng sản. Họ luôn luôn bóp méo lịch sử cho những mục đích tuyên truyền. Năm 1979 khi vừa cải tạo về tôi nghe đứa cháu gái tôi học lịch sử : "Năm... tên bán nước Gia Long đem quân đánh Phú Xuân". Tôi giật mình, sách sử gì mà ngôn từ hạ cấp như vậy ? Tôi đòi xem cuốn sách và còn thấy cả "tên cướp nước Triệu Đà". Triệu Đà chết đã hơn hai ngàn năm nay cũng bị vạ lây, bởi vì lúc đó hai chế độ cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đang xung đột. Để ý đến cách dạy sử lúc đó, tôi phải phẫn nộ. Hình như Việt Nam chỉ mới thực sự thành lập từ khi có đảng cộng sản.
Những đề tài thi sử thường gặp lúc đó là : "Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thành lập ngày nào, năm nào ?", "Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước năm nào, ở đâu ?". Và câu hỏi quan trọng nhất : "Ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, trước khi đọc tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ đã nói gì ?" (Câu trả lời là "Bác Hồ đã nói : Tôi nói đồng bào có nghe rõ không ?").
Sự sửa đổi lịch sử được thể hiện trên thực tế. Tại Sài Gòn, đường Nguyễn Hoàng được thay bằng đường Trần Phú, theo tên một cấp lãnh đạo cộng sản đã chết. Chúa Hiền, người có công khai mở miền Nam, nhường tên đường cho Võ Thị Sáu, một nữ cán bộ khủng bố cộng sản. Đường Gia Long dĩ nhiên không còn, nay là đường Lý Tự Trọng. Vô số công thần lập quốc bị xóa tên đường nhường chỗ cho những cán bộ cộng sản không tên không tuổi. Từ ngày 30/04/1975, nước Việt Nam không phải chỉ thay đổi hiện tại và tương lai mà còn thay đổi cả quá khứ.
Lịch sử là gia phả chung của đất nước, là ký ức tập thể của dân tộc, xuyên tạc nó là xúc phạm đến trí tuệ của dân tộc. Chưa nói rằng bôi nhọ một người đã nằm xuống từ lâu rồi cho một mục đích giai đoạn là một việc mà chỉ có những kẻ thấp kém mới làm. Làm như thế đảng cộng sản cũng đã hạ giá chính cái lý tưởng của họ. Nếu lý tưởng của họ trong sáng, dự án chính trị của họ đặc sắc thì họ cần gì phải vận dụng những thủ đoạn tồi tàn như vậy ?
Nhưng một câu hỏi cũng đặt ra cho chúng ta ? Tại sao họ lại có thể làm như thế và một phần nào đó đã thành công ? Đó là vì chúng ta thiếu một sử quan đứng đắn. Lịch sử của ta thiếu sót và thiếu chính xác, đó là một điều đáng tiếc ; nhưng điều còn đáng tiếc hơn nữa là cách tiếp cận lịch sử của chúng ta. Chúng ta không coi lịch sử như một tài sản chung của dân tộc mà mọi người phải trân trọng. Từ bao đời rồi lịch sử vẫn chỉ được coi là một diễn đàn để hạ nhục đối phương và tâng bốc mình lên.
Tập quán đó dần dần ăn rễ vào tâm lý mọi người, trong tiềm thức chúng ta. Chúng ta không coi việc xuyên tạc lịch sử là nghiêm trọng, chúng ta không coi lịch sử là ký ức của những cố gắng dựng nước, trái lại chúng ta coi lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những trận đánh tàn phá đất nước. Chúng ta đọc lịch sử một cách sơ sài và dựa vào lịch sử để đưa ra những phê phán hồ đồ nhưng chắc nịch. Các dân tộc khác có thể chia rẽ vì không đồng ý với nhau trên những việc cần làm cho hôm nay và ngày mai ; người Việt Nam lại còn có thể chia rẽ và hận thù nhau vì những chuyện đã hoàn toàn thuộc về quá khứ mà mọi người chỉ biết một cách rất mơ hồ.
****************************
Cho những người đã nằm xuống
Một thảm kịch vẫn còn chia rẽ trầm trọng trong người Việt Nam với nhau là việc cấm đạo. Con số nạn nhân thực sự là bao nhiêu không ai biết. Một số nhà nghiên cứu đưa ra ước lượng trên một trăm ngàn.
Họ đã bị giết không phải vì đã phạm vào một tội ác nào mà chỉ vì đã theo một tín ngưỡng không được triều đình chấp nhận, dù tín ngưỡng ấy không xúi giục họ làm điều gì bạo ngược mà chỉ dạy họ công bình, bác ái. Có khi sự sống và sự chết được quyết định một cách giản dị : ai chịu bước qua thánh giá để chứng tỏ mình đã phủ nhận tín ngưỡng Công Giáo thì được sống, ai không chịu thì bị dẫn thẳng ra pháp trường. Và khoảng một trăm ngàn người Công Giáo đã chịu chết để giữ tín ngưỡng của mình. Họ đã chết một cách hiền lành không chống trả, chết trong lời cầu nguyện.
Việc bách hại người Công Giáo đã là một vết nhơ khó tẩy xóa trong lịch sử Việt Nam. Đó là sự kiện chính nhà nước Việt Nam, chứ không phải một đoàn quân xâm lược nào, đã tàn sát một số lớn những người Việt Nam hoàn toàn vô tội. Thảm kịch còn lớn hơn nữa vì nhà nước đó biết họ vô tội nhưng vẫn giết họ.
Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay chưa có một chính quyền Việt Nam nào, nhân danh sự liên tục của quốc gia, tổ chức một ngày để xin lỗi những người Công Giáo về sự sai lầm kinh khủng đó.
Phải chăng là vì các chính quyền không ý thức được cuộc sống liên tục của một quốc gia và do đó không cảm thấy có trách nhiệm về những gì những người cầm quyền trước mình đã làm ? Hay vì một hành động long trọng như vậy sẽ không khỏi đặt ra những vấn đề lớn cho một chính quyền tự mình cũng cảm thấy tay có nhúng chàm ? Chính quyền cộng sản hiện nay cũng đưa ra vô số biện pháp chèn ép các tôn giáo. Tài liệu "Quan Điểm và Cuộc Sống" của Nguyễn Hộ, được phổ biến năm 1994, còn tố giác chính đảng cộng sản Việt Nam đã tập trung những người theo đạo Cao Đài tại Củ Chi, tàn sát họ và chôn tập thể. Ông Nguyễn Hộ là tư lệnh phó quân đội cộng sản khu vực Sài Gòn bao gồm Củ Chi hồi năm 1946 lúc xảy ra vụ tàn sát này nên những điều ông nói ra chỉ có thể đúng sự thực.
Một điều cũng rất đáng ngạc nhiên là cho tới nay tập thể người Công Giáo chưa bao giờ chính thức đòi các chính quyền Việt Nam phải giải oan, phục hồi danh dự và nhận lỗi với những nạn nhân. Họ tự thấy quá cô đơn, hay họ thấy không còn ràng buộc lắm với đất nước này nên không thấy cần phải đòi hỏi như vậy ?
Nhưng đó là một việc phải làm và sẽ phải làm một cách rất long trọng. Mọi người đều hiểu như vậy, và vì không muốn làm hay không thể làm, nhiều người đã thoái thác bằng một thái độ cực kỳ tệ hại là tiếp tục bào chữa cho việc cấm đạo, tiếp tục bào chữa cho việc tàn sát người Công Giáo, tiếp tục bôi nhọ ký ức của những người đã chết oan và tiếp tục gây chia rẽ trầm trọng trong dân tộc. Thái độ thiếu lương thiện này lại gây ra một số nạn nhân khác : có những người nhẹ dạ đã thực sự bị lường gạt vì những luận điệu dối trá ấy và thực sự ghét người Công Giáo. Tôi đã từng được nghe nhắc lại không biết bao nhiêu lần là đạo Công Giáo do thực dân Pháp đem đến, trong khi sự thực là đạo Công Giáo đã được các giáo sĩ Tây Ban Nha và Hòa Lan truyền sang nước ta từ đầu thế kỷ 16. Người Pháp chỉ đến vào giữa thế kỷ 19, nghĩa là ba thế kỷ sau. Hơn nữa, tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo vào cuối thể kỷ 17 trước khi có việc cấm đạo được ước lượng là xấp xỉ 10%. Sự xâm lăng và thống trị của người Pháp làm cho tỷ lệ người Việt Nam theo đạo Công Giáo giảm đi chứ không tăng lên.
Năm 1989, khi vụ Phong Thánh cho 117 thánh tử đạo tại Việt Nam đang sôi nổi, tòa báo Thông Luận chúng tôi nhận được một thư độc giả. Lá thư, bằng một giọng điệu hằn học và miệt thị, kể lại việc quân Pháp đánh thành phố Hải Dương, trong đó chỉ có 15 người lính Pháp và cả trăm người Công Giáo đi theo gánh gạo, vác đạn, v.v... Không một lời về việc bách hại hàng trăm ngàn người Công Giáo vô tội.
Năm 1993, Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận mời cụ Nguyễn Huy Bảo phát biểu trong một cuộc họp về đề tài "Dân Việt Nam có thể có dân chủ được không ?". Đề tài đó không phải là tất cả buổi họp. Mỗi sinh hoạt của Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận gồm ba phần. Phần đầu về kiểm điểm nội dung những số báo Thông Luận từ kỳ họp trước đến nay ; phần thứ hai hoặc thảo luận về một đề tài, hoặc thảo luận về một vấn đề chính trị có tính thời sự ; phần thứ ba là sinh hoạt thân hữu, trong đó các thân hữu tự do trình bày những gì mình đã làm, những gì một thân hữu khác đã làm, những gì mình có ý định làm và tìm người hợp tác. Các thân hữu có xuất bản sách thường đem sách của mình tới giới thiệu và bán trong phần này. Bài thuyết trình của cụ Nguyễn Huy Bảo nằm trong phần thứ hai.
Cụ Bảo có đề cập tới chính sách thủ cựu của các vua quan nhà Nguyễn, trong đó có việc cấm đạo, như là sai lầm đã khiến Việt Nam lỡ mất một cơ hội canh tân với hậu quả tai hại. Chẳng có gì là quá khích và lố lăng trong bài thuyết trình. Nhưng như thế cũng đã đủ để ngay khi cụ vừa dứt lời, một thanh niên vẫn thường hay lui tới câu lạc bộ đùng đùng nổi giận đứng lên bất chấp cả chủ tọa to tiếng mạt sát cụ Bảo bằng những lời lẽ nặng nề, bất chấp cả tinh thần trang trọng của buổi họp, bất chấp cả sự kính trọng tối thiểu mà lễ giáo Việt Nam vẫn dành cho người lớn tuổi (cụ Bảo lúc đó đã 85 tuổi). Những công thức chế tạo sẵn đua nhau tuôn chảy : "Ông là một sản phẩm của thực dân Pháp", "Bài thuyết trình của ông là của một con người đã chối bỏ tổ tiên...", "ông lập lại những luận điệu phản quốc, những lập luận của bọn giáo sĩ cướp nước", v.v...
Tôi làm chủ tọa buổi họp hôm đó và tôi đã phải quả quyết cắt lời anh ta. Anh ta biết tôi và vẫn dành cho tôi một sự kính trọng nào đó, không biết sự kính trọng đó bây giờ còn hay không vì sau đó không thấy anh ấy lui tới câu lạc bộ nữa. Tôi ôn tồn nói với anh ta là không có ý kiến nào cấm nêu ra và không có đề tài nào cấm bàn đến, anh ta đừng sợ sẽ không được phát biểu hết ý kiến của mình, nhưng phải tôn trọng chủ tọa và cũng phải tôn trọng tinh thần thảo luận của câu lạc bộ là mọi trao đổi phải có sự tương kính. Rồi tôi lại trao lời cho anh nói tiếp. Có lẽ tự thấy mình đã quá lời, anh ta xin lỗi vì đã dùng lời lẽ quá nặng nhưng giải thích : "Xin quí vị thông cảm cho, vì dân tộc tôi đã đau khổ quá nhiều vì bọn giáo sĩ tới làm do thám cho thực dân cướp nước, vì những tên Việt gian bỏ đất nước đi theo bọn giáo sĩ. Tôi phải tố cáo bọn giáo sĩ, tố cáo mưu đồ cướp nước của Vatican...". Lời xin lỗi đồng thời cũng là một lời thóa mạ.
Sau buổi họp, ra ngoài gặp tôi, anh ta vẫn còn hậm hực : "Tôi phải vạch mặt tên này (cụ Bảo), hắn là một tên giáo sĩ". "Giáo sĩ" đối với anh ta là một từ ngữ rất nặng, tự nó đã có tính mạt sát rồi.
Tôi không giận anh ta, vì cái tập quán thù ghét thậm tệ người khác dựa trên những sự kiện mà chỉ cần bình tĩnh một chút cũng đủ thấy là rất sai là một đặc tính của người Việt Nam. Tôi vẫn có cảm tình với anh ta. Xuất thân là một người lao động vượt biên sang Pháp, ngoài việc làm ăn anh ta còn dành rất nhiều thì giờ để học hỏi. Anh ta đọc rất nhiều sách và tỏ ra có quan tâm với tương lai đất nước. Càng có cảm tình với anh bao nhiêu tôi càng giận những người trí thức thiếu lương thiện đã đầu độc những tâm hồn nhẹ dạ. Anh ta có kể cho tôi nghe một số sách mà tôi có đọc qua.
