Từ ý thức nhân quyền tới nhận thức đa nguyên
Dân chủ là một thể chế mà kẻ được trao quyền lực để thực hiện tam quyền phân lập thay thế nhân dân bầu ra mình trong nghị trường để bảo đảm các định đề của cộng hòa : tự do, công bằng, bác ái trên nền nhân quyền với ba hợp đồng ứng cử-bầu cử-thắng cử có thời hạn dưới sự kiểm tra của dân làm chủ.
Dân chủ là một thể chế mà kẻ được trao quyền lực để thực hiện tam quyền phân lập thay thế nhân dân bầu ra mình trong nghị trường để bảo đảm các định đề của cộng hòa - Ảnh minh họa Hạ viện Pháp
Trong chính sinh hoạt quyền lực, dân chủ tiếp thu sinh hoạt xã hội từ sản xuất tới tiêu thụ cùng lúc có năng lực hội nhập vào kinh tế thị trường, nếu kinh tế có đa năng và đa hiệu về hàng hóa và trao đổi, thì quyền lực dân chủ cũng có đa tài và đa trí về tổ chức các sinh hoạt kinh tế và xã hội.
Ngay trong lý luận và thực hành, dân chủ dựa trên đa nguyên và không ngừng ở không gian giới hạn được khoanh vùng là đa đảng, mà đa nguyên chính là khả năng thích ứng, có từ đa lực sinh động của dân chủ trong đó vai trò của liên minh của các đảng phái với các công đoàn chỉ là một động lực, còn một động lực khác sâu rộng hơn đó là : xã hội dân sự.
Dân chủ : chia sẻ để tái tạo
Sinh hoạt dân chủ là sinh hoạt hội trường trước khi là sinh hoạt nghị trường, trong hội trường của một tập thể, một cộng đồng, một quốc gia, giờ đã tới phạm vi của các châu lục tiến bộ, của toàn cầu hóa văn minh nơi mà con người có thể hội thoại đựơc qua hội đàm, hội luận, hội nghị, hội thảo… Hội thoại chính là sự thông minh của đối thoại trong sinh hoạt dân chủ, có đối diện và có đối đáp vì có đối luận, nhưng không nhất thiết phải trở thành đối phương, không cần thiết phải là đối thủ, nên sinh hoạt dân chủ là sinh hoạt cẩn trọng để không biến đối phương, đối thủ thành kẻ thù, rồi thành tử thù.
Sinh hoạt dân chủ là sinh hoạt hội trường trước khi là sinh hoạt nghị trường - Ảnh minh họa Ủy ban Quốc hội Québec thảo luận về chính sách di dân
Trong độc đảng làm nên độc tài như tình hình của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay thì sự có mặt thường xuyên của thanh trừng để thanh toán nhau, để nắm độc quyền trên độc lộ để độc trị, nên nó chính là bộ máy sản xuất ra kẻ thù và luôn tái sản xuất quy luật tử thù. Hệ lụy của thanh trừng-thanh toán luôn có trong nội chất bất nhân thất đức của nó, vì nó bất chấp đạo lý tổ tiên Việt là phải ăn ở có hậu, tức là phải lấy nhân tâm để điều chế nhân tính, phải lấy nhân từ để điều khiển nhân lý, để nhân nghĩa mở cửa mà chỉ đường cho nhân đạo.
Dân chủ thì ngược lại, đó là khả năng chia sẻ nhân tâm và nhân từ để tái tạo nhân nghĩa và nhân đạo. Chia sẻ nhân tâm và nhân từ để tái tạo nhân nghĩa và nhân đạo, phải tuân theo ít nhất ba định đề của nhân sinh làm nên từ nhân tri và nhân trí :
h vai trò của luân lý biết tôn trọng nhau để bảo vệ công ích ;
h chức năng của kinh tế biết tổ chức sản suất để bảo đảm công bằng ;
h vị trí của lao động biết bảo vệ thành quả lao động bằng công minh.
Ba định đề này sẽ là tiền đề để phân định : "sân chơi", "trò chơi", "luật chơi" của dân chủ trên nền tảng của ba định luận về : công ích, công bằng, công minh. Chính các định đề, tiền đề, định luận này phải được xây dựng trên các quy luật được khách quan hóa trong sinh hoạt của dân chủ :
h tính vô vụ lợi của luật pháp, trong đó có luật lao động và luật xã hội ;
h tính toán khách quan dựa trên khoa học, giúp xã hội có thước đo chính xác ;
h tính đồng nhất của ngôn ngữ để thống nhất ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp.
Chính luân lý công ích, kinh tế công bằng, lao động công minh được trợ lực bằng luật pháp, khoa học trong ngôn ngữ thống nhất đã kiểm tra được ba hệ chủ yếu bảo đảm tính bền vững của một quốc gia, tính tiến bộ của một dân tộc :
h hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) trong đời sống xã hội ;
h hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) trong quan hệ xã hội ;
h hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong sinh hoạt xã hội.
