Tôi biết, anh đi về hướng biển
Mặc Lâm, VOA, 10/10/2019
Nếu một bài thơ làm cho người đọc bị buộc chặt vào một cái tên thì Du Tử Lê đã thực hiện được điều đó, điều mà bất cứ người làm thơ nào cũng mong ước.
Có lẽ người Việt hải ngoại đầu những năm 80 của thế kỷ trước khi nghe hay đọc câu thơ "Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" thì gần như ngay tức khắc trong tận cùng thâm tâm sẽ bật khóc vì cảm thương thân phận chính mình, những người mất quê hương và khi chết ao ước tột cùng được trở về quê nhà, nơi mà từng tất đất vẫn đậm đà màu ruột thịt.
Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển... Diễn Ngâm : Nang Hoang Hon - Courtesy of Video Clip by Nostalgie
"Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển" không còn là bài thơ nữa, nó trở thành một hình ảnh, một tiếng kêu tuyệt vọng, một lầm than trong đời sống nhung gấm hay buốt xót tận cùng của sự ly hương mà tác giả chuyển tài tới người cùng tiếng nói. Du Tử Lê phác thảo đám tang của ông mà hình như của tất cả người Việt đang sống tha hương. Trong cái đám tang ấy không có tiếng khóc, không có quan tài thậm chí không có người chết mà chỉ có một mình ông vừa chạy hào hễn vừa thổn thức xin được ném thi thể mình xuống biển để được trôi về quê nhà, nơi ông và chúng ta từ bỏ tất cả chỉ để tìm một nỗi buồn xa xứ, nỗi buồn ấy chỉ có thể chấm dứt khi chết đi, tức là khi biển cả chấp nhận cho chúng ta trở lại nơi xuất phát :
"Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn".
Du Tử Lê quen thuộc với người đọc qua bài thơ này và người ta cứ nhớ ông khi nói về cái chết, về biển hay những cuộc vượt biên đầy nước mắt. Bẵng đi một thời gian ông lại nổi tiếng hơn khi "Khúc Thụy Du" ra đời. Nhạc sĩ Anh Bằng đã mang ông giới thiệu tới người nghe nhạc với ca khúc mà ai cũng nhận ra tính phân ly của các đôi tình nhân trong cuộc chiến. Con chim bói cá đơn độc là hình ảnh của Du Tử Lê, đứng trên những cọc nhọn trăm năm chăm chăm nhìn xuống số phận chính mình. Con chim bói cá ấy kêu tiếng bi ai giữa cuộc sinh tử của người mà nó yêu dấu bằng ngôn ngữ của loài người : Thụy ơi và Thụy ơi…
Khánh Ly - Khúc Thụy Du (Anh Bằng) Liveshow 55 năm Hát Tình Ca 9/9/2017 - Courtesy Video by Trịnh Trí Anh
Thụy không phải chỉ riêng cho Du Tử Lê, Thụy là mầm sống chưa kịp nhú ra đã bị dập tắt. Thụy là nạn nhân của binh đao của loạn lạc. Thụy là dấu chấm hết cho một cuộc chiến nghiệt ngã đầy nước mắt và thi thể. Khúc Thụy Du được ông sáng tác vào thời kỳ đen tối nhất của chiến tranh, năm 1968, lúc xác chết của Thụy và hàng ngàn Thụy khác nằm lăn lóc khắp miền Nam. Thụy sang Mỹ và nàng biến dạng thành một hình ảnh khác qua bàn tay của Anh Bằng. Thụy mộng mị, êm ái và dịu dàng và Thụy trở thành nỗi niềm đôi lứa của chú chim bói cá.
Du Tử Lê là nhà thơ có số lượng thơ được phổ nhạc nhiều nhất trong các thi sĩ nổi tiếng. Từ Phạm Duy, Phạm Đình Chương cho tới Từ Công Phụng, Trần Duy Đức… Có lẽ thơ ông có sẵn giai điệu của âm nhạc, hai nữa ngôn ngữ thi ca trong các bài thơ của ông thực sự chính phục người nghe qua các từ ngữ tuy không diêm dúa nhưng khó nằm chung với những nhóm chữ mang dáng vẻ cách tân chưa tới. Thơ ông đậm chất bất ngờ và đẩy ắp hình ảnh của hiện thực lẫn ẩn dụ.
