Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

14/07/2020

Ngữ luận 5 : Ma - Mặt

Lê Hữu Khóa

Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức

Ngữ luận 5 : Ma - Mặt

 

ma01

Ma

 

Ma, đây không phải con ma mà người ta không thấy ma hay kể về nó trong các truyện ma, mà là mặt người chất ma, là ma tiền làm ra ma quyền có mặt hằng ngày trong đời sống hội, với quyền lực mờ ám của tham tiền, tạo nên tham tiền trị trong quan hệ xã hội, nó xuất đầu lộ diện trong sinh hoạt xã hội, với ma lực của nó chính là sức mạnh của đồng tiền. Shakespeare nhận rõ ma lực của đồng tiền ma lực biết đổi trắng thay đen : "Có chút vàng trong tay thể đổi da mình đen thành ra da trắng". Marx, cha sinh của thuyết cộng sản, mẹ đẻ của duy vật biện chứng, còn đi xa hơn trước ma lực của đồng tiền : "Có tiền, thì thể tổ chức đám cưới cho mọi bất khả thi, có tiền thì có thể kết hôn cho những chuyện tưởng không bao giờ thực hiện được".

Ma tiền của quyền, ma quyền của tiền

Câu chuyện ma lực đồng tiền tưởng đã cũ, vì ai cũng biết, nhưng ma lực của tiền này giúp ta khám phá ra ma lực tiền kia, ngày nay có Bill Gates, một trong những kẻ có tiền nhiều nhất hiện nay nhờ buôn qua bán lại khoa học truyền thông trong bối cảnh toàn cầu hóa lại dùng tiền của mình để phục sự khoa học. Hỗ trợ để cổ vũ không chỉ một khoa học nhiều khoa học, dùng tiền làm khoa học mạnh lên, và khi khoa học mạnh lên rồi thì khoa học sẽ phục vụ còn người hay hơn, giỏi hơn, khá hơn. Chưa hết, người này còn dùng tiền để làm chuyện từ thiện, cụ thể là bứng đi cái khốn đã tạo ra cái khổ, nhổ đi cái bần tạo ra cái hàn, rồi những ai đã được ra khỏi cái khốn, cái khổ, cái bần, cái hàn, thì sau đó sẻ dể ra khỏi cái nghèo, cái quẫn. Cụ thể là vận dụng tiền để bứng cái khốn, nhổ cái bần, tách cái nhọc ra khỏi cái nghèo, rồi đưa cái nghèo về phía cái đủ : đủ ăn, đủ mặc, đủ sống, cụ thể là giúp con người nhận lại nhân phẩm, để tiếp tục phấn đấu mà xóa đi cái khốn, cái khổ, cái bần, cái hàn, để chúng không biến trần gian thành địa ngục nữa.

Chính Hugo, rồi Péguy trong buổi giao thời cuối thế kỷ XIV qua đầu thế kỷ XX, khi nhân loại bóc lột lẫn nhau trong quá trình công nghiệp hóa vì tiền, đã khai thị cho loại người tiền trí tuệ kiểu Bill Gates, khi họ giãi thích nếu muốn giải tỏa cái khốn làm ra cái hèn, cái bần làm ra cái nhục. Trong thuyết luận tiền của Hugo, kẻ có tiền ngày càng nhiều tiền đóng vai người giầu, kẻ bị bóc lột người càng bị vùi sâu từ khốn khổ tới khốn cùng. Trong luận thuyết tiền của Péguy thì tiền luôn là con dao hai lưỡi, nếu không nói là trăm lưỡi, sắc nhọn khi đâm gục nhân cách, sắc bén khi chém giết ngã nhân phẩm. Từ ma lực của tiền người ta mua được mọi thứ, tiền mua tiên cũng được, sau khi soát lại các tương gia đã chắp bút viết về ma lực của đồng tiền, thì tôi khám phá kẻ dùng tiền mua tiên không phải kẻ khôn. trong giãi thích của tổ tiên Việt :

"Người khôn chưa đắn đã đo

Chưa ra tới tới biển đã dò nông sâu".

Đám dùng tiền mua tiên theo kiểu lấy vật chất đè nhân cách, thì chắn chắn không phải là nhân loại thông minh trong giáo lý Việt biết phân biệt khôn ngu :

"Rồng vàng tắm nước ao tù

Người khôn ở với người ngu bực mình".

ma2

Ma tiền làm ra ma quyền có mặt hằng ngày trong đời sống hội, với quyền lực mờ ám của tham tiền, tạo nên tham tiền trị trong quan hệ xã hội

Nhân loại giải ma loài

Khi tôi nghiên cứu về giới có tiền mua tiên, khảo sát về cách dùng tiền, điều tra về lối tiêu tiền, điền dã về cách vung tiền của giới mới giầu này, thì đại đa số bị xếp loại bởi dân chúng là : trọc phú. Cách đặt tên xếp loại này rất đúng ! Có tiền mà không có văn hóa, có của mà không có tri thức, nên giầu mà không sang, nên lắm bạc nhiều tiền nhưng vẫn loại người ngu, không cách, vắng phong cách, trống nhân cách. Phân tích cái ngu này của trọc phú, thì nên vận dụng từ ma của ngôn ngữ học tri thức để nhận ra hậu quả của cái ngu khi nó dùng tiền trong ma đạo của nó. Khi cái ngu song lứa với ma lực tiền thì nó có tính toán ích kỷ thô thiển nhất, với toan tính vụ lợi thấp hèn nhất. Từ đây tôi đi tìm các giải luận của xã hội hội học nhân thức để nhận định chuyện gì đang xãy ra trong xã hội việt hiện nay ? Đó là chuyện của những kẻ có tiền và có quyền mà ngu đang đe dọa mọi giáo lý của tổ tiên Việt, mọi luân lý gióng nòi Việt, mọi đạo đức của cộng đồng Việt, cụ thể đám giầu ngu này đang trùm phủ cái ngu lên cái khôn của Việt tộc.