Khi nhận ra bộ ba : đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội thì ta phải nhận ra :
h tổ chức lao động trong đời sống xã hội ;
h phân công lao động trong quan hệ xã hội ;
h hiệu quả lao động trong sinh hoạt xã hội.
Phân tích này không hề trừu tượng, giải thích này không lý thuyết, nó cụ thể trong lịch sử cận đại của văn minh dân chủ, của văn hiến nhân quyền của Tây Âu và Bắc Mỹ. Phân tích này không hề mơ hồ, giải thích này không viễn vông, nó hiện hiện trong lịch sử hiện đại của văn minh dân chủ, của văn hiến nhân quyền của các láng giềng của Việt Nam : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour. Chính luân lý công ích, kinh tế công bằng, lao động công minh được trợ lực bằng luật pháp, khoa học, kỹ thuật chính là tiền đề của tiến bộ làm nên từ văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền, mà tiền đề này đang bị thiêu rụi ngay trên thượng nguồn trong hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) đã sinh sản ra :
- hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng) ;
- hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ;
- hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh).
Giữa dân chủ với độc tài, giữa nhân quyền với độc trị không hề là "cá mè một lứa" mà ngược lại là "một trời một vực" !
Văn hóa dân chủ, văn minh đa nguyên, văn hiến nhân quyền
Dân chủ bắt đầu bằng sự công nhận công bằng không những trên những chuyện đã có mà luôn cho những chuyện đang có trong hiện tại của dân tộc, và sẽ có trong tương lai của quốc gia, trong đó công bằng xã hội được bảo đảm bởi công lý làm nên công luật, tất cả được thảo luận bằng hội thoại qua đối thoại bằng luân lý với sự trợ lực của pháp luật.
Dân chủ bắt đầu bằng sự công nhận công bằng không những trên những chuyện đã có mà luôn cho những chuyện đang có trong hiện tại của dân tộc, và sẽ có trong tương lai của quốc gia - Ảnh minh họa Công lý nghị trường bảo vệ sinh hoạt dân chủ ở Ba Lan
Khi hội thoại qua đối thoại, dân chủ chấp nhận và cho phát biểu để pháp triển sự khác biệt, tính đối kháng, tính nghịch lý để mở cửa rồi mở đường cho sự mâu thuẫn hoàn toàn chính danh vì chỉnh lý trong dân chủ để thực hiện đa nguyên, qua đa quyền lợi, đa giải đáp, đa chọn lựa… bằng quyết định bỏ phiếu, nơi mà thiểu số phục tùng đa số. Tại đây, dân chủ có những định chế rõ ràng để thực hiện sức thông minh của nhân trí bằng sự tôn trọng lẫn nhau của nhân tri :
h Hội trường và nghị trường để hội tụ trong nghị luận các vấn đề không những phải làm trong hiện tại và cần làm trong tương lai.
h Hội trường và nghị trường để hội lý trên nền tảng của công bằng từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động.
h Hội trường và nghị trường để hội luận trên sự phân biệt công ích và tư hữu, để phân loại quyền lợi và quyền hạn, để phân định lợi ích xã hội và tự do cá nhân.
Khi nghiên cứu về lịch sử của dân chủ có nguồn cội trên quê hương Hy Lạp là chiếc nôi của triết học về nhân quyền, có triết lý về nhân sinh, có triết luận về chính thể, thì hai chuyên gia về cổ sử, cổ triết của Hy Lạp đã giúp ta nhận ra tiến trình và tiến hóa của dân chủ :
h Vernant đã mô tả và giải thích sinh hoạt dân chủ bằng không gian dân chủ, nơi mà các nghị viên ngồi theo thế vòng tròn, có tâm điểm là nơi các nghị viên phải vào giữa mỗi khi muốn phát biểu, để lời nói của nghị viên được xem như công cộng giữa công chúng. Và khi nghị viên trở lại chỗ ngồi của mình với vị thế ngoài trung tâm thì nghị viên đã trở lại tư thế cá nhân của mình.
h Détienne đã phân tích và phân giải sinh hoạt dân chủ bằng ngôn ngữ dân chủ nơi mà các nghị viên phát biểu không những bằng kinh nghiệm, bằng hiểu biết mà phải bằng truyền thông biết tuân thủ các phạm trù của hội thoại để tạo điều kiện cho đối thoại, để đa trí xuất hiện cùng đa luận, đa lý.
Kinh nghiệm dân chủ Hy Lạp trên cho ta thấy nội chất của dân chủ không phải là quyền mà là lý :
h lý luận để thuyết minh,
h lập luận để thuyết trình,
h giải luận để thuyết giảng,
h diễn luận để thuyết phục.
Đây là cách xử lý hoàn toàn khác và ngược với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) lấy lực làm quyền, gạt lý để giữ quyền, rồi lấy quyền triệt luận, cầm quyền này để diệt quyền kia, nên :
h cả vú lấp miệng em không có thảo luận,
h cá lớn nuốt cá bé không có hội luận,
h mạnh được yếu thua không có tụ luận.
