Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức
Ngữ luận 7 : Ta & Tà
Ta
Ta là một từ được định vị như số nhiều trong ngôn ngữ, hơn thế nữa nó là số nhiều của số nhiều, hiếm có từ nào được đại diện cho số nhiều như nó, xa hơn nó được dùng để xác nhận một tổng thể để nhận ra một tập thể, một cộng đồng. Ta, là từ có vị thế trung tâm trong tiếng Việt, nó xác chứng một tổng lực để nhận ra dân tộc, một hợp thể để nhìn ra giống nòi, nó có tầm vóc thiêng liêng riêng của nó. Chỉ một từ ta mà có nội công, bản lĩnh, tầm vóc của tổng thể, của hợp thể, của tổng lực, chữ ta sống hằng ngày trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội bằng sức mạnh của hai từ : chúng ta. Chuyện hay là từ ta rất dễ dùng, nó thân thiện, nó gần gũi, rồi biến thành phản xạ thân thương để khi chúng ta nói, khi chúng ta nghe được từ ta : thì chúng ta cảm thấy yên tâm.
Ta là từ mang sự chủ động của ngôn ngữ giúp chủ thể có được chủ từ là ta để nhận ra từ bản sắc tới văn hóa của mình, chỉ trong một tiếng dân ta, thì chúng ta thấy được nhân dạng của dân tộc, có lãnh thổ, có lịch sử, có truyền thống, có tổ tiên… Cái ta trong cái chung-biết-chia. Ta cũng là từ mang sự sống động của các cá thể không cô đơn trong nhân sinh, không cô độc giữa nhân thế. Khi một cá nhân dùng từ ta thì cá nhân đó không còn cô lẻ nữa ! Trong chữ ta có một địa lý chung, trên đó có một cộng đồng biết sống chung, nơi mà đất và người được sinh hoạt gần kề, có quan hệ gần gũi, với truyền thống thân thiện. Nên khi làng ta giúp ta nhận ra người làng ta, thì mọi sự lạ lẫm, mọi sự xa cách sẽ biến mất đi, nên dù không biết nhau, chưa hề gặp nhau, nhưng khi gặp nhau ở một châu lục xa xăm, một đất nước xa lạ, mà hai cá nhân cùng làng (ta), thì chắc chắn chuyện "trước lạ sau quen" sẽ là hiển nhiên.
Ta có mặt trong ngôn ngữ, trong truyền thông ngay giữa bối cảnh lưu vong của những đứa con xa xứ, mà thăng trầm đã tách cuộc đời của mỗi người khỏi quê hương, nhưng từ ta có mặt để giữ cho bằng được hai chữ : quê ta. Chữ ta hiện diện luôn trong văn chương, trong thi ca, trong ca khúc… nội lực của từ ta từ lâu đã thành hùng lực của ca dao, dân ca, châm ngôn, ngạn ngữ… Chữ ta xuất hiện như một không gian vừa chung cho những ai có cùng quê hương, xứ sở ; lại vừa của riêng của các thành viên có chung một cộng đồng, biết hưởng hương vị của món ta, chắc chắn không phải là món Tây ; biết trị bịnh bằng thuốc ta, chắc bẩm không phải là thuốc Tây.
Ta là từ còn tạo nên lực giao cảm ngay trong tiếng nói của một thể loại trong ngôn ngữ học có một địa lý chung-chia của một cộng đồng, của một dân tộc ; mà cũng là một địa danh chung-riêng giữa các cá nhân có chung một bản sắc, nhưng cũng biết có riêng cho mình những đặc sắc làm nên văn hóa đặc thù, chế tác ra đặc điểm làm nên một văn hiến đặc trưng. Nếu trong một ngôn ngữ chỉ qua một chữ ta mà biết cõng, bồng, bế, ẵm được chiều sâu tâm linh của một dân tộc, chiều dài văn hiến của một giống nòi, thì ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư tưởng, chỉ làm dụng cụ để tư tưởng chuyển tải ý muốn, ý định của tư tưởng.
Mà ngôn ngữ chính là tư tưởng, lời nói và chữ viết chính là tư tưởng của tư tưởng, vì không có ngôn ngữ định hình cho từ lý luận tới lập luận, từ giải luận tới diễn luận, thì làm sao có tư tưởng được ! Hãy cùng nhau nhận ra vai trò cao, chức năng sâu, vị thế rộng của ngôn ngữ, từ lời nói tới chữ viết là một hợp thể, một tổng thể có tổng lực từ kiến thức tới tri thức, từ ý thức tới nhận thức, từ trí thức tới tỉnh thức.
Ta là từ mang sự chủ động của ngôn ngữ giúp chủ thể có được chủ từ là ta để nhận ra từ bản sắc tới văn hóa của mình
Nhưng từ khi chế độ độc đảng toàn trị do Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc bằng công an trị song lứa để chung chạ cùng tuyên truyền trị, từ đó sinh ra hai quái thai là : ngu dân trị và mỵ dân trị, thì từ ta không những bị vo tròn bóp méo, mà còn bị tha hóa rồi biến chất. Giờ đây từ ta phải đi chung với những từ khác nghịch với nó về ngữ nghĩa, chống lại nó về ngữ văn, kình lại nó về ngữ pháp. Ngôn ngữ học khi hợp lực cùng triết học đạo đức để trợ lực cho khoa học tuyền thông thì các chuyên gia nhận ra là đánh trao khái niệm chính là "đánh lận con đen" không những trong ngôn ngữ, trong truyền thông mà còn là chuyện cờ gian bạc lận ngay trong đạo lý tổ tiên, ngay trong luân lý dân tộc, thí dụ thì không thiếu :
- Đảng ta, là một cấu trúc của tà ngữ trong gian lộ, nếu ta là chung của mọi người, không là sở hữu của riêng ai, thì ngược lại đảng là bè, là lũ, là nhóm, là phái, là đám, là một nhúm người hay một loại người có ý định riêng, có ý muốn riêng, có ý đồ riêng, thì làm sao mà trà trộn rồi pha loảng vào cái chung của ta được ! Chỉ có tà tâm trong điếm tính mới làm chuyện "đổ đồng" này.
- Chính phủ ta, là một cấu trúc của ma ngôn trong tà ngữ, nếu muốn được là chính phủ ta thì phải do dân chọn, dân cử, dân bầu ra, chớ chính phủ và chính quyền hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, không do dân ta chọn ra, cử ra, bầu ra thì chính phủ và chính quyền loại này chỉ là ma quyền trong biệt phủ, nó không hề là chính, vì nó không có chính danh làm nên chính nghĩa của nó ! Nó chỉ có ma quyền trong xảo ngữ nên nó mới làm chuyện "lộn sòng" này.
- Quốc hội ta, là một cấu trúc của trá ngôn trong xảo ngữ, nó không do dân ta chọn, dân ta cử, dân ta bầu ra, nó không thực sự đấu tranh cho dân ta, vì dân ta, mà nó là kết quả của tà trị "Đảng cử dân bầu" với đại đa số đại biểu là đảng viên. Nếu Quốc hội hiện nay là công cụ của Đảng cộng sản Việt Nam kiểu Tú Bà kiểu "Đưa người cửa trước, rước người cửa sau" để Đảng cộng sản Việt Nam ngồi xổm lên Hiến pháp kiểu "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", thì nó chỉ là xảo quyền trong trá ngôn. Nên mạt kiếp của nó chỉ là cúi đầu để bấm nút các lệnh của Đảng.
Chữ ta không dễ "biển lận", vì nó biết lợm giọng trước hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị), vì là nọc độc rất độc hại cho nội hàm của tự ta của cùng nhau, vì nhau, cho nhau, chung để chia, chia để được chung. Từ ta không dễ bị "giật dây", vì nó luôn buồn nôn trước đặc quyền để đặc lợi, trước đặc ân để đặc tham qua hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của bọn âm binh không tình nghĩa đồng bào, chúng cướp của công làm của riêng.
Nên chữ ta rất dị ứng "đảng ta", "chính phủ ta", "quốc hội ta", vì mỗi khi dân ta lên tiếng chống bất công, gào thét trước tham nhũng ; cụ thể là chống từ hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tới hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền), thì bị "đảng ta", "chính phủ ta", "quốc hội ta" buộc tội dân ta là : "lực lượng thù địch".
Lạ thật dân ta là dân mình sao có thể là "thù địch" ! Ngôn ngữ học là một chuyên ngành thông minh có sung lực của nhiều chuyên ngành khác trong khoa học xã hội và nhân văn, nên nó phân biệt rành mạch là phe ta ngược lại với phe địch, nên phía ta không bao giờ cùng một chiến tuyến với phía địch. Như vậy về nội hàm của ngữ nghĩa ta và địch là hai lãnh thổ riêng biệt, hai không gian tách biệt, "hai phương trời ly biệt", mà ác tâm thâm ý để làm chuyện trộn lẫn ta và địch thì luôn mang tới hậu quả của táng tận lương tâm.
Muốn thấy-để-thấu cái thâm, độc, ác, hiểm trong xảo ngôn là cha sinh mẹ đẻ của cái xấu, tồi, tục, dở trong gian ngữ, mà cả hai đều là loài ký sinh trùng ẩn nấp như âm binh để đánh lận con đen trong truyền thông ; thì ta phải hiểu cho đầy đủ về hệ quyền, nơi mà độc quyền sinh ra lộng quyền, lạm quyền vì tham quyền, rồi bạo quyền để tà quyền, và cuối cùng là cực quyền đẻ ra cuồng quyền.
Sự thành thật trong lời nói làm nên sự chân thành trong phát biểu, cả hai rất xa lạ với cái thâm, độc, ác, hiểm trong xảo ngữ, rất lạ lẫm với cái xấu, tồi, tục, dở trong gian ngữ. Tổ tiên Việt dặn dò con cháu Việt nếu chính tâm làm nên chính ngữ thì nó sẽ biết chế tác ái ngữ trong thuận ngôn, làm nên cái thanh dù nó bị cái tục trù ếm, bao vây. Nhưng thanh vẫn là thanh, vì thanh có cái thông minh tế nhị của nó luôn biết dựa vào tính chủ động trong tinh tế : đố tục giảng thanh. Liêm minh của chính-ái-thanh làm nên thuận ngữ biết dựa trên thuận ý để thuận lòng mà song hành cùng thuận lý : "Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây", để ta với mình tuy hai mà là một, chỉ là một để chống lại hệ độc không biết chung-chia, chống lại luôn hệ tham biến của công thành của riêng.
Lạ thật dân ta là dân mình sao có thể là "thù địch" !
Tà
Tà đi từ động từ tà nơi mà ý muốn được toan tính như ý đồ của hệ bất (bất lương, bất chính, bất trung, bất tín) để sẵn sàng bất nhân để tới dạng của một trạng từ nơi mà kẻ tà là kẻ vận dụng những hành tác thâm, độc, ác, hiểm. Kẻ tà bất chấp các hậu quả xấu, tồi, tục, dở đến với tha nhân, sẵn sàng trùm phủ màu tối tà tội tệ lên số kiếp của đồng loại, và bọn cầm quyền khi dùng tà trị thì nó còn bất chấp luôn nhân kiếp của đồng bào chúng.
Nhận diện cái tà
Cái tà có thể được nhận diện bằng lộ trình của một phương pháp luận thực nghiệm của ngôn ngữ học nhận thức, được trợ lực bởi chính trị học luận chứng, tâm lý học xã hội, triết học đạo đức, xã hội học tri thức để thấy cho thấu hệ tà qua quá trình :
- Tà lộ của kẻ sử dụng hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) có cứu cánh và mục đích chỉ để phục vụ quyền lực và quyền lợi của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà. Rồi biến quyền lực thành độc quyền trong độc đảng của độc tài, độc trị, độc tôn trong toàn trị ; và quyền lợi thành tư lợi trong đặc lợi, đặc quyền, đặc ân, đặc sủng…
- Tà đạo của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà là con đường dẫn tới chân trời cụt, cụt như ngõ cụt, không tương lai cho giống nòi, vì không có thực chất phát triển đất nước, không có văn minh cho đồng bào. Một quá trình bần cùng hóa dân lành, tồi tệ hóa dân đen, nhục hình hóa dân oan, trong tà thuật tha hóa cả một dân tộc.
- Tà tâm với tâm địa của buôn gian bán lận, bằng tà ngữ của khẩu Phật tâm xà, với tà diện của Mã Giám Sinh (mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao), với tà ngôn của Sở Khanh (nói lời rồi lại nuốt lời như chơi), với tà dạng của Tú bà (đưa người cửa trước, rước người cửa sau), với tà tâm rước họa tới người, trùm nạn lên tha nhân, thậm chí còn thí mạng luôn cả thân bằng quyến thuộc.
- Tà lực, với tính toán luôn vụ lợi của loại mượn đầu heo nấu cháo, với toan tính vốn một lời mười, bằng tà tính của đi ngang về tắt bằng bối cảnh của đục nước béo cò, trong hoàn cảnh xấu của mượn gió bẻ măng. Với bản chất ký sinh trùng nên tà lực không có thực lực của tự chủ, tự tin, tự quyết, mà luôn ẩn nấp để ẩn náu loại chó cậy gần nhà, kiểu gà què ăn quẩn cối xay.
- Tà quyền, của loại đầu cơ chỉ biết mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền, thuộc loại đầu nậu bằng buôn thần bán thánh ngay nơi cửa Phật, rửa tiền bằng cách xây chùa rồi đưa bọn âm binh chính là các ma tăng mang tà chất của sư công an, sư quốc doanh. Tà quyền không những là bọn đầu cơ, là đám đầu nậu, mà chúng còn là phe đầu lãnh, tay nhúng chàm trong buôn dân bán nước, với não trạng ngập tà tính của loài phản dân hại nước.
- Tà cõi, là nơi chốn mà tà quyền luôn xảo ngôn điếm ngữ "lãnh đạo, cán bộ là đầy tớ của nhân dân" ; rồi lật lọng ngay của gian lời điêu nghĩa "ơn đảng, ơn Bác" ; trong tráo mừng lận xuân kiểu "mừng đảng, mừng xuân". Trong cõi này không có lời ngay lẽ đúng của sự thật, không có luôn chuyện lý ngay luận đúng của chân lý, nên biệt tích chuyện lời hay lẽ phải của lẽ phải làm nên chính ngôn, tạo nên chính ngữ, để tư cách làm nên phong cách mà bảo vệ nhân cách.
Chị bán hàng rong bị tịch thu hết rau củ chỉ vì đi bán rau trên phố vì cách ly ở Nhà k còn tiền
Vạch mặt kẻ tà
Có phương pháp luận để nhận ra đường đi nẻo về của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà trong chính quá trình cũng như quy trình của tà lộ, tà đạo, tà tâm, tà lực, tà quyền, tà cõi, vẫn chưa đủ, phải có khoa học luận để đối luận với hệ tà. Muốn đối luận thì phải lập đối kháng để đối chiếu bằng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận cho đối phương là tà, không bằng chỉ trích, chê bai, thóa mạ, cũng chẳng bằng hệ bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) chính là công cụ của tà quyền luôn có phản xạ đi về hướng bạo quyền, mà ngược lại bằng nhân tri bất bạo động qua các hệ sau :
- Hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp).
- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri).
- Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, tỉnh thức).
Để vạch mặt chỉ tên hệ tà, bằng chính lời khuyên của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông", cụ thể là vào thật sâu ngay trong sào huyệt của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà để thấy cho thấu cái tà bằng chính bản chất của nó qua :
- Hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tin, bất trung, bất nhân).
- Hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
Tại đây, đào thật kỹ rồi xới thật xa mà không quên phải cân, đo, đong, đếm mọi toan tính của của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà trong hệ quyền (độc quyền, tham quyền, lộng quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền). Mà không quên phân tích rồi giải thích những hậu quả vĩ mô tồi tệ nhất ngay trong tâm lý mới của quần chúng, ngay trong tâm tính mới của xã hội với hệ vô (vô cảm, vô tri, vô giác, vô minh). Từ đó, đi từ giải chứng tới giải luận các hậu nạn vô cùng tàn tệ không sao lường hết được trên giáo lý của tổ tiên, trên đạo lý của giống nòi, trên đạo đức của dân tộc khi kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà đã lậm sâu vào bùn lầy nhơ nhớp của bất nhân thất đức do chính chúng tạo ra.
Nhận ra quá trình cũng như quy trình của tà lộ, tà đạo, tà tâm, tà lực, tà quyền, tà cõi của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà vẫn chưa xong, phải thấy luôn tà ý của chúng là hủy diệt cho bằng được hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) với thâm ý truy cùng diệt tận hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) của Việt tộc. Từ đó, ngăn sống cấm chợ con đường phát triển của đất nước Việt, từ đây bế môn tỏa cảng chân trời văn minh của dân tộc Việt ; để cái tà tiếp tục ngự trị trên cái ngay, cái thẳng ; để cái tà tiếp tục đè đầu cởi cổ mà cai trị cái khôn, cái sáng có trong sáng dạ sáng lòng làm nên phẩm chất của Việt tộc.
Kẻ tà : kẻ kế thừa không di chúc
Char, thi sĩ của triết luận và thi hào của nhân luận, gọi tên một loại người luôn gây ra thảm họa cho tha nhân, thảm nạn cho đồng loại là : kẻ kế thừa không di chúc, đó là số kiếp của của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà. Chúng không phải là kẻ kế thừa bình thường, vì không ai bầu cho chúng, vì chúng không phải là ứng cử viên đường đường chính chính, chúng không thắng cử trong quang minh chính đại, vì nó không hệ tôn trọng tuyển cử trong dân chủ. Hành tác của nó là cướp ! như "cướp chính quyền", là cướp giật chính quyền có chính danh để thế bằng một tà quyền. Nên nó không hề là kẻ thừa kế văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, vì nó không hề có vốn liếng được trao tặng từ giáo lý của tổ tiên, luân lý của giống nòi, đạo đức của dân tộc.
Kế thừa là một phạm trù của giáo lý biết lấy đạo lý hay, đẹp, tốt, lành mà tự giáo dục, để nhận ra luân lý có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với đồng loại mà làm giáo khoa ngay trong sinh hoạt cộng đồng, ngay trong quan hệ xã hội. Từ giáo lý có lời hay lẽ phải để giáo dục, có đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn làm nên giáo khoa, nên giáo trình của nhân tính là thương người như thể thương thân, được cụ thể hóa bằng giáo án một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Chính hệ giáo (giáo lý, giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án) chuyển hóa người thành nhân, bằng hệ nhân (nhân từ, nhân tâm, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân nghĩa, nhân đạo) ; kẻ gian thì ngược lại không được giáo huấn từ ngày cha sinh mẹ đẻ ra nó, nên tà ý của nó là hủy diệt mọi di chúc trong hệ giáo của đồng bào, với tà tâm là thủ tiêu luôn hệ nhân của đồng loại.
Nhân dân không lầm khi xếp kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà vào loài sâu bọ giả người, ngay khi chúng là cán bộ, là lãnh đạo thì nhân dân nhận ra ngay là giòi bọ mặc áo quan, với tà chất sâu dân mọt nước của chúng. Khi nhìn chân dung rồi xem lại lý lịch của chúng, thì chân tướng của chúng lộ ra ngay trong tà đạng của chúng :
- Lừa thầy phản bạn, từ khi đi học đến khi trưởng thành, từ môi trường học đường tới quan hệ bạn bè, thì kẻ tà vận dụng động từ lừa để sử dụng động từ phản, để gian trong kiến thức, để dối trong tri thức. Vụ lợi để phản, rồi lừa người vì tư lợi, mà bất chấp mọi hậu quả trong quan hệ giáo lý đối với thầy, trong sinh hoạt xã hội đối với bạn. Trong quá trình mua chức bán quyền, thì kẻ tà không ngần ngại vu cáo rồi tố cáo thầy của nó, không chần chừ đổ tội để đấu tố nhanh bạn bè của nó.
- Đá cá lăn dưa là quá khứ của nó khi kẻ tà còn bần hàn, nghèo túng, nơi mà nó đã là đứa không những xài luật rừng của kẻ mạnh vì gian, mà nó còn ăn cháo đá bát của loài vong ân bội nghĩa. Trong loạn cảnh đầu đường xó chợ, thì kẻ tà đã có phản xạ trộm, cắp, cướp, giật, nên trong hoạn lộ bằng hối lộ để được làm quan thì nhân dân nhận ra ngay chân dung diện mạo của kẻ tà là cướp ngày là quan.
- Đầu trộm đuôi cướp, từ bé đến lớn quen thói trộm, cắp, cướp, giật, nên kẻ tà trống giáo lý, vắng nhân nghĩa, sống mà không được kế thừa bằng chính trải nghiệm của giáo luận là sống lâu mới biết lòng người có nhân, nên kẻ tà xem tha nhân phải là nạn nhân của nó trong gian tính nuôi ong tay áo, trong xảo tính nuôi cáo dòm nhà. Nơi mà phản xạ trộm, cắp, cướp, giật đã thành tâm tính làm ra tà tâm được đằng chân lên đằng đầu bằng tà lộ của mua một bán hai lời ba.
Kẻ tà luôn nghĩ làm mình khôn lanh hơn tha nhân, nhưng nó không biết là nó đã bị xếp loại bởi tổ tiên Việt trong loài khôn quá hóa dại, nó là đứa thuộc tạp loại lưỡi gian mép xảo. Kẻ tà rất khác với kẻ khôn nhà dại chợ giành cho người khờ, kẻ khạo, đây chỉ là một cái lỗi, khi được sửa đúng bằng giáo dục để đưa nó vào một quỹ đạo tốt, thì tha nhân sẵn sàng tha lỗi cho họ. Còn kẻ khôn nhà dại chợ khi là lãnh đạo trong quan hệ quốc tế với các quốc gia có văn minh của dân chủ có văn hiến của nhân quyền mà dám xảo môi điếm giọng tuyên bố là chế độ độc đảng toàn trị hiện nay : "không có tù nhân lương tâm". Cụ thể chế độ độc tài hiện nay phủ nhận là không có các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì đa nguyên, mà cả thế giới đều biết về tà trị của Đảng cộng sản Việt Nam là : hèn với giặc, ác với dân, thì đây không còn là lỗi mà là tội. Tội lỗi với tổ tiên vì đã là tội đồ của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam là hèn với giặc, ác với dân, thì đây không còn là lỗi mà là tội. Tội lỗi với tổ tiên vì đã là tội đồ của dân tộc.
Thấy cái tà, thấu cái gian
Sartre vừa là triết gia, vừa là văn sĩ, khi ông nhận lời mời tại UNESCO của Liên Hiệp Quốc để trình bày về chủ đề Trách nhiệm của người cầm bút, thì ông không rời quan niệm về tự do, nơi mà kẻ cầm bút đại diện cho bản lĩnh của nhân sinh để chống lại cái tà, cái gian, cái ác luôn có mặt trong nhân thế. Luận điểm của ông là người cầm bút phải suy nghĩ, phải viết để bảo vệ tự do cho đồng loại, cả cho nhân loại. Ông miệt mài giải thích rằng các tà quyền làm ra bạo quyền độc đảng, dựng lên ma quyền độc tài không sợ các giá trị đã vĩnh hằng trong nhân phẩm, nó chỉ sợ sự vận hành của tự do ! Tự do đứng lên, tự do đi tới, để trực diện với tà quyền mà đòi công bằng và bác ái, đó là đường đi nẻo về của cộng hòa. Ông chăm chú giải luận chính tự do không khuất phục tà quyền, chính sự tự tin không muốn bị thuần hóa trước bạo quyền, chính sự tự chủ không muốn bị nô dịch bởi ma quyền, trong nhận thức biết tự trọng đã thúc đẩy con người biết thẳng lưng để nhìn thẳng cái tà mà vạch mặt chỉ tên các lỗi, các tội mà nó đã, đang, sẽ gây ra cho nhân vị, nhân bản, nhân văn, nhân phẩm.