Đó là những cuốn sách viết úp úp mở mở, gom lọc tài liệu với dụng ý rõ rệt là tạo cho độc giả một ngờ vực rằng việc truyền bá đạo Công Giáo ở Việt Nam nằm trong âm mưu thôn tính Việt Nam của Pháp. Tôi không thể nhìn thấy một sự xứng đáng nào trong những cố gắng đó. Chúng chỉ tố giác sự thấp kém của các tác giả. Họ hận thù vì thành kiến, rồi chính hận thù làm cho tâm hồn họ bị vẩn đục và trí tuệ họ bị mê muội. Với thời giờ bỏ ra nghiên cứu như vậy, nếu đừng để cho hận thù làm mù quáng đi, họ đã thấy là không làm gì có một âm mưu thôn tính Việt Nam, chưa nói tới một âm mưu với sự đồng lõa giữa Vatican và chính quyền Pháp. Mà tại sao Vatican lại đồng lõa với Pháp mà không đồng lõa với Ý, Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha ? Những ai nghiên cứu phong trào thực dân trong ba thế kỷ 17, 18 và 19 đều biết rằng phong trào này chủ yếu là do các công ty tư nhân đi tìm lợi nhuận. Không làm gì có một ý chí chính trị của các nước châu Âu nói chung và Pháp nói riêng để chiếm đóng các nước châu Á cả (trong một bài sau chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về vấn đề này). Chính quyền Pháp đã bị đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Việt Nam dưới áp lực của dân chúng sau khi những đợt bách hại người Công Giáo gây ra xúc động quá lớn.
Tôi càng không hiểu tại sao, trong lúc này và tại hải ngoại, vẫn có những người cố gắng bôi nhọ người Công Giáo bằng những tài liệu xuyên tạc hạ cấp kiểu Tây Dương Gia Tô Bí Lục. Để làm gì ? Đáng buồn nhất là một số người lại còn gắn liền sự phát triển của Phật Giáo với sự bài xích Thiên Chúa Giáo. Phật Giáo Việt Nam không mạnh thêm, mà còn có thể bị hoen ố đi vì những "Phật tử" như thế.
Lý do chính khiến cho vết thương cấm đạo vẫn còn rướm máu cho tới nay là vì chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc lịch sử. Điều đau nhức nhất trong thảm kịch cấm đạo là có những người Việt Nam thực sự yêu nước, thực sự dũng cảm đã tham gia tích cực vào việc tàn sát và nhục mạ những người Công Giáo vô tội. Tôi muốn nói tới những phong trào Văn Thân và Cần Vương. Chắc chắn là trong động cơ thúc đẩy họ có lòng yêu nước, nhưng sự cuồng tín tôn thờ Nho Giáo của họ còn mạnh hơn. Họ đã giết người Công Giáo bởi vì họ thực sự tin rằng người Công Giáo đã bỏ đạo lý của ông cha, đi tôn thờ một tà đạo của người phương Tây mà lúc đó họ gọi là bọn quỷ trắng. Một người Việt Nam đã theo đạo Công Giáo thì không còn là đồng bào của họ nữa, mà chỉ còn là một tâm hồn đã bị quỷ ám cần phải tiêu diệt. Các phong trào Cần Vương và Văn Thân có lẽ đã chỉ giết vài người lính Pháp, nhưng họ đã giết hại hàng chục ngàn linh mục và giáo dân Việt Nam. Họ mù quáng, thiển cẩn, có tội lớn mà không có công nào. Họ chỉ cố gắng bảo vệ một cái quá khứ hủ lậu cần phải vất bỏ đi. Nhưng họ là những người có chí khí, có can đảm. Họ nằm trong truyền thống của đất nước và của ông cha, nên chúng ta chỉ có thể buồn vì sự mù quáng của họ, chứ không thể ghét họ được. Do đó chúng ta bối rối, rồi để có thể tôn vinh họ, chúng ta biện hộ cho việc họ làm, đổ tội cho những người Công Giáo vô tội đã nằm xuống.
Đó cũng là vì ta không biết đọc lịch sử. Đó cũng là vì ta không tìm ra được cách nào để yêu quí tổ tiên của ta. Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Văn Thân và Cần Vương, và cả những người Công Giáo đã nằm xuống ; những anh hùng lập quốc cùng những người đã có tội, những người can đảm cũng như những người hèn nhát, tất cả đều là tổ tiên của ta. Chúng ta không chối bỏ được gia phả. Những người đã có tấm lòng như Văn Thân và Cần Vương, chúng ta vẫn có thể quí mến họ, nhưng khi họ nhảm nhí thì phải nói là họ nhảm nhí, chứ sao lại đổi trắng thay đen ? Đâu phải vì chúng ta quí trọng những người Cần Vương, Văn Thân mà nhất định chúng ta phải quí trọng ngay cả những sai quấy của họ và thù ghét những người Công Giáo mà họ đã thù ghét ? Nhất là họ thù ghét một cách xằng bậy và hành động một cách càn dở ?
Nguyễn Khắc Viện, một trí thức cộng sản đã đóng góp nhiều nghiên cứu có giá trị, đã viết về vụ Phong Thánh như sau : "Dầu sao thì chúng tôi cũng không thể chối bỏ các vị tiền bối Văn Thân của chúng tôi". Ông ta cũng đặt nghi vấn là có sự liên kết của người Công Giáo với quân Pháp. Hai chữ "dầu sao" nói lên bối rối của ông ta. Nhưng ông Nguyễn Khắc Viện làm tôi thất vọng về sự tầm thường của một trí thức như ông. Ai bắt ông phải chối bỏ các vị Cần Vương và Văn Thân ? Tại sao lại phải chối bỏ ? Có phải vì họ đã mù quáng giết người Công Giáo mà chúng ta phải chối bỏ họ không ? Có phải khi ông cha ta làm điều gì sai thì không còn là ông cha ta nữa không ? Nếu lý luận như vậy thì phải coi chừng chúng ta mất gia phả.
Một lần cho tất cả, phải khẳng định sự vô tội của người Công Giáo. Không làm gì có âm mưu nào trong việc truyền giáo tại Việt Nam. Những giáo sĩ tới Việt Nam chỉ để truyền đức tin Ki-Tô mà thôi và các giáo dân đã theo đạo cũng chỉ vì đức tin Ki-Tô. Các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi các vua nhà Nguyễn, thủ phạm của cuộc cấm đạo đẫm máu, ít ra cũng lương thiện hơn những "học giả" biện bạch cho họ. Các dụ cấm đạo chỉ buộc tội người Công Giáo theo một tà đạo mà thôi, không bao giờ buộc thêm cho người Công Giáo một tội nào khác cả. Và lý do chính khiến đạo Công Giáo bị coi là một tà đạo và bị nghiêm cấm là vì trong giáo lý của nó, đức Chúa Trời mà mọi người phải thờ phụng trên hết mọi sự không phải là nhà vua.
Việc cấm đạo đã bắt đầu ở ngoài Bắc dưới chúa Trịnh Tráng để rồi đạt tới cao điểm dưới thời Trịnh Doanh ; ở miền Nam ngay dưới thời Nguyễn Hoàng, rồi tiếp tục qua mọi đời chúa dù không gay gắt bằng. Đến khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, việc cấm đạo cũng chỉ ngừng lại ở thời Gia Long. Minh Mạng lên ngôi là lập tức cấm đạo, tiếp tục qua Thiệu Trị và đạt cao điểm dưới thời Tự Đức. Sau cùng chính vua Tự Đức cũng nhận ra sự sai lầm của mình và ra một dụ bỏ việc cấm đạo, kêu gọi Văn Thân thôi bách hại người Công Giáo với lời lẽ trầm thống, chứng tỏ một sự hối hận rất chân thành.
Có người viện dẫn một số tài liệu của Bộ Hải Quân Pháp để chứng minh có sự toa rập giữa các giáo sĩ và chính quyền Pháp. Nhưng các giáo sĩ đã truyền giáo trong điều kiện khó khăn tất nhiên phải có sự giao dịch với các thế lực có ảnh hưởng tới Việt Nam lúc đó. Những người bị bách hại tất nhiên phải tìm chỗ dựa. Điều này cũng tự nhiên như ngày nay chúng ta vận động các chính phủ dân chủ và các tổ chức nhân đạo bênh vực cho những người dân chủ gặp khó khăn tại Việt Nam. Mặt khác, đừng quên là các giáo sĩ cũng đã làm nhiều khuyến cáo và đề nghị với chính các vua nhà Nguyễn để hy vọng giúp Việt Nam canh tân và mạnh lên, chỉ tiếc là họ đã không được nghe vì vua quan nhà Nguyễn quá thủ cựu.
Nhiều người Công Giáo Việt Nam, giáo sĩ cũng như giáo dân, mặc dầu bị ruồng rẫy, tù tội, hạ nhục vẫn cố hết sức tìm cách giúp các vua nhà Nguyễn cải tổ để đưa đất nước đi lên dù chỉ gặp sự dửng dưng của vua quan nhà Nguyễn. Nếu những bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ lọt được tai vua quan nhà Nguyễn thì đất nước chúng ta đã không như ngày nay.
Điều đáng ngạc nhiên chính là sự nhẫn nại của người Công Giáo. Mặc dầu bị bách hại đẫm máu họ đã không vùng lên chống lại chính quyền, trong khi đó là một phản ứng tự vệ rất bình thường. Nhà Nguyễn phá kỷ lục về giặc giã : các tay anh chị nổi lên khắp nơi tại miền Bắc, có khi để chống sưu cao thuế nặng, có khi để đòi lập lại nhà Lê, có khi chỉ vì lý do giản dị là quan quân quá yếu. Người Công Giáo ở miền Bắc lúc đó rất đông đảo chiếm hơn 10% dân số, lại rất tập trung và rất gắn bó. Nếu họ nổi loạn, nhờ người Pháp huấn luyện và giúp khí giới, họ đủ khả năng đánh bại được quân nhà Nguyễn lúc đó rất suy yếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Một viên thiếu úy với bảy tên lính Pháp đã có thể nghênh ngang vào tính Ninh Bình, bắt tất cả tuần phủ, án sát trói lại, tịch thu mấy chục khẩu đại bác, bắt quân Việt Nam hạ khí giới quì hai bên đường. Người Công Giáo, nếu muốn, thừa sức đánh bại thứ quân đội vô dụng đó. Nhưng họ vẫn chịu đựng thà chết vì đức tin chứ không nổi loạn. Ở vào thời buổi đó, đâu đâu cũng có nổi loạn, nhưng những người Công Giáo, có lý do nhất và có khả năng nhất để nổi loạn, lại không nổi loạn.
Cái gì đã khiến người Việt Nam theo đạo Công Giáo đông đảo như vậy ? Đó chính là thông điệp Ki-Tô. Vào thời buổi nhiễu nhương, con người chà đạp và chém giết lẫn nhau, còn gì an ủi hơn là được nghe một thông điệp hòa bình, bác ái, là được nghe những lời nhắn nhủ êai thương xót người ấy là phúc thật, ai chịu khốn khổ vì lẽ phải ấy là phúc thậtê ? Đạo Công Giáo đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ của những người cùng khổ. Cũng như Phật Giáo, và khác với Nho Giáo, đạo Công Giáo đã đến với dân tộc Việt Nam không phải qua giai cấp thống trị, mà qua giai cấp bị chà đạp. Dụ cấm đạo của vua Minh Mạng nhận định các giáo sĩ đã lôi kéo bọn "bần dân mạt hạng".
Người Công Giáo nhẫn nại và chịu đựng nhưng thừa sự dũng cảm. Họ sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đức tin của họ. Sự dũng cảm của họ nổi bật vào một lúc mà sự nhút nhát là tâm lý chế ngự. Quan quân cứ nghe vài tiếng súng là vất gươm súng mà chạy. Chính những người Công Giáo tử đạo đã cho tôi niềm tin vững chắc vào dân tộc Việt Nam : nếu có một lý tưởng trong sáng, người Việt Nam có thể rất dũng cảm và chấp nhận những hy sinh rất to lớn.
Sau này, một chính quyền sáng suốt của đất nước Việt Nam dân chủ sẽ phải đề ra một ngày lễ phục hồi danh dự cho những người Công Giáo đã tử đạo. Đó là điều chúng ta cần làm để hòa giải cộng đồng Công Giáo với cộng đồng dân tộc, để hàn gắn một vết thương rất đau nhức, một trang sử bi đát của dân tộc ta.
Chúng ta cũng sẽ phải có những ngày tưởng niệm cho những người đã chết oan trong những cuộc chiến vừa qua, những nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất, những người đã chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, hay đã bị bắt cóc ám sát, những người đã bỏ mình trên biển cả trong khi chạy trốn chế độ cộng sản.
Chúng ta cần khép lại những vết thương đau, những trang sử bi đát của dân tộc, để có thể nhìn lại nhau là anh em ruột thịt và cùng bắt tay nhau xây một tương lai Việt Nam chung.