"Tôi xa người xa bàn tay, vui
Bàn tay có ngón đã chôn đời
Bàn tay có ngón không đeo nhẫn
Có ngón dành riêng cho môi tôi".
"Ngón tay dành cho môi tôi" chỉ có trong thơ Du Tử Lê, vừa bất ngờ lại lôi cuốn đến kỳ lạ. Câu thơ dẫn đến những suy tưởng ngọt ngào biết chừng nào.
Thơ Du Tử Lê đầy ắp những vuốt ve, nồng nàn lẫn lạnh lẽo, cô đơn của chữ nghĩa. Thơ ông không có giới hạn của ngôn ngữ, những câu chữ vượt ra khỏi không gian mà nó hiện hữu để hòa vào nhịp suy tưởng của người đọc. Du Tử Lê được tiếng là phù thủy ngôn ngữ cũng không ngoa, trong thơ ông xuất hiện những câu chữ đẹp và làm say đắm :
"Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Như trời nhớ đất (rất xa xôi)
Nắng mưa nhớ mãi hàng hiên đợi
Thư nhớ hồi âm - Lệ nhớ môi"
"mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng khôn khép
bàn tay nàng khôn thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài"
"thay vì cloning cho tôi con cừu
hãy tạo sinh vô tính cho tôi buổi chiều,
quê cũ".
Thơ ông giúp người đọc thấm cái thi vị của ngôn ngữ cùng sự chắt lọc tinh túy mà chỉ ngôn ngữ thi ca mới có được. Du Tử Lê làm mới ngôn ngữ bằng những hình ảnh rất cụ thể. "Cloning", hay nhân bản một buổi chiều quê cũ cho ông là một thử thách, một đòi hỏi, một ẩn dụ đầy minh triết. Những câu thơ tương tự như thế xuất hiện không ít trong hơn 50 thi tuyển của ông là một công phu đồ sộ đáng chiêm ngưỡng.
Nhưng thơ ông không chỉ thế, có nhiều câu mang nhiều ngữ nghĩa mà người đọc toàn quyền sáng tác lại theo sự tưởng tượng đầy chủ quan của mình.
"Trả lại" là một bài thơ đặc biệt của ông. Đặc biệt vì nó rất gần với quần thể cải lương miền Nam chẳng những ở thi tứ, ngôn ngữ mà cả giai điệu, âm tiết cũng đậm chất Nam bộ.
"người muốn trả lại người sân nắng cũ
vườn thanh xuân nhiều hạt mộng ươm mầm
tóc mênh mông chiều chưa gió một lần
mắt chưa rụng những cành me lá biếc
môi cay đắng chưa đơm lời oan nghiệt
chân chưa run trên từng bậc thang đời
mưa chưa bay trong vòm tối tình người
má chưa lạnh những mùi son phấn nhạt"
Những câu thơ này hoàn toàn có thể dùng cách ngâm sa mạc trong vọng cổ miền Nam và khi diễn ngâm nó lên người dân nam bộ sẽ không thể tưởng tượng được người sáng tác ra nó là một ông Bắc Kỳ chính gốc. Cái ông Bắc Kỳ ấy còn có khả năng làm thơ để làm vui lòng những cô bé yêu thơ ông nhưng khó tính và hay hờn dỗi. Ông là một nhà ảo thuật có thể làm nàng tròn mắt và… yêu ông ! Cũng trong bài thơ này ông viết :
"ta ham hố nên gạt người vào cuộc
nhưng nhục nhằn ta khó thể làm thinh
vung tay gươm ta phạt trúng cổ mình
mắt không kịp ngó theo đầu ta đã, rụng"
Anh yêu em nhưng vì ham hố nên đã vô tình… gạt gẫm em đến nỗi em bị cuộc đời dày ải đến nhục nhằn, thôi thì anh tự sát đây, anh vung gươm lên chém bay đầu mình và cầm cái đầu ấy đưa cho em tạ tội em nhé… Cô bé cười khúc khích vì sự dịu dàng và hài hước của anh và lại ngã đầu vào bờ vai lừa gạt không ngưng ấy…
Toàn bộ bài thơ khi đọc, ngâm hay hát đều toát lên sông nước miền Nam, toát lên chất nam bộ của một phần đất mà Du Tử Lê từng sống và yêu mến nó. Ước gì cải lương miền Nam đầy những bài hát như "Trà lại" của Du Tử Lê bởi nó chứng minh rằng ngôn ngữ trau chuốt của thi ca có thể làm cho một bộ môn nghệ thuật sống vũng vàng trong lòng công chúng.