Như vậy, Sartre xem hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) vừa là động cơ vừa là dàn phóng của ba hệ : hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) ; hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, tỉnh thức). Cũng chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối cho hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để nhập nội vào hệ đa (đa trí, đa tài, đa dung, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên, đây chính là chân trời của văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền. Các hệ này là nguồn cơn làm cho kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà mất ăn mất ngủ, khi cái tà luôn vận dụng đạo đức giả của hệ bất (bất lương, bất tín, bất trung, bất tài) để lừa gạt người, luôn tận dụng tuyên truyền ngu dân bằng hệ gian (gian xảo, gian lận, gian trá, gian manh) để lừa dối người. Từ các định luận này, hãy nhận ra các chỉ báo để xem xét sự vận hành của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà :
- Buôn gian bán lận, có nội chất mật nghị Thành Đô, 1990, nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam không chọn dân tộc Việt làm hậu phương, mà chọn tâm địa của Đảng cộng sản Trung Quốc làm địa đạo để toan tính duy trì độc đảng toàn trị trên nhân kiếp của Việt tộc. Biết nhân dân hiểu nội chất của loại mật nghị này, nên tà quyền luôn che giấu nội dung của nó, mà cho tới thời điểm này 2020 nhân dân vẫn chưa được thông báo các điều lệ của mật nghị này. Giữ kín giấu kỹ chuyện buôn gian bán lận là nội chất của mọi tà quyền.
- Cờ gian bạc lận, có trong các hiệp định giữa hai đảng Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, lúc thì mang thương hiệu bạn vàng, khi thì mang bảng hiệu bạn tốt, nhưng thực chất là Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc là Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của Việt Nam làm cha ! Mà cho tới thời điểm này, năm 2020, nhân dân mới từ ngạc nhiên tới kinh hoàng, mà khám phá ra lộ trình buôn dân bán nước ngay trong luật dẫn độ về Tàu các tội phạm tàu đã giết người, buôn ma túy… ngay trên đất Việt mà luật pháp Việt không được quyền xử chúng.
- Đánh lận con đen, giữa mùa đại dịch cúm tàu 2020, thì tà quyền để lộ ra chuyện mất chủ quyền không những tại Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cửa khẩu biên giới, nơi mà tà quyền không được đơn phương đóng các cửa khẩu biên giới để bảo vệ chính nhân dân của mình. Nên nội chất của các hiệp định bạn vàng, bạn tốt đều chính là hiếp định, nơi mà tà lực của mạnh được yếu thua làm ra tà luật của cá lớn nuốt cá bé, nơi mà kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà ở thế yếu, thế cô, luôn bị hiếp đáp, hiếp hãm, hiếp cho nhục bởi kẻ tà mạnh, bằng luật rừng của thắng làm cha, thua chịu nhục.
Tà quyền luôn phải chịu nhục hình trong nhục kiếp, mỗi khi nó rời giáo lý của tổ tiên, luân lý của giống nòi, đạo đức của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc là Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của Việt Nam làm cha ! - Ảnh minh họa Lễ đón chính thức Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra tại Phủ Chủ tịch vào chiều 12/11/2017, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì.
Cái tà : thấm cái hiểm, lậm cái độc
Foucault khi nghiên cứu về quan hệ giữa quyền lực và tri thức, đã nhận ra kẻ tà trong tà cách khi sử dụng tà quyền là luôn vận dụng cái hiểm, luôn tận dụng cái độc để trợ lực cho nó. Mà cụ thể là cái dọa của tà luôn song hành cùng cái tù của cái độc, cái rình rập luôn song đôi cùng cái bắt bớ của cái hiểm, thầy dặn dò các môn đệ của thầy rằng : cái canh gác của tà quyền luôn song lứa với cái trừng phạt rất nhẫn tâm, bất nhân. Kẻ tà không ngần ngại vừa làm chó săn, vừa làm cai tù, đảng tà không do dự trước hành tác vừa làm công an vừa là tòa án, lại vừa quản giáo lại vừa là đao phủ thủ để hành quyết người lành, kẻ thiện. Lấy nhục hình thay nhân lý, lấy cực hình thế nhân tính, mang hành tác của âm binh giết người diệt nhân trong bóng tối để truy cùng diệt tận nhân bản, nhân văn, để thủ tiêu nhân từ, nhân tâm, để dễ dàng xóa nhân vị và nhân quyền, cho nên nhân phẩm không có một giá trị gì đối với kẻ tà.
Từ nhận định trên, thì kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà luôn mang trong phản xạ mua ân báo oán khi nó cần dùng tà quyền, nhưng nó lại không đủ lương tri để kiểm soát, không dày liêm chính để kiềm chế hệ tà hành (hành vi tà, hành động tà, hành tác tà) của chính nó. Cụ thể là nó dễ rơi vào ba quá trình sau đây mà chính nó cũng không lường hết mọi hậu quả cho đồng loại, mọi hậu nạn cho đồng bào :
- Cõng rắn cắn gà nhà, nơi mà kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà có chân dung diện mạo của Lê Chiêu Thống, với phản xạ mại quốc cầu vinh, để tiếp tục được vinh thân phì gia, nên một sớm một chiều chúng bán nước như chơi !
- Mang voi dày mã tổ, nơi mài kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà có bản lai diện mục của Hoàng Văn Hoan, cùng nhiều đứa khác nữa mà tướng Trương Giang Long đã thổ lộ là "hiện nay chúng dày đặc sinh sôi nẩy nở kiểu "trăm này sinh ra trăm kia" ngay trong giới lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam".
- Gà nhà bôi mặt đá nhau, là loại dị dạng trong quái tướng của bất nhân thất đức dùng tà quyền để dựng nên thảm cảnh huynh đệ tương tàn trong loạn cảnh nội chiến 1954-1975. Vì đây là bản chất lòng lang dạ thú đang ngày ngày làm ra nội chất thanh trừng để thanh toán giữa các đồng chí chỉ vì quyền và tiền.
Thiếu tướng Trương Giang Long - Quan hệ Việt Nam với các nước lớn tháng 3/2017 [Tư liệu]
Nên kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà không có tâm để có tầm mà vận dụng :
- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) để tạo văn minh cho Việt tộc, được sánh vai cùng các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền.
- Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) của Việt tộc mà tạo tiến bộ cho xã hội Việt, được sánh bước với các quốc gia có khoa học kỹ thuật, có sáng tạo từ văn hóa tới nghệ thuật, từ giáo dục tới y tế… để phục vụ cho an sinh xã hội.
Muốn có tầm phải có tâm, mà tà tâm thì hoàn toàn trái ngược với chính tâm làm nên chính ngữ trong chính trị, làm nên chính sách trong quản trị, nên đất nước đã hòa bình, thống nhất và dân tộc đã thoát được nội chiến từ 1975, gần nửa thế kỷ rồi, mà cái tà được đại diện bởi kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà không thực hiện được ít nhất ba chuyện không khó, dễ làm, lại có kết quả tốt đẹp ngay tức khắc :
- Hòa hợp hòa giải dân tộc, để quên đi thảm họa gà nhà bôi mặt đá nhau trong nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ qua, mà cùng nhau chung lưng đấu cật xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, với dân tộc Việt thật tử tế, có nhân cách ăn hiền ở lành, vì có nhân tri ăn ở có hậu.
- Quang minh chính đại, trong lúc chờ đợi dân chủ trong đa nguyên, thì phải tự tìm cho ra minh quân thực tài nên không bất tài như hiện nay ; minh chúa thực tâm nên không thất đức như hiện nay ; minh chủ có thực lực của toàn thể dân tộc trong một minh trí làm nên minh trị, biết tập hợp thành tổng lực tất cả các minh lực từ trong nước ra ngoài nước, có nhân dân Việt mà có cả kiều bào hải ngoại, vì tất cả đều là con dân Việt.
- Biết người biết ta, ngay trong hệ đa thấy được đa tài, đa trí, để vận dụng đa năng, đa hiệu, thấu được đa dũng, đa hùng, để nhận ra đa đảng được đều chế bằng đa nguyên của "sân chơi" đầy đủ, với "trò chơi" rõ ràng, cùng "luật chơi" minh bạch của tam quyền phân lập.
Hiện nay thì tình hình đất nước ngày càng đen tối, với số phận Việt tộc như chỉ mành treo chuông trước Tàu tặc đã lậm vào hệ xâm (xâm chiến, xâm lược, xâm lăng) từ đất ra biển, từ đảo tới thành phố, vùng miền… Không những bằng quân sự, chính trị, ngoại giao mà còn bằng công nghệ bẩn, kinh tế gian, thương mại xảo, vì Tàu phỉ đã tha hóa trong nhục kiếp các lãnh đạo đương nhiệm của Đảng cộng sản Việt Nam rồi. Chúng ta mong cầu trong hiểm họa này, trong đảng tà, tự nhiên xuất hiện ra một kẻ tà, một phái tà, một nhóm tà, một phe tà biết cải tử hoàn đồng, biết thay đời đổi kiếp của chính họ, để nhận ra minh lực trong minh lộ của kẻ thẳng người ngay mà tìm cách lội ngược giòng tà giang. Để từ minh dạng mà nhận ra nhân dạng, tức là nhận ra đại dương của hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn nhân từ, nhân tâm, nhân vị, nhân quyền, nhân đạo, nhân phẩm) để cứu nguy cho dân tộc, mà cũng để kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà tự cứu lấy mình !
Cái tà đẫm cái thâm, thấm cái cướp
Kẻ tà khác với kẻ ác bất nhân trong cực đoan, thất đức trong cuồng tín chỉ biết truy để diệt, hủy để chôn, kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà biết lấy nhục hình của lao lý để thay cái chết, lấy cực hình của tra tấn để thay cái diệt. Nó chúng sử dụng lao tù để biến tù nhân thành lao công, nhà tù thành nơi có cưỡng bức lao động, có cưỡng chế lao công làm ra sản phẩm để phục vụ cho tà quyền. Cụ thể là kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà thay án tử hình bằng án lao nô, thế án hành quyết bằng án khổ sai trong lao động không công, không lương.
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà còn chế tạo ra một tổ chức xã hội của lao động cưỡng bức qua sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, nơi chúng khai thác triệt để thể lực của nhân dân bằng sưu cao thuế nặng. Trong hiện cảnh của tất cả quần chúng trong tổ chức xã hội dựa vào đàn áp của công an trị, thì tà quyền hay phô trương tà lực toàn trị của nó, nhưng cùng lúc lại giấu che thực chất tham nhũng trị, cùng lúc che phủ nội chất tham tiền trị làm nên tà lộ trong điếm nghiệp của chúng. Trong thảm trạng của xã hội Việt Nam thì rất dễ quan sát quá trình này :
- Với dân lành, sống chỉ để chạy theo cơm, áo, gạo, tiền, luôn đầu tắt mặt tối vì chén cơm manh áo.
- Với dân đen luôn tối tăm mặt mũi, phải chạy gạo, chạy cơm từng ngày, với âu lo ăn bữa sáng lo bữa tối.
- Với dân oan, trước đó là dân lành, dân oan, một sớm một chiều thành dân oan bị tham quan cướp đất để bán lại cho trọc phú, gieo bao bạo họa đầu đường xó chợ, với bao bạo nạn màn trời chiếu đất.
Cả ba thành phần này đã là đại đa số của dân số quốc gia, họ là nạn nhân của một thiểu số có tà chất của hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng) lúc nhúc kiểu ký sinh trùng chung quanh quyền lực và quyền lợi của Đảng cộng sản Việt Nam, sống còn nhờ tà thuật của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn). Nơi mà kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà tha hồ vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước, bằng bộ ba tà dạng :
- bạo quyền độc đảng sử dụng công an trị,
- tà quyền tham quan vận dụng tham nhũng trị.
- ma quyền tham đất tận dụng tham tiền trị.
Đừng chỉ nhìn kẻ tà qua tà quyền trong định chế, mà phải thấy nó lan tỏa như đại dịch cúm Tàu năm 2020, nó lan lây trong quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để chôn, diệt, hủy, thiêu cái chính danh của trí tuệ. Nó còn tổ chức thành mạng lưới với các đồ đệ có tà tướng như âm binh của xã hội đen với côn đồ, du đảng, lưu manh trong quan hệ bằng bạo hành để đàn áp, hành hung dân lành, dân đen, dân oan. Cùng lúc kẻ tà dùng tà quyền trong thượng tầng lãnh đạo thường luồn lách trong hệ thống giáo dục, để buôn gian bán lận bằng học giả-thi giả-điểm-giả-bằng giả để lây bịnh vào giáo lý tổ tiên, chui sâu để lây dịch vào luân lý của giống nòi, lách để cấy khuẩn giết người của nó vào đạo đức của dân tộc. Cái tà luôn tìm cách biến mọi quan hệ xã hội thành quan hệ vụ lợi, mọi sinh hoạt xã hội thành sinh hoạt trục lợi, mọi tổ chức xã hội thành tổ chức để tư lợi.
Cái tà chìm trong cái nhục
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà lùa con người xa hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn nhân từ, nhân tâm, nhân vị, nhân quyền, nhân đạo, nhân phẩm), để xua con người vào chốn của bản năng đói ăn khát uống, khi bần cùng sinh đạo tặc trong tà lộ thì sẵn sàng ăn tươi nuốt sống đồng loại. Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà thường sống với toan tính khuất phục ý chí nhân tính, thuần hóa ý lực của nhân lý, thô tục hóa nhân cách để trần truồng hóa nhân vị. Mà chuyện rất lạ là kẻ tà không biết ngượng, không biết xấu hổ, không biết nhục, chỉ có người ngay, kẻ thanh mới biết ngượng, biết xấu hổ, biết nhục thay cho chúng. Vì tà dạng thường sinh đôi cùng tục tướng, tổ tiên Việt chẳng lầm khi mô thức hóa tà cách trong ngu thân : "Đứa ngu cởi truồng, người khôn mất mặt".
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà luôn có phản xạ của hệ đồng :
- Đồng chí trong bạo quyền để đồng lõa trong tà quyền ;
- Đồng bọn trong ma quyền để đồng hội trong cực quyền ;
- Đồng tội trong cuồng quyền để đồng thuyền trong âm quyền.
Cụ thể là chúng bắt đầu bằng trộm, cắp, cướp, giật của dân lành, dân đen, dân oan, mà hạ nguồn là không ăn chia đồng đều, thì chúng giở thói ganh tị của trâu buộc ghét trâu ăn, nên :
- Thanh toán nhau bằng bắt bớ, tù đày,
- Thanh trừng nhau bằng thủ tiêu, ám sát,
- Thanh lọc nhau bằng tai nạn, bằng thuốc độc.
Khi đứng trước tòa án là tướng mà khóc trong "tà lệ" xin tha tội bằng cách thú tội mình có tham vọng (tiền) nhiều nhưng não bộ lại quá bé. Khi đứng trước luật pháp thì bộ trưởng này ảo não trong tâm sự là tiền tham nhũng không biết để đâu, bộ trưởng kia thì khai báo cùng lúc luôn tố cáo đồng bọn, đồng lõa, đồng phạm để được giảm án nhẹ tù, bộ trưởng nọ thì khai liều luôn là tiền tham ô là do con gái mình giữ… Cái tù làm lộ cái tục, của các tướng lĩnh, cái nhục của các bộ trưởng trước vành móng ngựa !
Trong cái tục và cái nhục của cái tà, nhân dân nhận ra ngay cái điếm trong cái kiếp, cái phận của kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà :
- Khi một người đói phải ăn cắp để có ăn, thì bị tà quyền xử vài năm tù.
- Khi người ngay nói thật đúng sự thật qua mạng xã hội thì bị xử nhiều năm tù.
- Khi các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì công ích xã hội qua công bằng, tự do, bác ái, bằng đề nghị của dân chủ, đa nguyên vì nhân quyền thì bị xử nhiều năm tù.
Trường phái "Hãy khóc trước cổng tòa" tạo nên một làn sóng đầy tính nhân văn trong lớp người đã một thời hét ra lửa nay xảy chân ngã ngựa phải kéo nhau ra tòa thì hãy khóc, khóc để cho ai đó hãy xử các ông như những con người. Ảnh minh họa cựu trung tướng công an Phan Văn Vĩnh khóc trước tòa ngày 23/11/2018 và mong được giảm án tới mức thấp nhất (24h.com).
Nhưng khi đồng bọn, đồng lỏa, đồng chí cùng tà đảng với nhau, đã biển lận hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ đồng, thì được giảm án trước để được ân xá sau. Khi cái nhục luồn trong cái điếm để làm nên kẻ tà, thì kẻ này không bao giờ chấp nhận "sân chơi" đàng hoàng, với "trò chơi" tử tế, cùng "luật chơi" nghiêm minh. Kẻ yếu vía trong nhân sinh phải quỵ phục kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà khi chúng dùng bạo quyền để khuất phục họ, nhưng họ không khâm phục chúng. Kẻ cứng vía giữa nhân thế luôn trực diện với kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà để trực luận trước tà quyền, chắc chắn là họ không quỵ phục, không khuất phục, không khâm phục chúng, vì sao ? Chỉ vì sau tà tâm thâm, độc, ác, hiểm làm ra tà tướng xấu, tồi, tục, dở, làm nên tà diện của bất nhân thất đức làm cho chúng ta tởm ngôn lợm ngữ khi phải thấy tâm, tướng, diện, mạo của tà !
Lê Hữu Khóa
(11/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức
Ngữ luận 6 : Nói - "Nổ"
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói : "Việt Nam là một nước dân chủ và chúng tôi lên án chế độ độc tài"
Nói
Nói là động từ của phản xạ sống thường nhật rất tự nhiên của truyền thông, nói để đưa cá nhân vào sinh hoạt xã hội, để định vị cá nhân trong quan hệ xã hội, để bảo đảm ý muốn, ý định của cá nhân này ngay trong đời sống xã hội, nói từ trong gia đình ra tới học đường, từ nghề nghiệp tới văn hóa… Phạm trù nói có tác động lớn, ảnh hưởng rộng, với các hiệu quả cùng các hậu quả từ khó lường được từ không lường được từ khi internet xuất hiện với mạng xã hội, giờ đây, nói có sức lan tỏa trong toàn cầu hóa, trực tiếp trong tức thì với vận tốc nhanh nhạy nhất. Nếu đây là phạm trù của xã hội học truyền thông, thì các chuyên ngành khác như xã hội học văn hóa, xã hội học giáo dục, xã hội học chính trị, xã hội học đạo đức, xã hội học đàm phán, xã hội học chủ thể… có những phân tích khác về hiện tượng nói qua mạng xã hội, với các luận điểm rất khác xã hội học truyền thông.
Hãy bắt đầu câu chuyện nói bằng mạng xã hội, qua internet, với thực tế là ai lên mạng xã hội cũng được, có tự do muốn nói gì thì nói, lúc khởi đầu thì nói một lần và có thể nhiều lần trong ngày… hay nói suốt ngày cùng được. Từ đó biến chuyện nói một thân một mình thành đài phát thanh, thành kênh truyền hình, từ một thân một mình mà giờ đã được mang tên của báo, đài, kênh, cũng phát hành, thông tin như các báo, đài, kênh chính thống của một quốc gia, của một vùng miền… đây là dữ kiện mới của một thực thể mới trong khoa học xã hội nhân văn. Từ họa cảnh nói làm nên rối loạn nói, hãy cùng nhau tìm ra một phương pháp luận để khảo sát và điều tra về hành động nói, hành tác nói mà phân tích và giải thích hiệu quả nói, hậu quả nói qua internet, bằng mạng xã hội. Nơi mà nói không còn là một hành vi cá nhân riêng rẽ, mà nói giờ đây sách lược truyền thông, chiến lược thông tin, với nhiều chiến thuật tin tức đa dạng. Cộng với nhiều xảo thuật tìm bạn, tìm bè, tìm phái, tìm nhóm, tìm đám chiếu cố rồi ủng hộ kẻ nói như các đồng minh trong một liên minh. Nên trong hành động nói có ý muốn, ý định của cá nhân làm nên hành tác nói luôn có ý đồ, tức là có tính toán về quyền lực cả quyền lợi, tại đây có khi tư lợi được toan tính bằng cách hy sinh công lợi xã hội, cụ thể là "thí mạng" công ích tập thể, lợi ích cộng đồng. Cụ thể là biến chuyện tư thành chuyện công, rồi làm ngược lại biến chuyện công thành chuyện tư.
Từ đây, nói không còn là phản xạ vô thưởng vô phạt, mà là chuyện chọn lựa trước các cực thông tin rất khác nhau, trên mạng xã hội có ít nhất hai cực : một là khẩu Phật tâm xà ; hai là khẩu xà tâm Phật. Khi phân loại các cách nói như các cực, thì phải hiểu chủ thể nói chính là chủ từ vừa đại diện, vừa điều khiển động từ nói theo một kịch bản, vừa kể để tả, vừa tả để trao, vừa kể để định hướng, vừa kể để thuyết phục người nghe. Mà muốn định hướng dư luận thì phải rơi vào các cực của truyền thông, nơi mà cực là thượng nguồn của chủ ý biết tạo phân cực trong dư luận cùng lúc không bị mang tiếng là cực đoan hay cường điệu. Khi người nghe chỉ thấy chủ thể nói, là chủ từ nói, có chủ đề nói cùng chủ ý nói, tức là người nghe nói biết được ý định, ý muốn của chủ thể này. Nhưng người được nghe nói hoặc bị nghe nói không khám phá được tức khắc ý đồ được giấu kín của chủ thể này, với các tính toán về quyền lợi, với các toan tính về tư lợi, được ẩn giấu trong thâm ý của chủ thể này.
Thánh nói Nguyễn Xuân Phúc
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và điều tra về hiện tượng nói trên mạng xã hội, thì xã hội học truyền thông không thể hành tác riêng rẽ được, mà phải được trợ lực bằng phương pháp luận, phải được trợ duyên bằng tri thức luận của xã hội học văn hóa, xã hội học giáo dục, xã hội học chính trị, xã hội học đạo đức, xã hội học đàm phán, xã hội học chủ thể… Từ đó lập được quy trình phân loại trước để phân tích sau, rồi tiếp tục lộ trình học thuật là giải thích trước để giải luận sau. Câu chuyện nói của chúng ta là câu chuyện Việt, nên chúng ta cũng được trợ lực để được trợ duyên bằng tri thức của tổ tiên Việt, bằng ý thức của ông bà Việt đã để lại cho chúng ta một kho tàng về đạo lý thông tin, về đạo đức truyền thông. Và khi ta khai quật kho tàng này lên, thì chúng ta nhận ra là dân tộc học văn hóa Việt và nhân học văn hiến Việt giúp chúng ta rất nhiều trong quá trình học thuật (để học tập) này. Để thấy-cho-thấu hiện tượng nói trên mạng xã hội hiện nay, chúng ta nên bắt đầu phân loại :
- Phổi bò ruột ngựa, loại ruột để ngoài da đây là thành phần lên mạng xã hội "nói cho đã tức", "nói cho sướng miệng", có khi chỉ "nói cho thỏa", "nói cho nguôi", chỉ vì không có ai chung quanh mình để tâm sự với mình trong đời sống vô cùng cô đơn của mình. Vì không nghe được tiếng người gần, nên cần tiếng người xa, bằng cách tự nói để tìm bạn, "tự trao tin" để "tự báo tin" là "ta vẫn là ta" ! Nhưng thực chất cái ta này là ta nói vì ta cần người nghe, có người nghe ta thì ta mới tồn tại được, nên ta phải nói. Nhưng trên mạng xã hội thì tác giả của truyền thông loại này ít ai có can đảm nói thẳng thừng về điều này. Họ không dám nói thật là họ bị cô đơn trong"nhàm chán", cô độc trong "buồn thiu", cô lẻ trong"ghẻ lạnh"… Nếu "nói khơi khơi" trên mạng xã hội để "tránh buồn mênh mang", để "giải khuây" rồi "giải sầu" cho họ như họ đang uống một loại thuốc chữa tâm bịnh lẻ loi, mà không cần bác sĩ phân tâm học, hoặc tâm thần học, cũng không cần luôn thuốc men, và nếu mạng xã hội có chức năng này thì ta nên mừng mà đừng nên trách họ.