Khi bọn giàu ngu trong xã hội Việt hiện nay tự vỗ ngực trong cái đần độn vì tiền của nó : "Một chuyện không mua được bằng tiền, sẽ mua được với rất nhiều tiền", đây là loại lanh trong ngõ cụt,không phải loại người khôn tìm ngõ ra. Bọn khôn quá hóa dại này lại ngày ngày sinh sôi nẩy nở trong chế độ toàn trị độc đảng đã giáo dưỡng chúng bằng tham nhũng trị song cặp, chung lứa cùng tham tiền trị, nên chúng sinh sống sinh hoạt hoàn toàn trái ngược với giáo tổ tiên Việt :

"Không bán linh hồn cho quỷ", dù là quỷ tiền, quỷ bạc, quỷ vàng, vì sao ? Chỉ "Sống lâu mới biết lòng người có nhân" ; chỉ vì "Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn" ; chỉ vì "một duyên, hai nợ, ba tình". Nơi mà chữ nợ đây không phải là nợ tiền, nợ bạc, nợ vàng, mà là nợ duyên, nợ tình, nợ nghĩa trong nợ với đời là phải làm người liêm chính trong liêm khiết với cùng với tha nhân, đồng loại, đồng bào, trong nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành, với nhân nghĩa cao, sâu, xa, rộng. Tổ tiên Việt khuyên con cháu không quáng, đớ lười, chết dở tiền ! nếu quáng, đớ lười, chết dở vì tiền, thì đúng là ma chớ không phải là người !

Việt tộc đã xếp loại được nhiều giống ma bằng ngôn ngữ học nhân gian, trong bài này chỉ xin nêu ra vài giống ma mang nhân dạng người nhưng có bản chất ma, sống với người chỉ để hại người trong xã hội việt hiện nay. Nhân cách của bọn thành ma vì tiền này thua xa các oan hồn bị oan án mà quanh quất cõi nhân sinh đêm đêm gọi gào đền ơn báo oán ; các oan hồn bị đặt tên là ma, nhưng họ rất có nhân cách, họ không để quyền của tiền thao túng, giật dây, khống chế họ, nên chất người của các oan hồn này nhiều gấp vạn lần bọn thành ma vì tham tiền trong tham ô tham nhũng. Ta ma ẩn núp trong bóng đêm, hội xấu chui luồn ngay từ bóng tối này qua bóng đêm kia để thừa gió bẻ măng. Ta có ma trơi vật vờ bay lượn trong từ góc khuất này qua góc sám kia, có thời cơ tồi là chúng làm chuyện cốc mò cò ăn. Ta có ma bùn nhớp nhúa trong bùn nhơ, đã sống nhờ bùn nên chúng không sợ bi vấy bùn từ nhân cách tới nhân phẩm, chúng chực chờ thời điểm tục thừa nước đục thả câu. Đám ma này sinh sôi nảy nở trong ma đạo của tham nhũng trị sinh đôi với tham tiền trị, luôn được hà hơi tiếp sức bởi công an trị được một ma vương tổ chức cho sinh sôi nẩy nở trong độc trị để toàn trị, bằng độc đảng trong độc quyền của độc tôn. Đây là hệ thống phân loại hóa của ngôn ngữ học tri thức biết dựa vào dân tộc học nhận thức trước các bất công đang chồng chất lên hội Việt hiện nay. Nên từ ma trong bài này để dùng cho loại ma vô cùng độc hại vì nó độc đoán trong chính hệ độc do nó đề ra, để áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc, trong đó độc đảng là cha sinh mẹ đẻ của độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn.

ma3

Khi bọn giàu ngu trong xã hội Việt hiện nay tự vỗ ngực trong cái đần độn vì tiền của nó : "Một chuyện không mua được bằng tiền, sẽ mua được với rất nhiều tiền"…

Nhân vị định ma vị

Định loại ma xong thì xã hội học nhận thức phải điều tra trong điền dã để định vị ma. Ma loại này không sống trong các xóm chuột của khốn cùng, trong các làng ung thư của nhiễm ô công nghiệp tới từ Tàu tà ngoại xâm. Chúng là nội xâm ma xó, ma trơi, ma bùn đã mở cửa cho Tàu tặc đến làm tan hoang đất nước Việt ; băng hoại hội Việt, tha hóa dân tộc Việt, biến chất gióng nòi Việt. Bọn ma này sống trong các biệt thự, biệt dinh, biệt phủ, sống tách biệt với dân chúng nheo nhóc trong bần hàn, với dân tộc nhọc nhằn trong chén cơm manh áo. Mùa dịch cúm Tàu chưa tới chúng đã sống cách ly với dân tôc, cách biệt với dân chúng, cách xa với quần chúng. Đừng mong tìm chúng giữa đám dân lành ngày ngày đầu tắt mặt tối với cơm áo gạo tiền. Đừng mong thấy chúng trong đám dân đen một nắng hai sương trong nhọc nhằn ăn bửa sáng lo bửa tối. Nhất là đừng mong trông ra ma dạng của chúng trong cộng đồng dân oan, đã lên hằng triệu người ngay trên quê hương khốn khổ này ; đã bị chúng phá nhà để cướp đất, từ dân lành, dân đen một sớm một chiều giờ đây đã thành dân oan, vất va vất vướng nơi đầu đường chợ, vật vờ trắng kiếp trong màn trời chiếu đất.