Thế nhưng Du Tử Lê đã lặng lẽ đi về hướng biển như ông từng ao ước cách đây hơn 40 năm.
Ngày 7 tháng 10 năm 2019, Du Tử Lê qua đời tại Mỹ. Ông chính thức nhận được thông hành mất quyền lưu vong và ứng với câu :
"Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn".
Mặc Lâm
Nguồn : VOA, 10/10/2019
*******************
Nhớ về nhà thơ Du Tử Lê
Tuấn Khanh, RFA, 09/10/2019
Nếu nhớ về một Du Tử Lê tài hoa trong chữ nghĩa, trong thi ca, ắt đã có nhiều người viết. Hôm nay có lại viết cũng thừa. Nhưng nói về Du Tử Lê đã sống thế nào trong cái yêu ghét của người Việt, cái đó có lẽ ít người viết. Đặc biệt là yêu ghét đã nổi gió kể từ khi ông về lại Việt Nam sau nhiều năm tỵ nạn.
Nhưng thật ra, không chỉ riêng Du Tử Lê, văn nghệ sĩ nào của người Việt miền Nam Việt Nam tự do từng rời khỏi nước sau tháng 4/1975, khi quay lại quê nhà, đều là những người đi ngược gió.
Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy về Việt Nam sinh sống. Đó là một cơn bão chứ không là gió. Những kẻ chống ông quay về, từ trong nước có cả kẻ thù và có cả người quen. Những người giận dữ đặt tên ông là phản bội, là cơ hội… thì ở chung quanh nơi ông sống. Là Midway city, nơi mà ông chỉ ký dưới thư tay bằng tiếng Việt – thị trấn giữa đàng – khi gửi cho tôi, thời chưa có internet. Vào những ngày ông đau yếu ở quận 10, Việt Nam, tôi đến thăm và hỏi rằng "Bác thấy hài lòng khi về sống ở Việt Nam chứ ?". Ông lắc đầu cười khẽ, nói "câu trả lời chính xác, là tôi hài lòng được chết nơi quê hương của mình".
Năm 2012, khi ca sĩ Khánh Ly lần được được Hà Nội cho phép vào nước. Bà đã đi xuyên qua những lời miệt thị, phỉ báng đến rợn người để về lại Sài Gòn. Khi tôi hỏi rằng bà quay về với suy nghĩ gì. Bà đã cười và hỏi ngược lại tôi "Khi em chạy về quê nhà của mình, em nghĩ gì ?".
Từ 2014, Du Tử Lê đã có những chuyến đi về Việt Nam, đến năm 2016 thì người ta thấy ông xuất hiện trong những buổi ra mắt sách in ở Việt Nam. Dĩ nhiên, ông cũng bị tấn công không ngớt, bị gọi là thằng hèn, kẻ hám danh… Trong một lần ngồi café với ông ở Garden Grove, thành phố nơi ông sống, tôi thấy ông đột nhiên trầm ngâm rồi cười như một mình, nói với tôi "Nếu giờ này, anh và em ngồi ở một quán café nào đó Sài Gòn thì hay biết mấy nhỉ". Đuôi mắt ông nheo nheo, ẩn trong nụ cười là một nỗi buồn vô hạn.
Điều đó, tôi hiểu. Không chỉ văn nghệ sĩ mà bất kỳ con người nào bị buộc phải rời khỏi quê hương trong bất toại, đều là những vệt ám ảnh trong ký ức. Đau đớn hay hạnh phúc, họ đều muốn được tận hưởng với hơi thở quê nhà. Họ cần hít hà nguồn cội đó, hít hà để nhớ và để chết. Hít hà như những kẻ nghiện nơi chốn của mình.