******************************
Chấp nhất kỷ chi kiến
Giai đoạn Pháp đánh chiếm Việt Nam là một giai đoạn lịch sử có tài liệu khá đầy đủ, nhưng lại là giai đoạn khó học nhất. Hồi còn là học sinh tôi rất chán học giai đoạn này, dù khá mê sử. Lý do là vì chán nản quá. Chỉ thấy tháng này bị thua to ở chỗ này, tháng tới bị đại bại ở chỗ khác. Năm này mất tỉnh này, năm sau mất tỉnh khác. Và thua một cách rất nhục nhã. Năm 1772, Francis Garnier đem 170 lính tới Hà Nội, yết bảng bãi bỏ luật lệ nước ta, ban hành luật của riêng mình, các quan quân cũng không dám phản ứng. Đã thế cũng chưa yên, Garnier còn bắt Nguyễn Tri Phương đầu hàng vô điều kiện, phải tự đến nộp mình. Nguyễn Tri Phương không chịu, Garnier đánh thành, chỉ trong chớp nhoáng là xong, mấy ngàn quân Việt vất vũ khí mà chạy. Các tướng Việt, người chết, người bị bắt sống. Kế đó một thiếu úy Pháp đem bảy người lính tới chiếm Ninh Bình, quan quân đem lọng ra đón xin hàng, các quan bị bắt trói, quân đội phải quì xuống hạ khí giới. Chỉ lúc đã trưởng thành tôi mới có đủ kiên nhẫn và chịu đựng để đọc lịch sử về giai đoạn này. Bây giờ đã ngoài năm mươi tuổi, đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà mỗi lần đọc vẫn thấy nhục nhã quá chừng.
Tình hình nguy ngập như vậy, nhưng các vua quan nhà Nguyễn hoàn toàn không ý thức được. Họ hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài cũng như về tình hình bi đát của đất nước. Bất lực và thờ ơ trước cuộc xâm lăng từ bên ngoài bao nhiêu họ tỏ ra quan tâm và hiệu lực bấy nhiêu trong việc cấm đạo. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức rất ít khi ra khỏi thành phố Huế, trừ một vài lần ngự giá đi săn.
Quân Pháp bắt đầu thực sự đánh chiếm Việt Nam từ năm 1858. Họ đánh chiếm Đà Nẵng, sau đó vào chiếm miền Nam, rồi ra đánh Bắc Việt, áp đặt nền đô hộ vào năm 1883.
Cuộc chinh phục đã kéo dài 25 năm. Thời gian đó tương đối dài, không phải vì do sức kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam mà vì sự do dự của nước Pháp. Nếu quả thực có quyết tâm muốn chiếm Việt Nam, có lẽ người Pháp không cần quá một năm. Sức kháng cự của quân Việt Nam không đáng kể.
Cần đính chính một quan điểm rất phổ biến nhưng rất sai là nước Pháp, cũng như mọi đế quốc thực dân châu Âu trong thế kỷ 19, có âm mưu khuất phục và chiếm đóng Việt Nam. Sở dĩ chúng ta dễ nghĩ hoặc tin như vậy là vì chúng ta quen với lịch sử châu Á trong đó mọi chinh phục đều do các nhà nước khởi xướng và thực hiện. Nhưng đó không phải là tình trạng của châu Âu. Các nước châu Âu quả nhiên đã tranh giành nhau chiếm đóng châu Mỹ vì họ coi đó là phần đất vô chủ mạnh ai nấy chiếm. Nhưng chính sách của họ đối với châu Á lại khác. Việc chinh phục châu Á chủ yếu do các công ty tư phát động. Các công ty này chỉ có đủ lực lượng để chiếm những phần đất chưa có chủ quyền, như tại Ấn Độ, Mã Lai, Indonesia. Việc Tây Ban Nha chiếm Phi-líp-pin là một ngoại lệ, nhưng Phi-líp-pin là một quần đảo vô chủ vào lúc đó. Các chính quyền châu Âu không có chính sách khuất phục và chiếm đóng các nước đã có tổ chức nhà nước. Cùng lắm họ chỉ can thiệp để bảo vệ các hoạt động thương mại hay truyền giáo, và ngay trong trường hợp này họ cũng rất thận trọng. Họ thường liên kết với nhau chứ không ra tay một mình. Nói chung họ nhắm tìm thị trường và thường cố thỏa hiệp để tránh chiến tranh và thiệt hại. Việc Pháp đánh chiếm Việt Nam là một ngoại lệ lớn mà nguyên nhân là chính quyền nhà Nguyễn vừa quá ngoan cố lại vừa quá yếu.
Lý do chính khiến người Pháp đánh chiếm Việt Nam là việc cấm đạo, lý do phụ là Pháp muốn bành trướng thương mại tại Viễn Đông. Cũng vì lý do chính khiến người Pháp chiếm Việt Nam là do chính sách cấm đạo mà cho tới nay nhiều người ghét đạo Công Giáo, vẫn đổ tội cho đạo Công Giáo đã làm Việt Nam mất nước. Đó là một luận điệu rất ngây ngô. Cấm đạo là một chính sách xằng bậy, tàn sát dã man người Công Giáo là một tội ác đối với loài người. Nhà Nguyễn làm bậy để mất nước là lỗi tại nhà Nguyễn, sao lại buộc tội người Công Giáo, chỉ là nạn nhân mà thôi ? Nếu chúng ta không thích người hàng xóm, xách súng sang giết họ rồi bị đi tù thì có thể đổ lỗi rằng vì người hàng xóm mà mình bị đi tù được không ?
Nói rằng lý do chính là cấm đạo cũng chưa đúng. Phải nói rằng lý do chính là sự ngoan cố quá đáng và sự tàn nhẫn quá đáng trong việc cấm đạo thì đúng hơn.
Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, thì năm 1825 ra dụ cấm đạo. Lúc này nước Pháp hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam và còn đang khốn đốn vì xung đột nội bộ và những tàn phá do những cuộc chiến thảm khốc của Napoléon I để lại. Lý do cấm đạo trong dụ là "đạo Phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục". Cùng năm ấy, một dụ cấm đạo khác gay gắt hơn nữa được ban hành và kèm thêm biện pháp treo giải thưởng cho những ai bắt được giáo sĩ đem nộp. Chính biện pháp này đã gây ra một phong trào bắt đạo và giết đạo tại khắp nơi. Chia rẽ lương giáo bắt đầu trầm trọng từ đó. Hận thù trong dân tộc tăng cao. Bắt đạo và giết đạo trở thành một phong trào dân gian, cho nên sau các hiệp ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), mặc dù triều đình chấp nhận không cấm đạo nữa nhưng các phong trào Văn Thân vẫn đi đánh phá các làng Công Giáo. Vua Minh Mạng tỏ ra rất ngây thơ khi sai một phái bộ sang Pháp yêu cầu Pháp ngừng việc truyền giáo tại Việt Nam. Làm sao chính quyền Pháp có thể thỏa mãn yêu cầu vô lý này ?
Việc cấm đạo tiếp tục qua thời Thiệu Trị rồi trở nên đặc biệt gay gắt dưới thời Tự Đức. Vua Tự Đức vừa lên ngôi năm 1848 là ra ngay một dụ cấm đạo, và năm 1851 lại có thêm một dụ cấm đạo khác khắc nghiệt hơn nữa. Mãi tới năm 1862, sau khi phải ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, triều đình nhà Nguyễn mới chính thức công nhận quyền giảng đạo và theo đạo. Tuy triều đình chấp nhận ngoài mặt như vậy nhưng việc cấm đạo vẫn tiếp tục trên thực tế do các nhóm Văn Thân chủ trương. Sau hiệp ước Giáp Tuất, vua Tự Đức phải ra dụ truyền cho đảng Văn Thân không được giết hại giáo dân nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục, bất chấp cả lệnh vua. Việc cấm đạo đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa các toán quân Văn Thân đánh phá các làng đạo và dân Công Giáo cố thủ để tự vệ.
Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo năm 1825 đến năm 1858, khi Pháp bắt đầu đánh Việt Nam, 33 năm đã trôi qua. Trong thời gian ấy người Pháp, và cả người Tây Ban Nha, tuy rất bất bình về việc cấm đạo vẫn còn do dự không muốn gây chiến với Việt Nam. Các tài liệu của người Pháp về giai đoạn này khá đầy đủ và cho thấy chính phủ Pháp đã chịu rất nhiều áp lực của dư luận Pháp, phẫn nộ trước việc cấm đạo và đòi can thiệp.
Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã đem một chiến thuyền tới làm áp lực gay gắt đòi bỏ dụ cấm đạo, nhưng rồi lại đi dù không kết quả.
Tuy vậy, năm 1856, chính phủ Pháp chỉ cử chiến hạm Catinat đến đòi bỏ dụ cấm đạo. Vua quan ta không chịu tiếp. Tàu Catinat bắn phá Đà Nẵng cảnh cáo rồi bỏ đi. Mấy tháng sau, họ lại quay lại xin bỏ cấm đạo, quan quân nhà Nguyễn đã không coi sự cảnh cáo trước đây là nghiêm trọng còn lên mặt đòi Pháp phải xin lỗi. Họ xin lỗi, nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục cấm đạo. Vào lúc đó, người Pháp nhận thấy rằng không còn giải pháp nào khác : hoặc họ phải để nhà Nguyễn tiếp tục tàn sát người Công Giáo trước sự công phẫn ngày càng lên cao của dư luận quần chúng Pháp, hoặc họ phải dùng võ lực thực sự. Việc dùng võ lực vừa dễ vì nhà Nguyễn tuy hung bạo nhưng lại không có lực lượng nào đáng kể lại vừa phù hợp với quyền lợi thương mại của Pháp nên cuối cùng Pháp đi đến quyết định đánh Việt Nam.
Năm 1858, Pháp liên kết với Tây Ban Nha đem chiến thuyền bắn phá và đổ bộ đánh chiếm Đà Nẵng rồi sau đó quay vào Nam đánh chiếm Nam Kỳ. Năm 1860, tình hình đã nguy ngập lắm, Pháp đang đánh Nam Kỳ mà vua Tự Đức vẫn chỉ lo cấm đạo. Lại một dụ khác. Lần này nhà Nguyễn ra lệnh phá tất cả các làng Công Giáo, bắt giáo dân thích hai chữ "tà đạo" vào mặt rồi phân phối đi các làng khác. Cứ năm người không có đạo được cử canh giữ một người có đạo. Thế rồi năm 1862 triều đình phải ký hiệp ước nhường đứt ba tỉnh miền Đông và đảo Côn Lôn cho Pháp, phải bỏ dụ cấm đạo và bồi thường chiến tranh nặng nề cho Pháp. Chẳng bao lâu sau, Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây Nam Phần. Sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn đã làm mất đi miền trù phú nhất của đất nước.
Dù đã bị thiệt hại nặng nề, vua quan nhà Nguyễn vẫn chưa sáng mắt ra để nắm lấy một hy vọng cuối cùng. Nước Pháp, sau khi chiếm được Nam Kỳ, đã thỏa mãn và có ý ổn định tình thế ở đó. Năm 1872, có vụ Francis Garnier ra Bắc lộng hành rồi bị quân Cờ Đen giết chết, nhưng việc đó không nằm trong chính sách can thiệp của chính phủ Pháp. Nước Pháp muốn hòa nên đã ký với triều Nguyễn hiệp ước Giáp Tuất (1874), với những điều khoản tương đối có lợi cho Việt Nam, trong đó có cả những điều khoản giúp cho Việt Nam 5 chiến hạm với đầy đủ súng đạn và 1.000 khẩu súng. Pháp còn cam kết gởi huấn luyện viên giúp Việt Nam đào tạo quân đội. Chỉ cần sáng suốt một chút thôi triều Nguyễn đã phải hiểu rằng mình hoàn toàn không đủ sức để chống lại với Pháp, chọn lựa duy nhất là khai dụng triệt để hiệp ước Giáp Tuất để gia tăng sức mạnh, khi nào có sức mạnh rồi mọi việc sẽ trở thành dễ dàng, kể cả việc lấy lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Nguyễn lại phá hoại hiệp ước Giáp Tuất, kiếm đủ cách để làm khó dễ. Đến sứ thần Pháp xin yết kiến vua mấy lần cũng không cho. Để rồi đi đến đâu ? Chín năm sau (1883) phải ký hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ, và từ đó ngay việc lên ngôi của vua cũng phải được Pháp cho phép và tấn phong. Nước ta hoàn toàn mất chủ quyền. Ngôi vua của nhà Nguyễn chỉ còn là hư vị.
Ai đọc những trang sử này mà không thấy giận cho sự mù quáng kinh khủng của vua quan nhà Nguyễn ? Vua quan chỉ biết ngâm vịnh, kiến thức không ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nghiêu Thuấn, Xuân Thu, Tam Quốc. Sử gia Trần Trọng Kim than : "Việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại rồi cứ nghễu nghện xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man". Biết bao nhiêu người đã dâng sớ canh tân mà không được nghe, thấy nước mất chắc chắn mà không làm gì được. Ngày nay nhớ lại quãng thời gian đó ta cũng không khỏi bùi ngùi cho những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh, Phan Liêm, Bùi Viện. Có lẽ họ chết không nhắm mùắt được.
Nhưng có phải quả thực là vua quan nhà Nguyễn ngu dốt, hèn nhát như nhiều người vẫn phê phán hay không ? Điều đáng buồn là không, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức không phải là những hôn quân, bạo chúa. Trừ những sai lầm trong cách giao tiếp với người Phương Tây, những biện pháp khác của họ không phải là dở. Mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, văn học của ta chưa bao giờ thịnh bằng thời Nguyễn. Ở vào một thời đại khác, các vị vua ấy, nhất là vua Tự Đức, có thể đã là những bậc anh quân.
Nhà Nguyễn cũng không thiếu những bầy tôi có tài lương đống : Nguyễn Tri Phương, Hoàng Kế Viêm, Trương Đăng Quế, Nguyễn Đình Giản, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Trần Đình Túc, v.v... Ở một thời đại khác chắc các vị này đã để tên trong lịch sử như những con người lỗi lạc tận trung báo quốc.