Nên hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) không có văn hóa của dân chủ qua thảo luận, văn minh của đa nguyên qua hội luận, văn hiến của nhân quyền qua tụ luận, vì bộ ba này của dân chủ biết chấp nhận nghịch lý vì biết tôn trọng đa lý. Khi ta nhận định dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chính là văn hóa, văn minh, văn hiến thì ta sẽ hiểu vai trò của của bộ ba này trong giáo dục xã hội, trong giáo khoa quần chúng, trong giáo trình học đường để giáo dưỡng ngay từ tuổi nhỏ ba liên minh này :
h dân chủ, đa nguyên, nhân quyền chống bạo quyền,
h văn hóa, văn minh, văn hiến chống cuồng quyền,
h giáo dục, giáo khoa, giáo trình chống cực quyền.
Định chế dân chủ trong cơ chế đa nguyên
Định chế dân chủ được xây dựng trong không gian một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc không những có lịch sử với thời gian tính của nó mà có luôn sự phân loại để phân định rõ ràng ba có chế khác nhau trong sinh hoat dân chủ :
h tập hợp chính trị là có chức năng giải quyết các vấn đề về công ích,
h tập hợp kinh tế là nơi đàm phán về các tư lợi cá nhân,
h tập hợp tôn giáo là nơi tín ngưỡng được tôn trọng nhưng nằm ngoài tam quyền phân lập.
Trong tiến trình hoàn thiện từ định chế tới các cơ chế của mình, sinh hoạt dân chủ luôn bị tác động, luôn gặp khó khăn, và luôn phải tìm cách vượt thoát hai trở ngại, vượt thắng hai loại lợi ích mâu thuẫn nhau, chống đối nhau :
h Lợi ích tập thể mà các chuyên gia còn gọi tên là : lợi ích khách quan.
h Lợi ích cá thể mà các chuyên gia còn gọi tên là : lợi ích chủ quan.
Để dung hòa hai lợi ích này trong cùng một không gian dân chủ, để điều chế hai thực tế đối nghịch này trong cùng một không gian nhân quyền, thì sinh hoạt dân chủ đề nghị hai ưu tiên :
h ưu tiên cộng hòa trong tự do, công bằng, bác ái,
h ưu tiên dân chủ trong đa nguyên vì nhân quyền.
Chính sự tương tác giữa nhân quyền và đa nguyên là ưu tiên của mọi ưu tiên trong sinh hoạt dân chủ, để từ đây ra đời : định chế cho công dân, vì công dân, qua ba cơ chế :
h Quyền được giáo dục và huấn nghiệp để thực hiện lợi ích đôi (lợi ích tập thể, lợi ích cá thể).
h Quyền được lao động và hành nghề mà không tạo ra bất công, không gây ra bóc lột.
h Quyền được bảo vệ sự thật vừa bằng chân lý của tri thức, vừa qua thảo luận với tha nhân mà không sợ một bạo quyền nào truy diệt sự thật của mình khi sự thật được xã hội, quần chúng công nhận.
Tại đây, thảm họa sâu xa của Việt tộc từ khi Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền trong độc đảng đã ngăn chặn và xóa bỏ ba tiến trình :
h Cá nhân trở thành cá thể để nhận ra ba quyền : quyền được giáo dục và huấn nghiệp ; quyền được lao động và hành nghề ; quyền được bảo vệ sự thật.
h Cá thể trở thành công dân của cộng hòa trong tự do, công bằng, bác ái, của dân chủ trong đa nguyên vì nhân quyền.
h Công dân trở thành chủ thể trong chủ quyết về hiện tại, chủ đoán về tương lai, và chủ động mọi chọn lựa, mọi hành động để bảo đảm nhân quyền và nhân phẩm của mình.
Hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) khi tạo các trở lực để cá nhân, cá thể không thực sự trở thành công dân và chủ thể, thì ta phải nhận ra là hệ độc này vừa ngăn chặn tự do, công bằng, bác ái ; vừa ngăn cản dân chủ, đa nguyên, nhân quyền, vì nhân phẩm không hề là ưu tiên của nó.
Định chế dân chủ được xây dựng trong không gian một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc - Ảnh minh họa Sinh hoạt dân chủ bắt đầu từ cấp tiểu học ở Âu Châu
Giáo dục về dân chủ
Ngay trên thường nguồn của dân chủ từ khi các lý thuyết gia đã phạm trù hóa định chế của nó để sinh hoạt dân chủ được vinh danh và thăng hoa trong xã hội, thì ta đã thấy vai trò của giáo dục trong phân tích của Montesquieu :
h Giáo dục giúp cá nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra công ích tập thể.
h Giáo dục giúp cá thể yêu nước thương dân qua yêu quý lợi ích tập thể.
h Giáo dục giúp công nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra lợi ích chính trị là bảo đảm, bảo trì công ích tập thể.
h Giáo dục giúp công nhân làm rõ hoài bảo của nhân sinh muốn bảo vệ nhân phẩm của mình trong không gian chung của tập thể mà không quên không gian riêng của cá thể.
h Giáo dục giúp công nhân yêu nước thương dân bằng yêu luật trọng pháp trong đó công bằng là nền của công lý, công lý là mái nóc của công pháp.