- Khoe của, khoe nhà để khoe mình, đây là loại tâm bịnh sống chìm trong mâu thuẫn của tâm tưởng, đối nghịch trong tâm lý, mà phân tâm học, cùng tâm thần học giải thích là nó bay từ cực tự ti qua thẳng cực tự mãn. Trước đó, khi còn bên nhà thì nghèo khó trong túng thiếu, khi qua được nước ngoài rồi thì đầu tắt mặt tối trong chén cơm manh áo, tối tăm mặt mũi với cơm áo gạo tiền. Rồi giành dụm trong chắt chiu để mua cho bằng được một căn nhà, với chút vườn tược là bắt đầu nhập nội vào ti lộ lấy tự mãn để che tự ti. Rảnh rỗi một chút là mở vi tính, bật internet, rồi lên thẳng mạng xã hội trước là chê đất nước Việt nghèo, khinh dân tộc Việt kém, chửi văn hóa Việt tồi, sau là quay vidéo, chụp ảnh để tự khoe nhà mình rộng, tự khen vườn mình đẹp... Não trạng bần hàn được che phủ bởi vật chất thô thiển, loại này ăn ở không tình nghĩa, sẽ sống nay chết mai trong vô hậu. Đất nước còn nghèo sao không tìm cách giúp đất nước giầu lên ? Dân tộc tộc mình kém sao không tìm cách làm dân tộc khá lên ? Văn hóa Việt tồi sao không tìm cách biến văn hóa đẹp lên ? Nói gần nói xa không qua nói thật mà sự thật thì mất lòng, là chỉ cần nghe loại người này từ nói qua kể, từ khoe qua khoang là ta biết loại này chỉ là loài đầu khờ miệng lanh. Khi chúng ta vận dụng phương pháp phân tích nội dung truyền thông của tâm lý học xã hội, thì ta thấy đây là loại bần cùng mới học làm sang, lấy cái bề ngoài vật chất để trùm che cái bề trong mạt vận trong kiết kiếp. Họ mang tiếng là sống ở phương Tây với văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, nơi mà văn hóa tại đây sinh động trong sáng tạo, linh hoạt trong nghệ thuật ; nhưng họ không biết gì nên không dám kể được về văn hóa, văn minh, văn hiến nơi xứ người. Khi họ khoe của, khoe nhà của họ, thì họ vô tình mà tự thú nhận là : "Thưa ông tôi (chỉ) ở bụi này", vì sự thật là của cải, nhà cửa của họ đối các gia đình tại các quốc gia tiên tiến chỉ là bụi !
- Thánh chửi, đây là thành phần mới trong xã hội Việt hiện nay, xuất hiện trên mạng xã hội không phải để làm thánh mà chỉ để chửi ; cụ thể là chửi chế độ độc đảng toàn trị, với công an trị, tham nhũng trị, tham tiền trị, đặc biệt là chửi các lãnh tụ, các lãnh đạo, các quan chức của Đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả các cá thể chửi này không thể xếp chung họ vào cùng một thể loại chửi, vì họ có trình độ tri thức khác nhau, không hề là cá mè một lứa. Nếu các thánh chửi có cùng nhau một hành tác chửi thường trực trên mạng xã hội, thì hành động chửi họ rất khác nhau, từ chủ đề tới nội dung, từ phân tích tới giải thích về chuyện chửi. Đây chính là câu chuyện trình độ chửi song hành cùng thuật ngữ chửi của mỗi cá thể chửi. Nếu họ giống nhau trên ngữ vựng tục tĩu, ngữ văn dữ dằn, thì ngữ pháp của mỗi thánh chửi tùy thuộc hoàn toàn vào hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) của mỗi cá thể chửi. Hãy gạt ra loại "chửi đổng", chỉ biết chửi vô cớ trong vô tri, chửi vô duyên vì vô lý, mà hãy đi vào phân tích sự thành công của thánh chửi này, sự thất bại của thánh chửi kia ; để thấy-mà-thấu ra tác động tích cực của thánh chửi này, hậu quả tiêu cực của thánh chửi kia.Tính duyên dáng trong thuật ngữ chửi, biến chuyện chửi thành chuyện cười có nội dung nhân bản, có ý nghĩa nhân văn, có giá trị nhân tính, tạo ra thành công. Còn ngược lại nếu thấy mình không "có duyên" trong thuật ngữ chửi, nhất là không có ý thức gì về nội dung nhân bản, có ý nghĩa nhân văn, có giá trị nhân tính, thì đừng mong cầu là mình sẽ trở thành thánh chửi. Trên thượng nguồn của sự thành công là tính cẩn trọng trong diễn biến từ sự kiện tới sự cố, có tích mới dựng nên tuồng, được tổ chức trong một thể loại thông tin có kịch bản vững, có bố cục chắc, cả hai song hành cùng truyền thông sắc, thuật ngữ nhọn. Tại đây, ngay trong quá trình chuẩn bị đã có sự phối hợp giữa kỹ thuật truyền thông và nghệ thuật tự đạo diễn để độc diễn. Nơi mà thánh chửi vừa nhận chức năng thông tin, vừa nhận chức vụ diễn viên để biến chuyện chửi thành chuyện cười, còn nếu chỉ chửi để mà chửi thôi thì thất bại là chuyện hiển nhiên. Khi một chủ thể chửi được quần chúng mạng xã hội đặt tên chính danh cho mình là thánh chửi với lượng độc giả cao, với lực khán giả lớn, thì tính chuyên nghiệp độc diễn của một thánh chửi tạo nên được quan hệ sinh động trong truyền thông, trong xã hội. Sau sự thành công của một thánh chửi, khán giả nhận ra được sự thông minh cá nhân của mỗi thánh chửi làm nên đặc điểm trong truyền thông chửi, đặc sắc trong phương pháp chửi, đặc thù trong duyên dáng chửi. Nhiều kẻ tự mệnh danh là thánh chửi, nếu tự mệnh danh thì xã hội học truyền thông sẽ xếp những kẻ này là loại : háo danh ! Chóng chầy sẽ tán gia bại sản trong hữu danh vô thực. Còn loại chính danh trong chính hiệu do quần chúng đặt danh hiệu là thánh chửi trên mạng xã hội Việt, chúng ta chỉ có vài "thánh" : Trang Lê bên Mỹ, có Hương Mắm tại Hà Nội, có Dưa Leo tại Sài Gòn…
Từ dân oan thành chống đối nhà nước - RFA tiếng Việt 31/08/2010
- Vạch mặt chỉ tên từ bạo quyền đến tà quyền, từ ma quyền đến cuồng quyền, là các chủ thể tận dụng mạng xã hội để tố cáo công an trị, tố giác tham nhũng trị trong xã hội Việt hiện nay. Họ biết vận dụng tự do cá nhân để bảo vệ công bằng, để xây dựng bác ái mà không quên đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền. Các chủ thể này có khi chỉ là các cá thể, có khi lấy tên một công đoàn, một đảng phái, hoặc một đài phát thanh, một kênh truyền hình, nhưng mục đích là tấn công vào sào huyệt của bất công, vào hang ổ của tham nhũng, thối tha trong thối nát của sân sau, chống lưng, ô dù, lót tay, bôi trơn, bao bì… Lòng can đảm của họ bị chế độ công an trị xếp trong loại "điếc không sợ súng", bị bọn dư luận viên đe dọa là "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ". Nhưng sự thật hoàn toàn nằm ở cõi khác, ở nơi chốn mà công an trị cùng bọn âm binh dư luận viên không sao lần tìm, dò la tới được, mà khi chúng tới được thì thật là may cho nhân kiếp của chúng, vì chúng sẽ nhận lại được nhân phẩm. Đó là cõi mà nhân tính, nhân lý luôn được bảo vệ bởi nhân nghĩa, nhân tâm ; được bảo hành bởi nhân tri, nhân trí ; được bảo kê bởi nhân vị, nhân quyền. Thành phần xã hội của lực lượng vạch mặt chỉ tên này vô cùng phong phú, có trí thức mọi chuyên ngành trong đó có những luật sự xuất sắc, có cả ký giả tận tâm, biết bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền độc đảng toàn trị. Họ là chủ thể của các công đoàn tự phát, của các hội đoàn tự nguyện, của các phong trào xã hội dân sự luôn bị rình rập, hãm hại. Họ là các đứa con tin của Việt tộc, nhưng cùng lúc luôn là đối tượng của hành hung, hành sát của một tà quyền biết tận dụng du dảng, côn đồ, lưu manh của xã hội đen để truy sát, truy diệt họ. Tiếng nói của họ làm bọn ăn nằm ở dề trong ba hệ là hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) ; hệ quyền (bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền) ; hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) phải ngày đêm mất ăn mất ngủ. Các chủ thể biết vạch mặt chỉ tên, đã chọn đứng về phía các nạn nhân của áp bức, của bất công, họ đối kháng với ba tà hệ trên bằng ba chính hệ của họ : hệ công (công tâm, công bằng, công lý, công pháp, công luật), hệ đa (đa trí, đa tài, đa dung, đa năng, đa hiệu) làm chân trời của đa nguyên, trong tương lai của đa đảng ; song đôi cùng lứa với hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái). Quần chúng gởi niềm tin vào lực lượng của ba hệ (đa, công, thông) này, mà tương lai của Việt tộc cũng là đây.
- Lương tâm chống lương lẹo, cõi sáng của lòng thành với hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) trực diện để chống lại sự lương lẹo của hệ gian (gian dối, gian xảo, gian trá, gian manh) có cha sinh là hệ quyền (bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền), có mẹ đẻ là hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Tiếng nói của lương tâm tới từ các cựu tù nhân lương tâm, đã phải qua bao vòng lao lý của bạo quyền, vượt bao hãm hại của tà quyền, thoát bao truy sát của ma quyền. Bây giờ, nhiều tiếng nói lương tâm này tới từ phương xa, bên phương Tây, ngoài đất nước Việt, ngày ngày tới với đồng bào trên quê hương nhờ mạng xã hội. Tại đây, phải phân loại từng nhóm để thấy ra một sự thật là ngay trên chuyện yêu nước thương nòi cũng là chuyện của trình độ biết nhận tri thức để tổng kết kiến thức, để xây dựng ý thức, để tạo ra nhận thức, để giúp quần chúng tỉnh thức trước bạo quyền, tà quyền, ma quyền. Nếu mọi chuyện trên đời này đều quy về chuyện trình độ thì chuyện khi họ kể về số phận con sâu cái kiến của Việt tộc hiện nay trước cực quyền độc đảng toàn trị cho tới chuyện dời non lấp bể trong hoài bão của họ, thì nói đi nói lại vẫn là chuyện trình độ. Từ chuyện sự thật trong nhân thế, chân lý trong nhân sinh, tới chuyện lẽ phải trong nhân loại, tất cả đều là chuyện trình độ. Nếu trình độ cao thì sẽ kéo người nghe, người dự lên cao ; nếu trình độ rộng thì sẽ đưa người nghe, người dự đi xa ; nếu trình độ sâu thì sẽ dắt người nghe, người dự vào sâu, để làm cho đúng lời dặn của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "phải lần cho tới tận nguồn lạch sông". Còn ngược lại, nếu trình độ thấp thì sẽ kéo người nghe, người dự xuống thấp có khi xuống bùn ; nếu trình độ hẹp thì sẽ kéo người nghe, người dự vào ngõ cụt, lối mòn, rồi không có lối ra ; nếu trình độ cạn thì sẽ kéo người nghe, người dự vào chuyện cào cào, xới xới bên ngoài mà không đủ tầm để đủ tâm mà đào sâu cho tới nơi, tới chốn. Câu chuyện trình độ ít nhiều liên can tới câu chuyện của Ôn Như Hầu : "Nghĩ thân phù thế mà đau/ Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê", vì bến mê có mặt ngay trong đời sống hàng ngày, với thực hư, rồi hư thực, đúng sai rồi sai đúng như "trở bàn tay". Khi còn đấu tranh ngay trên quê hương của mình, trực diện hàng ngày với quỷ quyền độc tài, với quỷ dử là công an trị, thì cả nước khâm phục lòng dũng cảm, trí kiên cường, tâm cương quyết của các tù nhân lương tâm. Nhưng khi phải nhận cảnh lưu vong, thì các cựu tù nhân lương tâm như bị bứng đi khỏi môi trường ruột của mình (tôi không dùng các từ đất dụng võ đâu nhé). Nên nơi xứ người, bên phương Tây, các cựu tù nhân lương tâm này chạm mặt với một khó khăn mới, một trở ngại mới. Chính là nội hàm về trình độ từ kiến thức chuyên môn tới tri thức chuyên ngành. Tất cả trong một môi trường hoàn toàn mới của tự do cạnh tranh về thông tin, trong toàn cầu hóa về truyền thông, nơi mà trí thức chuyên khoa làm nên ý thức chuyên nghiệp, tạo ra uy tín về trình độ thông tin. Nên sự quả cảm trong yêu nước thương nòi sẽ không đủ, không giúp họ giữ được ảnh hưởng của họ trong quần chúng. Nếu cựu tù nhân lương tâm này cứ nói bằng các tin tức, các dữ kiện, các chứng từ mà mọi người đã biết, đã có rồi. Vì trong các quốc gia phương Tây này người ta có đủ thông tin, có đầy tin tức, mà kẻ trao tin không có lý luận của kiến thức, lập luận của trí thức, giải luận của ý thức, diễn luận của nhận thức, thì họ đang làm chuyện dã tràng xe cát biển đông.
- Chuyên nghệ truyền thông vì chuyên nghiệp từ tin tức tới thông tin, đây là khu vực chuyên môn của các chủ thể có lý luận chính trị, có lập luận kinh tế, có giải luận trước hoàn cảnh quốc gia, có diễn luận trước bối cảnh quốc tế. Họ có kiến thức rộng, tri thức cao, ý thức sâu, nhận thức xa, từ phân tích dữ kiện tới giải thích chứng từ, họ lật đi lật lại hiện tượng cho tới khi bản chất đang bị giấu kín bởi tà quyền phải lòi ra. Tâm địa của quỷ quyền đang ăn gian nói dối thì họ đưa ánh sáng của sự thật vào để cháy nhà lòi mặt chuột, để vạch mặt bạo quyền toàn trị, để chỉ tên tà quyền tham nhũng, để nêu lý lịch của ma quyền tham tiền, để lập chân dung của cực quyền, để trưng ra dị tướng của cuồng quyền. Họ đại diện cho sự chính xác trong khoa học, họ là đại biểu khách quan của sự thật, họ là chính khách của chân lý, họ là chính ngữ của lẽ phải. Họ là trí thức thật nhưng không lang man bằng lý thuyết mà rất cụ thể trong lý giải, vì họ đã từng trải với trường đời. Họ có tri thức rộng nhưng không mơ hồ trong trừu tượng mà rất thiết thực trong diễn luận trước nạn cảnh của đất nước, trước họa cảnh của dân tộc, vì họ đã có trải nghiệm với chính trị, với chính giới...
Một cây làm chẳng nên non là thực tế, một con én không làm được mùa xuân là thực trạng ; nên trên đây chỉ là phân loại tạm thời, không hề đầy đủ được về hiện tượng nói qua mạng xã hội. Còn nếu muốn phân loại cho tới nơi để phân tích cho tới chốn, thì phải có chính sách nghiên cứu với các trung tâm nghiên cứu, cùng một lực lượng đông đảo các nghiên cứu viên. Tất cả được trang bị đầy đủ bởi lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận về truyền thông, từ thượng nguồn tin tức tới hạ nguồn thông tin, để cân, đo, đong, đếm về các hiệu quả cũng như các hậu quả của hiện tượng nói qua mạng xã hội này. Nhưng trước mặt, chúng ta có thể phân loại thêm về thực chất của truyền thông bằng các tiêu chuẩn của các ngành khoa học xã hội nhân văn :
- Luật học và tâm lý học xã hội khi song hành cùng xã hội học truyền thông để phân tích hiện tượng nói qua mạng xã hội, thì yêu cầu chúng ta phải lấy trong tin tức ra các dữ kiện khách quan để làm chứng từ được luật định, nơi mà tin đồn không phải là sự thật, nên kẻ trao tin và người nhận tin, cả hai có nhân sinh quan khác nhau để tin hay không tin vào một tin tức.
- Triết học và ngôn ngữ học khi song cặp cùng xã hội học truyền thông để phân tích hiện tượng nói qua mạng xã hội, thì yêu cầu chúng ta phải lấy trong tin tức ra cho bằng được các nội dung cụ thể để thấu giá trị của truyền thông, từ đó nhận ra tư tưởng của kẻ trao tin.
- Chính trị học và truyền thông học khi song lứa cùng xã hội học truyền thông để phân tích hiện tượng nói qua mạng xã hội, thì yêu cầu chúng ta phải vận dụng sự liên minh của liên kiết tin tức-dữ kiện-chứng từ với liên kiết nội dung-giá trị- tư tưởng để nhận ra ý muốn-ý định-ý đồ của kẻ trao tin.
Xin được tạm ngừng, học thuật thật là chuyện nhọc trí, triệt lực, khổ tâm, vì kẻ nói trên mạng xã hội, thì nói như "rồng leo trong sấm chớp", mà kẻ nghiên cứu về hiện tượng nói này, thì phải vượt suối để phân loại, phải trèo đèo để phân tích… Thiên sơn, vạn thủy là đây !
Vụ Thủ Thiêm: Dân ‘mắng’ công an, quân đội, chính quyền ‘đê tiện’ (VOA)
"Nổ"
Trong tâm lý học xã hội khi phân tích quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội làm nên đời sống xã hội là ngã ba trung tâm của xã hội học, để từ đó vào sâu mà phân tích tâm lý cá nhân, nhất là loại cá nhân luôn thấy mình "phải nổ để hơn người". Loại cá nhân này vừa chủ quan khi đánh giá tha nhân, lại vừa bắt buộc tha nhân phải lắng nghe câu chuyện chủ quan đến cường điệu của mình. Nghịch lý là tha nhân biết câu chuyện đó không phải là sự thật, xa vời vợi với chân lý, biền biệt trước lẽ phải. Hiện tượng xảo ngôn cường điệu đến cực đoan này được tóm gọi trong chỉ một từ, vừa lạ trong định nghĩa ngữ văn, vừa hay trong định luận ngữ pháp, đó là từ : "nổ", mà ta luôn bị nghe -tới điếc tai- trong đời sống hằng ngày…
Thánh nổ Nguyễn Mạnh Hùng
"Nổ", rời vị thế của một động từ để trở thành tiêu chí trong bảng xếp loại các cá nhân lạc lõng trước sự thật, lạc loài trước chân lý, nên lạc đường trước lẽ phải. Từ đó, xã hội học và tâm lý học tạo được một nơi hẹn hò thật thông minh để cùng nhau nhận ra các "cá nhân nổ" này ; không những biết nói láo, nói sạo, mà còn biết nói điêu, nói ngoa trong quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội. Mà phương trình "bất tận" của nói láo-nói sạo-nói điêu-nói ngoa chóng chầy sẽ dẫn tới nói liều, nói bừa và từ đây chỉ cần đi thêm một bước nữa là sẽ tới nói bốc, mà hậu quả phản sự thật, chối chân lý, lừa lẽ phải thì"nổ" sẽ là nói nhảm.
Bi kịch của Việt tộc trong chế độ độc đảng nơi mà giới lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tự cho phép mình "nổ", từ bạo quyền tới cực quyền, từ tham quyền tới lộng quyền, từ cuồng quyền tới quỷ quyền, biến hang ổ của quyền lực chính là nơi "tự nhiên được nổ" nhất ! Tại đây, trên đỉnh cao của quyền lực có ông Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước ngang nhiên "nổ" giữa nhân gian là : "Chưa bao giờ dân tộc ta được như ngày hôm nay", mặc dầu ông biết rất rõ là thanh niên Việt trong xuất khẩu lao động qua các nứơc láng giềng thì thành lao nô, phụ nữ Việt thì trở thành nô tỳ, vậy mà họ vẫn thí mạng như "thùng nhân" để chết cóng trong xe đông lạnh…Chưa hết, khi Tàu tặc cướp đất, biển, đảo ; khi Tàu họa biến quê hương gấm vóc của tổ tiên Việt thành bãi rác của ô nhiễm boxite, của Formosa ; khi Tàu hoạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc ; khi Tàu nạn buôn ma túy, giết người, cướp để buôn nội tạng con dân Việt, với phản xạ của Tàu tà là đi trên lưng, trên vai, trên đầu của ông và của cả Đảng cộng sản Việt Nam, thì ông cho "nổ" luôn ngay trên nhân kiếp của Việt tộc là : "Chưa bao giờ có dân tộc nào mà tin tưởng đảng lãnh đạo của mình đến thế !". Đối với Đảng cộng sản Việt Nam, nếu có "nổ" là có chết người, kể cả phải cho "nổ" toang thân thể chính đồng chí của mình, có khi còn chưa hả dạ, phải "mổ bụng phanh thân" như đã giết cụ Lê Đình Kình trước Tết 2020.
Còn ông Thủ tướng tự đặt tên cho chính phủ của mình là chính phủ kiến tạo, dù sao bao nhiêu năm làm Thủ tướng ông chưa hề có một kiến tạo gì cả, vì ông quen tính "nổ như chơi" nên khi tới bất cứ tỉnh thành nào ông cũng tự bầu cho tỉnh thành đó là : "đầu tầu cho cả nước". Một đất nước mà có quá nhiều đầu tầu, chạy đủ chiều trong hỗn loạn, thì sẽ đụng nhau, sẽ bị"nổ" lung tung. Trong chính phủ thì mỗi bộ trưởng là một "ngòi nổ", ông Bộ trưởng Thông tin truyền thông thì từ loạn tri đi thẳng đến bãi mìn dày đặc những ngòi nổ mà tuyên bố : "Việt Nam ta làm được những cái mà thế giới không làm được". Ngòi nổ này châm ngòi nổ kia, để tất cả cùng nhau "nổ" ! Các ông bộ trưởng, tướng tá trong công an, trong quân đội vơ vét không biết bao nhiêu tỷ qua tham nhũng tới các lãnh đạo trong tuyên huấn… đều "độc nổ", đều "nói là nổ" tại nơi truyền thống tuyên truyền của độc đảng.
"Nổ từ bao cấp nổ ra thị trường"để khi phải ngồi cùng chiếu ăn cùng mâm trong kinh tế thị trường hiện nay với các lãnh đạo của các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ nói năng chỉnh lý trước sự thật, hợp lý trước chân lý, toàn lý trước lẽ phải, thì kiểu "nổ đại bác" ở quê nhà chỉ là "pháo xì" ở phương Tây mà thôi. Chính tôi thấy cảnh các lãnh đạo của các quốc gia tiên tiến "cười mỉm" mỗi khi nghe lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam "nổ", mà người phương Tây gọi là "cười chìm" vì lịch sự, thì người Việt lại đặt tên là "cười khẩy" vì khinh miệt. Họ cười vì biết rất rõ là trong lãnh đạo chính trị thì "nổ" là một hành vi : "tự sát", vì "lựu đạn sẽ nổ ngay trong bụng" của kẻ đã dùng miệng để châm ngòi"nổ".
"Nổ chuồn vì biết nổ theo", đó là bà Chủ tịch Quốc hội, bà tự rút quả lựu đạn cho nổ giữa chợ trời nhân sinh, khi bà vặn vẹo dân chúng là : "đã làm gì cho dân tộc chưa ?". Bà chỉ là loại "nổ theo", "nổ bám", "nổ đu" vì câu này không phải của bà, mà bà "nổ kiểu ăn cắp" của một ông tổng thống Mỹ mà lời tuyên bố của ông này thì hợp lý vì hợp cảnh của thời cuộc của ông. Còn bà thuộc loại "nổ mép", "nổ lẻo", "nổ luồn" khi chính bản thân bà xa hoa với hàng trăm chiếc áo dài được may theo kiểu "nổ lòe" trong"nổ trộm", "nổ mọn" trong"nổ vụng" …
Tổ tiên Việt cẩn trọng dặn con cháu Việt :"Giữ miệng như giữ nút bình", để tránh được hậu quả của "Cái miệng hại cái thân". Riêng tôi, khi nghiên cứu phối hợp giữa xã hội học và tâm lý học để tạo tiền đề cho tâm lý học xã hội mà giải luận chính giới, thì tôi phải tìm ra một phạm trù phân tích mới. Tôi đề nghị xếp các thường dân "nổ" vào loại : "đầu khờ miệng lanh", nhưng khi phải giải thích hiện tượng "nổ" của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì tôi phải đổi lại là : "đầu gian miệng ngoa" !