Điều đã khiến các vua nhà Nguyễn và các đại thần thất bại là họ không ý thức được rằng thế giới đã thay đổi và họ đang sống trong một khúc quanh lịch sử lớn. Những cố gắng và hy sinh của họ đều đã vô ích chỉ vì không còn hợp thời nữa. Lên án họ là mù quáng, thiển cận thì cũng đúng thôi, nhưng họ có phải là những con người thiển cận một cách bất thường hay không ?
Tôi nghĩ là không. Thiển cận và thiếu giác quan về chuyển hóa và thời đại không phải là của riêng họ, mà là một hằng số của chính trị Việt Nam. Chúng ta không có tư tưởng, và càng không có tư tưởng chính trị. Và hình như chúng ta vẫn chưa thức tỉnh để nhận ra điều đó.
Các vua quan nhà Nguyễn quả là không hiểu gì về thời thế. Sức mạnh áp đảo của người Pháp đã quá rõ rệt mà họ cứ ngoan cố chống lại và đôi khi còn khiêu khích. Đi từ thất bại này đến thất bại khác, phải chấp nhận ngày hôm nay những nhượng bộ bốn lần lớn hơn những gì mà đối phương đòi hỏi ngày hôm qua mà họ vẫn không mở mắt. Nước Tàu đã khốn khổ, bị đánh tả tơi mà triều đình Nguyễn vẫn tôn sùng và tin là có thể nhờ cậy được. Giặc ngoài đáng sợ như vậy mà cứ quay về đàn áp những người dân Công Giáo bên trong. Sự thiển cận của họ thật là kinh khủng, nhưng nó cũng khó so sánh được với sự thiển cận của các lực lượng chống cộng hải ngoại sau 1975.
Rõ ràng là sau năm 1975 không thể có giải pháp võ trang nữa nhưng tổ chức nào cũng chủ chiến, cũng hô hào bạo lực. Sự mê muội của triều đình Nguyễn khi trông đợi vào nước Trung Hoa đã suy kiệt có lẽ không lớn bằng sự mê muội của chủ trương tái lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chết hẳn rồi, và đã chết một cách thực hổ nhục. Thái độ châu chấu đá voi của triều Nguyễn chống Pháp tới cùng xét ra không lố bịch bằng thái độ của những người đã thảm bại và thua chạy nhưng vẫn nhất định đòi những người cộng sản phải "tỉnh ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia". Vua quan nhà Nguyễn tuy thủ cựu nhưng cũng không ngược đãi những người chủ trương canh tân bằng các lực lượng chống cộng đối xử với những người chủ trương dân chủ đa nguyên, hòa giải và hòa hợp dân tộc, bất bạo động. Nếu vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc đó là canh tân, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tránh đụng độ với người Pháp để tập trung mọi cố gắng mà tiến lên và mạnh lên, thì vấn đề của đối lập Việt Nam sau 1975 là phải tận dụng sự thức tỉnh của những người cộng sản tiến bộ để hòa giải với họ và cùng họ hình thành một kết hợp dân chủ mới. Cùng một vấn đề và cũng cùng một thái độ cố chấp. Ngày nay có hơn gì ngày xưa đâu. Chỉ khùác ở chỗ các vua quan nhà Nguyễn còn có thể hưởng sự giảm khinh vì họ không được nhìn thấy thế giới bên ngoài.
Chính quyền cộng sản có sáng suốt gì hơn vua quan nhà Nguyễn không ? Ngày hôm nay vấn đề là bảo vệ chủ quyền dân tộc, đoàn kết dân tộc để phát triển đất nước. Nhưng họ đã làm gì ? Họ đã cố bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin như nhà Nguyễn ngày xưa cố bám vào Nho Giáo. Họ quỵ luỵ trước một Trung Quốc đang bối rối như các vua nhà Nguyễn quỵ lụy với Thiên Triều đang khốn khổ ngày xưa. Họ bách hại những người dân chủ như các vua Nguyễn ngày xưa cấm đạo. Và họ cũng cấm đạo thực sự. Họ đàn áp Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Họ có khác gì nhà Nguyễn ? Có khác chăng là ở chỗ các vua Nguyễn không có đủ phương tiện, không có báo chí, radio, truyền hình, không có các tòa đại sứ ở khắp nơi để thấy được sự thay đổi của thế giới như họ.
Nhưng sự thiển cận không phải là tất cả. Còn một lý do khác khó chấp nhận hơn. Nếu thực sự yêu nước, nếu suy nghĩ một cách lương thiện về quyền lợi của đất nước và chỉ quan tâm tới quyền lợi của đất nước mà thôi, thì đường đi về tương lai không có gì khó, tất cả mọi vấn đề trở thành sáng sủa. Nhưng một lần nữa, phải nhìn nhận rằng đại đa số chúng ta bất chấp đất nước. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu nước thì thực ra chúng ta đang yêu một cái gì khác. Chúng ta yêu chỗ đứng, quyền lợi hay lòng tự ái của chúng ta. Chúng ta yêu các thành kiến của chúng ta mà chúng ta cho là ý kiến, chúng ta yêu sự cố chấp của chúng ta mà chúng ta lầm coi là sự kiên trì. Chúng ta yêu chính mình và yêu sự mê muội của mình.
"Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân", chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt Nam. Gần sáu thế kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế !
****************************
Dắt dìu nhau vào đến Cà Mau
Tấm áo nâu,
Dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu,
Dắt dìu nhau vào tới Cà Mau.
Phạm Duy [Tình Ca]
Đại đa số người Việt Nam nhìn nhận ông cha mình đã tiêu diệt Chiêm Thành và lấn chiếm Cam-bốt. Sự nhìn nhận này đi đôi với một mặc cảm phạm tội. Tôi đã nghe nhiều người than : "Ông cha mình kể ra cũng ác thực !". Tội ác của Việt Nam đối với Chiêm Thành được coi là ghê gớm gấp nhiều lần đối với Cam-bốt vì Cam-bốt chỉ bị mất đất đai trong khi Chiêm Thành bị tuyệt diệt. Tháng 4 năm 1975 một đồng nghiệp, bàn về cuộc thảm bại của Việt Nam Cộng Hòa và cuộc tháo chạy đẫm máu của dân và quân miền Nam trên quốc lộ 7B tại miền Trung, nói với tôi : "Đó là vua Chàm báo thù người Việt". Vua Chàm theo ngôn ngữ của anh là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi vì ông Thiệu người Phan Rang, trung tâm chính trị của nước Chiêm Thành trước đây, nơi mà hiện nay vẫn còn Tháp Chàm, một công trình lớn của người Chiêm Thành.
Năm 1989, tôi có được mời tham dự một cuộc hội thảo quốc tế tại Paris về vấn đề Cam-bốt. Theo chương trình nghị sự thì mục đích của cuộc hội thảo là vấn đề Việt Nam chiếm đóng Cam-bốt và những giải pháp cho cuộc khủng hoảng này. Tuy vậy cuộc hội thảo đã mau chóng biến thành một diễn đàn chống Việt Nam, chống nước Việt Nam và người Việt Nam, chứ không phải chỉ chống chính quyền cộng sản Việt Nam. Việt Nam được mô tả như một dân tộc hiếu chiến và bành trướng, đã tàn sát dân tộc Chiêm Thành, chiếm đất đai của Cam-bốt và hiện đang âm mưu tiêu diệt Cam-bốt và Lào. Hiện diện trong hội nghị có đại diện các tổ chức đối lập Cam-bốt và nhiều chuyên gia Pháp về Đông Dương. Lúc đó cuộc chiếm đóng Cam-bốt của quân Việt Nam đã kéo dài hơn mười năm. Các tổ chức đối lập Cam-bốt dĩ nhiên giành nhau chức vô địch chống Việt Nam, nhưng các chuyên gia Pháp về Đông Dương cũng không nói gì khác, họ đều cảnh tỉnh người Cam-bốt hãy đoàn kết chống lại nguy cơ thôn tính của Việt Nam mà họ coi là thường trực. Mặc dầu ngày hôm đó tôi được mời thuyết trình với tư cách một chuyên viên kinh tế và đề tài của tôi là nhận định về những khả năng phát triển của Cam-bốt, tôi đã cảm thấy phải lên tiếng bác bỏ những ngộ nhận quá lớn về lịch sử cuộc nam tiến của người Việt. Tôi đưa ra một số sự kiện và yêu cầu các chuyên gia về Đông Dương có mặt trong phòng hội đóng góp. Dĩ nhiên buổi hội thảo đã trở nên rất gay go, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là các chuyên gia khẳng định bản tính xâm lược của người Việt đã chỉ có một hiểu biết rất sơ sài về cuộc nam tiến của dân tộc ta. Bản tính xâm lược hiếu chiến của người Việt chỉ là một thành kiến chứ không phải một nhận định nghiêm chỉnh dựa trên tư liệu. Điều đáng nói là thành kiến này đa số người Việt Nam cũng chia sẻ, vì chúng ta đã chịu quá nhiều ảnh hưởng của những luận điệu được lập lại nhiều lần trong suốt thời Pháp thuộc.
Chúng ta cần nhận thức rõ cuộc nam tiến của dân tộc ta vì hai lý do : một là vì đó là sự kiện rất vĩ đại đối với chúng ta, hơn một nửa lãnh thổ của ta đã có được nhờ cuộc nam tiến đó ; hai là vì chúng ta cần chấm dứt một mặc cảm tội lỗi không đúng.
Trước hết hãy nhìn lại trường hợp của nước Chiêm Thành.
Sự đụng độ giữa nước Việt Nam cổ xưa (với các quốc hiệu Văn Lang, Giao Châu, rồi Đại Việt) với Chiêm Thành đã diễn ra ngay từ lúc Việt Nam chưa thực sự thành một quốc gia độc lập. Đó là sự đụng độ giữa hai nền văn minh. Một bên là văn minh Nho Giáo và nông nghiệp dưới ảnh hưởng Trung Hoa, một bên là văn minh Ấn Độ dựa trên hai giai cấp tăng sĩ và chiến binh. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, hình như lúc nào cũng có chiến tranh giữa quận Giao Chỉ thuộc Trung Quốc và nước Chiêm Thành. Từ khi Việt Nam được độc lập, trong các triều đại kế tiếp nhau, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn, chiến tranh Việt - Chiêm là một hằng số. Lịch sử các triều đại Việt Nam thường chỉ ghi vắn tắt kiểu : "Năm..., quân Chiêm Thành sang quấy phá, vua sai... đi tiễu trừ, quân ta chiếm được...". Cũng có đôi khi sử ta ghi lý do là vì Chiêm Thành bỏ lệ triều cống.
Nguyên nhân của những cuộc chiến liên tiếp gần hai ngàn năm này do đâu ? Nếu dựa vào lịch sử Việt Nam thì thường thường là do Chiêm Thành gây hấn trước. Mặc dầu vào các thời đại đó đánh Chiêm Thành là một lẽ thường không cần gì phải biện bạch, và do đó các sử gia không có lý do gì để xuyên tạc nguyên do, nhưng không thể lấy sử Việt Nam làm sự thực tuyệt đối. Nền văn minh Ấn Độ hồi đó lấy thần linh và chiến tranh làm nền tảng, nước Chiêm Thành coi chiến tranh là lý tưởng nên có thể họ gây chiến thường hơn, nhưng đó chỉ là suy luận. Xung đột Đại Việt - Chiêm Thành ngày nay đã thuộc hẳn vào quá khứ, cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành đều đã là những nhân tố lịch sử cấu tạo ra nước Việt Nam ngày nay. Người Việt Nam ngày nay không có lý do gì để bênh bên này hay bên kia cả. Tất cả đều đã thuộc vào gia phả của chúng ta. Nhận định chỉ có mục đích để hiểu.
Vấn đề là qua cả ngàn năm đụng độ, Chiêm Thành và Đại Việt đã trở thành hai quốc gia không thể sống chung, chỉ một quốc gia có thể tồn tại và nước nào yếu sẽ bị tiêu diệt. Đó đã có thể là số phận của Đại Việt, nhưng đó đã là số phận của Chiêm Thành.
Cái lý "một mất một còn" có lẽ mọi người đều hiểu. Nhưng điều nghiêm trọng là nhiều người, kể cả người Việt Nam, cho rằng người Việt có tội đã tàn sát và diệt chủng người Chiêm Thành. Điều này trước hết rất vô lý. Giả thử Đại Việt có tiêu diệt Chiêm Thành thực đi nữa thì một người Việt Nam hôm nay làm sao biết mình có bao nhiêu phần trăm gốc Việt, bao nhiêu phần trăm gốc Chàm, hay bao nhiêu phần trăm gốc Hoa, gốc Miên, v.v... để biết mình là tội phạm hay là nạn nhân. Điều này cũng hoàn toàn không được lịch sử chứng minh. Lịch sử ta có ghi lại nhiều cuộc tàn sát dã man trong nhiều lần chinh chiến qua nhiều thời đại vào lúc nước Chiêm Thành hãy còn nhưng không hề ghi chép một cuộc tàn sát sau cùng nào đưa đến sự diệt chủng của người Chiêm Thành. Vả lại trong thế kỷ chót của nước Chiêm Thành, thế kỷ 17, đã có rất nhiều thương nhân và giáo sĩ nước ngoài có mặt tại Đàng Trong nhưng không ai ghi lại một cuộc tàn sát nào cả.