Giáo dục về dân chủ phải đa dạng như sinh họat của nhân sinh, tại đây giáo dục về thể chế dân chủ qua định chế và qua cơ chế khác với giáo dục về sinh hoạt dân chủ qua đời sống kinh tế và quan hệ thương mại. Khi tách biệt được hai nội chất rất khác nhau của chúng, các chuyên gia về sinh hoạt dân chủ yêu cầu các chính quyền dân cử phải bảo vệ dân chủ, mà đạo lý đầu tiên là không để quyền lợi nhập vào quyền lực. Cụ thể các chính quyền này không thể để :
h Những chủ nhân giàu đã nắm sức mạnh kinh tế, giờ lại nắm chính quyền.
h Những chủ thầu giàu trong thương mại, giờ lại nắm chính quyền.
h Những chủ đầu tư trong tài chính, giờ lại lại nắm chính quyền.
Vì khi quyền lợi đã nhập nội vào quyền lực, thì nó thí đi đạo lý của công bằng, thải đi đạo đức của giáo dục, có hai tư tưởng gia về sinh hoạt dân chủ đã phân tích sâu vào quá trình giáo dục về dân chủ :
h Rousseau đề nghị phải vô cùng cẩn trọng với cái giàu, và cái nhiều vì khi nó có mặt nó sẽ hủy cái tốt, diệt cái lành, cụ thể là xóa cái đức của dân chủ.
h Montesquieu đề nghị cũng phải cẩn trọng trước các lợi ích của cá thể bất chấp công ích xã hội, vì có sự xung đột giữa những cái ít, và cái nhỏ làm nên cái xấu, tạo ra cái tồi, để rồi diệt đi cái giáo của dân chủ.
Khi công nhận là có lòng tham không đáy của kẻ giàu, cùng lúc cũng thừa nhận là có cái tham không lường được của kẻ nghèo, thì giáo dục về dân chủ đi thêm một bước nữa để làm sáng tỏ một sức mạnh kinh tế có trong sinh hoạt dân chủ, đó là tự do thương mại :
h Nếu tự do thương mại là tự do trao đổi hàng hóa giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, giữa các vùng miền, giữa các châu lục… thì động cơ của tự do thương mại rất tốt lành cho quan hệ quốc nội và quốc ngoại, cho quan hệ quốc tế, cho quan hệ liên vùng, liên châu lục.
h Nhưng nếu tự do thương mại là tự do mua gian bán lậu, lại dựa trên sự bóc lột của kẻ giàu là chủ trên lưng, trên đầu kẻ nghèo là thợ với điều kiện lao động tồi, với lương bổng tục, thì phải kết án và đặc biệt cảnh giác về loại thương mại này, vì chính nó sẽ lén lút diệt dân chủ bằng bóng đêm bất công của nó.
Hãy tạm ngừng tại đây để thấy sự khác biệt sâu xa giữa các luận thuyết đã làm nên dân chủ cho Âu Châu từ thế kỷ thứ XVIII được gọi là thời đại của Ánh Sáng với các triết gia, tư tưởng gia, các chuyên gia với phân tích để phân loại của Khổng giáo. Tại Âu Châu, sinh hoạt dân chủ phân biệt rành mạch tự do thương mại qua hợp tác, hoàn toàn khác với tự do thương mại bằng bóc lột ; trong khi đó Khổng giáo áp đặt vị thứ xã hội : nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương, đã đẩy thương gia xuống đáy tổ chức xã hội, chỉ vì ngờ vực thương mại là sinh hoạt ăn không ngồi rồi trong mua gian bán lận, vì lấy buôn làm lãi mà không lấy công làm lời.
Bảo hiểm xã hội và độc lập kinh tế
Tại Âu Châu, trong quá trình bảo đảm sinh hoạt dân chủ, thì Montesquieu trong tác phẩm L’esprit des lois (lý trí của luật), năm 1748, tập 5 và chương 6, còn đi xa hơn khi lý luận là kẻ giàu sẽ giàu hơn nhờ thương mại, thì họ phải có đạo đức trả thuế cao hơn để kẻ nghèo được tạo điều kiện lao động tốt, làm việc theo khả năng của mình mà luôn được điều kiện vật chất lành để được đủ sống. Như vậy, điều kiện lao động tốt và điều kiện vật chất lành để đủ sống, để cho ra đời mệnh đề ý nguyện làm nên ý lực : sống đủ để được sống tốt và lành, có trong lý luận làm nên luận thuyết của dân chủ.