Lê Hữu Khóa
(09/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức
Ngữ luận 5 : Ma - Mặt
Ma
Ma, đây không phải con ma mà người ta không thấy ma hay kể về nó trong các truyện ma, mà là mặt người chất ma, là ma tiền làm ra ma quyền có mặt hằng ngày trong đời sống xã hội, với quyền lực mờ ám của tham tiền, tạo nên tham tiền trị trong quan hệ xã hội, nó xuất đầu lộ diện trong sinh hoạt xã hội, với ma lực của nó chính là sức mạnh của đồng tiền. Shakespeare nhận rõ ma lực của đồng tiền là ma lực biết đổi trắng thay đen : "Có chút vàng trong tay có thể đổi da mình đen thành ra da trắng". Marx, cha sinh của thuyết cộng sản, mẹ đẻ của duy vật biện chứng, còn đi xa hơn trước ma lực của đồng tiền : "Có tiền, thì có thể tổ chức đám cưới cho mọi bất khả thi, có tiền thì có thể kết hôn cho những chuyện tưởng không bao giờ thực hiện được".
Ma tiền của quyền, ma quyền của tiền
Câu chuyện ma lực đồng tiền tưởng đã cũ, vì ai cũng biết, nhưng ma lực của tiền này giúp ta khám phá ra ma lực tiền kia, ngày nay có Bill Gates, một trong những kẻ có tiền nhiều nhất hiện nay nhờ buôn qua bán lại khoa học truyền thông trong bối cảnh toàn cầu hóa lại dùng tiền của mình để phục sự khoa học. Hỗ trợ để cổ vũ không chỉ một khoa học mà nhiều khoa học, dùng tiền làm khoa học mạnh lên, và khi khoa học mạnh lên rồi thì khoa học sẽ phục vụ còn người hay hơn, giỏi hơn, khá hơn. Chưa hết, người này còn dùng tiền để làm chuyện từ thiện, cụ thể là bứng đi cái khốn đã tạo ra cái khổ, nhổ đi cái bần tạo ra cái hàn, rồi những ai đã được ra khỏi cái khốn, cái khổ, cái bần, cái hàn, thì sau đó sẻ dể ra khỏi cái nghèo, cái quẫn. Cụ thể là vận dụng tiền để bứng cái khốn, nhổ cái bần, tách cái nhọc ra khỏi cái nghèo, rồi đưa cái nghèo về phía cái đủ : đủ ăn, đủ mặc, đủ sống, cụ thể là giúp con người nhận lại nhân phẩm, để tiếp tục phấn đấu mà xóa đi cái khốn, cái khổ, cái bần, cái hàn, để chúng không biến trần gian thành địa ngục nữa.
Chính Hugo, rồi Péguy trong buổi giao thời cuối thế kỷ XIV qua đầu thế kỷ XX, khi nhân loại bóc lột lẫn nhau trong quá trình công nghiệp hóa vì tiền, đã khai thị cho loại người có tiền và có trí tuệ kiểu Bill Gates, khi họ giãi thích nếu muốn giải tỏa cái khốn làm ra cái hèn, cái bần làm ra cái nhục. Trong thuyết luận tiền của Hugo, kẻ có tiền ngày càng nhiều tiền đóng vai người giầu, kẻ bị bóc lột người càng bị vùi sâu từ khốn khổ tới khốn cùng. Trong luận thuyết tiền của Péguy thì tiền luôn là con dao hai lưỡi, nếu không nói là trăm lưỡi, sắc nhọn khi đâm gục nhân cách, sắc bén khi chém giết ngã nhân phẩm. Từ ma lực của tiền người ta mua được mọi thứ, có tiền mua tiên cũng được, và sau khi dò soát lại các tư tương gia đã chắp bút viết về ma lực của đồng tiền, thì tôi khám phá là kẻ dùng tiền mua tiên không phải là kẻ khôn. Vì trong giãi thích của tổ tiên Việt :
"Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa ra tới tới biển đã dò nông sâu".
Đám dùng tiền mua tiên theo kiểu lấy vật chất đè nhân cách, thì chắn chắn không phải là nhân loại thông minh trong giáo lý Việt biết phân biệt khôn ngu :
"Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu bực mình".
Ma tiền làm ra ma quyền có mặt hằng ngày trong đời sống xã hội, với quyền lực mờ ám của tham tiền, tạo nên tham tiền trị trong quan hệ xã hội
Nhân loại giải ma loài
Khi tôi nghiên cứu về giới có tiền mua tiên, khảo sát về cách dùng tiền, điều tra về lối tiêu tiền, điền dã về cách vung tiền của giới mới giầu này, thì đại đa số bị xếp loại bởi dân chúng là : trọc phú. Cách đặt tên xếp loại này rất đúng ! Có tiền mà không có văn hóa, có của mà không có tri thức, nên giầu mà không sang, nên lắm bạc nhiều tiền nhưng vẫn là loại người ngu, không tư cách, vắng phong cách, trống nhân cách. Phân tích cái ngu này của trọc phú, thì nên vận dụng từ ma của ngôn ngữ học tri thức để nhận ra hậu quả của cái ngu khi nó dùng tiền trong ma đạo của nó. Khi cái ngu song lứa với ma lực tiền thì nó có tính toán ích kỷ thô thiển nhất, với toan tính vụ lợi thấp hèn nhất. Từ đây tôi đi tìm các giải luận của xã hội hội học nhân thức để nhận định chuyện gì đang xãy ra trong xã hội việt hiện nay ? Đó là chuyện của những kẻ có tiền và có quyền mà ngu đang đe dọa mọi giáo lý của tổ tiên Việt, mọi luân lý gióng nòi Việt, mọi đạo đức của cộng đồng Việt, cụ thể là đám giầu mà ngu này đang trùm phủ cái ngu lên cái khôn của Việt tộc.
Khi bọn giàu ngu trong xã hội Việt hiện nay tự vỗ ngực trong cái đần độn vì tiền của nó : "Một chuyện không mua được bằng tiền, sẽ mua được với rất nhiều tiền", đây là loại lanh trong ngõ cụt,không phải loại người khôn tìm ngõ ra. Bọn khôn quá hóa dại này lại ngày ngày sinh sôi nẩy nở trong chế độ toàn trị độc đảng đã giáo dưỡng chúng bằng tham nhũng trị song cặp, chung lứa cùng tham tiền trị, nên chúng sinh sống và sinh hoạt hoàn toàn trái ngược với giáo lý tổ tiên Việt :
"Không bán linh hồn cho quỷ", dù là quỷ tiền, quỷ bạc, quỷ vàng, vì sao ? Chỉ vì "Sống lâu mới biết lòng người có nhân" ; chỉ vì "Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn" ; chỉ vì "một duyên, hai nợ, ba tình". Nơi mà chữ nợ đây không phải là nợ tiền, nợ bạc, nợ vàng, mà là nợ duyên, nợ tình, nợ nghĩa trong nợ với đời là phải làm người liêm chính trong liêm khiết với cùng với tha nhân, đồng loại, đồng bào, trong nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành, với nhân nghĩa cao, sâu, xa, rộng. Tổ tiên Việt khuyên con cháu không mù quáng, đớ lười, chết dở vì tiền ! Và nếu mù quáng, đớ lười, chết dở vì tiền, thì đúng là ma chớ không phải là người !
Việt tộc đã xếp loại được nhiều giống ma bằng ngôn ngữ học nhân gian, trong bài này chỉ xin nêu ra vài giống ma mang nhân dạng người nhưng có bản chất ma, sống với người chỉ để hại người trong xã hội việt hiện nay. Nhân cách của bọn thành ma vì tiền này thua xa các oan hồn bị oan án mà quanh quất cõi nhân sinh đêm đêm gọi gào đền ơn báo oán ; các oan hồn bị đặt tên là ma, nhưng họ rất có nhân cách, họ không để quyền của tiền thao túng, giật dây, khống chế họ, nên chất người của các oan hồn này nhiều gấp vạn lần bọn thành ma vì tham tiền trong tham ô và tham nhũng. Ta có ma xó ẩn núp trong bóng đêm, có cơ hội xấu là chui luồn ngay từ bóng tối này qua bóng đêm kia để thừa gió bẻ măng. Ta có ma trơi vật vờ bay lượn trong từ góc khuất này qua góc sám kia, có thời cơ tồi là chúng làm chuyện cốc mò cò ăn. Ta có ma bùn nhớp nhúa trong bùn nhơ, đã sống nhờ bùn nên chúng không sợ bi vấy bùn từ nhân cách tới nhân phẩm, chúng chực chờ thời điểm tục là thừa nước đục thả câu. Đám ma này sinh sôi nảy nở trong ma đạo của tham nhũng trị sinh đôi với tham tiền trị, luôn được hà hơi tiếp sức bởi công an trị được một ma vương tổ chức cho sinh sôi nẩy nở trong độc trị để toàn trị, bằng độc đảng trong độc quyền của độc tôn. Đây là hệ thống phân loại hóa của ngôn ngữ học tri thức biết dựa vào dân tộc học nhận thức trước các bất công đang chồng chất lên xã hội Việt hiện nay. Nên từ ma trong bài này là để dùng cho loại ma vô cùng độc hại vì nó độc đoán trong chính hệ độc do nó đề ra, để áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc, trong đó độc đảng là cha sinh mẹ đẻ của độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn.
Khi bọn giàu ngu trong xã hội Việt hiện nay tự vỗ ngực trong cái đần độn vì tiền của nó : "Một chuyện không mua được bằng tiền, sẽ mua được với rất nhiều tiền"…
Nhân vị định ma vị
Định loại ma xong thì xã hội học nhận thức phải điều tra trong điền dã để định vị ma. Ma loại này không sống trong các xóm ổ chuột của khốn cùng, trong các làng ung thư của nhiễm ô công nghiệp tới từ Tàu tà ngoại xâm. Chúng là nội xâm ma xó, ma trơi, ma bùn đã mở cửa cho Tàu tặc đến làm tan hoang đất nước Việt ; băng hoại xã hội Việt, tha hóa dân tộc Việt, biến chất gióng nòi Việt. Bọn ma này sống trong các biệt thự, biệt dinh, biệt phủ, sống tách biệt với dân chúng nheo nhóc trong bần hàn, với dân tộc nhọc nhằn trong chén cơm manh áo. Mùa dịch cúm Tàu chưa tới chúng đã sống cách ly với dân tôc, cách biệt với dân chúng, cách xa với quần chúng. Đừng mong tìm chúng giữa đám dân lành ngày ngày đầu tắt mặt tối với cơm áo gạo tiền. Đừng mong thấy chúng trong đám dân đen một nắng hai sương trong nhọc nhằn ăn bửa sáng lo bửa tối. Nhất là đừng mong trông ra ma dạng của chúng trong cộng đồng dân oan, đã lên hằng triệu người ngay trên quê hương khốn khổ này ; đã bị chúng phá nhà để cướp đất, từ dân lành, dân đen một sớm một chiều giờ đây đã thành dân oan, vất va vất vướng nơi đầu đường xó chợ, vật vờ trắng kiếp trong màn trời chiếu đất.
Định loại ma để định vị ma thì phải đi thêm bước nữa trong khảo sát sâu để được hiểu rộng mà định tầng ma, nơi mà ma vương là ma lãnh đạo dùng ma quyền là công an ma, côn đồ ma, du đãng ma, lưu manh ma của xã hội đen (đen vì đã là ma) để hiếp đáp, đàn áp, khủng bố dân lành, dân đen, dân oan. Chưa xong, đối thủ của ma vương, làm cho ma vương mất ăn mất ngũ chính là các đứa con tin yêu của Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền, ngày đêm bị ma vương này truy cùng diệt tận, rồi đưa vào vào lao lý với bao nhục hình, đó là các tù nhân lương tâm ! Vì các đứa con tin yêu của lương tâm này đã vận dụng nhân đạo để trừ ma, tận dụng nhân tri để diệt tà, họ đứng về phía ánh sáng của sự thật để soi rọi các giai tầng trọc phú ma trong chế độ toàn trị của ma. Các tù nhân lương tâm này đứng về phía măt trời của chân lý để soi tìm giai cấp tham quan ma trong có chế tham nhũng ma, để làm rỏ lên lẻ phải của hệ nhân (nhân quyền, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân tri, nhân trí). Giống ma tham tiền này rất sợ loại người-có-nhân này.
Định tầng ma sau khi đã định loại ma và định vị ma, giờ phải định lợi ma, nơi mà cái lợi, cái lời của giống ma này được hành tác trong bạo quyền thanh trừng với bạo lực thanh toán lẫn nhau, trong bạo hành của giết chóc, trước diệt nhau ngoài đời, sau giết nhau trong tù. Với bao tướng đã bỏ mạng, với bao bộ trưởng trong vào lao lý, với bao lãnh đạo một sớm một chiều mất mạng như chơi, giữa không gian đồng chí của mình với ảo tưởng còn đảng còn mình. Định lợi ma thì phải thấy được sào huyệt ma, không phải trên núi cao, trong thung lũng sâu, mà ngay trong Bộ công an, với các tướng công an tổ chức đánh bạc, để nhận tham nhũng bạc tỷ. Định lợi ma thì phải thấy được hang ổ ma không trong đường hầm, chẳng trong địa đạo mà ngay trong chính quyền với chính phủ có các bộ trưởng chân dung người nhưng nội chất ma, mua đài truyền hình này, mua ngân hàng kia với tiền thuế của dân, rồi đi đường vòng ma của biển lận, để sau đó bỏ riêng vào túi của mình hàng triệu đô la mỹ. Định lợi ma thì phải thấy được âm đạo ma, từ thợ nhôm chớp nhoáng lên làm thượng tá công an để nhanh nhẩu buôn gian bán lận đất đai công rồi biến thành của cải riêng, vì nhờ có quan hệ mật thiết ma vì biết chia chác ma từ lãnh đạo cao nhất nước, mà không quên quen biết khắng khít nhất với Thành ủy, Tỉnh ủy…
Định lợi ma sau khi đã định loại ma, định vị ma, định tầng ma thì phải đi xa thêm bước nữa để định quyền ma, không bằng công quyền của hệ công (công pháp, công luật công lý, công tâm) mà bằng ma quyền của hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Chắc chắn là không bằng lương quyền của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) mà bằng ma quyền của hệ vô (vô cảm, vô giác, vô tri, vô minh). Sẵn sàng đóng cửa giết nhau trong hang ổ của Ủy ban như tại Yên Bái ; sẵn lòng thủ tiêu nhau ngay trong nhà tù của quân đội để ngăn mọi chứng từ bằng cách diệt mọi chứng nhân, với nạn nhân kiểu Phạm Quý Ngọ, rồi Lê Bắc Hà… Ma quyền khi tự định quyền ma thì từ truy sát tới ám sát chỉ là một bước ngắn, nên tai nạn lưu thông tới dùng thuốc độc giết người là ma quyền như quyền ăn cơm bửa, quyền đi chợ ma vì quyền vì tiền, của tiền vì quyền.
Định loại ma, định vị ma, định tầng ma, định lợi ma, định quyền ma còn phải vào sâu trong định ngôn ma, mà không nên quên dùng nhân định của hệ nhân (nhân quyền, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân tri, nhân trí). Định ngôn ma để định ngữ ma từ trên chóp bu lãnh đạo tới bọn mạt vận trống kiến thức, vắng tri thức bên dưới là dư luận viên song lứa cùng đôi với bọn bút nô, ký nô, văn nô… đang nhập ma kiếp mà quần chúng việt đặt ma hiệu là bưng bô. Chủ tịch cũng là Tổng bí thư, là ma vương của ma đảng, sau khi đã sát hại đồng chí cùng đảng với mình là cụ Lê Đình Kình đầu năm 2020 này, rồi phanh thây mỗ bụng thi hài của cụ trước khi trả về cho gia quyến tại làng Đồng Tâm, thì xuất hiện ngay với tuyên bố ma là chưa bao giờ có một nhân dân nào lại tin tưởng đảng lãnh đạo của mình như nhân dân việt nam ! Sau khi đã tuyên trạng ma là chưa bao giờ đất nước, dân tộc được như ngày hôm nay ; mặc dầu biết đất nước quê hương gấm vóc với tiền rừng biển bạc mà tổ tiên Việt đã để lại cho dân tộc Việt giờ đây đang thành một đất nước bị ma hóa ! Bởi nhiễm ô từ bốc xít Tây Nguyên tới công nghệ luyện thép kiểu Formosa tại Hà Tĩnh. Với sự thật là chưa bao giờ nguyên khí của quốc gia là thanh niên, mà trai tráng trong xuất khẩu lao động là lao nô, với nữ giới làm nô tỳ cho cho các quốc gia láng giềng như hiện nay. Sớm trưa chiều tối, cả dân tộc phải nghe lời ma từ Đảng ma tới Chính phủ ma, chữ ma từ Quốc hội ma tới tư pháp ma, nên khi bọn ma giới trong lảnh đạo tưởng mình là chính giới thường có phản xạ ma là đổi Đảng ma, Chính phủ ma, Quốc hội ma thành Đảng ta, Chính phủ ta, Quốc hội ta. Không có chính danh, nên trống chính ngữ, vắng chính ngôn, vì dân tộc việt không hệ bầu ra đảng này, chính phủ này, quốc hội này, nên chất ma làm nên bản chất của đảng, của chính phủ, của quốc hội hiện nay. Để ngày ngày thấy Tàu ma thành Tàu tặc ngay trên đất, biển, đảo việt. Tàu ma hành động ngay trong Tàu nạn với công nghệ nhiễm ô của nhiệt điện than sinh ra các làng ung thư tới các thành phố bị xếp vào loại ma tướng của các đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Tàu ma hành tác ngay trong Tàu họa với thực phẩm bẩn, hóa chất độc được sản xuất rồi nhập cảng từ quê hương của Tàu tà. Cùng hành vi Tàu nạn trong buôn má túy, bán mãi dâm, giết người, lấy nội tạng của Tàu hoạn. Tất cả được bọn chóp bu ma tráo ngôn xảo ngữ trong bạn vàng với tâm tính ma, bạn tốt với tâm địa ma.
Đảng ma, Chính phủ ma, Quốc hội ma thành Đảng ta, Chính phủ ta, Quốc hội ta
Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân !
Bourdieu, thầy tôi, thân sinh của xã hội học quyền lực đã đưa ma lực của đồng tiền vào hệ thống lý luận và giãi luận của ông về quyền của tiền và tiền của quyền với :
- Thuyết khống chế, nơi mà kẻ khống chế có quyền vì có tiền, rồi dùng tiền rồi thì tăng quyền, dụng quyền có thêm tiền, sống vì tiền làm ra quyền, thở vì quyền làm ra tiền, nơi mà vốn kinh tài và vốn quyền lực chỉ là một.
- Thuyết khuất phục, nơi mà kẻ có tiền lại có quyền không những ăn trên ngồi trốc mà còn tổ chức ra hệ thống xã hội kiểu cốc mò cò ăn, nạn nhân là cốc bị khống chế treo khốn khổ rồi bị khuất phục trong đói nghèo sẽ mang thân mà đỡ đạn trong loạn lạc cho kẻ khống chế của mình, mà trước đó trong thời bình đã ăn tàn phá hại tận trong xương tủy của mình.
- Thuyết tuân thủ trong nhân kiếp của các nạn nhân bị khống chế, bị khuất phục là quá trình phải tuân thủ một cách vô điều kiện các mệnh lệnh đã đè đầu cưỡi cổ mình, các nạn nhân này vô tình hay cố ý tham dự vào hệ thống xã hội đày dẫy những bất công do quyền của tiền dựng lên, do tiền của quyền tạo ra, nơi mà vẩn đâu cùng hoàn đó với con Vua thì được làm Vua, con Sải chùa lại quét lá đa.
- Thuyết thuần hóa, kẻ mạnh vì tiền dùng tiền để thao túng quyền, dùng quyền để quản trị tiền, kẻ mạnh này thuần hóa các nạn nhân bằng sự de dọa là họ sẽ bị mất chén cơm manh áo nếu họ bất tuân, kẻ cả mất mạng từ tòa án của ma tiền tới nhà tù của ma quyền. Thuần hóa để tuân lệnh kẻ đã tháo nhân cách, gở nhân tri, bứng nhân phẩm của chính mình, để điều khiển mình chỉ bằng quyền của tiền trong tiền của quyền.
- Thuyết tái sản xuất bất công, sẽ tự vận hành trong sinh hoạt kinh tế, trong quan hệ nghề nghiệp, trong đời sống xã hội với thực tế của khống chế, với thực trạng của khuất phục, để định chế hóa sự tuân thủ, cơ chế hóa sự thuần hóa.
Tất cả cùng nhau hướng về ma lực của đồng tiền, lấy chân trời của mạnh được yếu thua mà tha hồ coi nhau như dã thú, súc vật hóa quan hệ giữa người và người, sẵn sàng nuốt chửng nhau trong cõi không nhân tính, vắng nhân tâm, trống nhân từ của một vùng mục súc nơi mà cá lớn nuốt cá bé là chuyện cơm bữa mỗi ngày.
Như vậy thì lối ra cho nhân quyền là đâu ? Lối vào cho nhân phẩm là nơi nào ? Bourdieu khuyên dặn các môn sinh của mình là câu trả lời cùng cách giải quyết để chống bất công do ma quyền của tiền cũng như ma tiền của quyền gây ra đã có ngay trong phương pháp phân tích không khoan nhượng và phương cách giãi thích không nhượng bộ ngay trên thực tế của không chế, ngay trên thực trạng của khuất phục, ngay trên thực thể của sự tuân thủ, ngay trên thực cảnh của sự thuần hóa.
Hãy cân, đo, đong, đếm bằng phương pháp luận sắc bén nhất, bằng khoa học luận sắc nhọn nhất với công tâm biết bảo vệ công bằng, với công lý biết bảo hành công pháp, với công luật biết bảo trợ công luận, với công ích biết bảo đảm công chúng.
Hãy vận dụng kiến thức về bất công xã hội để bảo vệ tri thức về công bằng xã hội, tiếp nhận chỉnh chu các trí thức của khoa học xã hội nhân văn về bất nhân thất đức để bảo vệ các nhận thức về ăn hiền ở lành có trong giáo lý của tổ tiên, có trong luân lý của cồng đồng, để làm nền của đạo đức xã hội.
Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân, chính là kẻ nghèo với số phận con sâu cái kiến, người yếu với số kiếp thấp cổ bé họng trước bất công, mà nhân kiếp luôn là nạn nhân cho tới mãn kiếp, để vạch mặt chỉ tên ma tiền của quyền có cha sinh mẹ đẻ cùng với ma quyền của tiền.
Hãy đứng về phía nước mắt của nạn nhân, chính là kẻ nghèo với số phận con sâu cái kiến, người yếu với số kiếp thấp cổ bé họng trước bất công
Mặt
Trông mặt bắt hình dong, là một thể loại bài học nhân gian, thường được sử dụng ngay trong quan hệ giữa người và người, nơi mà diện mạo bề ngoài nói được nội dung bên trong của một con người. Đây là loại tri thức thực nghiệm chớp nhoáng, không có cơ sở khoa học với chứng từ khách quan, với phân tích chỉnh lý, với giải thích toàn lý, nên chuẩn đoán kiểu này là nửa hư nửa thực, nếu nó dễ đúng thì nó cũng rất dễ sai.
Khi tâm lý học được sự hỗ trợ của phân tâm học và tâm thần học để đi sâu vào cá tính của mỗi cá nhân, thì cũng tránh chuyện trông mặt bắt hình dong, vì mặt là hiện tượng bên ngoài, còn tâm là nội dung bên trong, đây là hai phạm trù riêng biệt với hai nội dụng tách biệt. Nhưng trong điện ảnh, sân khấu, thì mặt là diện để đại diện mà nói lên tâm, cụ thể là lấy bề ngoài để làm sáng bề trong của một nhân vật, nên chuyện thượng nguồn chọn khuôn mặt diễn viên -casting- là một khâu chủ yếu. Khâu tuyển chọn bề ngoài này là chỗ dựa cho các diễn biến trong câu chuyện mà đạo diễn phải kể cho khán giả, khâu này dùng không những để định vị nhân vật mà còn để dẫn dắt kịch bản bằng sự xuất hiện các khuôn mặt nói lên vai trò của nhân vật này, chức năng của nhân vật kia, vị trí của nhân vật nọ…
Cũng tránh chuyện trông mặt bắt hình dong, vì mặt là hiện tượng bên ngoài, còn tâm là nội dung bên trong, đây là hai phạm trù riêng biệt với hai nội dụng tách biệt.