Định loại ma để định vị ma thì phải đi thêm bước nữa trong khảo sát sâu để được hiểu rộng mà định tầng ma, nơi mà ma vương ma lãnh đạo dùng ma quyền công an ma, côn đồ ma, du đãng ma, lưu manh ma của xã hội đen (đen vì đã là ma) để hiếp đáp, đàn áp, khủng bố dân lành, dân đen, dân oan. Chưa xong, đối thủ của ma vương, làm cho ma vương mất ăn mất ngũ chính là các đứa con tin yêu của Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền, ngày đêm bị ma vương này truy cùng diệt tận, rồi đưa vào vào lao lý với bao nhục hình, đó là các tù nhân lương tâm ! Vì các đứa con tin yêu của lương tâm này đã vận dụng nhân đạo để trừ ma, tận dụng nhân tri để diệt tà, họ đứng về phía ánh sáng của sự thật để soi rọi các giai tầng trọc phú ma trong chế độ toàn trị của ma. Các nhân lương tâm này đứng về phía măt trời của chân lý để soi tìm giai cấp tham quan ma trong có chế tham nhũng ma, để làm rỏ lên lẻ phải của hệ nhân (nhân quyền, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân tri, nhân trí). Giống ma tham tiền này rất sợ loại người-có-nhân này.

Định tầng ma sau khi đã định loại ma định vị ma, giờ phải định lợi ma, nơi cái lợi, cái lời của giống ma này được hành tác trong bạo quyền thanh trừng với bạo lực thanh toán lẫn nhau, trong bạo hành của giết chóc, trước diệt nhau ngoài đời, sau giết nhau trong tù. Với bao tướng đã bỏ mạng, với bao bộ trưởng trong vào lao lý, với bao lãnh đạo một sớm một chiều mất mạng như chơi, giữa không gian đồng chí của mình với ảo tưởng còn đảng còn mình. Định lợi ma thì phải thấy được sào huyệt ma, không phải trên núi cao, trong thung lũng sâu, mà ngay trong Bộ công an, với các tướng công an tổ chức đánh bạc, để nhận tham nhũng bạc tỷ. Định lợi ma thì phải thấy được hang ma không trong đường hầm, chẳng trong địa đạo mà ngay trong chính quyền với chính phủ có các bộ trưởng chân dung người nhưng nội chất ma, mua đài truyền hình này, mua ngân hàng kia với tiền thuế của dân, rồi đi đường vòng ma của biển lận, để sau đó bỏ riêng vào túi của mình hàng triệu đô la mỹ. Định lợi ma thì phải thấy được âm đạo ma, từ thợ nhôm chớp nhoáng lên làm thượng tá công an để nhanh nhẩu buôn gian bán lận đất đai công rồi biến thành của cải riêng, vì nhờ có quan hệ mật thiết ma vì biết chia chác ma từ lãnh đạo cao nhất nước, không quên quen biết khắng khít nhất với Thành ủy, Tỉnh ủy…

Định lợi ma sau khi đã định loại ma, định vị ma, định tầng ma thì phải đi xa thêm bước nữa để định quyền ma, không bằng công quyền của hệ công (công pháp, công luật công lý, công tâm) mà bằng ma quyền của hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Chắc chắn không bằng lương quyền của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) mà bằng ma quyền của hệ vô (vô cảm, vô giác, vô tri, vô minh). Sẵn sàng đóng cửa giết nhau trong hang ổ của Ủy ban như tại Yên Bái ; sẵn lòng thủ tiêu nhau ngay trong nhà tù của quân đội để ngăn mọi chứng từ bằng cách diệt mọi chứng nhân, với nạn nhân kiểu Phạm Quý Ngọ, rồi Lê Bắc Hà… Ma quyền khi tự định quyền ma thì từ truy sát tới ám sát chỉ là một bước ngắn, nên tai nạn lưu thông tới dùng thuốc độc giết người là ma quyền như quyền ăn cơm bửa, quyền đi chợ ma quyền tiền, của tiền quyền.

Định loại ma, định vị ma, định tầng ma, định lợi ma, định quyền ma còn phải vào sâu trong định ngôn ma, mà không nên quên dùng nhân định của hệ nhân (nhân quyền, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân tri, nhân trí). Định ngôn ma để định ngữ ma từ trên chóp bu lãnh đạo tới bọn mạt vận trống kiến thức, vắng tri thức bên dưới là dư luận viên song lứa cùng đôi với bọn bút nô, ký nô, văn nô… đang nhập ma kiếp mà quần chúng việt đặt ma hiệu bưng bô. Chủ tịch cũng Tổng thư, ma vương của ma đảng, sau khi đã sát hại đồng chí cùng đảng với mình là cụ Lê Đình Kình đầu năm 2020 này, rồi phanh thây mỗ bụng thi hài của cụ trước khi trả về cho gia quyến tại làng Đồng Tâm, thì xuất hiện ngay với tuyên bố ma là chưa bao giờ có một nhân dân nào lại tin tưởng đảng lãnh đạo của mình như nhân dân việt nam ! Sau khi đã tuyên trạng ma là chưa bao giờ đất nước, dân tộc được như ngày hôm nay ; mặc dầu biết đất nước quê hương gấm vóc với tiền rừng biển bạc tổ tiên Việt đã để lại cho dân tộc Việt giờ đây đang thành một đất nước bị ma hóa ! Bởi nhiễm ô từ bốc xít Tây Nguyên tới công nghệ luyện thép kiểu Formosa tại Hà Tĩnh. Với sự thật là chưa bao giờ nguyên khí của quốc gia là thanh niên, mà trai tráng trong xuất khẩu lao động là lao nô, với nữ giới làm nô tỳ cho cho các quốc gia láng giềng như hiện nay. Sớm trưa chiều tối, cả dân tộc phải nghe lời ma từ Đảng ma tới Chính phủ ma, chữ ma từ Quốc hội ma tới tư pháp ma, nên khi bọn ma giới trong lảnh đạo tưởng mình là chính giới thường có phản xạ ma là đổi Đảng ma, Chính phủ ma, Quốc hội ma thành Đảng ta, Chính phủ ta, Quốc hội ta. Không chính danh, nên trống chính ngữ, vắng chính ngôn, dân tộc việt không hệ bầu ra đảng này, chính phủ này, quốc hội này, nên chất ma làm nên bản chất của đảng, của chính phủ, của quốc hội hiện nay. Để ngày ngày thấy Tàu ma thành Tàu tặc ngay trên đất, biển, đảo việt. Tàu ma hành động ngay trong Tàu nạn với công nghệ nhiễm ô của nhiệt điện than sinh ra các làng ung thư tới các thành phố bị xếp vào loại ma tướng của các đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Tàu ma hành tác ngay trong Tàu họa với thực phẩm bẩn, hóa chất độc được sản xuất rồi nhập cảng từ quê hương của Tàu tà. Cùng hành vi Tàu nạn trong buôn túy, bán mãi dâm, giết người, lấy nội tạng của Tàu hoạn. Tất cả được bọn chóp bu ma tráo ngôn xảo ngữ trong bạn vàng với tâm tính ma, bạn tốt với tâm địa ma.