Những ngày đi xa, ngồi trên máy bay về Việt Nam có lẫn nhiều người đã tha hương rất lâu, có trẻ, có già… tôi chứng kiến khi chiếc máy bay sà xuống, khi những khối nhà và con đường hiện lên, nhiều người đã xúc động kêu lên "tới rồi, tới Sài Gòn rồi…". Những cái đầu vói nhìn qua cửa sổ, những lời bàn về chỗ sắp đến của họ râm ran khắp các ghế. Quê hương như một liều doping mầu nhiệm, trong phút chốc mọi người phấn chấn và tạm quên vì sao họ bị bứt khỏi nơi này, tạm quên nơi họ đến, là nơi những người cộng sản cầm quyền chứ không như ngày xưa ấy.
Cũng vì vậy mà trong lịch sử, mọi chế độ độc tài đều muốn cầm giữ quê hương và dân tộc như một loại con tin để mặc cả với tương lai, để hành hạ con người, tra tấn sự yêu thương.
Từ những điều đơn giản đó, mà tôi cảm nhận được nhiều hơn với chuyện quay về. Du Tử Lê từng bị gọi là ham tiền, hám danh… khi quay lại Việt Nam, nhưng thật ra, tôi tin là ông, cũng như Phạm Duy hay Khánh Ly, tìm thấy nhiều điều khác hơn, sâu thẳm hơn so với những lời kết tội đó. Mỗi người có một lý do của mình, và họ có quyền im lặng, quyền chọn vào sự phán xét cuối cùng ở tương lai chứ không bởi một cá nhân hay một cộng đồng nào.
Trong giai đoạn còn khỏe, Du Tử Lê hay gặp vài thân hữu khép kín vào buổi sáng. Ngày chẳn thì ở một quán café tại Westminster, ngày lẻ thì ở một quán Bún bò Huế tại Garden Grove. Các câu chuyện về văn chương và cuộc đời với nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, nhà báo Vương Trùng Dương, nhà báo Ngọc Hoài Phương… vẫn thời sự nhưng rồi, bao giờ đề tài Việt Nam và quá khứ luôn là chính. Có những lúc nhìn họ, tôi tự hỏi vì sao họ có thể nói về Việt Nam và một thời mãi không chán. Họ như những đứa trẻ đầy ký ức luôn cười khúc khích và sôi nổi tranh nhau khi kể về.
Rồi tôi cũng chợt nhìn thấy trong những văn nghệ sĩ Việt bị gọi là lưu vong đó, một cách giải thích khác trong chuyện quay về. Với họ, quê hương là mẹ, là mãi mãi với cuộc đời của họ. Chế độ chỉ là giai đoạn. Và nếu người mẹ bị cầm giữ, thì dù phải luồn lách thế nào, họ cũng chấp nhận để được chạm vào, để được nhìn thấy.
Trong một lần nhà thơ Du Tử Lê lấy xe đưa tôi về, trên đường đi bất thần tôi hỏi "anh có nhận biết ngoài những người yêu mến anh, còn rất nhiều người ghét bỏ anh không ?". Ông sựng lại ít giây, rồi mặt rất nghiêm "anh biết chứ. Anh đã không làm vừa lòng rất nhiều người. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh đúng và tử tế hoàn toàn đâu. Nhưng anh thấy mình vui vì không chối bỏ, và thật sự biết vì sao mình làm như vậy".
Có rất nhiều điều trong đời, không cần người phải biết, nhưng riêng mình biết, trời biết. Khi chiếc xe của ông đi khuất, đứng lại trên con đường vắng với gió nhẹ mùa hè, tôi thấy mình thấu hiểu hơn, dung nhận rõ nỗi cô đơn của người-trong-cộng-đồng- người.
Và hôm nay, khi nghe tin nhà thơ Du Tử Lê qua đời, tôi tin có không ít đồng loại cúa mình, cũng đang mỉm cười và cô đơn đến cuối cùng.
Em đã nói giúp suy nghĩ của anh rồi đó. Hẹn gặp lại anh, Du Tử Lê.
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 09/10/2019 (tuankhanh's blog)
------------------
TB : Tấm ảnh tôi "rình" chụp ông tại quán café thường ngày, khi đưa ra, ông bật cười và nói "anh nhìn bụi đời dữ vậy Khanh".