Theo lý luận thì cũng không thể có việc diệt chủng. Cuộc chinh phục Chiêm Thành trở thành dồn dập trong thế kỷ chót của nước này, nghĩa là thế kỷ 17, dưới thời các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đem được bao nhiêu dân từ ngoài Bắc vào khai phá Đàng Trong ? Chắc chắn là không nhiều lắm, bởi vì ở thời đại ấy một con số khoảng một trăm ngàn người nhất định đã phải tạo ra một cuộc di dân rất qui mô được ghi chép lại. Nhưng lịch sử lại không hề nói tới một cuộc di dân lớn nào. Và từ thế kỷ thứ 17 trở đi, hai họ Trịnh - Nguyễn giao tranh với nhau, việc di dân vào Nam chắc chắn là rất khó khăn, nếu có những người tiếp tục vào Nam thì cũng chỉ là những chuyến đi lẻ tẻ. Dù ước lượng một cách rộng rãi tới đâu đi nữa thì người Việt từ Bắc vào khai phá đất Chiêm Thành từ thế kỷ 17 về sau cũng không thể quá một trăm ngàn người. Thực ra cuộc di dân đã bắt đầu từ rất lâu trước Nguyễn Hoàng. Dưới triều Lê Thánh Tông, người Việt đã vào tới Nha Trang. Nhưng đây chỉ là những đợt di dân rất lẻ tẻ. Nếu chỉ dựa vào người Việt di cư hoặc đã định cư ở Đàng Trong thì các chúa Nguyễn nhất định không đương đầu được với họ Trịnh. Chắc chắn phải có sự hòa nhập giữa người Việt di dân và người Chàm tại chỗ. Sự hòa nhập này đã diễn ra một cách liên tục và âm thầm từ thế kỷ 11, nó đã chỉ tăng vận tốc dưới thời các chúa và vua họ Nguyễn. Một sự kiện đã được ghi nhận trong lịch sử là vua Minh Mạng đã từng bắt tất cả người Chàm phải mặc quần áo như người Việt và lấy họ Việt, nhất là họ Nguyễn. Biện pháp thô bạo này ít nhất chứng tỏ rằng không có sự tàn sát mà chỉ có sự hòa nhập, dù là hòa nhập bằng đồng hóa. Sự hòa nhập này cũng có thể nhận thấy ở ngay giọng nói của người miền Trung.
Sự hòa nhập liên tục trên một qui mô lớn đã khiến Đàng Trong của các chúa Nguyễn có đủ người để vừa khai khẩn miền Trung vừa khai phá miền Nam.
Trong sự hòa nhập này, chắc chắn người Chàm chiếm đa số, nhưng nó đã được coi như một sự Việt hóa bởi vì người Việt, kẻ chiến thắng, chiếm tất cả mọi vai trò lãnh đạo và áp đặt văn hóa, nếp sống của mình. Dần dần trọng lượng Việt tăng cao vì hai lý do. Lý do đầu tiên là điều mà một số nhà xã hội học gọi là định luật của đất : mỗi vùng đất tùy mức độ phì nhiêu và trong một điều kiện sinh sống nào đó có mật độ dân số riêng, dân số ít sẽ gia tăng mau chóng để đạt tới mức đó rồi khựng lại. Người di dân Việt Nam và người Việt gốc Chàm chiếm được những vùng đất canh tác tốt nên sinh sản mau chóng hơn người Chàm thuần túy bị dồn vào rừng núi. Lý do thứ hai là sự Việt hóa càng ngày càng toàn diện do sự áp đặt văn hóa và nếp sống của kẻ chiến thắng.
Những người mà chúng ta gọi là người Chàm hiện nay chỉ là một phần của dân Chiêm Thành, gồm những người bất khuất không chịu sự đồng hóa của người Việt đã di tản vào miền rừng núi hiểm trở, và ở đó họ cũng chịu định luật của đất : thủy thổ đó, ở mức độ văn minh đó chỉ có đất sống cho từng đó người. Dân số của họ sút giảm đi với thời gian.
Dầu sao thì hiện nay cuộc tranh cãi về sự biến mất của nước Chiêm Thành cũng không còn là một đề tài thời sự nữa. Vấn đề đặt ra là đảm nhận sự hòa nhập đó, một sự hội nhập bất công đối với người Chiêm Thành vào giai đoạn đó, dù giải thích thế nào đi nữa chúng ta cần tìm ra một thái độ đứng đắn trong khi nhìn lại vấn đề Chiêm Thành. Những người Chàm đã mất hay còn sống, đã hội nhập hay chưa hội nhập phải được coi là những con người thực sự của đất nước Việt Nam. Lịch sử nước Chiêm Thành, cũng như lịch sử Văn Lang, Giao Châu, Đại Việt phải được coi là lịch sử của Việt Nam. Phạm Hùng, Chế Mân, Chế Bồng Nga phải được coi là các vị vua của Việt Nam ngày xưa. Văn hóa Chiêm Thành cần được sưu tầm và gìn giữ như là tài sản của đất nước Việt Nam.
Vấn đề Chiêm Thành ngày nay đã trở thành một vấn đề hoàn toàn Việt Nam. Người Việt Nam cần nhìn và đảm nhận lịch sử của chính mình một cách đúng đắn.
Đó cũng là một vấn đề hoàn toàn nằm trong chính sách đối nội của chúng ta, không giống như việc khai phá và hội nhập đất Chân Lạp.
*************************
Cướp đất của ai ?
Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, quên rằng miền Nam Việt Nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước Cam-bốt hiền hòa.
Trong thâm tâm, đa số người Việt Nam nhìn nhận như một sự thực không cần chứng minh rằng Việt Nam có lỗi với Cam-bốt. Những vụ "cáp duồn" (tiếng Khmer có nghĩa là chém đầu người Việt) dù có gây ra nhiều phẫn nộ cũng không làm thay đổi được mặc cảm này. Đây là một trường hợp điển hình chứng tỏ phải coi chừng những sự thực không cần chứng minh.
Trái với một cảm tưởng rất lan tràn, Cam-bốt không phải là đất nước của những con người hiền hòa, nạn nhân của những tham vọng bành trướng và thống trị từ lân bang. Có thể nói đất nước Cam-bốt đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực.
Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Cam-bốt và miền Nam Việt Nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ Ấn Độ qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc hiếu chiến. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh Ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phần Miến Điện và cả miền Nam Việt Nam. Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt Nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Những đền đài Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyên có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú. Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dần dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đền đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vat và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Đế quốc Khmer xây dựng trên sự tàn bạo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó. Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Cam-bốt cách đó hai trăm cây số không hề biết đến nữa.
Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer.
Cuộc nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam trở thành vô chủ. Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưỡi, Việt Nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Nhưng những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại ; những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác. Cuộc nam tiến của nước ta chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Sự mở mang lãnh thổ Việt Nam đã chấm dứt khi anh em Tây Sơn nổi lên năm 1771 và Việt Nam bắt đầu lâm vào nội chiến.
Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Shihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.
Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt Nam để tranh ngôi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt Nam và ít lâu sau thần phục Việt Nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đều dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu. Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực tại và cam kết sẽ không quấy nhiễu.
Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Cam-bốt lại thù ghét Việt Nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Cam-bốt, đã sát nhập nhiều đất của Cam-bốt hơn, đã từng tàn sát người Cam-bốt một cách dã man, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer ?
Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ vẫn thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt Nam, thuộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đối với họ là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt Nam tham đất và đói đất để biến Việt Nam thành một đe dọa và một đối tượng thù ghét cho người Cam-bốt.
Trong chiều sâu còn một hằng số quan trọng hơn mà ta cần nắm vững khi nhận định về những tương quan giữa nước ta và Cam-bốt : người Cam-bốt rất thực tiễn, họ không đặt nặng những vấn đề văn hóa và lịch sử mà hành động chủ yếu theo những cái lợi trước mắt. Cho tới nay, những người lãnh đạo Cam-bốt luôn luôn hòa hoãn với các quốc gia có thể có ảnh hưởng mạnh lên nước họ và sẵn sàng lấy thái độ thù địch với những quốc gia mà họ nghĩ là không có hay không còn khả năng đe dọa họ, nếu họ thấy là có lợi. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt Nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt Nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ.
Cũng nên nhìn rõ một đặc tính của người Khmer : trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian ; người Cam-bốt rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát. Trong một quốc gia khác, những lãnh tụ dù khát máu như Pol Pot cũng không thể gây ra một cuộc thảm sát như thế giới đã thấy tại Cam-bốt. Nhìn vào những gì người Cam-bốt đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của người Cam-bốt không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ. Do đó không nên coi những vụ thảm sát người Việt tại Cam-bốt như là dấu hiệu của một hận thù không thể vượt qua được.
Một số đông chúng ta không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, và do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp, cũng mang mặc cảm tội lỗi đối với Cam-bốt. Chúng ta đừng quên rằng, ngoại trừ một vài qui định hành chánh dưới thời Pháp thuộc không nhất thiết có lợi cho Việt Nam, biên giới giữa hai nước không hề thay đổi từ hơn hai thế kỷ qua. Đó là một trong những biên giới ổn định nhất thế giới. Điều này đủ để bảo đảm cho khả năng chung sống hòa bình giữa hai nước. Chúng ta cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Cam-bốt cần Việt Nam hơn là Việt Nam cần Cam-bốt. Trong tương lai, nếu Cam-bốt gượng dậy được từ thảm kịch hiện nay, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.
Điều quan trọng trong quan hệ với Cam-bốt là chúng ta cần từ bỏ một mặc cảm tội lỗi không đúng để vạch ra một chính sách sống chung trên căn bản tương kính, có lợi cho cả đôi bên.
Đối với cuộc nam tiến mở nước của chúng ta, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Công mở nước là của họ chứ không phải của các vua chúa và các danh tướng.
***************************
Dừng chân nghĩ lại
Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may. Những người Lạc Việt đầu tiên đã từ Trung Hoa xuống miền Nam để tránh sự hà khắc, rồi hội nhập với người tại chỗ để lập ra nước Việt. Cuối thế kỷ 16, Nguyễn Hoàng vì sợ bị bách hại, đem dân vào Hoành Sơn, cùng với những người di dân Việt đã theo nhau đến đó từ một hai thế kỷ trước hội nhập với người Chiêm Thành mà mở rộng miền Trung. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn đã khiến một số đông đảo chạy trốn về phía Nam, tránh sưu cao thuế nặng và tránh cho con cái khỏi bị bắt lính, rồi miền Nam dần dần thành hình. Lúc nào cũng thế, người Việt chạy trốn một sự bất hạnh rồi vô tình đi thêm một bước đường mở nước.
Sau năm 1975, chúng ta lại có một bạo quyền khác và vì đã tựa lưng vào biển cả, đàn chim Việt đã vượt trùng dương, tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại, tỏa sự hiện diện của Việt Nam ra khắp thế giới.
Tất cả những biến cố này đều là những biến cố trọng đại và vô cùng ích lợi. Chúng nói lên khả năng phi thường của một dân tộc luôn luôn đủ khôn khéo để biến họa thành phúc. Nhưng đồng thời chúng cũng là một hổ nhục lớn cho những người lãnh đạo. Đến bao giờ chúng ta mới có thể chủ động thay vì chỉ phản ứng trước một tình thế bắt buộc ? Đến bao giờ chúng ta mới có thể có những chuyển biến tốt do chủ ý, xuất phát từ một dự tính lạc quan ? Tất cả những câu hỏi này chất vấn những người có chức năng lãnh đạo đất nước, nghĩa là những người trí thức.
Đến đây, tôi đã mời độc giả cùng làm một cuộc hành trình khá dài qua lịch sử nước ta, từ lúc lập quốc cho đến khi đạt tới lãnh thổ hiện nay. Cuộc hành trình này chỉ có mục đích giúp ta nhìn rõ hơn chúng ta là ai, hay ít nhất đừng hiểu lầm chính mình. Chúng ta đã đi được một đoạn đường khá dài, và vừa đến một trạm xá thuận lợi để tạm dừng chân, ngồi xuống và nghĩ về mình.
Đối với một dân tộc, nghĩ về mình trước hết là nghĩ về lịch sử của mình. Có người từng nói hãy gõ cửa lịch sử để tìm câu trả lời cho tương lai. Có thể đúng, với điều kiện là chúng ta hiểu được ngôn ngữ của lịch sử để tiếp thu được những thông điệp của nó.
*************************
Tám mươi năm Pháp thuộc
Người Pháp khởi sự bắn phá Đà Nẵng năm 1858 rồi bỏ đi. Vài năm sau họ trở lại với một ý chí chinh phục thực sự. Năm 1862 họ đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, sau đó chiếm hoàn toàn miền Nam rồi tiến ra Bắc. Nếu tính từ cột mốc 1862 này đến khi Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945 thì cuộc đô hộ của người Pháp đã kéo dài 83 năm. Tuy nhiên, chỉ từ năm 1884 trở đi sự thống trị của người Pháp mới được thiết lập trên toàn lãnh thổ. Nếu lấy cột mốc 1884 thì cuộc đô hộ của người Pháp kéo dài 61 năm.
Thực ra hiệp ước Patenôtre trên lý thuyết cũng không đặt toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dưới ách đô hộ của người Pháp. Nó chia Việt Nam làm ba phần. Nam Phần là thuộc địa hẳn hoi của Pháp, Bắc Phần vẫn là lãnh thổ của triều đình Nguyễn nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Còn Trung Phần vẫn hoàn toàn thuộc chủ quyền nhà Nguyễn. Nhưng người Pháp đã nhanh chóng lấn chiếm thêm chủ quyền Việt Nam trước sự bất lực của triều Nguyễn. Đến năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi ký thêm một hiệp ước nhượng bộ nữa, đặt toàn lãnh thổ Việt Nam dưới sự đô hộ của Pháp. Từ đó người Pháp tha hồ phế lập các vua nhà Nguyễn.