ma4

Đảng ma, Chính phủ ma, Quốc hội ma thành Đảng ta, Chính phủ ta, Quốc hội ta

Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân !

Bourdieu, thầy tôi, thân sinh của xã hội học quyền lực đã đưa ma lực của đồng tiền vào hệ thống luận giãi luận của ông về quyền của tiền tiền của quyền với :

- Thuyết khống chế, nơi mà kẻ khống chế có quyền vì có tiền, rồi dùng tiền rồi thì tăng quyền, dụng quyền thêm tiền, sống tiền làm ra quyền, thở vì quyền làm ra tiền, nơi mà vốn kinh tài và vốn quyền lực chỉ là một.

- Thuyết khuất phục, nơi mà kẻ có tiền lại có quyền không những ăn trên ngồi trốc còn tổ chức ra hệ thống hội kiểu cốc ăn, nạn nhân cốc bị khống chế treo khốn khổ rồi bị khuất phục trong đói nghèo sẽ mang thân mà đỡ đạn trong loạn lạc cho kẻ khống chế của mình, mà trước đó trong thời bình đã ăn tàn phá hại tận trong xương tủy của mình.

- Thuyết tuân thủ trong nhân kiếp của các nạn nhân bị khống chế, bị khuất phục là quá trình phải tuân thủ một cách vô điều kiện các mệnh lệnh đã đè đầu cưỡi cổ mình, các nạn nhân này tình hay cố ý tham dự vào hệ thống xã hội đày dẫy những bất công do quyền của tiền dựng lên, do tiền của quyền tạo ra, nơi vẩn đâu cùng hoàn đó với con Vua thì được làm Vua, con Sải chùa lại quét lá đa.

- Thuyết thuần hóa, kẻ mạnh vì tiền dùng tiền để thao túng quyền, dùng quyền để quản trị tiền, kẻ mạnh này thuần hóa các nạn nhân bằng sự de dọa là họ sẽ bị mất chén cơm manh áo nếu họ bất tuân, kẻ cả mất mạng từ tòa án của ma tiền tới nhà của ma quyền. Thuần hóa để tuân lệnh kẻ đã tháo nhân cách, gở nhân tri, bứng nhân phẩm của chính mình, để điều khiển mình chỉ bằng quyền của tiền trong tiền của quyền.

- Thuyết tái sản xuất bất công, sẽ tự vận hành trong sinh hoạt kinh tế, trong quan hệ nghề nghiệp, trong đời sống xã hội với thực tế của khống chế, với thực trạng của khuất phục, để định chế hóa sự tuân thủ, chế hóa sự thuần hóa.

Tất cả cùng nhau hướng về ma lực của đồng tiền, lấy chân trời của mạnh được yếu thua tha hồ coi nhau như thú, súc vật hóa quan hệ giữa người người, sẵn sàng nuốt chửng nhau trong cõi không nhân tính, vắng nhân tâm, trống nhân từ của một vùng mục súc nơi mà cá lớn nuốt cá bé là chuyện cơm bữa mỗi ngày.

Như vậy thì lối ra cho nhân quyền là đâu ? Lối vào cho nhân phẩm là nơi nào ? Bourdieu khuyên dặn các môn sinh của mình là câu trả lời cùng cách giải quyết để chống bất công do ma quyền của tiền cũng như ma tiền của quyền gây ra đã có ngay trong phương pháp phân tích không khoan nhượng phương cách giãi thích không nhượng bộ ngay trên thực tế của không chế, ngay trên thực trạng của khuất phục, ngay trên thực thể của sự tuân thủ, ngay trên thực cảnh của sự thuần hóa.

Hãy cân, đo, đong, đếm bằng phương pháp luận sắc bén nhất, bằng khoa học luận sắc nhọn nhất với công tâm biết bảo vệ công bằng, với công biết bảo hành công pháp, với công luật biết bảo trợ công luận, với công ích biết bảo đảm công chúng.