Khi tôi nghiên cứu về tình hình xã hội Việt Nam hiện nay, thì tôi phải điều tra về các nhân vật lãnh đạo xã hội dựng nên tổ chức xã hội này, chóng chày phải khảo sát về lý lịch cá nhân của các nhân vật lãnh đạo, rồi dần dà phải kiểm nghiệm hóa khả năng, tài năng, trí năng của các nhân vật lãnh đạo này. Trong điền dã thực địa, thì bài học trông mặt bắt hình dong luôn trở lại dưới nhiều giải luận khác nhau, dưới nhiều diễn luận phong phú, nơi mà dân tộc tính thực nghiệm đã thành các bài học do tổ tiên để lại đã điều kiện hóa dân tộc tính thể nghiệm. Tôi đề nghị phương pháp xem lại, soát lại, xét lại câu chuyện nửa hư nửa thực, dễ đúng dễ sai của bài học trông mặt bắt hình dong bằng cách liên kết lại ba phạm trù :
- Nhân diện, sự hiện diện của một khuôn mặt không hề thụ động trong sinh hoạt xã hội, không ù lì trong quan hệ xã hội, không vô thưởng vô phạt trong đời sống xã hội. Khuôn mặt linh động trong cách thể hiện ý muốn của cá nhân, ý định của cá thể, nơi mà ý đồ có khi được bày tỏ như con tính, có lúc bị giấu kín như toan tính. Cấu trúc linh hoạt của khuôn mặt dựa vào sự linh động của miệng lưỡi, nên mà lời nói làm rõ nội công, làm mạnh bản lĩnh, làm sáng tầm vóc của một cá nhân. Liên minh giữa diện và lời, là liên minh muôn hình vạn trạng với cá nhân rất khác nhau, người thì khẩu xà tâm phật, kẻ thì khẩu phật tâm xà, người thì ruột để ngoài da, với khẩu phàm của phổi bò ruột ngựa, kẻ thì giữ miệng như giữ nút bình để tránh chuyện cái miệng hại cái thân… mà ta không quên nhân diện trong nhân khẩu loại Sở Khanh : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi" !
- Nhân dạng là một phạm vi linh hoạt khác của nhân sinh, dạng không chỉ là hình, nơi mà hình dáng cô đọng trong xơ cứng của thân xác, mà được thể hiện qua hành vi, chuyển hóa qua hành động, với các hành tác làm nên hành thể, một loại thân thể không những biết thích ứng với môi trường mà còn thích ứng với bối cảnh, với hoàn cảnh, với thực cảnh. Một nhân dạng có ý thức ở sao cho vừa lòng người, có tri thức suy bụng ta ra bụng người, có nhận thức học ăn học nói, học gói học mở. Nhân dạng được làm đẹp bởi trang sức, mà cũng được giấu kín với quần áo, nếu nhân dạng biết ăn mặc theo mùa, thì nhân dạng cũng thích ăn mặc theo thời. Cái ăn khi song hành cùng cái mặt định vị không những ranh giới giữa giàu và nghèo, có tiền và không có tiền, nó còn nhân vị hóa là người này hiểu đời, người kia hưởng đời, người nọ xa đời. Mà đời đây nhiều khi chỉ là thời thượng, sáng nở tối tàn, vì chính nội chất của cuộc đời là nắng sớm chiều mưa, có người sáng suốt xem vô thường là minh triết, có kẻ không ý thức vô thường nên "chưng hửng" trước thực trạng sống nay chết mai. Nhưng nhân cách tồi tệ nhất vẫn là loại đánh lận con đen, dùng bề ngoài để lừa người, kiểu Mã Giám Sinh : "Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao", đây là loại tà nghiệp trong điếm lộ.
- Nhân cách, làm nên phong cách của kẻ có bản lĩnh, có nội công thì được nhân gian xếp vào loại cứng vía, còn ngược lại vắng nội lực lại trống tầm vóc thì bị xếp vào hàng yếu vía. Nhân gian không lầm khi nhìn nhân cách của Từ Hải với gân cốt : "Đầu đội trời chân đạp đất", với vai vóc : "Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo". Từ Hải cứng vía nên xứng đáng với một người cứng vía khác là Thúy Kiều biết quý trọng một hồn ma là Đạm Tiên, nên chắc tâm vững trí xin được kết nghĩa chị em với Đạm Tiên : "Chớ nề u hiển mới là chị em". Trong khi đó, đứa yếu vía đứng cạnh chị của mình, là con trai nhưng rất "sợ ma", với tâm xìu trí nhũn mà khuyên chị : "Ở đây âm khí nặng nề, bóng chiều đã ngã dặm về còn xa". Có tư cách mới có phong cách, biết vận dụng phong cách trong đạo lý, biết tận dụng phong cách trong đạo đức, thì mới mong có nhân cách, chớ không phải là người là có nhân cách.
Khi phải cân, đo, đong, đếm để làm được lời khuyên của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông" trong nghiên cứu để bảo đảm lời khuyên của tổ tiên là : "so ra mới biết ngắn dài" trong khảo sát, để chính xác trong cân, đo, đong, đếm của điều tra, thì tôi thấy nhân cách là hải đăng của nhân diện, là chân trời cho nhân dạng. Nhân cách điều chế nhân diện, nhân cách điều khiển nhân dạng. Giữ được nhân cách, thì nhân diện sẽ đẹp, nhân dạng sẽ hay, nên khi Từ Hải thấy Kiều đã rơi vào bẫy của Hồ Tôn Hiến mà khuyên chàng ra đầu hàng triều đình thối nát trong thối tha (đây là hiện cảnh của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam), thì Từ Hải rất rõ ràng với chính nhân cách của mình : "Hàng thần lơ láo phận mình ra chi !". Từ sống ngay cho tới chết đứng, Từ Hải không bao giờ rơi vào thảm cảnh trạng động từ của nhân cách là lơ láo, chàng đã sống không lơ láo, thì làm sao chàng có thể sống chung với bọn tham quan suốt đời, suốt ngày lơ láo (đây là hiện trạng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam).
Trúc đứng thẳng để ngăn các chuyện xằng, chuyện bậy, nhất là ngăn luôn tội lỗi.
Rào đón trước sau bằng lý thuyết luận, rào giậu tát ao bằng phương pháp luận, đào sâu bới xa bằng khoa học luận rồi thì phải vào đề ngay theo lời dặn của tổ tiên Việt là "nói gần nói xa không qua nói thật", theo lời khuyên của ông bà Việt mà chấp nhận chuyện "sự thật mất lòng". Tôi phải thông báo kết quả nghiên cứu của mình về nhân diện, nhân dạng, nhân cách của các lãnh đạo trong Đảng cộng sản Việt Nam tìm cách minh chứng để thực chứng bài học của tổ tiên : "Trông mặt bắt hình dong" là đúng sai ra sao ? Hư thực thế nào ? Thì kết quả điều tra, khảo sát từ phân tích tới giải thích vô cùng phong phú, xin chỉ đơn cử một vài thí dụ :
- Hải heo là biệt hiệu trên nhân diện của Lê Thanh Hải, nguyên Bí thư thành ủy, ủy viên Bộ chính trị mà nhân dân Sài Gòn, đặc biệt là cư dân của Thủ Thiêm, nạn nhân của chuyện cướp đất động trời, nơi mà hàng chục ngàn đồng bào là dân lành mà một sớm một chiều đã thành dân oan với thảm cảnh khi thì màn trời chiếu đất, khi thì đầu đường xó chợ. Nghiên cứu trong khoa học xã hội luôn dựa vào dữ kiện của thực địa để khảo sát chứng từ, rồi điều tra về chứng nhân, nên điền dã là quan sát phối hợp với phỏng vấn, đi kèm với bản câu hỏi, mà không quên nhật ký của các nạn nhân bị cướp đất. Từ đây, tôi mới hiểu ra là Hải là tên thật, còn heo là biệt hiệu, trước đó các nạn nhân bị cướp đất tức là dân oan của Thủ Thiêm, giờ thì cả nước gọi Lê Thanh Hải là Hải heo. Tôi thấy chữ heo gắn với người là tục, chớ không hề thanh, mà tổ tiên Việt luôn dạy con cháu Việt là trong bất cứ tình huống nào cũng phải theo thanh để giữ thanh, nên dù đố tục (thì phải) giảng thanh mà ! Tôi lại đào sâu bới xa, mà hỏi các nạn nhân bị cướp đất, tại sao lại đặt một cái tên sao mà xấu, tồi, tục, dở vậy ? thì họ trả lời tôi là nhân vật Hải heo từ mặt mũi tới diện mạo ngày càng giống : heo. Từ tham ô tới tham nhũng, từ tham quyền tới tham tiền đã vơ vét, đã ăn đầy nuốt trọn, nên khuôn mặt ngày càng giống : heo ! Tôi suy nghĩ mãi về chuyện này, tôi sẽ không bao giờ gọi Lê Thanh Hải là Hải heo, nhưng thú thật ("nói bằng thực") là tôi thấy biệt hiệu làm nên biệt danh này là đúng tên trúng diện. nên câu : "Trông mặt bắt hình dong" có lẽ thật chăng ?
- Phúc niểng, là biệt danh của Nguyễn Xuân Phúc, đương kim thủ tướng của chính phủ, công cụ thường nhật của chính quyền độc đảng trong toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ giáo dục cá nhân, gia đình tới giáo dục học đường, xã hội, thú thật là tôi không biết từ : niểng ; tôi khám phá ra từ này cùng lúc ông Phúc có tên là Phúc niểng. Sau đó là tôi dò la để tìm hiểu về định nghĩa của từ niểng, thì tôi có rất nhiều định nghĩa, tự giải nghĩa ngôn từ tới giải nghĩa hình thể. Mà tất cả các định nghĩa này điều quy về chữ nghiêng (nghiêng đầu, nghiêng vai, nghiêng lưng, nghiêng thân, nghiêng người…) tức là đã mất đi khả năng thẳng (thẳng đầu, thẳng vai, thẳng lưng, thẳng thân, thẳng người…). Mà thẳng là biểu tượng của quân tử (thẳng như tùng bách), mà thẳng còn là biểu hiện của lãnh đạo có vai vóc luân lý, có tầm vóc đạo lý, có hình tượng thẳng của trúc mà Nguyễn Trãi tả rất rõ : "Cõi trần có trúc đứng ngăn". Trúc đứng thẳng để ngăn các chuyện xằng, chuyện bậy, nhất là ngăn luôn tội lỗi. Nếu không có khả năng của thẳng thì đừng lãnh đạo, vì tham quyền mà ham lãnh đạo thì chóng chầy chỉ phản dân hại nước. Khi nghiên cứu các bài phát biểu của ông thủ tướng này, thì ông Phúc hay niểng để tránh trả lời thành thật những câu hỏi chính đáng về tình hình đất nước, nhưng lại hết niểng khi ông nói về hiện trạng : "sân sau", "chống lưng", ô dù", "lót tay", "bao bì" trong sinh hoạt tham ô, trong hành tác tham nhũng, tất cả quan hệ đều quy vào tiền tệ… Rồi đồng bào ngoài nước, hiện sống tại Mỹ, khám phá ra là của cải lắm tiền nhiều bạc của ông, cơ ngơi nhà rộng cửa cao của ông tại Mỹ, rốt cuộc thì ông đã niểng tài sản, tiền của ra ngoài rồi… Tôi sẽ không bao giờ tự gọi ông là Phúc niểng, vì đây là hai từ "dị ứng nhau", vì Phúc là phúc lộc của hạnh phúc ; ngược lại niểng là nghiêng để luồn, nghiêng để chuồn. Chắc chắn đây không phải hành vi của người ngay, người biết đi thẳng, đứng thẳng, nói thẳng, làm thẳng. Nên Phúc ngược chiều, đối nghịch, kình chống với niểng ; nhưng tại sao lại hội tụ để nhập nội vào nhân diện của ông thủ tướng, để biến ông thành Phúc niểng để làm rõ lý lịch cá nhân niểng theo lai lịch cá thể nghiêng. Nơi mà biệu danh nghiêng song hành cùng biệt hiệu niểng đã trực tiếp hay gián tiếp xác chứng câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" ?
- Trọng lú, biệt danh của ông đương kim Chủ tịch nước cùng lúc là Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, đây thật là chuyện hư hư thật thật của nội dung : "Trông mặt bắt hình dong". Thượng nguồn của từ lú có lẽ tới từ trạng động từ lú lẫn, nơi mà ông đã trông gà hóa cuốc ; nên từ lú lẫn trong quan sát, trong nhận định mà sinh ra lú lầm trong phân tích và giải thích. Vì khuyết tật quáng gà này nên ông không nhìn ra sự thật, chân lý, lẽ phải, ông ngang nhiên lú ngôn trong lẫn ngữ mà tuyên bố : "Chưa bao giờ đất nước ta được như ngày hôm nay", "Chưa có dân tộc nào tin tưởng vào đảng của mình như dân ta tin vào Đảng cộng sản Việt Nam"… Danh sách về lú ngôn trong lẫn ngữ của ông thì dày đặc mà cả dân tộc đều biết. Trong khi triệu triệu người bỏ đất nước ra đi, kể cả chấp nhận một chính sách xuất khẩu lao động tồi tệ nhất, trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ cho các nước làng giềng… Sau 1975, dân chúng chấp nhận thảm kịch thuyền nhân hơn là chấp nhận độc tài toàn trị, tránh độc đảng như tránh tà, và bây giờ qua thế kỷ mới đã 20 năm, dân chúng còn chấp nhận bi nạn thùng nhân, mất mạng cóng thân trong các xe vận tải đông lạnh. Đúng là phải lú lẫn trong cực quyền, lú lầm trong cuồng quyền mới tuyên bố như ông. Nhưng tính khách quan trong khoa học xã hội nhân văn khuyên chúng ta nên cẩn trọng với cá nhân lú ngoài mặt nhưng lụt nọc độc trong bụng. Vì ông này không lú lẫn khi thanh trừng những bè, đám, lũ, phái nào đã chống đối ông ; ông không lú lầm khi thanh toán những cá nhân, cá thể nào đã là đối phương, đối thủ của ông.
- Nếu ông này có toan tính thanh trừng, có tính toán để thanh toán đồng chí, đồng bọn của ông, thì khoa học xã hội nhân văn phải phân tích nghiêm túc quan hệ giữa lú, lẫn, lầm, lỗi với hai hành vi khác. Thứ nhất là toan tính thâm, độc, ác, hiểm khi truy-để-diệt đối phương, đối thủ ; thứ nhì là tính toán xấu, tồi, tục, dở có khi lận-để-gian có trong một cá nhân giả-lú-để-thủ- sát. Cụ thể là ngấm ngầm là sát thủ với nhân diện lú, giả ngây ngô, mạo khờ dại để hại người mà không bị người hại, vì ông biết đóng kịch khi ông khóc trước quốc hội khi chưa diệt được đồng chí X ; rồi ông vui cười với cử tri để kể những thành tích của Đảng cộng sản Việt Nam dù ông biết đó là thảm kịch mà ông và đảng của ông đã gieo lên nhân kiếp của Việt tộc. Nên câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong", nửa hư nửa thật, nửa đúng nửa sai, nửa trúng nửa trật với trường hợp của ông đương kim Chủ tịch nước cùng lúc là Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam này nhắc ta luôn cẩn thận với bài học của tổ tiên : "Có ai lấy thước mà đo lòng người".
Từ đây, tôi xin tạm rời câu chuyện làm nên nội dung : "Trông mặt bắt hình dong" này, để đi tìm sự thật của dữ kiện, chân lý của chứng từ với phương pháp khách quan hóa nhân diện, nhân dạng, nhân cách. Tôi lập lộ trình giải luận bằng lý thuyết luận của nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa ; bằng phương pháp luận của nhân lý, nhân tri, nhân trí ; bằng khoa học luận của nhân bản, nhân văn, nhân tính, để tìm đến tri thức luận của nhân vị, nhân đạo, nhân quyền ; tất cả được nhập nội vào châm ngôn của đạo lý Việt : "đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn". Tôi đề nghị các hệ sau đây, như những tiêu chí để đánh giá, để tránh vàng thau không lẫn lộn, để tránh lú lẫn từ phân tích tới phân giải trong "quan hệ đối đầu" để dẫn, dắt, dìu, đưa câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" vào một chiều sâu, một chiều cao, một chiều rộng khác :
- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) đối nghịch với hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng).
- Hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) đối trọng với hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tin, bất trung).
- Hệ đa (đa đảng, đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng) đối luận với hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn).
Kế đến là tôi đặt chỉ một câu hỏi tới từ kết quả nghiên cứu thực địa của tôi, để hỏi các đồng nghiệp là trí thức đại học đang sinh sống và làm việc tại quê nhà, họ cũng như tôi vừa quan tâm tới thảm trạng của đất nước hiện nay, vừa là những kẻ đi tìm câu trả lời thực hư, đúng sai, trúng trật của câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong". Câu hỏi của tôi là : khi quan sát các khuôn mặt, các diện mạo, tức là các nhân diện của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ chính quyền tới chính phủ hiện nay, thì tôi không thấy họ thể hiện các hệ sau đây trên thần, sắc làm nên diện, mạo của họ ; cụ thể là tôi không thấy :
- Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái).
- Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo).
Như vậy là tôi thấy đúng, nhìn trúng hay tôi thấy sai, nhìn trật ? Chuyện lạ lại vừa hay cho sự thật, nhưng là chuyện vừa buồn, vừa lo cho dân tộc là tất cả trí thức, trăm phần trăm, các đồng nghiệp nhận -chống chính quyền hay theo chính quyền- đều trả lời là : "Anh thấy đúng, nhìn trúng, lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có ba hệ thức, thông, sáng này". Tôi chẳng vui mừng gì khi đồng nghiệp của mình khẳng định là : tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai ; ngược lại tôi còn bàng hoàng cho tiền đồ của tổ tiên, sững sờ cho tương lai của Việt tộc.
Lòng tôi mang một nỗi buồn không tên-và-không nguôi này, với nghịch lý là tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai, nhưng sao tôi lại buồn, lại lo, lại sợ ?
Còn có cách kiểm chứng nào khác nữa không ? Tại sao nhân kiếp đồng bào tôi lại tăm tối với các lãnh đạo độc tài trong độc đoán với diện, mạo, thần, sắc tối tăm như vậy ? Phương tiện nghiên cứu eo hẹp, sau nhiều đêm mất ngủ, thức trắng vì lo ngại cho bao thế hệ mai hậu của Việt tộc, tôi "liều mình" giữa đêm kể câu chuyện : "Trông mặt bắt hình dong" cho người yêu của tôi nghe. Tôi kể huyên thuyên từ điền dã, khảo sát, điều tra, nghiên cứu tới chuyện tôi "đánh liều" đi hỏi đồng nghiệp về chuyện vắng hệ này, thiếu hệ kia, trống hệ nọ trên thân, sắc, diện, mạo của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, rồi tôi lập lại cùng câu hỏi : "Em thấy anh nhìn như vậy đúng hay sai ? Anh thấy vậy trúng hay trật ?". Tôi từ "chết nằm" qua "chết ngồi", rồi từ "chết đứng" như trời trồng qua "chết điếng" trong đớ lưởi, khi như người yêu của tôi chắc bẩm mà trả lời rằng : "Anh nhìn nhận như vậy là hoàn toàn đúng anh à !". Trời ! Từ thì thầm "trời ơi !" tới gào trách "trời hỡi !", như vậy thì tương lai con cháu, tiền đồ tổ tiên sẽ ra sao ?
Bao ngày tháng trôi qua, lòng tôi mang một nỗi buồn không tên-và-không nguôi này, với nghịch lý là tôi thấy đúng, nhìn trúng, nhận định không sai, nhưng sao tôi lại buồn, lại lo, lại sợ ? Các bạn hãy giúp tôi đặt tên cho nỗi buồn, nỗi lo, nỗi sợ này nhé !
Lê Hữu Khóa
(07/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức
Ngữ luận 4 : Giả
Giả
Cái giả muốn tồn tại thì phải dựa vào cái thật, để luồn lách trong hiện tượng nửa thật nửa giả để đánh lận con đen bằng ngôn ngữ nửa hư nửa thực, nên cái giả là loại ký sinh trùng bám trên lưng, đeo trên vai, luồn vào đầu cái thật để tồn tại như một thực thể, một thực tế chẳng liên quan gì đến chuyện định nghĩa về sự thật. Đây là một trong những định nghĩa của hành động bị mang tên là đạo đức giả, một loại đạo đức dễ dùng, dễ xài khi nó tận dụng ngôn ngữ để hành tác trong sinh hoạt xã hội, bằng lời nói hoàn toàn miễn phí, lời nói chẳng mất tiền mua. Người tế nhị tinh tế thì mượn lời mà nói cho vừa lòng nhau, còn bọn đạo đức giả thì mượn lời mà nói để lừa nhau.
Cái giả : cái tà trong quyền, cái ma trong tiền
Tại đây, ngôn ngữ học tri thức sẽ được trợ lực bằng chính trị học luận chứng, triết học đạo đức, xã hội học quyền lực để cân, đo, đong, đếm cái giả luôn tìm cách lẩn lút để hòa tan trong cái thật. Chưa đủ, hiện tượng luận trực quan của mắt thấy tai nghe được trợ duyên bởi hiện tượng học lý trí hiểu để giải, sẽ giúp ngôn ngữ học tri thức thấy để thấu cái giả đã thành cái tà trong quyền, cái ma trong tiền. Nơi mà bài học dạy con người bằng sự thích ứng : Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy đã mất đi tính hiệu quả của nó, trong quan hệ giả hiện nay. Thí dụ như chuyện rửa tiền của bọn tham nhũng bằng cách xây chùa, rồi vận dụng với bọn ma tăng để vơ vét thêm nhiều tiền nữa qua cầu vong trái chủ nơi cửa Phật, bằng khẩu phật tâm xà. Bọn ma tăng này là sư quốc doanh, là sư công an, chúng không biết Phật học nên không có Phật đạo, không nắm Phật pháp nên trống vắng Phật tâm, nên cái giả đã tới tận chùa để giết Phật tính, bây giờ khi vào chùa mọi người nên đề cao cảnh giác mà mặc áo giấy để chuẩn bị gặp (ma) tăng !
Nên khi nghiên cứu về cái giả bằng động từ giả thì nó luôn song hành với các động từ khác : dối, gian, lừa, lận, phản, tráo, xảo… để cờ gian bạc lận trong quan hệ xã hội. Nếu cái giả là nguyên nhân làm nên ung thư trong đời sống xã hội, thì động từ giả chính là sự phát triển đại tràng của ung thư này trong tổ chức xã hội. Bi kịch làm nên thảm trạng của xã hội Việt Nam hiện nay là cái giả tràn lan, không những thế ngày ngày nó áp đảo, nó trấn áp, nó hãm hại, nó truy diệt, nó thanh trừng cái thật, nó xiết cổ tới tắt thở cái thật đại diện cho sự thật, cho chân lý là nền của lẽ phải. Và trong chế độ độc đảng toàn trị song hành cùng tham nhũng trị, song lứa cùng tham tiền trị hiện nay thì tất cả đều có thể bị giả hóa bằng tiền, bằng quyền, nên lẽ phải phải chịu chết ngay trong trứng nước. Cái giả hiện diện, xuất hiện, hành tác, bùng phát từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, từ bé đến lớn… bằng tà lộ của điếm nghiệp : học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả được khai thác, được tận dụng để mua gian bán lận trong việc thật-chỗ thật-chức thật-quyền thật.
Quá trình xây dựng học thuật từ quan sát tới điều tra, rồi từ phân tích tới giải thích giúp ta thấy hiện tượng giả như thấy một hình thái, một thực thể có trong cuộc sống, mà ta phải đi tìm nguyên nhân tại sao nó xuất hiện, lý do tại sao nó phát triển như cái xấu, tồi, tục, dở, có lúc thì nó mang bản chất ngu, dại, đần, xuẩn ; có khi nó mang nội chất thâm, độc, ác, hiểm. Nên thấy được hiện tượng của cái giả chỉ là thượng nguồn, giải thích cái giả chỉ là trung nguồn, mà khâu chủ yếu nhất vẫn là giải chứng để giải luận cái giả trong hạ nguồn ; đây mới chính là kết quả- chung kết, thực sự đóng góp cho học thuật, nơi mà một hiện tượng giả có nhiều bản chất giả, nội chất giả khác nhau.