Những sự kiện này mọi người đọc qua lịch sử Việt Nam đều biết. Sự kiện cần được nhấn mạnh là nói chung, trừ một số sĩ phu bất khuất, người Việt Nam đã hoan hô sự thống trị của Pháp, hay ít nhất đã ưa chính quyền thuộc địa Pháp hơn là triều đình nhà Nguyễn. Tại miền Bắc, các cô tôi kể chuyện các bà có thai cố gắng đi vào Hà Nội để đẻ con vì Hà Nội, không giống như các tỉnh miền Bắc khác, được coi là thuộc địa từ năm 1888 và những người ra sinh ra tại Hà Nội được coi là thần dân Pháp [sujet français].
Tới đây có lẽ cũng nên mở một ngoặc đơn để nhận xét một đặc tính của người Pháp. Tại sao lại "thần dân" mà không phải là "công dân" [citoyen français] ? Lại là một trò chơi chữ và phân biệt tinh vi của người Pháp. Người Pháp có biệt tài lấp lửng và mơ hồ để bắt cá hai tay, vừa thủ lợi vừa tránh né trách nhiệm khi cần. Năm 1948 tại Vịnh Hạ Long, Pháp thỏa thuận với Bảo Đại để Việt Nam được độc lập, nhưng lại bắt buộc Việt Nam ở trong khối Liên Hiệp Pháp. Bình thường ra đã độc lập thì phải có quyền gia nhập hoặc không gia nhập một khối nào, nhưng chính quyền Pháp đã ràng buộc hai vấn đề với nhau. Pháp thừa nhận Việt Nam độc lập, nhưng độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, có nghĩa là nếu Quốc Gia Việt Nam quyết định rút ra khỏi khối Liên Hiệp Pháp thì Pháp cũng không còn nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam nữa. Người Pháp chia rẽ nhau trên một giải pháp cho Việt Nam và họ chọn một giải pháp nửa chừng và mâu thuẫn. Chưa hết, người Pháp còn đẩy trò chơi chữ đến một mức độ lố bịch, khôi hài. Câu nhìn nhận "Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp" chỉ được viết bằng tiếng Việt chứ không được dịch ra tiếng Pháp trong hiệp ước Hạ Long. Người Pháp không có óc minh bạch của các dân tộc Anglo-Saxon. Phải nói ngay rằng trong tiếp xúc với phương Tây ta đã không được tiếp xúc với phần tinh hoa nhất của họ, đó là điều đáng tiếc.
Tuy nhiên, mặc dầu những khổ nhục của tình trạng ngoại thuộc, tám mươi năm Pháp thuộc đã đem lại cho đất nước ta những tiến bộ rất trọng đại. Đó là giai đoạn mà nước ta phát triển mau chóng nhất. Người Pháp đã xây dựng ra nhiều thành phố lớn, trong đó có hai cảng Hải Phòng và Sài Gòn, đã xây dựng phần lớn các trục lộ giao thông lớn. Họ cũng đã đem văn hóa, nếp sống, cách tổ chức và những giá trị phương Tây vào đất nước ta. Có thể nói Pháp đã còng tay Việt Nam và dẫn vào thời đại mới. Đóng góp của người Pháp cho nước ta không thể chối cãi, ngay cả dưới mắt một người Việt Nam yêu nước. Năm 1936 khi chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp của thủ tướng Léon Blum có ý định trở lại hiệp ước 1884, nghĩa là trả lại miền Bắc và miền Trung cho triều đình Nguyễn họ đã bị ngay những trí thức Việt Nam tiến bộ phản đối dữ dội. Các trí thức này không phải không muốn độc lập, nhưng họ không muốn lập lại sự cai trị của triều đình Huế. Không ai, kể cả vua Bảo Đại và các cận thần, ngạc nhiên trước sự phản đối này.
Chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều lần trong quá khứ, nhưng lần này là một ngoại thuộc hoàn toàn khác. Từ trước kẻ xâm lăng đến vơ vét tài sản, tàn phá đất nước và đẩy dân chúng vào cảnh cơ cực. Lần này kẻ thống trị ngoại bang mở mang đất nước, nâng cao mức sống và trí tuệ của dân ta. Ách đô hộ của người Pháp, với sự du nhập của văn hóa và các giá trị phương Tây còn có giá trị giải phóng của nó. Chính từ giai đoạn này mà chúng ta hoàn toàn không còn lệ thuộc Trung Quốc về mặt chính trị nữa và cũng có luôn khả năng ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đã quá lỗi thời. Không những bảo vệ Việt Nam đối với Trung Quốc, người Pháp còn đủ sức mạnh để buộc Trung Quốc chấp nhận những thỏa hiệp có lợi cho Việt Nam, chẳng hạn như hiệp ước về vịnh Bắc Phần.
Người Pháp còn cho Việt Nam một cơ hội mở rộng không gian sinh hoạt. Họ thành lập ra Liên Hiệp Đông Dương gồm ba kỳ của Việt Nam, Lào và Cam-bốt. Hai nước Lào và Cam-bốt vừa quá ít dân so với Việt Nam, lại vừa ở mức độ phát triển thấp hơn nên Đông Dương thực ra là Việt Nam. Chỉ trong vài thập niên, phần lớn các công chức cao cấp tại hai nước này đã là người Việt. Điều nghịch lý là sau thế chiến II, khi người Pháp bằng lòng trả độc lập cho các nước Đông Dương nhưng đòi duy trì Liên Bang Đông Dương trong khối Liên Hiệp Pháp, chính phủ cách mạng Việt Nam, do ông Hồ Chí Minh cầm đầu, đã phản đối dữ dội làm cho hội nghị Đà Lạt năm 1946 thất bại. Dĩ nhiên, tại Hội Nghị Đà Lạt, Pháp còn đưa nhiều đòi hỏi bắt chẹt khác, thí dụ như đòi tách Nam Kỳ ra riêng, nhưng điều đáng để ý là chính phủ Hồ Chí Minh đã phản đối dữ dội Liên Bang Đông Dương mà sau này họ đòi lập lại. Điều này chứng tỏ rằng những người làm chính trị của Việt Nam thiếu hẳn viễn kiến. Nhiều người Việt Nam ngày hôm nay vẫn còn tiếc cơ hội đó. Nhưng tiếc hay không cũng là sự đã rồi. Vấn đề là Liên Bang Đông Dương không nên nhắc lại nữa. Nó chỉ gây ngờ vực và lo âu cho hai nước Lào và Cam-bốt đối với Việt Nam mà thôi. Điều chúng ta cần mưu tìm là một hợp tác bình đẳng trong tinh thần tương kính với hai nước láng giềng này. Một sự hợp tác như thế sẽ có lợi cho cả ba dân tộc.
Chính vì sự thành công của chính quyền thuộc địa Pháp mà thái độ đối với nó đã gây chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam. Có những người cho chế độ thuộc địa Pháp là hay và nên tiếp tục. Cũng có những người cho rằng độc lập là cần thiết nhưng cần phải tiếp tục hợp tác với người Pháp để mở mang dân trí và dân sinh trước đã, trong số những người này có hai trí thức lỗi lạc nhất đầu thế kỷ 20 là Phan Chu Trinh và Phạm Quỳnh. Sau cùng cũng có những người cho rằng phải đánh đuổi người Pháp để chấm dứt cái nhục bị đô hộ và giành lại chủ quyền ngay tức khắc. Các khuynh hướng này thay vì thảo luận bình tĩnh với nhau đã mạt sát và kết án lẫn nhau. Người này gọi người kia là ngu dốt, người kia gọi người này là phản quốc, bán nước.
Vấn đề thực là phức tạp. Điều phức tạp hơn nữa là giữa những người chủ trương giành độc lập ngay tức khắc cũng không có đồng thuận. Có những người chỉ chủ trương giành độc lập, nhưng cũng có những người chủ trương đánh đuổi người Pháp để thiết lập một chế độ cộng sản. Và hai khuynh hướng này cũng sẵn sàng tàn sát nhau.
Chúng ta đã không biết ra khỏi ách đô hộ của người Pháp một cách tốt đẹp bởi vì chúng ta đã thiếu hẳn một đồng thuận dân tộc. Đồng thuận dân tộc không phải là dễ, nó đòi hỏi một tư tưởng quốc gia và nó cũng đòi hỏi những khuôn mặt uy tín để có thể thuyết phục và qui tụ mọi người trên những chọn lựa quan trọng. Nhưng tư tưởng của chúng ta vốn đã rất kém, nếu không muốn nói là không có gì. Tư tưởng Khổng Giáo đã sụp đổ, nhưng thời gian tiếp xúc với phương Tây vẫn còn quá ngắn nên chưa xuất hiện được những nhà lý luận mới. Phan Chu Trinh là một nhân vật đã có thể góp phần tốt đẹp vào cuộc chuyển hóa tư tưởng trọng đại của đất nước ta, nhưng tiếc thay ông đã qua đời quá sớm, năm 1925, lúc mới vừa 52 tuổi.
****************************
Một bài học lịch sử
Lý do vẫn thường được viện dẫn để giải thích tại sao chúng ta bị người Pháp thôn tính là : vì ta thiếu vũ khí và kỹ thuật tối tân. Chúng ta có vẻ hài lòng với giải thích đó, nhưng khi sự thôn tính đó diễn ra một cách quá dễ dàng thì vũ khí không giải thích tất cả. Vũ khí, ngay cả thêm kỹ thuật tổ chức quân đội, cũng không thể giải thích thất bại quá hổ nhục của ta.
Để đánh thành Hà Nội do Nguyễn Tri Phương có chuẩn bị trước để phòng vệ, người Pháp đã chỉ cần 170 quân và họ hạ thành Hà Nội trong nháy mắt, bắt sống Nguyễn Tri Phương. Lần thứ hai, họ đem một số quân đông gấp ba, gần 500 người, nhưng lần này Hoàng Diệu chỉ kháng cự yếu ớt rồi tự tử để quân Pháp chiếm thành.
Để chiếm Hải Dương, quân Pháp đã chỉ cần 15 người lính bắn vài phát súng là xong. Quân nhà Nguyễn đã không kháng cự chứ không phải đã thua trận. Tại Ninh Bình chúng ta còn nhục nhã hơn nhiều. Một viên thiếu úy dẫn bảy tên lính tới thành. Tổng đốc Nguyễn Đức Tuân và toàn bộ quân sĩ Việt Nam phải hạ khí giới, quì xuống hai bên đường đầu hàng.
Trước đó, Jean Dupuis, một lái buôn với vài tên lính đánh thuê do y tuyển dụng đã có thể làm mưa làm gió mỗi lần đưa tàu buôn ra Bắc. Các quan lại Việt Nam tại Hà Nội mỗi khi thấy tàu Dupuis tới gần phải chạy trước, sợ y bắt và nọc ra đánh.
Nếu bảo rằng ta thua vì không có vũ khí thì tại sao vài ngàn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc lại hai lần đánh bại quân Pháp một cách dễ dàng, chém đầu viên chỉ huy Pháp ? Mà Lưu Vĩnh Phúc có đánh lén đâu. Trong lần Henri Rivière ra Hà Nội, cũng là lần Pháp đem lực lượng hùng hậu nhất, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát Hà Nội, đóng doanh trại, gởi chiến thư gọi Rivière ra đánh. Cách đối địch này chẳng có gì là độc đáo. Henri Rivière đem quân ra. Quân Cờ Đen xông tới tàn sát quân Pháp, chém Henri Rivière, đem bêu đầu. Năm đó là năm 1872.
Trước đó, đầu thế kỷ 19, giữa lúc Pháp hùng mạnh nhất về quân sự, với hoàng đế Napoléon I làm bá chủ cả châu Âu, thì những người nô lệ da đen trên đảo Haiti nổi dậy thành lập một quốc gia độc lập thách thức đế quốc Pháp. Napoléon I đã cử một hạm đội hùng hậu gồm 86 chiến thuyền và 34.000 lính thủy dưới sự chỉ huy của đô đốc Leclerc, em rể Napoléon I, sang chinh phạt. Dưới quyền đô đốc Leclerc là 13 trung tướng và 27 thiếu tướng. Đạo quân hùng hậu và tinh nhuệ này còn mang theo một đàn chó trận được tập luyện để săn người da đen. Chúng sử dụng những biện pháp cực kỳ tàn bạo, treo cổ, nhận nước cho chết, thả tù nhân cho chó ăn thịt, v.v... Nhưng những người da đen đơn sơ đã chống trả, họ đã đánh tan đạo quân này trong thời gian không đầy hai năm, buộc quân Pháp phải đầu hàng. Lúc đó tổng số người da đen tại Haiti chưa tới nửa triệu người.
Thành tích này thật nổi bật so với Việt Nam. Lúc đó chúng ta đã có khoảng xấp xỉ mười triệu dân, đã có một lịch sử dài với nhiều quá khứ chống ngoại xâm và mở mang bờ cõi rất oanh liệt. Quân Pháp sang chiếm nước ta cũng chỉ vài ngàn người với phương tiện thô sơ, mỗi lần ra Bắc họ chỉ đem vài trăm lính dưới sự chỉ huy của những sĩ quan trung cấp.
Vũ khí, kỹ thuật tổ chức, ngay cả số đông cũng không phải là tất cả. Chúng ta thua, và thua rất nhục nhã, chỉ vì tinh thần dân tộc của chúng ta không còn. Mỗi lần quân Pháp ra đánh Bắc Hà, dân chúng kéo nhau "đi xem quân Tây và quân Nam đánh nhau" như những người bàng quan. Các vua nhà Nguyễn đã chỉ coi miền Bắc và miền Nam như những vùng đất xa xôi. Các chính sách hà khắc, giết hại công thần, cấm đạo đã làm tan vỡ hoàn toàn đồng thuận dân tộc. Nước Việt Nam vào giai đoạn đó chỉ còn là một hư cấu và vì thế nó đã mất hết sức tự vệ.