Hãy vận dụng kiến thức về bất công hội để bảo vệ tri thức về công bằng hội, tiếp nhận chỉnh chu các trí thức của khoa học xã hội nhân văn về bất nhân thất đức để bảo vệ các nhận thức về ăn hiền ở lành có trong giáo lý của tổ tiên, có trong luân lý của cồng đồng, để làm nền của đạo đức xã hội.

Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân, chính là kẻ nghèo với số phận con sâu cái kiến, người yếu với số kiếp thấp cổ họng trước bất công, nhân kiếp luôn là nạn nhân cho tới mãn kiếp, để vạch mặt chỉ tên ma tiền của quyền có cha sinh mẹ đẻ cùng với ma quyền của tiền.

* ma5

Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân, chính là kẻ nghèo với số phận con sâu cái kiến, người yếu với số kiếp thấp cổ họng trước bất công

Mặt

Trông mặt bắt hình dong, một thể loại bài học nhân gian, thường được sử dụng ngay trong quan hệ giữa người và người, nơi mà diện mạo bề ngoài nói được nội dung bên trong của một con người. Đây loại tri thức thực nghiệm chớp nhoáng, không sở khoa học với chứng từ khách quan, với phân tích chỉnh lý, với giải thích toàn lý, nên chuẩn đoán kiểu này là nửa hư nửa thực, nếu nó dễ đúng thì nó cũng rất dễ sai.

Khi tâm học được sự hỗ trợ của phân tâm học tâm thần học để đi sâu vào cá tính của mỗi cá nhân, thì cũng tránh chuyện trông mặt bắt hình dong, mặt là hiện tượng bên ngoài, còn tâm là nội dung bên trong, đây là hai phạm trù riêng biệt với hai nội dụng tách biệt. Nhưng trong điện ảnh, sân khấu, thì mặt diện để đại diện nói lên tâm, cụ thể lấy bề ngoài để làm sáng bề trong của một nhân vật, nên chuyện thượng nguồn chọn khuôn mặt diễn viên -casting- là một khâu chủ yếu. Khâu tuyển chọn bề ngoài này là chỗ dựa cho các diễn biến trong câu chuyện đạo diễn phải kể cho khán giả, khâu này dùng không những để định vị nhân vật còn để dẫn dắt kịch bản bằng sự xuất hiện các khuôn mặt nói lên vai trò của nhân vật này, chức năng của nhân vật kia, vị trí của nhân vật nọ…

ma6

Cũng tránh chuyện trông mặt bắt hình dong, vì mặt là hiện tượng bên ngoài, còn tâm là nội dung bên trong, đây là hai phạm trù riêng biệt với hai nội dụng tách biệt.

Khi tôi nghiên cứu về tình hình xã hội Việt Nam hiện nay, thì tôi phải điều tra về các nhân vật lãnh đạo xã hội dựng nên tổ chức xã hội này, chóng chày phải khảo sát về lịch nhân của các nhân vật lãnh đạo, rồi dần phải kiểm nghiệm hóa khả năng, tài năng, trí năng của các nhân vật lãnh đạo này. Trong điền dã thực địa, thì bài học trông mặt bắt hình dong luôn trở lại dưới nhiều giải luận khác nhau, dưới nhiều diễn luận phong phú, nơi mà dân tộc tính thực nghiệm đã thành các bài học do tổ tiên để lại đã điều kiện hóa dân tộc tính thể nghiệm. Tôi đề nghị phương pháp xem lại, soát lại, xét lại câu chuyện nửa nửa thực, dễ đúng dễ sai của bài học trông mặt bắt hình dong bằng cách liên kết lại ba phạm trù :

- Nhân diện, sự hiện diện của một khuôn mặt không hề thụ động trong sinh hoạt hội, không ù trong quan hệ hội, không thưởng phạt trong đời sống xã hội. Khuôn mặt linh động trong cách thể hiện ý muốn của cá nhân, ý định của cá thể, nơi mà ý đồ có khi được bày tỏ như con tính, có lúc bị giấu kín như toan tính. Cấu trúc linh hoạt của khuôn mặt dựa vào sự linh động của miệng lưỡi, nên mà lời nói làm rõ nội công, làm mạnh bản lĩnh, làm sáng tầm vóc của một nhân. Liên minh giữa diện lời, liên minh muôn hình vạn trạng với nhân rất khác nhau, người thì khẩu tâm phật, kẻ thì khẩu phật tâm xà, người thì ruột để ngoài da, với khẩu phàm của phổi bò ruột ngựa, kẻ thì giữ miệng như giữ nút bình để tránh chuyện cái miệng hại cái thân ta không quên nhân diện trong nhân khẩu loại Sở Khanh : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi" !

- Nhân dạng một phạm vi linh hoạt khác của nhân sinh, dạng không chỉ là hình, nơi mà hình dáng cô đọng trong xơ cứng của thân xác, mà được thể hiện qua hành vi, chuyển hóa qua hành động, với các hành tác làm nên hành thể, một loại thân thể không những biết thích ứng với môi trường mà còn thích ứng với bối cảnh, với hoàn cảnh, với thực cảnh. Một nhân dạng có ý thức ở sao cho vừa lòng người, có tri thức suy bụng ta ra bụng người, có nhận thức học ăn học nói, học gói học mở. Nhân dạng được làm đẹp bởi trang sức, mà cũng được giấu kín với quần áo, nếu nhân dạng biết ăn mặc theo mùa, thì nhân dạng cũng thích ăn mặc theo thời. Cái ăn khi song hành cùng cái mặt định vị không những ranh giới giữa giàu và nghèo, có tiền và không có tiền, nó còn nhân vị hóa là người này hiểu đời, người kia hưởng đời, người nọ xa đời. Mà đời đây nhiều khi chỉ là thời thượng, sáng nở tối tàn, vì chính nội chất của cuộc đời là nắng sớm chiều mưa, có người sáng suốt xem thường minh triết, kẻ không ý thức thường nên "chưng hửng" trước thực trạng sống nay chết mai. Nhưng nhân cách tồi tệ nhất vẫn là loại đánh lận con đen, dùng bề ngoài để lừa người, kiểu Mã Giám Sinh : "Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao", đây là loại tà nghiệp trong điếm lộ.