Cái giả : ngôn xảo ngữ tà
Cái giả luôn mang trong nó các xảo thuật khi nó hành tác trong sinh hoạt xã hội, nó biết phô bày để phô trương, nó biết bày biện để bày trò, nó biết thiết kế để thuyết phục, nó biết bày mưu để tác động ngay vào não trạng của người liêm chính khi người này quan sát nó. Nhân dân Việt không lầm khi thấy bọn quan chức thở bằng tham ô, hít bằng tham nhũng thì luôn "Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao" kiểu Mã Giám Sinh. Nhưng khi chúng nói để hứa, hẹn để thề thì xảo ngôn làm nên tà ngữ của chúng thuộc vào loại Sở Khanh : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Nhân dân Việt không lầm là nhờ tổ tiên Việt đã giáo dục rồi giáo dưỡng con cháu Việt là phải cẩn trọng với bọn sâu bọ làm người này, chúng là bọn cướp ngày là quan, chúng biến dân lành thành dân đen bằng sưu cao thuế nặng, chúng biến dân đen thành dân oan bằng phá nhà cướp đất.
Nên khi chính trị học luận chứng nghiên cứu về bọn tham quan này, khi triết học đạo đức khảo sát về bọn tham ô này, khi xã hội học quyền lợi điều tra về bọn tham nhũng này, thì các chuyên gia thiện nghệ không chỉ tìm trong hiện tượng đầu tắt mặt tối của dân lành, đầu đường xó chợ của dân đen, màn trời chiếu đất của dân oan. Mà họ phải tìm bản chất của hiện tượng tham quan qua biệt thự, biệt dinh, biệt phủ của bọn mặt người dạ thú này, có khi phải nhìn thật xa qua bên phương Tây để nhận ra tài sản của chúng tại Mỹ, tại Âu châu. Có khi phải nhìn thật sâu vào trong các ngân hàng bất chính của các quốc gia chuyên nghề rửa tiền, truy lợi trong điếm nghiệp, kiểu Tú Bà : "Đưa người cửa trước, rước người cửa sau". Vẫn chưa đủ, phải thấy để thấu ngay trong túi quần của chúng đã có thẻ xanh của Mỹ, với quốc tịch ngoại của Âu châu. Vẫn chưa xong, phải thấy hiện tượng tiêu xài hoang phí trong mua sắm các bà vợ, vung tiền hoang đàng của các đứa con của các loạn quan này. Tất cả hiện tượng giả-trong-giàu (giả dối để giàu có) sẽ dẫn dắt phân tích rồi giải thích cái giả là nguyên nhân của sự thối nát từ một chế độ toàn trị được xây dựng trên hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) vô cùng độc hại vì nó độc đoán để nuôi dưỡng cho béo bổ hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
Khi vạch mặt chỉ tên cái giả, thì hiện tượng luận yêu cầu chúng ta phải hiểu là cái giả bày cho ta thấy những chuyện nó muốn ta phải thấy ; nên khi mô tả chính xác về cái giả thì phải thấy ý đồ thuyết giảng để thuyết phục của nó. Một ý đồ đánh vào sự quan sát của ta để ta phải chú ý vào nó bằng sự quy trình tự quảng cáo do nó bày ra. Tại đây ta phải nhận ra thâm ý của nó là đánh vào não trạng của ta để thay đổi ý thức của ta, để thuyết phục nhận thức của ta bằng xảo thuật đi ngang về tắt của nó.
Cái giả : ma đạo trong tà lộ
Từ đây, vai trò của ý thức là chủ lực để có nhận thức ra cái thật, ý thức phải rời nội thức để ra ngoài đời, nhập nội vào sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, tổ chức xã hội, đời sống xã hội để nhận ra là cái giả đang đánh tráo để "lộn sòng" kiểu vàng thau lẫn lộn. Và khi ý thức biết ra ngoài để vào đời, thì chính cái thật sẽ đối đầu chạm trán với cái giả, báo hiệu quá trình rơi rụng của cái giả, nó sẽ bị rơi vào vực thẳm để nhận kiếp âm binh ; vì nó đã bị lột mặt nạ, đã bị trần truồng hóa trước cái thật. Thí dụ thì không thiếu : học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả không những làm ra cử nhân giả, cao học giả, tiến sĩ giả, mà còn cho sinh sôi nảy nở chuyên môn giả, chuyên ngành giả, chuyên khoa giả, với chuyên gia giả ;như ông Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư là chuyên gia của chuyên ngành xây dựng đảng ! Cả nước sản suất ra rất nhiều tiến sĩ mà chưa hề được đào tạo trong trường tiến sĩ, tại một trung tâm nghiên cứu chuyên môn. Chuyên gia mà lẩn tránh hội thảo, lách né hội nghị, luồn trốn hội luận về chuyên môn, chuyên ngành, chuyên khoa của chính mình. Cái thật có trong nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của cá nhân chuyên gia mà kết quả được thông báo qua ấn bản, được thông tin qua xuất bản, bằng các tạp chí khoa học, các tập san chuyên môn, các nhà xuất bản chuyên ngành ; nếu không qua quy trình này thì tiến sĩ giả là tiến sĩ giấy, và chuyên gia giả là chuyên gia ma !
Hãy cẩn trọng luôn với hành tác tuân thủ, hành động khuất phục của cái giả trong giả bộ để làm thật, giả dạng để làm liều. Cụ thể là cái giả biết cúi đầu-khom lưng- khoanh tay-quỳ gối để bấm nút các mệnh lệnh Đảng cộng sản Việt Nam, như các đại biểu Quốc hội hiện nay. Chúng cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối-bấm nút luật đặc khu là quá trình giả luật để bán nước, là luật an ninh mạng để chặn ngăn sự thật có trên mạng xã hội. Khi chúng biết mạng xã hội sẽ là công cụ thông tin, kỹ thuật truyền thông, phương pháp khoa học để lột mặt nạ cái giả của chính trị giả, chính kiến giả, chính giới giả, chính khách giả. Đám đại biểu Quốc hội này là đại biểu giả ; vì chúng đại đa số là đảng viên thật đột nhập vào quốc hội bằng quá trình giả dối của đảng cử dân bầu, một loại dân chủ vô cùng đểu giả để ngồi xổm lên Hiến pháp. Với một Tổng bí thư đảng biết chiếm luôn chức Chủ tịch nước để tuyên bố bằng một ngôn ngữ đểu giả, vì vi hiến là : "Điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam cao hơn Hiến pháp" ; đó là hình tướng đểu cáng của Mã Giám Sinh trong hình dạng đểu giả, vô cùng thô lậu : "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng".
Sự thật thì ngươc lại, với hành tác thật là ngẩng đầu-thẳng lưng-nhìn thẳng-đi tới, vì cái thật được bảo vệ bằng nhận thức về chân lý, luôn yên tâm vững trí mà phân tích trong tỉnh táo, giải thích trong sáng suốt khi nó trực diện trước cái giả, vì nó biết là cái giả sẽ phải bỏ cuộc trước sự thật, trước chân lý làm nên lẽ phải. Cái thật trực diện để trực luận, tranh luận để trao luận, mà hậu quả là cái thật làm loạn tướng cái giả. Nơi đây, bạo quyền dựa vào giả danh thì rất sợ loạn lạc, tà quyền dựa vào xảo ngôn thì rất hỗn loạn, ma quyền dựa vào gian ngữ thì rất sợ nhiễu nhương. Khi cái giả bị lột mặt nạ từ tin tức tới dữ kiện, từ chứng từ tới chứng tích, thì chuyện "một sống một còn" của cái giả đã là chuyện tự nó đi vào huyệt đạo của cái chết. Vì cái giả sinh ra bằng số kiếp sống nay chết mai của nó, phô trương bằng số phận sớm nở tối tàn của nó, vì hoạn kiếp của nó là nắng sớm mưa chiều, vì nó tráo ngôn xảo ngữ như chong chóng ! Mới hôm qua đây, nó "ngạo nghễ" bằng xảo ngôn của "tất cả lãnh đạo với quyết tâm vào cuộc để chiến thắng đại dịch" cúm Tàu ; thì hôm nay nó bị : toang với cái thật các con bịnh nhiễm thứ 17, thứ 31, thứ 100, mà chính nó hiện nay phải tận dụng gian ngôn, bằng giả-để-giấu con số 1000, nó giả-để-gian với con số hàng 10000… Cái giả luôn mang họa kiếp toang của nó trước cái thật.
Ý thức lột ý định, cởi ý muốn để vạch ý đồ
Các khoa học xã hôi nhân văn nhận ra rất rõ vai trò chủ đạo của ý thức khi ý thức đi vào cuộc sống bằng tri thức luận, khi ý thức biết kết hợp hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức) với hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trợ lực cho hiện tượng luận bằng quy trình dùng ý thức để xem xét hiện tượng :
- Ý thức của tìm hiểu hiện tượng để phân biệt thực hư, để phân loại giả thật.
- Ý thức biết mô tả đầy đủ để nhận ra khuyết điểm cùng khuyết tật của cái giả, trước khi giải thích chỉnh chu về cái giả.
- Ý thức biết đi xa, đi sâu, đi rộng, để tìm hiểu ý đồ ẩn nấp sau lưng cái giả với các toan tính về chủ đích, về mục đích của cái giả.
- Ý thức khi hiểu được ý đồ, thì ý thức sẻ thấu ý muốn, ý định làm nên bản chất của ý đồ, chính là tác giả ẩn danh của cái giả, từ đó nhận ra cái giả có mặt trong hậu đài để giật dây hiện tượng bằng cái dối, cái gian, cái xảo, cái tráo… để lừa đảo tha nhân, đồng loại…
Khi ý thức thấy-để-thấu phương án ý muốn-ý định-ý đồ của cái giả thì ý thức cũng có khả năng hiểu-để-thông quá trình của phương án này. Nơi mà ý muốn có mặt trong đề nghị giả ; ý định xuất hiện trong thảo luận giả ; ý đồ hiện diện trong quyết định giả, để tạo điều kiện cho ra đời : hành động giả, để gian lận trong cộng đồng, trong tập thể, trong cơ chế, trong định chế, trong xã hội... Sự bày biện một quy trình giả dựa trên đề nghị giả-thảo luận giả-quyết định giả-hành động giả là xảo thuật của dân chủ tập trung mà thực chất là dân chủ giả, đây là chuyên "cơm bữa" trong chuyên chính độc đảng luôn tuyên bố quyết sách giả của nó, được chế tác bằng quyết tâm giả với sự bày biện giả của toàn đảng giả, cùng toàn dân giả.
Từ hiện tượng học lý trí của Hegel tới hiện tượng luận trực quan của Hussert, từ khảo sát chính trị học trong thực tế tới điều tra xã hội học trên thực địa, thì vai trò của ý thức luôn tăng lên, khi kẻ quan sát để lột trần cái giả biết giữ khoảng cách với cái giả để có cái nhìn toàn bộ về cái giả. Nhưng phương pháp quan sát tham dự của nhân học thì lại muốn đi sâu hơn vào cục bộ, nhập nội vào nội tạng, nhập thân vào sinh hoạt của cái giả bằng dư địa chí, bằng dân tộc chí để đào cho tới nơi tới chốn bản chất giả làm nên hiện tượng giả. Chuyên gia thông minh trong chuyên ngành thông thái của chuyên môn thông thạo thì có thể làm cả hai : lùi xa để thấy trọn, nhập nội để thấu sâu. Nên nhìn xa trông rộng không hề mâu thuẫn với nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Muốn lột ý định, cởi ý muốn để vạch ý đồ thì phải làm cả hai.
Ý đồ tạo cái giả để lập cái gian, xây cái xảo
Ý đồ tạo cái giả không tuân thủ quá trình khách quan của lý và của luận, nên ý đồ này :
- Xuất hiện như một thực thể duy lý, nhưng khi phải phân tích về tính duy lý của nó thì nó gặp khó khăn trong kiểm chứng các tin tức.
- Hiện diện như một thực tế chỉnh lý, nhưng khi phải giải thích về tính chỉnh lý của nó thì nó gặp trở ngại trong kiểm soát các dữ kiện.
- Hành tác như một thực trạng hợp lý, nhưng khi phải giải luận về tính hợp lý của nó thì nó gặp rắc rối trong kiểm nghiệm các chứng từ.
- Hành động như một tổng thể toàn lý, nhưng khi phải lập luận về tính toàn lý của nó thì nó gặp ngõ cụt trong thực chứng các chứng minh.
Dở dang trong bất cập là bẩn kiếp của cái giả, bỏ cuộc trước xác chứng của sự thật là bần kiếp của ý đồ làm nên cái giả, cụ thể là khi cái giả làm cái thật phải
"chưng hửng" vì cái láo của cái giả, thì chính cái giả đã "dở sống, dở chết" trước cái thật rồi ! Khi cái giả mang ý đồ oang oang rao hàng là : "tiền trao cháo múc", thì ý thức bảo vệ cái thật đã biết đong, đo, cân, đếm từ định lượng đến định chất để vạch mặt chỉ tên là cái giả : "treo đầu dê bán thịt chó". Nên cái giả mang thực chất của cái đểu, khi cái giả luôn leo đầu cưỡi cổ cái thật, khi phó chủ tịch Ban lý luận trung ương bị dương tính qua khám nghiệm dịch cúm Tàu trong tháng Ba năm 2020. Tại đây người ta khám phá ra là ông cùng đồng bọn trong đó có bộ trưởng Bộ công thương, hoan hỷ trong hoang phí công quỹ bằng giá hạng thương gia hàng không quốc tế từ Việt Nam qua Ấn Độ. Rồi ông hoang đàng từ Ấn Độ tới Anh quốc, để khi trở lại Hà Nội thì ông tiếp hoang lạc với chi phí thường niên của hội chơi Golf giá vài tỷ bạc một năm. Chưa hết, lời lẽ lý luận trung ương là vô sản để làm đày tớ cho dân thì thật sự là giả, với cung cách ông ăn sáng, ăn trưa trong khách sạn năm sao. Chưa xong ông còn hoang du trong các bữa ăn, bữa tiệc có ca sĩ riêng phục vụ cho cuộc sống ngập hoang kiếp của ông trong khi đất nước bị nợ công tới ngập mặt, trong khi đồng bào của ông nheo nhóc trong khốn cùng. Hàng ngàn, rồi hàng trăm ngàn phải bỏ nước ra đi hàng năm, trong lộ trình thập tử nhất sinh của thùng nhân, mất mạng trong các xe đông lạnh, để khi được sống sót thì trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, nơi mà cuộc sống thật không còn nữa, mà giờ đây phải cam nhận cuộc sống giả một cách dã man nhất của kiếp nô lệ.
Khi cái giả là "đảng lãnh đạo tài tình" với "chính phủ kiến tạo" mà cái thật bị xiết cổ ngay trong ý đồ ngu dân hóa với cái đạo đức giả của xảo ngôn trá ngữ trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, với chữ trừu tượng biển lận cùng nghĩa siêu thực. Tại đây, cái thật bị vùi dập trong ý đồ của cái độc :
- Từ năm này sang năm kia, cái độc vùi lấp hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) có trong giống nòi Việt.
- Ngày đêm, cái độc tìm mọi cách truy diệt hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) có trong văn minh Việt.
- Sáng trưa chiều tối, cái độc tìm mọi cách giết hại hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) có trong văn hiến Việt.
Với ý đồ dùng giả thay thật, dụng gian thay thiện, chỉ để tiếp tục :
- Ăn trên ngồi trốc bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị).
- Ngồi mát ăn bát vàng bằng hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
- Ăn không nói có bằng hệ gian (gian dối, gian lận, gian xảo, gian manh, gian trá) chính là cha sinh mẹ đẻ ra cái giả !
Nên khi chúng ta muốn vạch trần cái giả để kêu đúng tên, gọi đúng họ của nó thì chúng ta phải mô tả cái giả cho tới nơi tới chốn mà không dễ dàng rơi vào thóa mạ để phỉ báng nó. Chính quá trình mô tả chi ly để vào từng chi tiết của cái giả sẽ là chủ đạo để vào phân tích đầy đủ, giải thích chỉnh chu về cái giả. Tại đây các công trình nghiên cứu về cái giả trong thảm trạng của xã hội Việt hiện nay phải được bắt đầu bằng khoa học xã hội của điều tra thực địa, nơi mà điền dã thực nghiệm của dân tộc học, của nhân học, của xã hội học, sẽ là rễ chân lý, là gốc sự thật của thực trạng xã hội để giúp khoa học nhân văn được đại diện bởi ngôn ngữ học, triết học, văn học được đi tới cành, tới ngọn, tới chóp của cái giả.
Ý thức chống cái giả đã gây khó, gây khổ, gây khốn…
Khi ý thức là kiến thức được kiểm chứng bằng thực nghiệm, lại được đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành chuyển thành giáo lý biết bảo vệ sự thật có trong cái thật, thì ý thức khi mô tả cái giả bằng khả năng nhận thức của nó. Để vạch mặt chỉ tên cái giả bằng thực chứng các dữ kiện, bằng xác minh các chứng từ, thì sự mô tả này không hề vô thưởng vô phạt, không hề ba phải trong phân tích, ỡm ờ trong giải thích. Mà ngược lại nó mô tả trong sắc nhọn của chứng tích, bằng sự xác định sắc bén các chứng nhân đã là nạn nhân của cái giả, đã bị cái giả gây khó, gây khổ, gây khốn… Như vậy, mô tả cái giả là thấy để thấu ý đồ thâm, độc, ác, hiểm của cái giả, đã làm nên quan hệ xấu, tồi, tục, dở giữa người và người. Tại đây, chúng ta cần sự có mặt của tâm lý học xã hội để biết tâm địa của cái giả, cần thêm chính trị học quyền lực để nhập nội vào não trạng của cái giả, cần luôn xã hội học quyền lợi để thấu các toán tính của cái giả, mà không quên triết học đạo đức định luận phạm trù bổn phận và trách nhiệm của cái thật để đối luận với cái trống bổn phận, vô trách nhiệm của cái giả.
Khi các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn hiện diện để trực diện với cái giả, thì ta sẽ thấy xuất hiện một quan hệ vô cùng căng thẳng giữa cái thật và cái giả, một quan hệ mâu thuẫn, kình chống, đối kháng, để dần dà dẫn tới một quan hệ sinh tử một sống một còn. Và khi cái thật thắng thì ánh sáng của sự thật, hào quang của chân lý, mặt trời của lẽ phải sẽ làm sạch các quan hệ xã hội, sẽ làm sáng các sinh hoạt xã hội ; cái thật song đôi cùng lứa với cái sạch và cái sáng. Ngược lại, nếu cái giả thắng, như nó đã và đang thắng trong thảm họa chỉ mành treo chuông hiện nay của Việt tộc trước hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn, Tàu tà, Tàu phỉ…) thì cái tối sẽ làm tối thêm đời sống xã hội, cái xám sẽ làm xám hơn tổ chức xã hội, cái đục sẽ làm đục hơn đạo lý xã hội.
Cái thật trong vắt trong quanh minh chính đại, còn cái giả thì đục ngầu trong đánh lận con đen. Cái thật thẳng thắn trong đường đường chính chính, còn cái giả thì lòn lách trong cờ gian bạc lận. Cái thật giúp người thành nhân trọn vẹn trong hệ nhân (nhân tâm, nhân từ, nhân nghiã, nhân bản, nhân văn, nhân đạo, nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí, nhân quyền). Còn cái giả tạo cái gian, trao cái tà, gởi cái ma vào nhân sinh, vì cái giả là cha sinh mẹ đẻ của âm binh có âm tướng làm nên âm cõi giữa nhân thế ; nếu ta song hành cùng với âm chất của cái giả thì chóng chầy gì rồi ta cũng phải nhận âm dạng của nó, hoàn toàn trái ngược với nhân dạng, vì gần mực thì đen mà !
Lê Hữu Khóa
(03/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức (truy ngôn để tầm ngữ)
Ngữ luận 3 : Gian
Gian
Khi nghiên cứu về chế độ độc đảng toàn trị hiện nay bằng chính trị học cơ chế, để khảo sát về phạm trù niềm tin của dân chúng vào một thể chế chính trị, mà cụ thể là điều tra về hiện tượng mất niềm tin toàn diện của một dân tộc đối với độc đảng càm quyền là Đảng cộng sản Việt Nam, thì tôi được trợ lực bởi xã hội học chính trị để điền dã sâu vào quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội. Càng vào sâu lại càng phải đi xa, khi tôi thấy dân chúng mất niềm tin từ lãnh tụ tới lãnh đạo, từ thủ tướng tới thủ trưởng, từ bộ trưởng tới thứ trưởng, từ tướng tới tá… Tại đây tôi yêu cầu như những người dân mà tôi được gặp hãy chọn một chữ để giải thích tại sao lại bị mất niềm tin ? Tôi ngạc nhiên nhưng không sững sờ, tôi thấy lạ nhưng không hỏang hốt là đa số những người trả lời câu hỏi này, họ chọn chữ : gian. Khi cái gian xuất hiện thì cái tín sẽ tiêu tan, nơi đây ngôn ngữ học luôn cần xã hội học ngôn ngữ để cân, đo, đong, đếm từ mức độ tới cường độ của toàn bộ một hệ gian (gian dối, gian lận, gian xảo, gian manh, gian trá).
Muốn có chân dung diện mạo của kẻ gian thì phải qua chặn đường học thuật của tâm (tâm lý học, tâm thần học, phân tâm học) ; từ đó tổ chức liên minh bộ ba của học thuật là : phương pháp luận, khoa học luận, lý thuyết luận để đưa vào nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã. Từ phân tích tới giải thích, tôi xin được chọn dân tộc học văn hóa Việt song hành cùng nhân học văn hiến Việt để tìm ra đường đi nẻo về của hệ gian qua ca dao, châm ngôn, ngạn ngữ… Cụ thể là tôi vận dụng văn hóa và văn hóa nhân gian để soi sáng -từ giải mã tới giải luận- phạm trù gian, từ tâm tính tới tâm địa của kẻ gian, bằng những thí dụ cụ thể của từ lãnh tụ tới lãnh đạo, thủ tưởng tới thủ trưởng, từ bộ trưởng tới thứ trưởng, từ tướng tới tá… Nơi mà hành vi gian được sinh sôi nẩy nở trong một chế độ bạo quyền không những có công an trị, mà còn song hành với tà quyền tham nhũng trị, với ma quyền tham tiền trị, có đầu lãnh là Đảng cộng sản Việt Nam.
Tôi xin chọn phương pháp thẳng tắp của ngôn ngữ học, đi từ A tới X, với phương pháp phân tích nội dung gian để phân loại cá thể gian qua ca dao, châm ngôn, ngạn ngữ…, cùng lúc phân cực hành động gian cá nhân để phân giải hành tác gian tập thể cùng lúc nhận diện được những đối kháng của một cộng đồng dân tộc sạch cũng qua ca dao, châm ngôn, ngạn ngữ… Xin được theo thứ tự trong tuần tự, mà bắt đầu bằng A.
A
Với ăn là động từ phổ biến nhất của việt ngữ, với phản xạ khi người Việt gặp nhau rồi chào nhau chỉ bằng một câu : "Ăn cơm chưa ?", cho tới chọn lựa đạo lý làm nên quyết định đạo đức của ăn hiền ở lành, để tránh ăn gian nói dối, để không rơi vào chuyện thất đức của ăn không nói có. Ngay trong cách ăn đã có luân lý của nhân nghĩa : ăn bát cơm dẻo, nhớ nẻo đường đi, không ăn cháo đá bát của loài vong ân, không ăn điêu nói đứng của loài gian trá. Loại sống chỉ để ăn nên không ngần ngại ăn tươi nuốt sống, mọi rợ từ cách ăn tới kiểu nuốt, ăn mà không nhai, nên ăn trắng trợn trong gian dối, kiểu của Sở Khanh : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Dân Việt hiện nay không lầm, tỉnh táo nhận định để sáng suốt phân tích, gọi kẻ tham ô nhiều, tham nhũng lắm là đứa : "ăn nhiều", ăn ngập mặt ngập mũi.