Chính Hoa Kỳ là quốc gia với kinh nghiệm hợp chủng quốc của mình đã nhận rõ và sâu vai trò của kinh tế và thương mại trong sinh hoạt dân chủ, một sinh hoạt vừa cần công bằng, vừa cần công luật, vừa cần tự do vừa cần các bảo hiểm để tự do ngày càng có tự chủ trước các bất bình đẳng, ngày càng được độc lập trước các bất công. Nhiều luật gia cùng nhiều lãnh tụ chính trị đã phân biệt được hai loại sinh hoạt kinh tế rất khác nhau đã xuất hiện qua hai thế chiến trong thế kỷ XX. Sinh hoạt kinh tế bằng tự lập lao động đóng góp công ích xã hội nên cần thiết cho sự trường tồn của dân chủ ; nó ngược lại với sinh hoạt thương mại xuất nhập khẩu với số lượng làm nên lợi nhuận cao, có thể thao túng công bằng xã hội, từ đó có thể lũng đoạn dân chủ. Từ lý luận trên, tổng thống Roosevelt lập ra một danh sách các sinh hoạt lao động, kinh tế, thương mại, tài chính có lợi hoặc có hại cho sinh hoạt dân chủ, mà tổng kết các sinh hoạt này đưa ông tới kết luận sau :
h Tự do cá nhân sẽ không toàn vẹn khi cá thể không có bảo hiểm ngay trong lao động.
h Tự do cá nhân phải dựa vào lao động biết làm nên độc lập kinh tế.
h Tự do cá nhân sẽ không có nếu kẻ đói chính là người thất nghiệp.
h Tự do cá nhân sẽ thành mây khói nếu cá nhân là kẻ sống bám vào xã hội.
h Tự do cá nhân sẽ tan khi độc lập kinh tế mất, cá nhân này sẽ là mồi cho độc tài, sẽ làm chất dinh dưỡng cho độc trị.
Như vậy, không có tự do tức là không có dân chủ, và độc tài phản tự do sẽ đến, độc trị phản dân chủ sẽ xuất hiện, phải đi sâu hơn vào lý luận về sinh hoạt dân chủ qua phương pháp phân tích tới từ dân chủ Hoa Kỳ :
h Bảo hiểm kinh tế qua lợi tức luôn thiết yếu trong đời sống dân chủ.
h Độc lập kinh tế qua lao động luôn chủ yếu trong sinh hoạt dân chủ.
Bảo hiểm kinh tế để bảo đảm chi tiêu về vật chất, giáo dục, xã hội, văn hóa… Độc lập kinh tế không những để bảo đảm các chi tiêu này mà còn để bảo trì các phương án cho cuộc sống tương lai, nơi mà sinh hoạt dân chủ tạo được điều kiện cho cá nhân thành tựu trong học đường, thành tài trong nghề nghiệp, thành đạt trong xã hội. Nên hai mệnh đề bảo hiểm kinh tế nơi mà xã hội phải lo cho cá nhân, và độc lập kinh tế nơi mà cá nhân tự lo cho mình và còn có thể lo cho xã hội. Hai mệnh đề này không những khác nhau mà còn đối chọi nhau, kình chống nhau trong sinh hoạt dân chủ, và cả hai luôn là hai mệnh đề rất hiện đại, để hoàn thiện thể chế dân chủ, sinh hoạt dân chủ và giáo dục về dân chủ.
Chính Hoa Kỳ là quốc gia với kinh nghiệm hợp chủng quốc của mình đã nhận rõ và sâu vai trò của kinh tế và thương mại trong sinh hoạt dân chủ - Ảnh minh họa sách De la Démocratie en Amérique của Alexis de Tocqueville (1835)
Sự thật của dân chủ
Khi dân chủ không chỉ là một thể chế lấy công lý để đảm bảo cho một chế độ vì tự do-công bằng-bác ái, mà còn là sinh hoạt dân chủ làm nên quan hệ dân chủ, với giáo dục dân chủ làm nên đời sống dân chủ. Muốn có tất cả thực tế này, thì sinh hoạt dân chủ luôn dựa vào thượng nguồn chính là tiền đề của dân chủ, đó là sự thật. Với sự thật từ dữ kiện tới chứng từ, từ giải thích tới giải luận để sự thật phải là chân lý, tức là gốc, rễ, cội, nguồn của mọi phân tích về cái thật của sự việc. Hãy định nghĩa sự thật : "sự thật là diễn biến của sự việc được mô tả trung tín từ quá khứ qua hiện tại cho tới tương lai". Sự thật luôn mang ít nhất ba nội chất : sử tính, đức tính và luật tính. Chính sự thật có chân lý sẽ mở cửa cho lẽ phải xuất hiện, để sinh hoạt dân chủ luôn có hùng lực để chống mà loại đi :
h Cái nói sai của mỵ dân.
h Cái nói láo của đạo đức giả.
h Cái nói khoét của tuyên truyền.