Từ đó đến nay chúng ta có xây dựng cho lòng yêu nước mạnh hay không ? Một cách ngược đời, giai đoạn Pháp thuộc đã làm tăng trưởng tinh thần quốc gia và lòng yêu nước. Ba yếu tố đã đóng góp vào sự tăng trưởng này. Một là sự hổ nhục vì bị đô hộ bởi một số ít thực dân, thuộc một chủng tộc khác và đến từ phương xa, đã gây ra một phản ứng liên đới giữa những người cùng chung nòi giống và văn hóa. Hai là do tiếp xúc với phương Tây, chúng ta đã tiếp thu được ý thức quốc gia, một ý thức trước đó chúng ta chỉ có một cách mơ hồ và người phương Tây cũng chỉ khám phá trước chúng ta không bao lâu ; tôi sẽ còn trở lại vấn đề này trong những trang sắp tới. Ba là thời Pháp thuộc đã đem lại phồn vinh, và do đó một sinh lực mới cho cộng đồng dân tộc.
Sức mạnh mới đó đã khiến dân ta quật khởi vùng lên giành chủ quyền. Đảng cộng sản đã vận động được lòng yêu nước đó để dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc mà tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản, và họ cũng đã giáng một đòn chí tử vào lòng yêu nước vừa mới có được một sức mạnh. Lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện một lực lượng không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giữa dân tộc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp về thực chất là một tiếng gọi nội chiến, một tiếng gọi giải thể quốc gia, thay thế tinh thần quốc gia bằng tinh thần giai cấp. Sau đó chính sách toàn trị của họ đã biến đất nước thành của riêng một đảng - như ngày trước nó là của riêng một dòng vua - và trục xuất đại khối dân tộc khỏi định mệnh đất nước. Đã thế, đảng cầm quyền lại còn áp dụng vô số biện pháp phân loại dân chúng và phân biệt đối xử. Những đổ vỡ và thất vọng kéo dài quá lâu đã làm sụp đổ lòng yêu nước của người Việt.
Ngày trước, chính sự suy sụp của tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta thua một cách hổ nhục dưới tay người Pháp chứ không phải vì người Pháp mạnh. Ngày nay cũng chính sự suy sụp tinh thần dân tộc đã khiến chúng ta không tự giải phóng được khỏi tay đảng cộng sản chứ không phải vì chế độ cộng sản mạnh. Có những lúc mà những bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.
***********************
Soi lại chân dung,
ba nét đậm của đất nước
Cuốn sách này dĩ nhiên không thể có tham vọng lố bịch là viết lại lịch sử. Nó đã mời độc giả theo dòng lịch sử mà nghĩ lại một số nhân vật và sự kiện với một dụng ý khác.
Cách mà một dân tộc đánh giá các triều đại và các nhân vật lịch sử nói lên rất nhiều về tâm lý của dân tộc đó. Chính qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng mà mỗi dân tộc bộc lộ hồn tính của mình.
Một mặt, việc luận công và tội trong lịch sử tùy thuộc ở các giá trị mà mỗi dân tộc đề cao hơn là ở những sự kiện đã thực sự xảy ra, và vì thế có thể thay đổi với thời gian. Một thí dụ là hoàng đế Napoléon I của nước Pháp. Napoléon là một thiên tài về quân sự, đã đánh bại và chế ngự gần hết châu Âu. Ông cũng là một nhân vật hào hoa phong nhã, có sức truyền cảm khó bì và không những chỉ đem vinh quang quân sự cho nước Pháp, ông còn làm ra luật pháp, đặt ra những định chế quan trọng mà nước Pháp tới nay vẫn còn gìn giữ và tự hào. Thời đại của ông cũng để lại những công trình lớn, vĩ đại cả về tầm vóc lẫn mỹ thuật. Có một dạo người Pháp tôn sùng ông như một thần tượng, nhưng ngày nay, nếu được hỏi, ít có người Pháp nào còn bày tỏ sự ái mộ với Napoléon. Không phải vì Napoléon đã thay đổi mà vì tâm lý và cách nhìn lịch sử của người Pháp đã thay đổi.
Mặt khác, những nhận định và đánh giá rõ ràng là sai lầm mà lại kéo dài quá lâu cũng tố giác sự hời hợt và sự thiếu óc phê phán của một dân tộc.
Đặt lại một số vấn đề lịch sử như vậy cũng là chất vấn tâm lý tập thể của một dân tộc và rà soát lại các giá trị nền tảng, các giá trị đã góp phần quyết định tạo ra số phận của dân tộc đó. Các nhà tư tưởng hiện nay đều đồng ý trên một điểm : tâm lý và các giá trị là tất cả đối với một dân tộc ; địa lý, tài nguyên thiên nhiên và ngay cả bối cảnh quốc tế chỉ là thứ yếu. Các dân tộc như Mỹ, Đức, Nhật, dù ở hoàn cảnh nào, dù có bị tàn phá đến đâu cũng vẫn nhanh chóng phục hồi và vươn lên trong khi nhiều dân tộc khác dù được thiên nhiên và hoàn cảnh ưu đãi tới đâu cũng vẫn thua kém. Một dân tộc vì thế chỉ thay đổi được số phận của mình nếu thay đổi tâm lý và các giá trị, nghĩa là thay đổi văn hóa, thay đổi cách suy nghĩ, hành động và ứng xử.
Cuộc hành trình qua lịch sử mà cuốn sách này mời độc giả cùng đi đã không thoải mái. Tôi hiểu là những phân tích không khoan nhượng đã làm phiền lòng không ít độc giả. Những gì mà chúng ta đã biết hoặc đã tin là một phần của chính chúng ta, và dĩ nhiên chúng ta cảm thấy như bị xúc phạm và bị đả thương khi có người bác bỏ. Tôi mong các độc giả đó hiểu cho rằng chính tôi đã rất đau nhức khi phải xét lại những gì mà chính mình trong một thời gian dài đã cho là đúng và lấy làm nền tảng cho nhiều lý luận khác. Nhất là khi tôi phải làm việc đó tự mình và một mình, trong một cuộc xung đột với chính mình.
Nhưng đó là việc phải làm. Chúng ta phải nhận định lại lịch sử để nhận diện lại chính chúng ta và thay đổi số phận của chúng ta. Hoàn cảnh bi đát của chúng ta hiện nay không cho phép chúng ta thỏa mãn. Khi chúng ta nhìn lịch sử của mình một cách khác cũng là lúc chúng ta nghĩ về mình một cách khác, để từ đó chấp nhận một cách ứng xử khác và tiến tới một tương lai khác.
Cuộc hành trình này đã dẫn chúng ta tới lịch sử hiện đại, nghĩa là phần lịch sử còn đang diễn ra mà chúng ta còn có thể tác động. Phần lịch sử này chúng ta sẽ phải đề cập một cách khác. Nhưng tới đây chúng ta đã có thể rút ra một vài nhận định quan trọng.
Một là đất nước ta đã hình thành như một phần của Trung Quốc, rồi do hoàn cảnh địa lý mà tách rời ra, nhưng chỉ tách rời về mặt hành chánh chứ không tách rời về mặt văn hóa. Như vậy ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trên chúng ta rất lớn, ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Không phải là một sự ngẫu nhiên mà các vua quan nhà Nguyễn vẫn cố bám vào Trung Quốc giữa lúc chính Trung Quốc cũng đang rất khốn đốn. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà sau khi đã bị Pháp đô hộ và đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng mà những người chủ xướng đều có Tây học, vẫn chủ trương rập khuôn Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Cũng không phải là một ngẫu nhiên mà Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn lếch thếch chạy theo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, dù có lúc hai bên đã thù ghét nhau thậm tệ. Cho dù thương nhau hay ghét nhau, cùng một văn hóa thì vẫn cùng một cách hành động. Chúng ta còn muốn tiếp tục đi theo và đi sau người Trung Hoa nữa không, hay chúng ta đã nhìn thấy những khuôn mẫu khác và những lộ trình khác tốt đẹp hơn ? Nếu không muốn theo mô hình Trung Quốc nữa thì chúng ta cần một cố gắng cởi trói, vượt thoát và khai thông rất trọng đại.
Hai là trong quá trình lịch sử chúng ta đã bị ngoại thuộc nhiều hơn là độc lập, chúng ta đã chịu đựng quá nhiều chiến tranh và chỉ được hưởng quá ít hòa bình, đã bị chia cắt nhiều hơn thống nhất. Đó là một lịch sử rất chật vật và vì thế chúng ta là một dân tộc bị chấn thương nặng. Cách suy nghĩ và hành động của chúng ta chắc chắn là không bình thường. Do đó cần rất dè dặt trong các phân tích và các dự đoán chính trị. Có những sự kiện đáng lẽ phải xảy ra lại không xảy ra và cũng có những biến cố đáng lẽ không thể có lại vẫn có. Trong những trường hợp như thế, một nhận định bình thường, nghĩa là không kể đến tình trạng bất bình thường của dân tộc ta, rất dễ khiến chúng ta lý luận gượng ép, khen chê một cách sai lạc và gây khó khăn thêm cho sự tìm kiếm một giải pháp đúng đắn. Trong hoàn cảnh phức tạp và khủng hoảng tinh thần này, chúng ta cần rất nhiều bình tĩnh và sáng suốt.
Sau cùng, tuy chúng ta có một lịch sử dài nhưng lại là một quốc gia mới hình thành xong. Chúng ta đã không ngừng đón nhận nhiều đóng góp về đất đai và chủng tộc. Cấu tạo địa lý và nhân văn của chúng ta mới chỉ rõ rệt từ nửa sau thế kỷ 18. Từ đó đến nay lại là giai đoạn đầy rẫy những thảm kịch nội chiến, ngoại xâm, ngoại thuộc, chia cắt, xung đột ý thức hệ, v.v... Chúng ta là một quốc gia chưa ổn vững, cần được củng cố, xây dựng và gìn giữ với tất cả thận trọng, nhất là vào giữa lúc mà ý niệm quốc gia đang bị công phá khắp nơi trên thế giới. Nguy cơ tan rã có thực. Trong khi dù muốn hay không chúng ta vẫn cần có một quốc gia để làm không gian liên đới cho cố gắng xây dựng một tương lai chung. Vì nhiều lý do, mà lý do giản dị nhất là không ai muốn hòa nhập với một dân tộc nghèo khổ như chúng ta.
***********************
Một chuyển tiếp tự nhiên
Một cuộc hành trình dù vội vã đến đâu qua lịch sử Việt Nam cũng không thể bỏ qua đảng cộng sản. Tác động của nó vào lịch sử Việt Nam đã vô cùng to lớn.
Đó là phong trào Việt Nam lần đầu tiên tôn vinh đế quốc Nga (dưới mỹ từ Liên Bang Xô Viết). Sự thần phục này nghịch lý về nhiều mặt. Nga là nước không những ở rất xa nước ta, chưa hề có một quan hệ nào với nước ta, mà lại là nước do điều kiện địa lý rất ít giao thiệp với thế giới bên ngoài. Nga có trình độ phát triển thấp hơn hẳn các nước phương Tây. Văn hóa Nga dù không tồi cũng không sánh được với văn hóa phương Tây.
Chọn lựa đồng minh và quan thầy kỳ lạ này đến từ một chọn lựa độc đáo khác : Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng là phong trào nổi dậy đầu tiên không lấy quốc gia làm đối tượng phục vụ, hơn thế nữa mục đích sau cùng của nó còn là giải thể quốc gia Việt Nam (cũng như mọi quốc gia khác) để hội nhập vào một thế giới vô sản. Chủ nghĩa đã mạnh hơn các quan tâm về địa lý, lịch sử và văn hóa. Điểm này cần được nhận định đúng đắn để rút một suy tư về đất nước. Chính vì khó có thể tin rằng một phong trào không nhắm phục vụ mà còn nhắm giải thể Việt Nam mà lại được người Việt Nam ủng hộ nên ngay cả một số những người chống cộng vẫn cố biện bạch rằng phong trào cộng sản là một phong trào yêu nước.
Nhưng sự thực không phải như thế. Sự lấn cấn sở dĩ có là vì chúng ta không phân biệt hai khái niệm khác nhau : người cộng sản và đảng cộng sản. Có và có nhiều người cộng sản yêu nước, nhưng đảng cộng sản không phải là một đảng yêu nước.
Đảng cộng sản thành lập lúc ban đầu dưới danh xưng là Đảng Cộng Sản Đông Dương với vai trò phân bộ của phong trào cộng sản quốc tế. Nó nổi dậy lần đầu với tên gọi "Xô Viết Nghệ Tĩnh" và lá cờ đỏ mang khẩu hiệu "Vạn Tuế Sô Nga". Cuộc nổi dậy này hoàn toàn chỉ do những động cơ giai cấp, dưới khẩu hiệu "trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ", nó chỉ nhắm tàn sát những người bị coi là kẻ thù của giai cấp vô sản. Trên thực tế đây không phải là một cuộc nổi dậy vì Việt Nam. Chiêu bài dân tộc chỉ được dùng tới sau đó, do một chọn lựa chiến lược mà Stalin áp đặt lên đệ tam quốc tế : chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội trong từng quốc gia. Những người cộng sản Việt Nam đầu tiên không phải đã hân hoan đón nhận mệnh lệnh này. Họ đã chỉ tuân hành nó một cách miễn cưỡng. Điều đã thôi thúc những người cộng sản trung kiên, đã khiến họ có thể hy sinh tính mạng và đã đem lại sức mạnh cho đảng cộng sản, vẫn là lý tưởng quốc tế vô sản.