Chân dung của bọn âm binh lẩn lút trong tà quyền tham nhũng là ăn bẩn sông sâu, nhưng năng suất lao động của chúng thuộc loài : ăn bơ làm biếng, với bản chất hay ăn lười làm ; chưa hết chúng tồi tệ trong ăn ngang rồi ăn dọc, chúng không ngó ngàng gì tới đạo lý Việt là : ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Tà tướng của chúng là loại qua cầu rút ván, nên đạo lý cộng đồng ăn cây táo rào cây sung trong ăn ở có hậu thì chúng hoàn toàn vô minh. Giáo lý ăn ngay nói thật không có trong lương tri của chúng, vì muốn có lương tri phải có cội của lương tâm, có gốc lương thiện. Trong giáo dục, người Việt dạy dỗ nhau : ăn có nhai, nói có nghĩ, còn bọn tham quan này chỉ yêu thích hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) để ham chuộng hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) nên chúng chỉ muốn ăn trên ngồi trốc, kiểu Mã Giám Sinh : "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng".
Chúng vừa ăn tàn ăn tận, chúng vừa ăn rị ăn mọ, ăn gặm nhấm kiểu tầm ăn dâu, chưa xong với lòng tham không đáy của chúng thì chúng được đằng chân lên đằng đầu với phản xạ kiểu ăn mày đòi xôi gấc, loại ăn trực đòi bánh chưng. Vì là kẻ gian nên chúng có những loại lý lịch cá nhân sau đây : ăn ốc nói mò của loại vô tri ; nhắm mắt nói mò của thứ vô giác, nên dễ dàng ăn quàng nói bậy, vừa gian lại vừa điêu. Chúng ăn nói lung tung ; lại hay bóc lột đồng bào kiểu cốc mò cò ăn, chúng sống như ký sinh trùng chờ sung rụng, chúng gian manh trong điếm cách của ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau. Thậm tệ nhất là hình ảnh ăn như heo, để dân chúng phải gọi một lãnh tụ nguyên bí thư thành Hồ : Lê Thanh Hải là Hải heo, ăn đất Thủ Thiêm, biến hàng chục ngàn dân lành, một sớm một chiều, thành dân oan, sa cơ trong màng trời chiếu đất, bụi phận chốn đầu đường xó chợ. Tham quan là phường ăn vụng đổ vạ cho mèo, kiểu "Thúc Sinh quen thói bốc trời" khi cụ Tiên Điền Nguyễn Du lập chân dung của Thúc Sinh.
Bọn quan tham ăn trong chế độ độc đảng hiện nay còn tồi tệ hơn, chúng vừa ăn cướp, ăn trộm, ăn cắp, ăn giựt, chúng vừa dễ dàng vu oan giá họa cho tha nhân, nên chúng sẵn sàng mổ gà lấy trứng để ăn, để tiếp tục được ăn xổi ở thì, trong nhớt thây dầy cốt. Giữa mùa đại dịch 2020, chúng thong dong đi chơi từ Ấn Độ tới Anh Quốc rồi mang dịch cúm Tàu về lây lan cho đồng loại, chưa xong chúng hưởng thụ tiếp trong các khách sạn đắt nhất, có thẻ hội viên thường niên chơi golf vài tỷ đồng, và khi chúng trà dư tửu hậu thì có ca sĩ hát riêng cho chúng nghe giữa một xã hội đang bị túng thiếu vây bủa, đói nghèo trùm phủ. Người liêm sỉ, với lòng liêm khiết, trí nghiêm minh thì : ăn chọn nơi, chơi chọn bạn, còn bọn tham quan sống nhờ tham ô thì ăn từ gốc tới ngọn như bà Phó chủ tịch quốc hội thuở nào phải bật lên thành tiếng là đám tham quan, thấy gì cũng ăn : "Ăn của dân không chừa thứ gì !".
Lê Thanh Hải là Hải heo, ăn đất Thủ Thiêm, biến hàng chục ngàn dân lành, một sớm một chiều, thành dân oan, sa cơ trong màng trời chiếu đất, bụi phận chốn đầu đường xó chợ.
B
Với bất, với bán, với bẩn ; bọn gian khi lãnh đạo thì gian lộ của chúng sẽ là đường nẻo về của bất nhân thất đức, đạo lý tổ tiên Việt sống lâu mới biết lòng người có nhân đã bị thất lạc ngay trong tư duy của chúng. Chúng là người nhưng chúng không có nhân, đạo đức tổ tiên Việt đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn không hề có chỗ đứng ghế ngồi trong các toan tính gian của chúng. Không có nhân lộ, lại chọn tà lộ của âm binh để mua gian bán lận, nơi mà động từ bán là chuyện chợ búa trong ý đồ của chúng, là chuyện cơm bữa trong tâm địa của chúng. Tồi tệ nhất là chúng bán trắng giáo lý với một hệ thống giáo dục của học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, để lẩn lút như âm binh trong âm đạo mà tha hồ mua bằng bán cấp.
Rồi như ma bùn trong bóng tối bùn nhơ, chúng mua chức bán quyền, chưa hết với lòng tham không đáy, chúng buôn dân bán nước giao cảnh điện ngục điện tiền trên nhân kiếp của Việt tộc, khi chúng chọn bụng của giặc Tàu làm địa đạo mà ẩn nấp sau khi phản dân hại nước. Khi những kẻ gian vào quy trình của bán trắng, thì chúng sẽ lần mò tới quy định của bán trọn từ vận mệnh dân tộc tới tài nguyên thiên nhiên ; chưa hết chúng bán đứng từ đồng bào tới đất nước. Hiện tượng đấu tố cha mẹ, thân bằng quyến thuộc trong Cải cách ruộng đất 1954-1960, tới hiện thân của hệ thanh (thanh trừng, thành lọc, thanh toán) trong hệ thống toàn trị làm nên truyền thống độc tài trong độc trị, làm nên lịch sử sắt máu của Đảng cộng sản Việt Nam. Cũng như của mọi đảng cộng sản trong lịch sử hai thế kỷ qua, thực trạng hiện tượng luận của diệt, giết, truy, hại đồng loại làm nên thực tế hiện tượng học về hệ gian (gian dối, gian lận, gian xảo, gian manh, gian trá).
Những kẻ gian lãnh đạo trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, chúng nhắm mắt trước Tàu tặc đang cướp đất, biển, đảo ; chúng cúi đầu trước Tàu họa biến quê hương gấm vóc của tổ tiên thành một bãi rác khổng lồ từ bốc xít rừng Tây nguyên tới biển Hà Tỉnh với Formosa đã giết chết cả một vùng biển miền Trung, làm hàng triệu người dở chết dở sống. Từ gian trá tới gian manh, chúng khom lưng để Tàu hoạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc song hành cùng nhiệt điện than. Chúng khoanh tay trước Tàu tà buôn ma túy, mại dâm, nội tạng người để Tàu nạn lan tràn trên quê hương việt với Tàu tội giết người Việt mà luật pháp Việt không dám xử Tàu phạm mà phải trả chúng lại cho Tàu phỉ. Gian trá trong điếm lộ từ mật nghị Thành Đô, 1990, chúng quỳ gối đã nhận giặc làm cha, nhận Tàu gian là bạn (bạn vàng, bạn tốt…) để tiếp tục hành tác Việt gian. Không những chúng lén lút liên tục ký các hiệp định mật (mà ta phải gọi là hiếp định), mặc cho dân phải sống trong các làng ung thư, các thành phố loại ô nhiễm hàng đầu trên thế giới.
Giữa mùa đại dịch Tàu cúm, gian xảo đã thành gian manh, với hiếp định biên giới, là chính quyền Việt không được đơn phương đóng các cửa khẩu biên giới Việt- Trung, nếu không có lệnh của Tàu gian đang lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc. Phải dẫn độ Tàu phạm, Tàu tội, giờ lại mất chủ quyền ngay cửa biên giới, còn bao nhiêu cái gian của Đảng cộng sản Việt Nam mà Việt tộc chưa biết ? Cái gian lẩn lút như ma xó trong cái lận, như ma trơi vật vờ trong bóng tối, kiếp của kẻ gian là kiếp của ma bùn, ma xó, ma trơi, sợ nhân đức như sợ ánh sáng, sợ nhân lý như sợ mặt trời. Tri thức luận của hệ gian (gian dối, gian lận, gian xảo, gian manh, gian trá) của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có chứng từ, chứng tích, chứng nhân ngay trong hiện tượng luận của hệ Tàu (Tàu gian, Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu nạn, Tàu tội, Tàu phạm, Tàu phỉ). Khi kẻ gian lãnh đạo thì nó sẽ là cha sinh mẹ đẻ của một quái thai : độc tài trong chính trị sinh đôi cùng bất tài trong quản lý. Vì kẻ gian thích gian dối trong biển lận hơn là thích chăm chỉ trong học hành, nên kẻ gian bất trí (không kiến thức) và bất tri (không hiểu biết), nên hoàn toàn bất lực không những từ quản trị tới quản lý.
Tệ hại hơn là khi kẻ gian sa vào tà lộ của bất nhân trước hệ xâm (xâm lấn, xâm chiếm, xâm lăng, xâm lược) của ngoại bang, mà hiểm họa trong chỉ mành treo chuông là trước hệ Tàu (Tàu gian, Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu nạn, Tàu tội, Tàu phạm, Tàu phỉ). Trước kẻ gian, tổ tiên Việt dặn con cháu là kẻ gian thì : bẩn ăn bẩn uống, kẻ gian có phản xạ bắt cá hai tay, vì kẻ gian luôn tưởng mình hơn người bằng ba đầu sáu tay, nhưng chúng luôn tránh : ba mặt một lời, khi bị vạch mặt chỉ tên, khi tha nhân bắt kẻ gian phải nhìn thẳng vào sự thật để nhận ra chân lý, để tiếp nhận lẽ phải. Trong phương trình bất-bán-bẩn của những kẻ gian trong lãnh đạo luôn làm ra hiện tượng xấu, tồi, tục, dở, vì chúng học đòi theo quan thầy gian của chúng để "tái sản suất" hành tác gian của chúng trong tà lộ của thâm, độc, ác, hiểm. Trước đạo đức học chúng thua xa những con người sa cơ lỡ vận, vào đường cùng phải : bán trôn nuôi miệng. Những kẻ này không sợ sự thật, không ngại chân lý, không mất lẽ phải, nên họ thành thật trong thành ngôn, thành ngữ của họ, và họ viết thành khẩu hiệu mà chúng ta từ thấy ngay trên đường phố, ngay trên mạng xã hội là họ : bán thân còn hơn bán nước.
Trước đạo đức học chúng thua xa những con người sa cơ lỡ vận, vào đường cùng phải : bán trôn nuôi miệng.
C
Với cách, khi kẻ gian biến quyền lực thành quyền lợi, rồi biến quyền lợi thành tư lợi, từ đó tạo ra các đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đăc sủng… để vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước, thì kẻ gian này không hề có tư cách. Chúng phải nhận nhục cách trong bại kiếp của tà cách của cúi đầu-nhắm mắt-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối trước ngoại bang, không tư cách sẽ làm mất phong cách trong lãnh đạo chính trị, rồi đánh rới luôn nhân cách trước tiền đồ của tổ tiên, trước tương lai của các thế hệ mai hậu. Không có tư cách, vắng phong cách, trống nhân cách, lại tha hóa trong nhục cách, thối tha trong tà cách thì kẻ gian chóng chầy sẽ rơi vào điếm cách, kiểu Tú Bà : "Đưa người cửa trước, rước người cửa sau". Kẻ gian không dám nghiệm câu : cây ngay không sợ chết đứng, vì kẻ gian thì : có tật giật mình. Đã gian thì không có gan, vì kẻ có gan là kẻ : có gan ăn cắp, có gan chịu đòn.
Gian vì tham, cụ thể là tham tiền, nên kẻ gian có lý lẽ của loại : có tiền mua tiên cũng được, không đạo lý nên trống đạo đức, chúng sống kiểu cạn tàu ráo máng, kẻ gian không có phương cách thẳng thừng của tiền trao cháo múc, mà chỉ thích biến gian xảo thành gian tra của loại Cốc mò Cò xơi. Kẻ gian tránh né sự cương trực, lách xa chữ tín là gốc của mọi niềm tin, nên kẻ gian không màng gì tới uy tín : cọp chết để da, người chết để tiếng ; tiếng đây là tiếng tốt giờ đã thành tiếng thơm dù người đã qua đời, đã thành người quá cố. Chân dung của kẻ gian mang có ít nhất bốn dị cách làm ra hèn cách : thứ nhất là khi còn nhỏ thì chưa học bò đã lo học chạy ; thứ nhì là khi lớn lên thì chưa đỗ ông Nghè, đã đe hàng Tổng ; thứ ba là khi bệnh tật thì chưa khỏi rên đã quên thầy thuốc ; thứ tư là trước sự sống và cái chết thì chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ.
Kẻ gian tìm cách lừa đảo tha nhân bằng cách lén lút đi lại giữa không và có ; người ngay thì có tích mới dịch nên tuồng, còn kẻ gian thì ăn không nói có ; người ngay thì có bột mới gột nên hồ, còn kẻ gian thì mượn đầu heo nấu cháo. Người thành thật thì có thực mới vực được đạo, mà thực là thực phẩm, mà cũng là sự thực làm bằng cái thật ; mà gian thì ngược lại với thật, nên kẻ gian trá thì đánh lận còn đen ngay trong hành vi của người phúc ta, ngay trong phản xạ mượn hoa cúng Phật. Mà thực chính là thực chất, kẻ gian không có thực chất, nên có tiếng mà không có miếng ; tư cách thấp hèn nên kẻ gian rất vô trách nhiệm kiểu cha chung không ai khóc. Kẻ gian bước từ gian trá tới gian manh, kẻ gian mang tà cách của cáo trong điếm cách của loài cáo dòm nhà, sẵn sàng cúi đầu để khom lưng mà cõng rắn cắn gà nhà.
Giữa cách-có-chết của kẻ gian, ta không quên C của chạy, nơi mà kẻ gian khi không đi học lại muốn có bằng, thì phải chạy điểm, chạy thi để chạy bằng, gian không dứt với chạy chỗ trong một xã hội thối nát vì chạy chức, thôi tha vì chạy quyền. Trước vòng lao thì phải chạy nợ để chạy tòa, chạy án, phải và chạy, chạy như ma đuổi trong một xã hội luôn phải chạy tiền ; nhất là khi lâm trọng bịnh cả nhà phải chạy thuốc, chạy thầy thuốc… nếu muốn nhận lại nhân phẩm, để không phải chạy trong tối tăm mặt mũi, chạy trong đầu tắt mặt tối thì phải công nhân hệ công, của C. Nơi mà công bằng có mặt trong xã hội được công lý bảo vệ với quan tòa công minh, với tòa án của công pháp, có tư pháp đại diện cho công luật, tất cả đều có một chỗ dựa là đạo đức của công tâm.
Kẻ gian bước từ gian trá tới gian manh… sẵn sàng cúi đầu để khom lưng mà cõng rắn cắn gà nhà.
D & Đ
Kẻ gian có nhân dạng của dở ông dở thằng, có khi mang nhân diện kỳ quặc ngô không ra ngô, khoai không ta khoai, vì nhân cách của nó là đánh trống bỏ dùi , khi phải đối thoại với tha nhân để biết đâu là sự thật, thì kẻ gian hay đánh trống lảng. Người ngay sống thì ham thích học hỏi : đi một ngày đàng, học một sàng khôn, kẻ gian thì trong não bộ luôn biến ý muốn thành ý đồ để đầu cơ trục lợi ; người ngay thì sống thẳng có tư cách đói cho sạch, rách cho thơm ; kẻ gian thì ngược lại đánh mất nhân cách ngay trong cơn đói : đói ăn vụng, túng làm càn. Người ngay sống có trách nhiệm, làm với bổn phận, có cản đảm nên không ngại hy sinh : đứng mũi chịu sào ; kẻ gian thì ngược lại, tính toán ích kỷ nên toan tính bằng cơ hội của đục nước béo cò.
Người ngay luôn biết người biết ta : đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, kẻ gian bị dằn vặt trong kiếm lời để tăng tư lợi : được buổi giỗ, lỗ buổi cày ; nhưng kẻ gian là đứa khôn quá hóa dại khi nhận ra là được lỗ hà ra lỗ hổng. Kẻ gian toan tính trong tham lam : Được đằng chân lân đằng đầu, mà lòng tham thì không đáy, nên là đứa : được voi đòi tiên, dễ mất ăn mất ngủ vì túi tham không bao giờ đầy, nó đứng ngồi không yên, thậm chí nó bất chấp luật nhân quả với những hậu quả dài lâu của đời cha ăn mặn đời con khát nước. Chân dung của kẻ gian có khi mang thương tật hèn kém của gà què ăn quẩn cối xay, hãy vận dụng Ê trước khi chuyển sang G, để thấy chân tướng của kẻ gian là gian dối trong gian ngôn, gian trá trong gian ngữ nên sẽ phải nhận số phận : ếch chết tại miệng !
Người ngay luôn biết người biết ta : đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, kẻ gian bị dằn vặt trong kiếm lời để tăng tư lợi
G & H & K
G của kẻ gian, với gian tính không theo toán mà theo tham với gian tính của gáo dài hơn chuôi, nhưng bỉ ổi nhất là khi não trạng của nó bị lấp đầy gian tính thì nó là đứa sẵn sàng gắp lửa bỏ tay người. Kẻ gian không những tìm tư lợi trong ích kỷ tuyệt đối, mà luôn có dụng ý lợi dụng người khác, nhất là người có của, có quyền, nên kẻ gian đi, đứng, ngồi nằm với tục tính : gần chùa được ăn oản, với tồi tính gần quan được ăn lộc. Người ngay chọn bạn mà chơi, chọn thầy để học vì hiểu rằng gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ; kẻ gian thì ngược lại trong cảnh bần hàn của giá áo túi cơm thì có hành tác tráo trở của đứa giật đầu cá vá đầu tôm. Để khi bị bắt quả tang, bị vạch mặt chỉ tên thì giả câm giả điếc, giả đui giả què ; đến lúc phải chấp nhận mọi hậu quả gieo nhân nào, gặp quả ấy trong hậu nạn của gậy ông đập lưng ông, thì giả ngây giả ngô, nhưng sự thật lột trần kẻ gian giấu đầu hở đuôi.
H có trong tục cách của kẻ gian là há miệng chờ sung, rồi ôm cây đợi thỏ, gian trá trong giả dạng, quen thói phô trương thanh thế, kiểu hò voi bắn súng sậy, vì gian nên dễ tính toán kiểu hàm hồ của gáo vàng múc nước giếng bùn. Hãy dụng K để nhận ra hành tác trộm cắp của kẻ gian trong quản lý của công : không cánh mà bay, khi đã biến của công thành của riêng, thì kẻ gian mất nhân cách, mà chỉ còn tục cách trong khư khư như ông Từ giữ oản. Kẻ gian có cách tính gian ngay trên thượng nguồn của không bột mà gột lên hồ, nên sẵn sàng hoang phí của công đã kiếm củi ba năm, để kẻ gian hoang phí chỉ đốt một giờ. Nên giáo lý của tổ tiên Việt không lầm khi nhận ra chân tướng của kẻ gian trong khôn ba năm dại một giờ ; với miệng kẻ gian quen thói khua chiêng gõ mõ để khua môi múa mỏ.
Miệng kẻ gian quen thói khua chiêng gõ mõ để khua môi múa mỏ.
L
Kẻ gian có mặt quan hệ xã hội bằng sự tráo trở : lá mặt lá trái, một dạ hai lòng ; khi phải lao động, thì kẻ gian thiêu đốt sự chân chính của cần lao để thế vào đó sự biến nhác vô trách nhiệm : làm chơi ăn thật. Vì người ngay thẳng sinh sống và lao động bằng sự thành thật làm ra làm, chơi ra chơi, còn kẻ gian thì lấy thúng úp voi. Khi bị vỡ lẽ, bị lột mặt nạ, thì kẻ gian sẽ lấy gian này mà đắp cho gian kia, lấy gian xảo, gian dối lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử để đắp vào gian trá, gian manh của lấy oán báo ơn, để người ngay phải nhận cảnh làm phúc phải tội.
Sống bằng phản xạ gian, nên kẻ gian biến hành động gian thành hành tác gian, rồi chuyển vào hành xử gian trong lập lờ đánh lận con đen. Kẻ gian sinh hoạt bất thường trong quan hệ xã hội, lúc thì lên mặt dạy đời, thích làm thầy thiên hạ, khi thì lời lẽ ba phải, không biết xấu hổ trước tha nhân khi lâm vào hài cảnh lắm thầy nhiều ma, trong hài kịch lắm Sãi không ai đóng cửa chùa. Nội kết của hành động gian-hành tác gian-hành xử gian sinh ra động tác gian trong lấy xôi làng cho ăn mày, với ý đồ của động thái gian trong của người phúc ta. Kẻ gian thường có một khuyết tật ngay thượng nguồn của sự kiêu căng, tính ngạo mạng trong liệu việc như thần, để khi bị vỡ trận thì : linh tinh lang tang, trong ba lăng nhăng, trong cà lơ phất phơ, để gian dối trong kết luận là lời lẽ gian dối : lực bất tòng tâm. Kẻ gian sống với lòng tham không đáy trong tham của, tham tiền, tham vàng, nhưng không hề biết đạo lý của thử thách trong ngay thẳng để sống thành thật bằng sự can đảm trong lửa thử vàng, gian nan thử sức.
M
Với ma từ ma tâm tới ma ý, kẻ gian luôn tin với ý định gian kiếm lời, với ý muốn gian là lời phải sinh ra lời, làm nên ý đồ gian nơi mà tính ích kỷ đã trở nên tuyệt đối, kẻ gian luôn nghĩ là mình luôn hơn người, nên không có phân tích tỉnh táo trong giải thích sáng suốt để tự giải luận giáo lý của tổ tiên Việt là : khôn quá hóa dại. Không bao giờ tự tư duy là mình đã bị ma sai quỷ khiến trong gian dối, theo chân dung mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã phác họa :
"Ma đưa lối quỷ dẫn đường
Cứ tìm những nẻo đoạn trường mà đi".
Với miệng của kẻ gian là miệng ăn núi lở, không đủ đạo lý trong giao tế để biết miếng ăn là miếng tồi tàn, hình tướng của kẻ gian trong sinh hoạt xã hội là miệng cọp gan thỏ, trong quan hệ xã hội là miệng hùm gan sứa ; tồi tệ nhất là trong đời sống xã hội thì kẻ gian đội lớp gian : mặt người dạ thú, để hành tác trong tổ chức xã hội lấy gian trá chế tác ra giả dạng trong thú đội lốt người. Chính tính ích kỷ tuyệt đối trong đi ngang về tắc, toan tính trong bất hợp pháp, phản luân lý nên kẻ gian có não trạng gian manh khi nhìn cuộc sống là mật ít ruồi nhiều. Rồi dùng hình tượng này để gian lận trong quan hệ giữa người với người, bằng sự lừa đảo của dụ dẽ : mật ngọt chết ruồi, với ngôn ngữ gian manh miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm, trá hình trong mồm loa mép giải, với đạo đức giả của gian dối : mèo giả từ bi khóc chuột.
Kẻ gian có lưu động gian của trao ngôn để tráo ngữ với mồm mép tép nhảy, kẻ gian không biết đạo lý một tâm, một dạ, môt lời, mà chỉ biết gian manh trong một chữ bẻ đôi, để tiếp tục gian xảo trong một vốn bốn lời, để gian lận trong biển lận : bỏ một đồng cân, khuân về cả vạn. Chân dung của kẻ gian rất tồi muốn ăn gắp bỏ cho người, chân tướng của kẻ gian rất hèn mượn rượu làm càn, nên kẻ gian chỉ là ký sinh trùng trong cơ hội gian : mượn gió bẻ măng.