- Nhân cách, làm nên phong cách của kẻ có bản lĩnh, có nội công thì được nhân gian xếp vào loại cứng vía, còn ngược lại vắng nội lực lại trống tầm vóc thì bị xếp vào hàng yếu vía. Nhân gian không lầm khi nhìn nhân cách của Từ Hải với gân cốt : "Đầu đội trời chân đạp đất", với vai vóc : "Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Từ Hải cứng vía nên xứng đáng với một người cứng vía khác là Thúy Kiều biết quý trọng một hồn ma là Đạm Tiên, nên chắc tâm vững trí xin được kết nghĩa chị em với Đạm Tiên : "Chớ nề u hiển mới là chị em". Trong khi đó, đứa yếu vía đứng cạnh chị của mình, là con trai nhưng rất "sợ ma", với tâm xìu trí nhũn mà khuyên chị : "Ở đây âm khí nặng nề, bóng chiều đã ngã dặm về còn xa". tư cách mới có phong cách, biết vận dụng phong cách trong đạo lý, biết tận dụng phong cách trong đạo đức, thì mới mong có nhân cách, chớ không phải là người là có nhân cách.

Khi phải cân, đo, đong, đếm để làm được lời khuyên của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông" trong nghiên cứu để bảo đảm lời khuyên của tổ tiên là : "so ra mới biết ngắn dài" trong khảo sát, để chính xác trong cân, đo, đong, đếm của điều tra, thì tôi thấy nhân cách hải đăng của nhân diện, là chân trời cho nhân dạng. Nhân cách điều chế nhân diện, nhân cách điều khiển nhân dạng. Giữ được nhân cách, thì nhân diện sẽ đẹp, nhân dạng sẽ hay, nên khi Từ Hải thấy Kiều đã rơi vào bẫy của Hồ Tôn Hiến mà khuyên chàng ra đầu hàng triều đình thối nát trong thối tha (đây là hiện cảnh của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam), thì Từ Hải rất rõ ràng với chính nhân cách của mình : "Hàng thần lơ láo phận mình ra chi !". Từ sống ngay cho tới chết đứng, Từ Hải không bao giờ rơi vào thảm cảnh trạng động từ của nhân cách lơ láo, chàng đã sống không lơ láo, thì làm sao chàng thể sống chung với bọn tham quan suốt đời, suốt ngày láo (đây là hiện trạng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam).

ma7

Trúc đứng thẳng để ngăn các chuyện xằng, chuyện bậy, nhất là ngăn luôn tội lỗi.

Rào đón trước sau bằng lý thuyết luận, rào giậu tát ao bằng phương pháp luận, đào sâu bới xa bằng khoa học luận rồi thì phải vào đề ngay theo lời dặn của tổ tiên Việt "nói gần nói xa không qua nói thật", theo lời khuyên của ông Việt mà chấp nhận chuyện "sự thật mất lòng". Tôi phải thông báo kết quả nghiên cứu của mình về nhân diện, nhân dạng, nhân cách của các lãnh đạo trong Đảng cộng sản Việt Nam tìm cách minh chứng để thực chứng bài học của tổ tiên : "Trông mặt bắt hình dong" đúng sai ra sao ? thực thế nào ? Thì kết quả điều tra, khảo sát từ phân tích tới giải thích vô cùng phong phú, xin chỉ đơn cử một vài thí dụ :

- Hải heo biệt hiệu trên nhân diện của Thanh Hải, nguyên thư thành ủy, ủy viên Bộ chính trị mà nhân dân Sài Gòn, đặc biệt là cư dân của Thủ Thiêm, nạn nhân của chuyện cướp đất động trời, nơi mà hàng chục ngàn đồng bào là dân lành một sớm một chiều đã thành dân oan với thảm cảnh khi thì màn trời chiếu đất, khi thì đầu đường chợ. Nghiên cứu trong khoa học xã hội luôn dựa vào dữ kiện của thực địa để khảo sát chứng từ, rồi điều tra về chứng nhân, nên điền quan sát phối hợp với phỏng vấn, đi kèm với bản câu hỏi, mà không quên nhật ký của các nạn nhân bị cướp đất. Từ đây, tôi mới hiểu ra Hải tên thật, còn heo biệt hiệu, trước đó các nạn nhân bị cướp đất tức là dân oan của Thủ Thiêm, giờ thì cả nước gọi Lê Thanh Hải là Hải heo. Tôi thấy chữ heo gắn với người là tục, chớ không hề thanh, tổ tiên Việt luôn dạy con cháu Việt trong bất cứ tình huống nào cũng phải theo thanh để giữ thanh, nên đố tục (thì phải) giảng thanh mà ! Tôi lại đào sâu bới xa, mà hỏi các nạn nhân bị cướp đất, tại sao lại đặt một cái tên sao xấu, tồi, tục, dở vậy ? thì họ trả lời tôi nhân vật Hải heo từ mặt mũi tới diện mạo ngày càng giống : heo. Từ tham ô tới tham nhũng, từ tham quyền tới tham tiền đã vơ vét, đã ăn đầy nuốt trọn, nên khuôn mặt ngày càng giống : heo ! Tôi suy nghĩ mãi về chuyện này, tôi sẽ không bao giờ gọi Lê Thanh Hải là Hải heo, nhưng thú thật ("nói bằng thực") là tôi thấy biệt hiệu làm nên biệt danh này là đúng tên trúng diện. nên câu : "Trông mặt bắt hình dong" có lẽ thật chăng ?