Mà tất cả ba : nói sai, nói láo, nói khoét đều có trong hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) mà Việt tộc đã nghe quen tai, rền tai, điếc tai từ khi Đảng cộng sản Việt Nam nắm chính quyền. Thảm trạng của nói sai, nói láo, nói khoét không những là động cơ tuyên huấn của toàn trị mà còn là phản xạ của liên minh tham quyền-lạm quyền-lộng quyền mà sinh hoạt dân chủ quyết trừ khử cho bằng được ; nếu không nó sẽ vào quỹ đạo của cực quyền chính là cha sinh mẹ đẻ của cuồng quyền. Mà cực quyền và cuồng quyền thì không đội trời chung với dân chủ, vì dân chủ lấy dân quyền để làm chủ quyền vì nhân quyền !
Bi nạn độc đảng từ độc đoán đã bứng đi ba nội chất của sự thật : sử tính, đức tính và luật tính, đã và đang đi trên lưng, trên vai, trên đầu của Việt tộc hiện nay là :
h nói sai của mỵ dân không bị xử,
h nói láo của đạo đức giả không bị phạt,
h nói khoét của tuyên truyền không bị án.
Vì văn hóa của độc đảng bằng công an trị làm nên độc quyền không có văn minh của nhân cách biết và phải từ chức khi nói sai, nói láo, nói khoét bị vạch mặt chỉ tên như trong sinh hoạt dân chủ mà chúng ta thấy từ Tây Âu tới Bắc Mỹ, và gần hơn nữa là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour… Cuộc đấu tranh cho dân chủ xuất hiện trên số phận của Việt tộc là cuộc đấu tranh gặp cũng ít nhất ba trở ngại :
h sử tính, mang sự thật lịch sử đã bị thay trắng đổi đen bởi Đảng cộng sản Việt Nam ;
h đức tính, mang giáo lý của tổ tiên Việt đã bị vùi dập bởi Đảng cộng sản Việt Nam ;
h luật tính, mang công lý của luật pháp đã bị bóp nghẹt bởi Đảng cộng sản Việt Nam.
Khi cả ba : sử tính, đức tính, luật tính bị loại ra khỏi không gian quyền lực của độc tài, thì chính trị học và xã hội học đã có cùng một phân tích là : tính can đảm của nhân lý làm nên nhân phẩm sẽ đứng lên để lập lại :
h sử định, hiểu lịch sử và quyết định làm tốt hơn lịch sử ;
h đức định, hiểu đạo lý và quyết định làm tốt hơn giáo lý ;
h luật định hiểu công lý và quyết định làm tốt hơn công luật.
Liên minh sử định-đức định-luật định, làm nên luân lý của dân chủ, quyết định đúng tới tự quyết đoán đúng, với chủ thể can đảm bảo vệ sự thật để chủ động bằng nhân lý biết bảo vệ nhân phẩm. Mọi chọn lựa của can đảm có cái giá của nó, và cái giá của can đảm là chấp nhận hy sinh, với các hậu quả mà chủ thể của sự thật lường trước được :
h Nói đúng sự thật để tố cáo độc tài là chấp nhận bị tra tấn bằng các ma thuật độc hại nhất.
h Nói đúng sự thật để luận tội độc trị là chấp nhận bị tù đày mà không được luật pháp bảo vệ.
h Nói đúng sự thật để buộc tội độc quyền là chấp nhận bị sát hại dưới nhiều hình thức.
Với biệt danh "mưu hèn kế bẩn", cùng biệt hiệu "hèn với giặc, ác với dân" thì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã sử dụng cả ba : tra tấn, tù đày, sát hại, đây cũng là ba thảm bại của người cộng sản từ gần một thế kỷ qua khi cướp được chính quyền :
h Đưa lịch sử Việt vào ma sử của tà quyền trong độc trị.
h Dẫn nhân lý Việt vào tà lộ của vô minh trong độc tài.
h Đẩy nhân phẩm Việt vào quỷ thuật của thất đức trong độc đảng.
Quỷ lộ "ác với dân" của bạo quyền độc đảng luôn toan tính để tính toán trên ba hành vi vắng đạo lý, trống luật pháp để chống lại sự can đảm :
h Tính khuất phục của quần chúng để áp đặt tính thuần hóa không nhân lý.
h Tính khiếp phục của quần chúng để áp đặt tính huấn nhục không nhân tính.
h Tính vô cảm của quần chúng để áp đặt tính vô giác không nhân tri.