********************
Du Tử Lê, tác giả ‘Khúc Thụy Du’, qua đời ở tuổi 77
VOA, 09/10/2019
Thi sĩ Du Tử Lê, nhà thơ quan trọng của nền thi ca miền Nam Việt Nam, qua đời tại thành phố Garden Grove, California, thọ 77 tuổi. Tin này được cô Orchid Lâm Quỳnh, ái nữ nhà thơ, báo tin qua đoạn text có câu : "Bố đã đi".
Du Tử Lê là một trong những nhà thơ có tác phẩm được phổ nhạc nhiều nhất và thịnh hành nhất với công chúng Việt Nam. Trong đó có những tác phẩm trở thành đại chúng, như Khúc Thụy Du, Chỉ Nhớ Người Thôi Đã Hết Đời, Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, Em Ngủ Trong Một Mùa Đông, Giữ Đời Cho Nhau, Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển…
Nhật báo Người Việt dẫn lời cô Orchid Lâm Quỳnh cho biết tim nhà thơ "ngừng đập lúc 8 giờ 6 phút tối thứ Hai, 7 tháng 10".
Hôm 09/10, trên trang Facebook cá nhân của bà Phan Hạnh Tuyền, vợ của ông, ghi : "Ông Ngoại lên trời rồi".
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, bà Trương Đào Diệp Khanh, em vợ của thi sĩ, cũng là người điều phối xuất bản và lưu hành các ấn phẩm thơ tại Việt Nam, nói với VOA rằng nhà thơ ra đi để lại mất mát lớn lao cho gia đình, thân hữu :
"Tình thương của anh dành cho gia đình quá lớn. Anh là là một người anh lớn, một người anh luôn luôn gần gũi và chia sẻ những khó khăn".
Nhà văn Vũ Thư Hiên ở Paris, một người bạn thâm giao của nhà thơ Du Tử Lê, viết cho VOA hôm 09/10 : "Du Tử Lê được thiên hạ biết đến, được nhớ đến, là nhờ những bài thơ không vần với những chấm, phẩy, gạch nối, ngoặc đơn, ngoặc kép và những ký hiệu toán học. Những cái đó là tốt, là xấu, là hay, là dở, tôi không bàn. Trong địa hạt này tôi là kẻ ngoại đạo. Nhưng điều tôi thấy rõ là Du Tử Lê đã và đang làm một cái gì đó chưa từng có".
Ông Vũ Thư Hiên viết tiếp : "Anh là kẻ khai phá. Cái mà anh đang khai phá rồi đi đến đâu là chuyện về sau. Nhưng ngay bây giờ tôi đã bắt gặp đâu đó những người theo chân anh. Như thế, anh không hề đơn độc".
Từ Sài Gòn, nhà thơ Trần Tiến Dũng viết cho VOA, rằng Du Tử Lê "luôn là thi sĩ của tình yêu đôi lứa trong màu sắc triết lý nhân sinh thuần khiết". "Thi sĩ Du Tử Lê thành công ngay cả với thế hệ sinh sau 1975. Ông luôn là thi sĩ của tình yêu đôi lứa trong màu sắc triết lý nhân sinh thuần khiết. Ngôn ngữ thi ca của ông về đề tài này thật tuyệt với đám đông, bởi đó là ngôn ngữ thơ vốn luôn là nhu cầu hiện hữu trong tâm thức khao khát tình yêu của công chúng, bất chấp hoàn cảnh trần trụi tha hoá của ngôn từ tuyên truyền chính trị nhân danh và lồng ghép vào thi ca tình yêu".
Và, vẫn theo nhận định của Trần Tiến Dũng, thơ Du Tử Lê "ngay cả khi bị cho là thời trang, trang điểm cho cảm xúc đám đông thì vẫn luôn đánh thức đươc nhận thức hiển nhiên cho mỗi cá nhân, bất chấp họ thuộc đám đông nào rằng, chính họ luôn có mối tình đẹp, đẹp tuyệt vời để sống và yêu".
Từ California, họa sĩ Trịnh Cung nói ông "bàng hoàng vì bất ngờ nhận được tin bạn mình không còn nữa".