- Phúc niểng, biệt danh của Nguyễn Xuân Phúc, đương kim thủ tướng của chính phủ, công cụ thường nhật của chính quyền độc đảng trong toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ giáo dục nhân, gia đình tới giáo dục học đường, hội, thú thật là tôi không biết từ : niểng ; tôi khám phá ra từ này cùng lúc ông Phúc tên Phúc niểng. Sau đó tôi la để tìm hiểu về định nghĩa của từ niểng, thì tôi rất nhiều định nghĩa, tự giải nghĩa ngôn từ tới giải nghĩa hình thể. Mà tất cả các định nghĩa này điều quy về chữ nghiêng (nghiêng đầu, nghiêng vai, nghiêng lưng, nghiêng thân, nghiêng người…) tức là đã mất đi khả năng thẳng (thẳng đầu, thẳng vai, thẳng lưng, thẳng thân, thẳng người…). thẳng là biểu tượng của quân tử (thẳng như tùng bách), thẳng còn là biểu hiện của lãnh đạo có vai vóc luân lý, có tầm vóc đạo lý, có hình tượng thẳng của trúc mà Nguyễn Trãi tả rất rõ : "Cõi trần có trúc đứng ngăn". Trúc đứng thẳng để ngăn các chuyện xằng, chuyện bậy, nhất là ngăn luôn tội lỗi. Nếu không khả năng của thẳng thì đừng lãnh đạo, vì tham quyền ham lãnh đạo thì chóng chầy chỉ phản dân hại nước. Khi nghiên cứu các bài phát biểu của ông thủ tướng này, thì ông Phúc hay niểng để tránh trả lời thành thật những câu hỏi chính đáng về tình hình đất nước, nhưng lại hết niểng khi ông nói về hiện trạng : "sân sau", "chống lưng", ô dù", "lót tay", "bao bì" trong sinh hoạt tham ô, trong hành tác tham nhũng, tất cả quan hệ đều quy vào tiền tệ… Rồi đồng bào ngoài nước, hiện sống tại Mỹ, khám phá ra là của cải lắm tiền nhiều bạc của ông, cơ ngơi nhà rộng cửa cao của ông tại Mỹ, rốt cuộc thì ông đã niểng tài sản, tiền của ra ngoài rồi… Tôi sẽ không bao giờ tự gọi ông là Phúc niểng, vì đây là hai từ "dị ứng nhau", vì Phúc là phúc lộc của hạnh phúc ; ngược lại niểng là nghiêng để luồn, nghiêng để chuồn. Chắc chắn đây không phải hành vi của người ngay, người biết đi thẳng, đứng thẳng, nói thẳng, làm thẳng. Nên Phúc ngược chiều, đối nghịch, kình chống với niểng ; nhưng tại sao lại hội tụ để nhập nội vào nhân diện của ông thủ tướng, để biến ông thành Phúc niểng để làm rõ lý lịch cá nhân niểng theo lai lịch cá thể nghiêng. Nơi mà biệu danh nghiêng song hành cùng biệt hiệu niểng đã trực tiếp hay gián tiếp xác chứng câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" ?

- Trọng lú, biệt danh của ông đương kim Chủ tịch nước cùng lúc là Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, đây thật là chuyện hư hư thật thật của nội dung : "Trông mặt bắt hình dong". Thượng nguồn của từ có lẽ tới từ trạng động từ lú lẫn, nơi mà ông đã trông gà hóa cuốc ; nên từ lú lẫn trong quan sát, trong nhận định sinh ra lầm trong phân tích giải thích. khuyết tật quáng này nên ông không nhìn ra sự thật, chân lý, lẽ phải, ông ngang nhiên lú ngôn trong lẫn ngữ tuyên bố : "Chưa bao giờ đất nước ta được như ngày hôm nay", "Chưa có dân tộc nào tin tưởng vào đảng của mình như dân ta tin vào Đảng cộng sản Việt Nam"… Danh sách về lú ngôn trong lẫn ngữ của ông thì dày đặc mà cả dân tộc đều biết. Trong khi triệu triệu người bỏ đất nước ra đi, kể cả chấp nhận một chính sách xuất khẩu lao động tồi tệ nhất, trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ cho các nước làng giềng… Sau 1975, dân chúng chấp nhận thảm kịch thuyền nhân hơn là chấp nhận độc tài toàn trị, tránh độc đảng như tránh tà, bây giờ qua thế kỷ mới đã 20 năm, dân chúng còn chấp nhận bi nạn thùng nhân, mất mạng cóng thân trong các xe vận tải đông lạnh. Đúng là phải lú lẫn trong cực quyền, lú lầm trong cuồng quyền mới tuyên bố như ông. Nhưng tính khách quan trong khoa học xã hội nhân văn khuyên chúng ta nên cẩn trọng với nhân ngoài mặt nhưng lụt nọc độc trong bụng. Vì ông này không lú lẫn khi thanh trừng những bè, đám, lũ, phái nào đã chống đối ông ; ông không lầm khi thanh toán những nhân, cá thể nào đã là đối phương, đối thủ của ông.