Mỗi lần tính khuất phục, tính thuần hóa, tính khiếp phục, tính huấn nhục, tính vô cảm, tính vô giác xuất hiện thì nhân lý, nhân tính, nhân tri sẽ tiêu loãng rồi tiêu tán cùng nhân phẩm. Ngược lại, hành tác dân chủ từ định chế tới sinh hoạt luôn luôn bảo vệ, vinh danh, thăng hoa nhân lý, nhân tính, nhân tri để bảo đảm nhân bản, nhân văn, nhân tâm làm nền cho nhân vị để nhân phẩm nhìn thẳng, đứng thẳng, đi thẳng tới sự thật, chân lý để gặp lẽ phải. Chính dân chủ đã tạo tiền đề cho nhân phẩm nhận ra là : nhắm mắt trong khuất phục, cúi đầu trong thuần hóa, khoanh tay trong khiếp phục, quỳ gối trong huấn nhục, để quỵ trong vô cảm, gục trong vô giác không phải là nhân lộ mà là súc đạo của vô tri. Nếu nhận súc đạo là đường đi nẻo về của mục súc không tri thức, thì không khác gì gỡ, tháo, bỏ, vứt đi nhân quyền ngay trong nhân sinh.
Tự do cõng dân chủ
Khi tính khuất phục, tính thuần hóa, tính khiếp phục, tính huấn nhục, tính vô cảm, tính vô giác đã nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc tài thì các nhục tính này phải chấp nhận một loạt những hệ lụy khác :
h Bạo quyền liên minh với tà quyền để tham quyền.
h Bạo quyền liên minh với ma quyền để lạm quyền.
h Bạo quyền liên minh với quỷ quyền để lộng quyền.
Tại đây các thuật ngữ : tà quyền, ma quyền, quỷ quyền không phải là những ngữ văn để chỉ trích, chê bai, thóa mạ, phỉ báng, mà chúng chính là những mô hình giải thích quyền lực của hệ bất (bất tín, bất trung, bất tài, bất nhân) diệt đạo lý, triệt pháp lý ; để từ đó chúng ta lập được mô thức giải luận để phân tích tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, đây là các quyền lực chống hệ công (công lý, công luật, công pháp, công tâm). Nếu không giải luận rồi diễn luận tới nơi tới chốn quá trình từ mô hình giải thích tới mô thức giải luận, thì ta sẽ không thấy để thấu là trong quyền lực có hệ lụy mà tâm lý học, phân tâm học, tâm thần học, đã giải thích :
h Bạo quyền sẽ thay hình đổi xác để thành cực quyền, một loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng khử trừ mọi đối trọng, đối kháng khác với nó.
h Bạo quyền sẽ thay thân đổi dạng để thành cuồng quyền, loại quyền lực tuyệt đối sẵn sàng truy diệt mọi đối thoại, đối luận khác với nó.
Cực quyền là chuyện có thật tại Việt Nam hiện nay, chỉ một nhúm nhỏ có cực quyền trong Thành ủy của thành Hồ, đã ký một quy hoạch mà ta có thể gọi là quỷ hoạch biến hơn chục ngàn dân tại Thủ Thiêm là dân lành một sớm một chiều thành dân oan từ hơn hai mươi năm qua. Cuồng quyền là chuyện có thật tại Việt Nam hiện nay, chỉ cũng một nhúm nhỏ chóp bu nắm cuồng quyền đã dùng ba ngàn công an để hành sát xã Đồng Tâm, để hành quyết cụ Lê Đình Kình, một đảng viên kỳ cựu của Đảng cộng sản Việt Nam rồi phanh thây mổ bụng cho quần chúng xem để gây sự khiếp phục rồi thuần hóa quần chúng bằng cực của cực đoan, cuồng của cuồng điên ; bất chấp đạo lý của nhân tính, bất tuân công lý của pháp luật. Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền 1945, tới thắng cuộc trong nội chiến huynh đệ tương tàn, thì cực quyền và cuồng quyền là chuyện "cơm bữa" ngày ngày gieo lên lưng, lên đầu con dân Việt.
Khi nghiên cứu về sự khác biệt giữa thể chế dân chủ và bạo quyền độc đảng, thì ta phải đặt trước ánh sáng của sự thật để vạch trần bóng tối của âm binh, tại đây bạo quyền độc đảng chính là cha sinh mẹ đẻ của :
h tà quyền, ma quyền, quỷ quyền ;
h tham quyền, lạm quyền, lộng quyền ;
h cực quyền, cuồng quyền.
Tại đây, chính tự do được bảo vệ sự thật đã hình thành sinh hoạt dân chủ, mà dân chủ không chỉ là một thể chế, một chế độ mà trước hết nó là giáo lý của tự do làm nên giáo dục vì công bằng, giáo khoa vì bác ái. Cũng chính tự do được bảo vệ sự thật dựng lên nhân sinh quan sống với sự thật, tạo ra thế giới quan đấu tranh vì sự thật, chế tác ra vũ trụ quan luôn minh bạch trước sự thật, để mở đường cho lẽ phải chính là nhân lộ của nhân bản. Khi con người để đánh mất tự do được bảo vệ sự thật, con người sẽ đánh mất tiếp ít nhất ba loại tự do khác dựng lên nhân vị của con người :
h tự do được giải thích để giải luận sự thật,
h tự do được đối thoại để đối luận về sự thật,
h tự do ngôn ngữ để ngôn thuận trước sự thật.