Theo lời họa sĩ, Du Tử Lê và một số bạn văn nghệ ở "Bolsa" vẫn hay hẹn nhau tại cà phê Hạt Ngò, "một quán cà phê quen thuộc, nơi một góc sân, anh vẫn thường ngồi ở đó với một số văn hữu của Bolsa mỗi buổi sáng".
"Du Tử Lê dưới mắt anh em trẻ hơn ở đây là một ngọn lửa, là một ngôi sao để họ tìm thấy một sự ấm áp, một niềm tin đủ để họ yêu và tiếp tục cho việc sáng tác của mình. Hiền lành, nhẫn nhịn và đam mê sáng tác là những đặc điểm mà Du Tử Lê giữ mãi cho đến tận hơi thở cuối cùng. Anh ra đi, tôi mất đi một nơi để hẹn, để chuyện trò, để bàn về những dự án văn học và nghệ thuật cho Bolsa, chỗ anh ngồi mỗi buổi sáng ở đó là một nơi rất cần cho những tháng ngày lưu vong của tôi ở đây. Vĩnh biệt anh, một trong những nhà thơ tài hoa nhất của Sài Gòn trước 1975", vẫn theo lời họa sĩ Trịnh Cung.
Khúc Thụy Du - Thơ : Du Tử Lê - Nhạc : Anh Bằng - Trình bày : Nguyên Khang - Courtesy SBTN
Du Tử Lê, tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Hà Nam. Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào miền Nam. Ông là cựu học sinh trường Chu Văn An, Trần Lục rồi đại học Văn Khoa Sài Gòn, nguyên sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ông làm việc tại cục Tâm Lý Chiến trong vai trò phóng viên chiến trường, trước khi làm Thư ký tòa soạn nguyệt san Tiền Phong. Năm 1969, Du Tử Lê theo học khóa tu nghiệp báo chí tại thành phố Indianapolis, bang Indiana. Năm 1973, ông được trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, bộ môn Thi Ca, với thi phẩm : "Thơ Du Tử Lê 1967-1972", theo trang web của nhà thơ Du Tử Lê.
Ông định cư tại Hoa Kỳ sau biến cố 30 tháng 4/1975. Khởi sự làm thơ rất sớm, từ năm 1953 tại Hà Nội, với nhiều bút hiệu khác nhau, bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai.
Thơ của ông xuất hiện trên nhiều tạp chí trong và ngoài nước. Ông có thơ đăng trên nhật báo Los Angeles Times, 1983 và New York Times, 1994. Ông là một trong 6 nhà thơ Việt Nam thuộc thế kỷ thứ hai mươi, có thơ được chọn in trong tuyển tập "Thi ca Thế giới từ thời Thượng Cổ tới hôm nay"và là một trong 7 nhà thơ miền Nam, được cố nhà văn Mai Thảo chọn là "7 Vì sao Bắc đẩu" của nửa thế kỷ thi ca Việt Nam.
Trong một cuộc phỏng vấn với VOA trước đây, tác giả Khúc Thụ y Du nói :
"Bài Khúc Thụ y Du tôi viết vào năm 1968, khoảng thời gian vừa xảy ra cái tết Mậu Thân. Hồi đó tôi làm phóng viên chiến trường, được cử đi tường thuật về một trận đánh mà tôi còn nhớ là ở trên đường ra Quang Trung.
"Khi tôi đi như vậy thì còn giới nghiêm, dọc đường gần như không có người. Tôi thấy những xác chết, những cánh tay, những phần thân thể bị văng lủng lẳng trên các dây điện. Tôi cũng nhìn thấy những con chó hoang vì chủ đã bỏ đi lánh nạn gậm những khúc xương người. Tôi bị chấn động trước cảnh tượng này và làm ra bài thơ. Khi về một người bạn của tôi ngày đó, anh Trần Phong Giao, làm tờ báo Văn, làm một số báo sau biến cố tết Mậu Thân, hỏi xin bài. Tôi đưa bài thơ đó cho anh.
"Tôi muốn nói Khúc Thụ y Du là một bài thơ mới về chiến tranh. Nó hoàn toàn không phải là một bài thơ tình. Tình yêu trong Khúc Thụ y Du.