Đảng cộng sản cũng khiến Việt Nam một thời được cả thế giới biết đến và nể phục như một dân tộc anh hùng bất khuất đã chống trả một cách thắng lợi với hai cường quốc lớn Mỹ và Pháp. Nó cũng là phong trào lần đầu tiên đánh bại Hoa Kỳ. Mỗi người Việt Nam, kể cả những người chống cộng và đã thực sự đứng trong hàng ngũ đối địch với đảng cộng sản, sẽ lầm nếu phủ nhận những chiến công này. Phủ nhận chúng cũng như người Ai Cập phủ nhận các kim tự tháp hay như người Trung Hoa phủ nhận Vạn Lý Trường Thành. Đó là những công trình được xây dựng trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của các dân tộc nhưng đồng thời cũng là những di sản của họ. Ngược lại, những người cộng sản cũng nên tương đối hóa những chiến thắng đó. Cùng lắm chúng chỉ khiến chúng ta xuất hiện như là một dân tộc giỏi chiến tranh trong một thế giới ngày càng tôn vinh những giá trị khác và trong đó chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi những thành tựu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, thương mại. Hơn nữa chúng ta đã phải trả giá quá đắt cho những chiến thắng này. Chúng ta đã kiệt quệ hoàn toàn và còn thù ghét lẫn nhau, để rồi bế tắc trong sự thua kém.
Đảng cộng sản đã làm chết bốn triệu người qua ba mươi năm chiến tranh (con số sẽ cần được khảo sát một cách chính xác) nhưng đã nắm được chính quyền và thống nhất đất nước. Họ đã thất bại khi cầm quyền. Cần nói rõ về sự thất bại này để tránh ngộ nhận chủ quan : chế độ cộng sản, sau những đập phá lúc ban đầu do bản chất cách mạng của nó, đã làm nhiều cố gắng xây dựng đúng. Nó đã nâng cao phần nào cuộc sống của người dân mặc dầu dân số Việt Nam tiếp tục tăng nhanh. Nó cũng đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu có ích, và nó cũng dành cho người dân một chỗ đứng và một phẩm giá lớn hơn hẳn các chế độ quân chủ tại Việt Nam trước đó. Nếu chúng ta không tự giới hạn trong cuộc tương tranh quốc-cộng mà cố gắng nhìn cả chiều dài của lịch sử thì chế độ cộng sản phải được coi là chế độ hay nhất mà chúng ta đã có từ trước đến nay trong những chế độ đã cai trị toàn bộ Việt Nam (không kể chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một công thức canh tân được đề ra để đối đầu với công thức cộng sản, nhưng đã thất bại sau 27 năm tồn tại và chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ và dân số Việt Nam).
Đảng cộng sản không thất bại so với các triều đại đã cai trị Việt Nam trước họ. Nhưng họ đã thất bại so với thế giới. Các vua chúa Việt Nam trước đây tuy không bằng họ ngày nay, nhưng lại hơn các lân bang lúc đó và vì thế Việt Nam đã đứng vững được và bành trướng được. Đảng cộng sản hơn các vua chúa ngày xưa nhưng lại thua kém các chính quyền khác trên thế giới ngày nay nên Việt Nam tụt hậu. Trong khi các quốc gia khác tiến rất xa so với quá khứ của họ, Việt Nam dưới chế độ cộng sản chỉ tiến khá xa so với quá khứ của mình mà thôi. Đó là tất cả vấn đề. Tội chính của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tội làm mất thì giờ của đất nước, mà trong thời đại này thì giờ là tất cả, mất thì giờ nhiều quá có thể mất nước luôn. Việt Nam trong thập niên 1960 và trong nửa đầu thập niên 1970 đã được cả thế giới biết đến và nể phục vì đã làm một việc phi thường là dám chống lại quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Việt Nam bước vào thế kỷ 21 cũng đang được cả thế giới biết đến, nhưng không nể phục chút nào, vì đang làm một việc cũng rất phi thường khác là tiếp tục theo đuổi một chủ nghĩa ngây ngô đã sụp đổ. Nhưng làm sao có thể ôm lấy một cái gì đã đổ nát tung tóe ? Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay chẳng phải là cộng sản. Nó chỉ là một pha trộn quái dị của nhiều thành tố cộng sản, tư bản, phát-xít, quân phiệt và mafia.
Trong chiều dài của lịch sử, đảng cộng sản đã có một thành tích quan trọng. Họ đã thống nhất đất nước. Đó là một thành tích lớn dù nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta có thể thống nhất đất nước một cách ít tốn kém và đổ vỡ hơn.
Họ đã chấm dứt vĩnh viễn được cuộc tranh cãi, không còn lý do nữa nhưng vẫn không chịu chấm dứt hẳn, xem tôn giáo nào đáng được coi là quốc giáo. Họ đã dứt khoát khẳng định Việt Nam là một nhà nước thế quyền. Trong thế giới ngày nay, loại trừ được ảnh hưởng của các tôn giáo trong sinh hoạt chính trị là một may lắn lớn. Tuy nhiên nhiều người, trong đó có tôi, tin rằng chúng ta vẫn có thể làm được việc này bằng một cố gắng văn hóa, chính trị đứng đắn mà không phải dùng tới những biện pháp thô bạo. Vấn đề nên làm là đưa các tôn giáo ra khỏi chính trị, đảng cộng sản đã làm điều ngược lại là đem chính trị vào tôn giáo. Điều mà đảng cộng sản cố gắng làm - nhưng không làm được - là tiêu diệt các tôn giáo.
Họ cũng đã thay đổi một cách quan trọng tập tính người Việt. Đạo đức truyền thống đã bị phá sản hoàn toàn. Biết bao nhiêu người, kể cả những người cộng sản ngoan cố, đã than phiền sự băng hoại của đạo đức. Con người trở thành vị kỷ, lưu manh, thô lỗ. Nhưng cuộc chuyển hóa tư tưởng này không hoàn toàn tiêu cực. Trên ít nhất hai điểm nó rất tích cực.
Một là nó đã tiêu diệt được óc tôn sùng bằng cấp, một căn bệnh tâm thần rất tai hại của người Việt. Không phải đảng cộng sản nhận thức được sự tai hại của tâm lý trọng bằng cấp và dụng tâm đánh đổ nó. Trái lại chính vì họ quá trọng bằng cấp mà đã cấp phát bừa bãi cho các đảng viên những học vị to lớn, với kết quả là khiến các bằng cấp trở thành những mảnh giấy lộn không hơn không kém. Tình trạng này đưa đến hậu quả tốt mà họ không ngờ là con người từ đây sẽ chỉ được đánh giá theo khả năng. Từ đây người Việt Nam sẽ phải học để biết, để có khả năng chứ không học để giành lấy một bằng cấp không còn chứng minh gì nữa. Nói một cách khác, từ đây người ta sẽ phải có thực học thay vì chỉ cần học vị. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa rất lớn, mà vô tình đảng cộng sản đã làm được.
Hai là nó đã phần nào biến dân tộc Việt Nam từ một dân tộc từ chương, công chức và làm công thành một dân tộc buôn bán và kinh doanh. Ngay lúc đi tù về tôi đã chứng kiến cuộc chuyển hóa vĩ đại này. Hình như nhà nào cũng buôn bán một cái gì. Một tủ kem, một thùng thuốc lá, một quầy tạp hóa tí hon, một quán cà-phê đột xuất v.v... Cũng có những người suốt ngày tháng loay hoay chạy mối bán thuốc tây, hàng vải, đủ thứ. Từ ngàn xưa chúng ta coi thường và bài xích thương mại và do đó đã nghèo khó, lạc hậu và thua kém. Chế độ cộng sản vô tình - hoàn toàn vô tình vì chủ nghĩa của họ không những bài xích mà còn thù ghét thương mại - đã chữa được cho người Việt Nam chứng bệnh tâm lý tổ tông truyền này.
Trái với một số người, tôi không quá lo ngại về sự băng hoại đạo đức hiện nay. Thật ra chúng ta đòi hỏi gì ở con người ? Chúng ta mong muốn những con người có khả năng, chăm chỉ, lương thiện và nhã nhặn. Tất cả những đức tính đó một sinh hoạt kinh tế thị trường đúng nghĩa, nhất là hoạt động buôn bán, sẽ đem lại. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường thực sự, không có khả năng, lười biếng, gian trá thì mất việc ; có khả năng, lương thiện, chăm chỉ thì lên chức, lên lương. Buôn bán mà gian trá, thô lỗ thì mất khách và phá sản. Kinh tế thị trường tự do cũng có cái lô-gích và cái đạo đức của nó. Phần lớn những thói hư tật xấu đều có thể khắc phục được trong vòng một thế hệ nếu chúng ta mau chóng có được một nhà nước dân chủ pháp trị đúng đắn, tin tưởng vào kinh tế thị trường và khai thác triệt để mọi ưu điểm của nó.
Một thành quả cũng rất vô tình nhưng vô cùng vĩ đại của chế độ cộng sản là đã tạo ra cộng đồng người Việt hải ngoại. Lúc đi du học trong thập niên 1960, tôi ngỡ ngàng khám phá ra là Việt Nam không có cộng đồng hải ngoại như các dân tộc cùng tầm vóc khác. Đó là một thiệt hại rất lớn. Cộng đồng hải ngoại là những đầu cầu thương mại, văn hóa, khoa học và kỹ thuật rất quí báu nhưng, điều còn nhiều lần quí báu hơn, nó cũng là con mắt của một dân tộc để nhìn và hiểu thế giới. Một dân tộc không có cộng đồng hải ngoại không khác gì một người mù. Không có cộng đồng hải ngoại thì không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta thiển cận, mù quáng, hẹp hòi, bất dung, cố chấp, và sau cùng lạc hậu. Tất cả các quốc gia mới vươn lên gần đây đều đã nhờ sự đóng góp tích cực của một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh.
Đảng cộng sản đã không chủ đích thành lập một cộng đồng người Việt hải ngoại vì nhìn thấy vai trò của nó. Họ không có một viễn kiến quốc gia nào. Chính sự bạo ngược của họ đã làm cho hàng triệu người phải liều chết vượt biển ra đi, và họ còn cấm cản một cách dã man làn sóng vượt biên. Sau cùng chính họ cũng đứng ra tổ chức vượt biên, nhưng chỉ để làm tiền và trục xuất người Việt gốc Hoa theo một quan niệm dân tộc hẹp hòi. Họ đã làm mất đi một tài nguyên nhân lực quan trọng của đất nước, đồng thời cũng khiến cộng đồng người Việt hải ngoại không có được tiềm năng đóng góp mà đáng lẽ số lượng của nó phải đem lại bởi vì phần lớn người Hoa khi còn ở Việt Nam là những người Việt gốc Hoa nhưng khi ra nước ngoài chỉ còn là những người Mỹ, người Pháp, người Úc gốc Hoa. Tuy vậy, kết quả vẫn còn đó, một cộng đồng người Việt hải ngoại gần ba triệu người, trong đó phân nửa sinh ra tại hải ngoại đã thành hình. Và đây là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất từ ngày lập quốc.
Một lời sau cùng trước khi sang phần khác : chúng ta sẽ rất lầm nếu căm thù đảng cộng sản và chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản là một giai đoạn chuyển tiếp lô-gích từ chế độ quân chủ Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ. Chủ nghĩa cộng sản, dù được văn bản hóa tại châu Âu, chỉ là một cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất, cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một ; ý thức hệ cộng sản đã cải tiến Khổng Giáo bằng cách đem vào, ở một mức độ thấp, một số ý niệm mới : luật pháp và nhân quyền, cùng với một kỹ thuật tổ chức hiệu lực hơn. Đó là điều sẽ được trình bày trong phần sau.
Ở đây, tôi chỉ xin đưa ra hai nhận định. Một là, lý do chính khiến đảng cộng sản đã được hưởng ứng và đã thành công là vì chủ nghĩa cộng sản rất phù hợp với văn hóa Khổng Mạnh mà chúng ta đã thấm nhuần và trân trọng trong suốt dòng lịch sử. Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản bởi vì đó là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên trừ khi chúng ta làm một bước nhảy vọt về văn hóa và tâm lý, nhưng bước nhảy vọt này đã không có. Hai là, chế độ cộng sản, nhìn như một giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ quân chủ tuyệt đối đặt nền tảng trên Khổng Giáo sang một chế độ dân chủ, đã kéo dài bởi vì chúng ta chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách quá nặng nề.
Chúng ta đã phải đi qua đoạn đường cộng sản vì, do thiếu kém tư tưởng, chúng ta đã không dám hoặc không muốn vứt bỏ một cách dứt khoát và nhanh chóng Khổng Giáo để quả quyết chọn lựa dân chủ. Không thiếu những người vừa chống cộng kịch liệt vừa đề cao Khổng Giáo như một đạo lý cao đẹp chỉ cần cải tiến để thích nghi với thời đại mùới mà không ý thức được rằng chủ nghĩa cộng sản chính là một cải tiến lớn của Khổng Giáo. Không phải là một sự tình cờ mà phong trào cộng sản đã thành công ở cả ba nước theo Khổng Giáo : Trung Quốc, Cao Ly và Việt Nam (trái với một nhận định hời hợt, Nhật Bản không phải là một nước Khổng Giáo). Cũng không phải là một sự tình cờ mà ba trong bốn nước cộng sản còn lại là những những nước thuộc văn hóa Khổng Giáo. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống, nó tự chính chúng ta mà ra. Đó là một di sản của lịch sử mà chúng ta phải nhìn nhận và quản lý đúng đắn để thoát khỏi.