Khi mất ba tự do này, thì con người đã xa văn minh dân chủ, đã rời văn hiến nhân quyền. Khi để tuột mất ba tự do này, thì con người đã mất nhân vị, đã bị lùi thấp trong nhân tri, mà tổ tiên Việt đã phân tích rõ ràng để phân loại rành mạch đó là số phận của con sâu cái kiến, ngắn cổ bé họng, ít hơi ngắn tiếng… Đây là thảm họa của Việt tộc dưới bạo quyền độc đảng hiện nay. Cuộc đấu tranh vì dân chủ trước hết là cuộc tranh đấu vì nhân tính, nơi mà nhân quyền đã mở các chân trời để công dân thành chủ thể :
h chủ thế của sử tính, hiểu lịch sự để làm tốt hơn lịch sử ;
h chủ thế của đức tính, hiểu đạo đức để làm đẹp giáo lý ;
h chủ thế của luật tính, hiểu công bằng để giữ công lý.
Sự kết hợp các khảo sát đã mở đường cho liên minh trong nghiên cứu của tất cả các ngành khoa học xã hội và nhân văn, để từ đó có đồng thuận trong phân tích và giải thích về hậu quả mất nhân tính trước độc tài của độc đảng sự tha hóa trong quyền lực đã biến :
h bạo quyền khi trở thành tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, đã đẩy nhân sinh vào lộ trình vô nhân tính ;
h bạo quyền khi trở thành tham quyền, lạm quyền, lộng quyền đã đẩy nhân loại vào lộ trình vô nhân bản ;
h bạo quyền khi trở thành cực quyền, cuồng quyền đã đẩy nhân thế vào lộ trình vô nhân văn.
Các câu trả lời chỉnh lý trong toàn lý đã có mặt trong các chân trời của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền
Được gì ? Mất gì ?
Trong tư duy sâu lắng nhất của mọi công dân Việt, chúng ta phải trả lời các câu hỏi chúng ta đã : được gì ? mất gì ? ngay trong nhân kiếp hiện nay của chúng ta dưới độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam :
h Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản kháng chiến để giành lại độc lập cho dân tộc trong tay thực dân, đế quốc để bây giờ chính các lãnh đạo cộng sản nhận Tàu tặc đã cướp đất, biển, đảo của chúng ta, xem bọn Tàu tà này là bạn, là anh, là cha thì chúng ta được gì ? mất gì ?
h Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản khi thống nhất đất nước là sẽ xây dựng đất nước đẹp hơn 10 lần xưa, bây giờ đất nước là bãi rác của ô nhiễm hóa chất của Tàu họa, nhiễm ô bất nhân với môi trường, thất đức với môi sinh, từ bauxite Tây Nguyên tới thảm họa Formosa, với nhiệt điện than của Tàu nạn trùm phủ lên số phận Việt, thì chúng ta được gì ? mất gì ?
h Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi cả tự do, để chọn an ninh xã hội kiểu công an trị, bây giờ chính công an tổ chức đánh bạc lận, cướp đất giết người, cướp của giữa ban ngày cùng với côn đồ, du đảng, lưu manh của xã hội đen, thì chúng ta được gì ? mất gì ?
h Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi công bằng trong văn minh để cúi đầu trước tư bản đỏ, tư bản thân hữu, của loại tư bản man rợ của tiền tệ-quân hệ-hâu duệ với phản xạ cướp ngày là quan, đã biến hằng triệu dân lành thành dân oan, thì chúng ta được gì ? mất gì ?
h Chúng ta tin và nghe lời các lãnh đạo cộng sản để đánh đổi bác ái có trong dân chủ để nhận độc đảng trong độc quyền để độc tôn sau khi vơ vét bằng tham nhũng, sau khi nạo vét tới cùng tận tài nguyên đất nước bằng tham ô ; cùng lúc dùng xuất khẩu lao động để vơ vét tiếp, biến nhân kiếp lao động Việt thành lao nô, nô tỳ cho các quốc gia láng giềng thì chúng ta được gì ? mất gì ?
Hãy trả lời cho rành mạch là :
h Nếu không có các giá trị nhân bản của cộng hòa là tự do, công bằng, bác ái thì nhân kiếp Việt còn giữ được nhân phẩm Việt trước nhân vị Việt không ?
h Nếu không có các giá trị nhân lý của dân chủ là đa nguyên trong nhân quyền nhân sinh Việt còn giữ được nhân trí Việt trước nhân tâm Việt không ?
Hãy chọn các câu trả lời hợp với :
h Nhân tâm Việt trong một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
h Nhân từ Việt trong bầu ơi thương lấy bí cùng.
h Nhân nghĩa Việt trong miếng khi đói bằng gói khi no.
Mà các câu trả lời chỉnh lý trong toàn lý đã có mặt trong các chân trời của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền.
Lê Hữu Khóa
(09/05/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.