- Nếu ông này có toan tính thanh trừng, có tính toán để thanh toán đồng chí, đồng bọn của ông, thì khoa học xã hội nhân văn phải phân tích nghiêm túc quan hệ giữa lú, lẫn, lầm, lỗi với hai hành vi khác. Thứ nhất là toan tính thâm, độc, ác, hiểm khi truy-để-diệt đối phương, đối thủ ; thứ nhì là tính toán xấu, tồi, tục, dở khi lận-để-gian trong một nhân giả-lú-để-thủ- sát. Cụ thể là ngấm ngầm là sát thủ với nhân diện lú, giả ngây ngô, mạo khờ dại để hại người mà không bị người hại, vì ông biết đóng kịch khi ông khóc trước quốc hội khi chưa diệt được đồng chí X ; rồi ông vui cười với cử tri để kể những thành tích của Đảng cộng sản Việt Nam dù ông biết đó là thảm kịch mà ông và đảng của ông đã gieo lên nhân kiếp của Việt tộc. Nên câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong", nửa hư nửa thật, nửa đúng nửa sai, nửa trúng nửa trật với trường hợp của ông đương kim Chủ tịch nước cùng lúc Tổng thư Đảng cộng sản Việt Nam này nhắc ta luôn cẩn thận với bài học của tổ tiên : "Có ai lấy thước mà đo lòng người".

Từ đây, tôi xin tạm rời câu chuyện làm nên nội dung : "Trông mặt bắt hình dong" này, để đi tìm sự thật của dữ kiện, chân lý của chứng từ với phương pháp khách quan hóa nhân diện, nhân dạng, nhân cách. Tôi lập lộ trình giải luận bằng lý thuyết luận của nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa ; bằng phương pháp luận của nhân lý, nhân tri, nhân trí ; bằng khoa học luận của nhân bản, nhân văn, nhân tính, để tìm đến tri thức luận của nhân vị, nhân đạo, nhân quyền ; tất cả được nhập nội vào châm ngôn của đạo lý Việt : "đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn". Tôi đề nghị các hệ sau đây, như những tiêu chí để đánh giá, để tránh vàng thau không lẫn lộn, để tránh lẫn từ phân tích tới phân giải trong "quan hệ đối đầu" để dẫn, dắt, dìu, đưa câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" vào một chiều sâu, một chiều cao, một chiều rộng khác :

- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) đối nghịch với hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng).

- Hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) đối trọng với hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tin, bất trung).

- Hệ đa (đa đảng, đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng) đối luận với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn).

Kế đến tôi đặt chỉ một câu hỏi tới từ kết quả nghiên cứu thực địa của tôi, để hỏi các đồng nghiệp là trí thức đại học đang sinh sống và làm việc tại quê nhà, họ cũng như tôi vừa quan tâm tới thảm trạng của đất nước hiện nay, vừa những kẻ đi tìm câu trả lời thực hư, đúng sai, trúng trật của câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong". Câu hỏi của tôi là : khi quan sát các khuôn mặt, các diện mạo, tức là các nhân diện của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ chính quyền tới chính phủ hiện nay, thì tôi không thấy họ thể hiện các hệ sau đây trên thần, sắc làm nên diện, mạo của họ ; cụ thể là tôi không thấy :

- Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).

- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái).

- Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo).

Như vậy tôi thấy đúng, nhìn trúng hay tôi thấy sai, nhìn trật ? Chuyện lạ lại vừa hay cho sự thật, nhưng là chuyện vừa buồn, vừa lo cho dân tộc là tất cả trí thức, trăm phần trăm, các đồng nghiệp nhận -chống chính quyền hay theo chính quyền- đều trả lời là : "Anh thấy đúng, nhìn trúng, lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có ba hệ thức, thông, sáng này". Tôi chẳng vui mừng khi đồng nghiệp của mình khẳng định là : tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai ; ngược lại tôi còn bàng hoàng cho tiền đồ của tổ tiên, sững sờ cho tương lai của Việt tộc.

ma8

Lòng tôi mang một nỗi buồn không tên-và-không nguôi này, với nghịch lý là tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai, nhưng sao tôi lại buồn, lại lo, lại sợ ?

Còn cách kiểm chứng nào khác nữa không ? Tại sao nhân kiếp đồng bào tôi lại tăm tối với các lãnh đạo độc tài trong độc đoán với diện, mạo, thần, sắc tối tăm như vậy ? Phương tiện nghiên cứu eo hẹp, sau nhiều đêm mất ngủ, thức trắng vì lo ngại cho bao thế hệ mai hậu của Việt tộc, tôi "liều mình" giữa đêm kể câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" cho người yêu của tôi nghe. Tôi kể huyên thuyên từ điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu tới chuyện tôi "đánh liều" đi hỏi đồng nghiệp về chuyện vắng hệ này, thiếu hệ kia, trống hệ nọ trên thân, sắc, diện, mạo của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, rồi tôi lập lại cùng câu hỏi : "Em thấy anh nhìn như vậy đúng hay sai ? Anh thấy vậy trúng hay trật ?". Tôi từ "chết nằm" qua "chết ngồi", rồi từ "chết đứng" như trời trồng qua "chết điếng" trong đớ lưởi, khi như người yêu của tôi chắc bẩm mà trả lời rằng : "Anh nhìn nhận như vậy là hoàn toàn đúng anh à !". Trời ! Từ thì thầm "trời ơi !" tới gào trách "trời hỡi !", như vậy thì tương lai con cháu, tiền đồ tổ tiên sẽ ra sao ?

Bao ngày tháng trôi qua, lòng tôi mang một nỗi buồn không tên-và-không nguôi này, với nghịch lý là tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai, nhưng sao tôi lại buồn, lại lo, lại sợ ? Các bạn hãy giúp tôi đặt tên cho nỗi buồn, nỗi lo, nỗi sợ này nhé !

Lê Hữu Khóa

(07/07/2020)

 

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 1002 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)