N
Nếu kẻ gian nói dối như cuội, thì người ngay nói có sách, mách có chứng, vì lẽ phải là nội công của ngôn ngữ : nói phải củ cải cũng nghe ; ngược lại kẻ gian thường xuyên rơi vào nói thách nói tướng, chóng chày sẽ sa vào nói hươu nói
vượn. Kẻ gian nói để chuyển gian dối thành gian manh, nên kẻ gian dễ dàng mất tư cách vì nói khoác không biết ngượng mồm ; mất tư cách lại trống phong cách của kẻ nói kho cho qua mọi chuyện, nên kẻ gian vắng nhân cách vì thiếu thành thật, ngược chiều với tính trung thực nên kẻ gian phải : nói một đàng, làm một nẻo. Vì cái gian thường song hành cùng cái láo, cái sạo, cái xảo, cái điêu, cái ngoa : nói như rồng leo, làm như mèo mửa.
Kẻ gian khi đang nói tràn cung mây, thì rất sợ người ngay nói trúng tim đen là mình đang gian dối. Khi ngụp lặn trong gian dối ngôn từ để gian trá vì tư lợi thì kẻ gian không có khả năng tiếp thu ; cụ thể là không biết cảm nhận nên đã rơi vào loại nước đổ lá khoai ; vì không biết nghe ngôn ngữ của sự thật làm nên chân lý, dựng lên lẻ phải, tất cả sự thật chân lý, lẻ phải chỉ là gió thoảng bên tai của kẻ gian. Nên kẻ gian thường sống trong nghịch cảnh của nhân sinh nồi tròn úp vung méo, hành động trong gian manh ngậm miệng ăn tiền, vì thích gian trá để ngồi mát ăn bát vàng. Nên trong một tập thể gian có nhiều kẻ gian, thì sẽ dần dà trở thành một cộng đồng ung thư ngay trong đạo lý lao động : người ăn thì có, người mó thì không. Khi kẻ gian sẵn sáng nuốt chửng tha nhân, mà không biết nhai để biết, để hiểu, để học luân lý cộng đồng, thì nó sẻ biến chất thành ra loài nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. Kẻ gian chui luồn để lẩn lút, với hành vi lòn lách của đạo đức giả khi cộng động này bị lâm nạn, nó bày trò nước mắt cá sấu, nhưng tâm địa của nó là ngậm máu phun người, và nó luôn giấu kín toan tính của nó là nối giáo cho giặc.
O & Q & R & S
Oan của oan trái tạo ra dị khiếp của kẻ gian khi nó bị lột mặt nạ : oan có đầu, nợ có chủ, vì oan có trong ở, có trong nhân làm ra quả của ở hiền gặp lành, nên ở ác gặp ác, cụ thể là kẻ gian này sẽ gặp kẻ gian kia, kẻ gian nọ sẽ gặp kẻ gian khác, để cùng nhau mà hoạn nạn trong cõi gian. Trong quan hệ xã hội, thì kẻ gian luôn tránh sự tương xứng có đi có lại ; lách sự tương đồng hòn đá ném đi hòn chì ném lại, vì kẻ gian luôn lách né sự tương đương của ông bỏ chân giò, bà thò nậm rượu. Kẻ gian thì có hành động gian ngay trong sinh hoạt xã hội, không là nạn nhân chỉ là thủ phạm : quýt làm cam chịu, từ gian trá cấp tá lên gian xảo cấp tướng, từ gian dối cấp tỉnh lên gian manh cấp trung ương, thì chóng chày sẽ sa vào tà lộ của rước voi về giày mả tổ. Lòng dạ kẻ gian thì sáng nắng chiều mưa, tâm địa của kẻ gian thì : sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi ; vì kẻ gian bất chấp hậu quả của sai một ly, đi một dặm, bất chấp hậu nạn của sai con toán, bán con trâu. Kẻ gian sống sai chết ngược, còn người ngay có liêm khiết trong lương tâm để có liêm sỉ trong lương thiện nên sống khôn chết thiêng.
T
Người ngay biết tay đứt ruột xót tới từ nhân tâm, luôn lương thiện trong tay làm hàm nhai, có thực chất của nhân lý trong lao động tiền nào việc ấy, có nhân bản của kẻ có trách nhiệm, luôn đo lường được tiền nhân hậu quả. Ngược hẳn với kẻ gian, hành tác trong gian lận treo đầu dê, bán thịt chó, dễ dàng sa vào hành vi theo đóm ăn tàn, tính toán chì chiết trong ích kỷ chắt chiu thả con săn sắt, bắt con cá rô, trong ý đồ toan tính là được tiền vào như nước, nên số kiếp của kẻ gian bị trùm phủ với não trạng luôn bị đầy đọa bởi tham thì thâm, khi sai trật trong tính toán thì không lường được hết mọi hậu quả của tiền mất tật mang.
Chân dung mâu thuẫn của kẻ gian là tự đánh trống, tự thổi kèn không đủ tự tin để tự lực cánh sinh, không dầy tự chủ kiểu thẳng thừng của tiền trao cháo múc ; nên kẻ gian có phản xạ xấu khi thắng lẫn khi thua, dễ dàng có hung cách của bạo chúa khi thắng, có mạt kiếp loài thổ phỉ, thảo khấu khi thua : thắng làm vua thua làm giặc. Trống tự tin, vắng tự chủ, lại biến tự do lao động thành tự do trộm cắp : thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ ; ngược lại thì người ngay chọn nhân phẩm của thà chết trong còn hơn sống đục, biết tránh hào nhoáng bề ngoài để chọn nhân vị biết trọng bản chất : tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Người ngay sống liêm khiết vì liêm chính khi gặp khó khăn về vật chất, biết thắt lưng buộc bụng, vì có nhân bản của trước sau như một ; không như kẻ gian nói thì thêm mắm thêm muối, gian dối từ thông tin qua truyền thông thùng rỗng kêu to, chọn thái quá để tạo thái cực. Nhưng thực chất của kẻ gian sẽ lộ ngay trong hiệu quả lao động, mà thành quả là gian xảo sẽ dẫn tới gian manh : trồng nứa ra lau, rồi sa đà trong trồng sung ra vả.
Kẻ gian mang hai khuyết điểm, để lâu không sửa, sẽ thành hai khuyết tật : thứ nhất là nhanh trong tham khi thấy người ăn khoai vác mai đi đào ; thứ nhì là luôn khai thác một cách bất chính quan hệ xã hội : thấy người sang bắt quàng làm họ. Kẻ gian dối trước sự thật, gian trá trước chân lý, gian xảo trước lẽ phải, hay nhận lãnh những hậu quả xấu trong một kịch bản hỗn loạn của trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Người ngay thì thấy mới thấu là trăm nghe không bằng một thấy, vì thấy mới tin, không thấy không tin ; còn kẻ gian thì tình gian mà lý gian, nên chịu cảnh tiếng dữ đồn xa. Người ngay khi trao đổi từ quan hệ tới thương mại thì tìm thuận mua vừa bán ; kẻ gian thì mua gian bán lận, chóng chày sẽ sa vào bạo lực của thượng cẳng tay, hạ cẳng chân, chưa hết khi kẻ gian này gặp kẻ gian kia thì hoạn kịch sẽ xẩy ra tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, của thảm nạn Trạng chết Chúa cũng băng hà.
Kẻ gian tạo ít nhất năm ba hỗn loạn trong xã hội : thứ nhất là thượng vàng hạ cám trong tổ chức xã hội bằng tham nhũng ; thứ nhì là trà dư tửu hậu trong đời sống xã hội khi biến của công ích thành tư lợi bằng tham ô ; thứ ba là trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết trong quan hệ xã hội dựa vào bạo quyền của mạnh được yếu thua, nên kẻ gian luồn chui từ tà quyền tới tham quyền, nên nó : trước mặt là người, sau lưng là quỷ. Hãy dùng U để chuyển từ T qua V với hành vi của kẻ gian luôn : úp úp mở mở.
V
Vàng thau lẫn lộn là xảo tính của kẻ gian, hoàn toàn khác với người ngay là vàng thật không sợ lửa, hành vi của kẻ gian là lấy vải thưa che mắt Thánh, lao động trong vá chằng vá đụp, không có can đảm của cần lao, nên kẻ gian không cam nhận sự dấn thân trong vạn sự khởi đầu nan. Kẻ gian luôn luồn lách trong tà đạo của lợi dụng tha nhân, bóc lột đồng loại kiểu vắt chanh bỏ vỏ, trước thăng trầm nhân sinh trong vật đổi sao dời, kẻ gian trá chính là kẻ bội bạc : vong ân phụ nghĩa. Chân dung diện mạo của kẻ gian bắt đầu bằng gian dối vẽ rắn thêm chân, tiếp đến là gian trá đạo đức giả là vừa đấm vừa xoa, kết cuộc trong gian manh vừa ăn cướp vừa la làng.
Tặng ảnh ông Hồ cho người già. Tặng cờ cho dân… ăn Tết. Không biết tự bao giờ, người ta nghĩ ra được những món quà khốn nạn đến thế. (Trương Duy Nhất)
***
Thảm họa của Việt tộc hiện nay là chế độ toàn trị gian trong độc đảng gian, hành tác trong độc quyền gian, hành động trong độc trị gian… sinh ra bao thảm nạn với quan hệ gian, tiền tệ gian, hậu duệ gian, đồ đệ gian trong khi trí tuệ thật đã bị thành trừng từ bao giờ rồi ?
Lê Hữu Khóa
(01/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức (truy ngôn để tầm ngữ)
Ngữ luận 2 : Bán- Chạy - Cướp
Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) đặt mục tiêu năm 2020 đưa 130.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài (thoibaotaichinhvietnam, 17/01/2020)
Bán
Ngôn ngữ học phân tích là có những động từ được sử dụng nhiều hơn các động từ khác trong đời sống xã hội ; chính trị học ngôn ngữ thì phân loại là có những động từ được vận dụng nhiều hơn các đồng tự khác trong sinh hoạt xã hội ; và xã hội học ngôn ngữ thì phân giải là có những động từ được tận dụng nhiều hơn các động từ khác trong quan hệ xã hội. Trong tiếng Việt có động từ bán, xác chứng cho chúng ta là ngôn ngữ học, chính trị học ngôn ngữ, xã hội học ngôn ngữ đã phân tích, phân loại, phân giãi rất đúng ! Người Việt còn đi xa thêm bước nữa là biến động từ bán thành chứng từ để luận chứng câu chuyện đối nhân xử thế trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội và quan hệ xã hội.
Động từ bán giúp ta đào sâu để đi xa trong thể nghiệm : "thức khuya mới biết đêm dài" để kiểm nghiệm "sống lâu mới biết lòng người có nhân" ; động từ bán biết leo cao để lan rộng mà thí nghiệm chuyện : "cháy nhà lòi mặt chuột" để chiêm nghiệm những chuyện động trời trên đời này, chẳng hạn như chuyện : bán nước ! Khi ngôn ngữ học chính trị biết song lứa cùng chính trị học tri thức để song hành cùng xã hội học đạo lý để cả ba cùng tâm lý học xã hội điều tra mà khảo sát chân dung bất nhân của những cá nhân đã đi vào tà lộ của buôn dân bán nước, mà trong Việt sử không thiếu các thí dụ. Từ điền dã tới nghiên cứu thì đặc điểm của các chân dung bất nhân này thường là những chân dung quyền lực, vì nắm quyền nên biến chính quyền thành tà quyền để phản dân hại nước, như vậy hãy trưng dụng xã hội học chính trị để giải luận là những kẻ có quyền, cầm quyền vì tham quyền nên dễ rơi vào lộng quyền, lạm quyền, mà muốn giữ quyền trong tà quyền thì dễ rơi vào ma lộ của chuyện bán nước !
Muốn đi từ giải thích tới giải lý để giải luận về chân dung bất nhân được chế tác bằng chân dung quyền lực thì hãy trở lại gốc, rễ, cội, nguồn của lý lịch cá nhân và không rời động từ bán để hiểu từng lộ trình của các cá nhân trước khi buôn dân bán nước thì số đông trong đám này chúng đã buôn bằng bán cấp. Nhất là đoạn cuối của đại học với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả đang đầy dẫy từ hệ thống giáo dục tới cơ chế xã hội. Hít thở bằng tà quyền để có phản xạ trong điếm lộ, bọn buôn bằng bán cấp đã có sẵn những toan tính buôn với ý đồ bán trong buôn chức bán quyền.Trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay của Việt Nam, thì lộ trình để tới điểm hẹn của chúng là địa đạo âm binh của : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, tại nơi đây chúng sẽ diệt cho bằng được trí tuệ để dễ buôn-dễ bán với nhau.
Vẫn với động từ bán, hãy nhận ra phương trình bán (buôn bằng bán cấp-buôn chức bán quyền-buôn dân bán nước) giờ đây đã vượt qua ngôn ngữ học, vượt xa chính trị học ngôn ngữ, vượt quá xã hội học ngôn ngữ, để lần mò tới dân tộc học chính trị, đẩy chúng ta tới mà gõ cửa : nhân học đạo lý ! Để thấy-rồi-thấu là trong phương trình bán, thì chân dung bất nhân và chân dung quyền lực chỉ là một chân dung bán có trong nhiều cá nhân lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Hãy vận dụng hiện tượng học trực quan của tai nghe mắt thấy, tới hiện tượng học lý trí của vô trương bất tín, thấy rồi mới tin, để nhận ra trong tiếng Việt có động từ : bán dần, tức là bán từ từ cho tới bán hết ; mà khởi đầu là mật nghị Thành Đô 1990, vẫn bị giấu kín, của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam mà giao kèo bán cho Đảng cộng sản Trung Quốc là : muốn giữ đảng để nắm quyền thì phải bán nước !
Mắt thấy tai nghe với Tàu tặc chiếm đất, biển, đảo của Việt tộc ; Tàu họa với nhiệt điện than ; Tàu hoạn với thực phẩm bẩn, hóa chất độc ; Tàu nạn buôn ma túy, cùng Tàu tà giết người cướp nội tạng. Giờ đây đầu năm 2020, lại thêm Tàu dịch, với Covid-19, biệt danh coronavirus, trứ danh đại dịch Vũ Hán, đặc danh cúm Tàu, nơi mà hiện tượng học trực quan và hiện tượng học lý trí chỉ là một : chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam không được đơn phương đóng các cửa khẩu biên giới, như các nước chung quanh Trung Quốc đã làm, ngược lại chính quyền Đảng cộng sản Việt Nam đã để cho hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn người Tầu ra vào tự do đất Việt giữa mùa đại dịch, mà xuất xứ ai cũng biết là tới từ Trung Quốc. Chỉ vì mật nghị Thành Đô là chuyện bán đơn phương của Đảng cộng sản Việt Nam, với các hiệp định mà Việt tộc không có một quyền gì xen vào để tự cứu mình. Các hiệp định bán đơn phương này nên ta có thể gọi là hiếp định, vì địa đạo ẩn nấp trong cơn nguy khốn của Đảng cộng sản Việt Nam không phải là dân tộc Việt mà là trong bụng của bọn Tàu ma khẩu phật tâm xà với các khẩu lệnh bạn tốt, bạn vàng… Vô trương bất tín, không thấy không tin, thấy rồi mới tin với luật dẫn độ dân Tàu giết người Việt trên đất Việt, mà luật pháp Việt không được quyền xử đám giết người này, bọn cờ gian bạc lận kia, nhóm buôn người lấy nội tạng nọ… mà tất cả phải trả về Trung Quốc.
Khi nhận ra động từ bán bằng trực quan hằng ngày rồi bằng lý trí của tư duy, thì xã hội Việt hiện nay có chuyện : cướp đất của dân lành giờ thành dân oan, rồi bán lại bằng chung cư với giá "cắt cổ". Nơi mà bạo quyền lãnh đạo cùng tà quyền tham quan đã "chống lưng" cho "sân sau" của chúng là ma quyền tham đất, và cả ba đều tham tiền. Bọn âm binh này sống trong biệt thự, biệt dinh, biệt phủ với khi thì thẻ xanh của Mỹ, khi thì quốc tịch ngoại của Âu Châu, mà chúng đã có sẵn trong túi cùng với bao tiền vàng của dân tộc. Đây là không còn là chuyện buôn bán sòng phẳng mà chỉ là xảo thuật của quỷ quyền biết trộm, cắp, cướp, giựt. Với lòng tham không đáy nên chúng không biết ăn ở có hậu, và chúng ào ạt kéo vào cửa Phật, nhà chùa để buôn thần bán thánh, với bọn ma tăng là sư công an, sư quốc doanh, sư hổ mang… chúng chỉ biết bán cầu hồn-buôn cầu vong, mà không một chút tri thức gì về Phật học làm nên Phật pháp, dựng lên Phật tánh, tạo ra Phật tâm.
Khi dân tộc học ngôn ngữ đi sâu vào điều tra và khảo sát động từ bán ngay trong nội tạng của độc quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, bạo quyền, tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, cực quyền, cuồng quyền do Đảng cộng sản Việt Nam sinh đẻ ra từ khi nó nắm nhân kiếp của dân tộc và tài nguyên của đất nước, thì ta thấy đây không phải là chuyện thương mại ! Vì trong thương mại là có mua và có bán, tức là có mua và có bán, mà Việt tộc chỉ thấy bọn bán nước này chỉ bán chớ không hề mua. Chúng bán quê hương gấm vóc của Việt tộc, vì chúng biết đất nước Việt là rừng vàng biển bạc để chúng tha hồ nạo vét ; chưa xong chúng còn biến đất nước Việt thành một bãi rác, để Tàu tà tha hồ từ ô nhiễm môi trường tới hủy diệt môi sinh. Giờ đây đã xuất hiện các xóm ung thư, các làng ung thư, các vùng ung thư… với các thành phố lớn loại ô nhiễm nhất thế giới, ngày ngày ung thư hóa nội tạng của bao thế hệ Việt.
Bán ! Bi nạn Việt trùm phủ lên nhân kiếp Việt ! Trong đạo lý Việt, thì tổ tiên Việt luôn dặn con cháu hãy tuyệt đối cẩn trọng trước bọn độc quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, bạo quyền, tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, cực quyền, cuồng quyền vì sao ? Vì chúng có thể : bán đứng ta ! Bán đứng đất nước ! Bán đứng dân tộc ! Bán đứng giống nòi !
Bán ! là mại, nên tên Tàu của chúng là : mại quốc cầu vinh, tức là bọn tay đã nhún chàm trong buôn dân bán nước chỉ vì tiền bạc, vì của cải… Bọn độc quyền, tham quyền, lạm quyền, lộng quyền, bạo quyền, tà quyền, ma quyền, quỷ quyền, cực quyền, cuồng quyền đã bán đứng đất nước, dân tộc, giống nòi ! Khi chân dung bất nhân độc tài khi sinh đôi cùng chân dung quyền lực độc trị thì chúng sẽ sinh ra quái thai với : chân dung bán cái. Khi vào ngôn ngữ học so sánh, tôi không tìm ra trong các ngôn ngữ của các quốc gia khác động từ : bán cái, như người Việt sử dụng, vận dụng, tận dụng để vạch mặt chỉ tên bọn buôn dân bán nước, chúng chỉ là những chân dung hèn ! Giữa mùa đại dịch cúm Tàu đầu năm 2020 này, tên bộ trưởng bộ giáo dục trong tháng hai : bán cái cho cơ sở, cho phụ huynh học sinh quyết định cho con em mình tới trường hay không ! Chúng đi từ bán cái hèn tới bán cái nhục, khi từ thủ tướng tới bộ trưởng bộ y tế cùng các bí thư các thành phố lớn không dám quyết định cách ly để chặn cúm Tàu lây lan, mà bảo vệ đồng bào, chúng dùng miệng lưỡi bán cái của giới buôn gian bán lận khuyên dân chúng hãy "giới hạn mọi di chuyển" trong khi chúng đang mở toan các cửa khẩu biên giới trước Tàu dịch.
Từ bán cái hèn tới bán cái nhục, mang nội chất của bán cái tục, của bán cái nhơ, nhơ trong nhơ nhớp của hành vi mà kẻ buôn dân bán nước thì tiếng Pháp gọi là "traite" (kẻ phản bội), nhưng dân chúng Pháp sử dụng ngữ vựng, vận dụng ngữ văn, tận dụng ngữ pháp, để gọi bọn buôn giống bán nòi là bọn : "vendu" (bán rồi). Đó là bọn tự bán mình, mà đạo đức cộng đồng gọi tên là : bán linh hồn cho quỷ. Nhưng khi tôi nghiên cứu về ngôn ngữ học tri thức trong triết học nhận thức thì tôi lại càng thắc mắc hơn là : bọn này đâu có linh hồn đâu mà mang ra bán !
Buôn giống bán nòi là bọn tự bán mình, mà đạo đức cộng đồng gọi tên là : bán linh hồn cho quỷ.
Chạy
Chạy, là động từ kể-để-tả sự vận dụng thể lực để làm nhanh theo một yêu cầu bức bách gì đó, chạy thì nhanh hơn đi, nên chạy là để xử lý tức khắc một việc mà ta muốn có kết quả nhanh. Chạy nhanh, có khi để rượt đuổi, có khi bị rượt đuổi. Chạy trong sáng suốt ngược chiều, nghịch lý với chạy trong hoảng sợ, với tâm trí rối loạn, với tâm thần bị thất thần. Chạy để ôm người thương, người yêu đối nghĩa, nghịch luận với chạy loạn, chạy giặc xa cái chết, để chạy về cõi sống. Nếu là chạy bộ như môn thể thao thường nhật, thì ta chạy trong thoải mái, vui vẻ, với chủ đích là tăng thể lực để trợ lực cho trí lực, trợ duyên cho tâm lực, nên ta chạy thong dong trong thư thái, thư thả để thong thả…
Nhưng động từ chạy có một nội dung hoàn toàn khác, có khi bất chính trong sinh hoạt xã hội đầy tham nhũng, của một tổ chức xã hội dựa trên tham ô, với quan hệ xã hội của tham quyền như xã hội Việt hiện nay, đã bị trùm phủ bởi tham tiền trị. Đây là đứa con đích tôn của độc đảng toàn trị, từ đây động từ chạy mang một nội hàm mới, bất bình thường trong ngữ nghĩa như bị ép uổng để được "bình thường hóa" trong một xã hội đã bị lắm ung thư ngay trong nội tạng của nó, bởi lót tay, bôi trơn, bao bì, sân sau, ô dù, chống lưng… Động từ chạy giờ đây trong giao tế xã hội đã chuyển tải không những các thói hư tật xấu của đời sống xã hội, mà nó còn thiêu hủy tận gốc rễ đạo đức một tập thể, đạo lý một cộng đồng, luân lý một dân tộc. Động từ chạy cho ta thấy rõ quan hệ giữa người với người đã bị tha hóa, đã bị thối tha hóa.
Nêu ngôn ngữ học định vị để định nghĩa, định lý để định đề từ ngôn tới ngữ, thì xã hội học ngôn ngữ nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã về sự biến chất của định vị giờ đây đã đẩy định nghĩa vào một sinh hoạt xã hội xấu, về sự biến thể của định lý giờ đây đã đưa định đề vào một quan hệ xã hội tục. Ngôn ngữ học chọn con đường nói có sách, mách có chứng, xã hội học ngôn ngữ quan sát chi ly về khẩu nghiệp của mỗi người, kẻ thì khẩu xà tâm phật, đứa thì có khẩu phật tâm xà. Ngôn ngữ học chọn lối nói gần nói xa không qua nói thật, sẵn sàng chấp nhận sự thật mất lòng, còn xã hội học ngôn ngữ thấy được miệng kẻ quan có gang có thép để thấu tâm địa của bọn cướp ngày là quan, để rõ tâm tính của chúng là vừa ăn cướp, vừa la làng.
Nhưng nếu chỉ có ngôn ngữ học nhìn xa trông rộng mọi chính ngữ để nhận ra chính diện, và xã hội học ngôn ngữ đào sâu bới rộng mọi tà ngữ để nhận ra tà diện, thì cũng chưa đủ nội công cùng bản lĩnh để phân tích và giải thích động từ chạy có mặt thường xuyên trong đời sống Việt hiện nay. Chúng ta phải vận dụng triết học đạo đức, rồi tận dụng chính trị học tri thức để nhập nội vào sự vận hành xã hội đã bị ung thư hóa ngay trong nội tạng bởi ít nhất năm hệ :
h Hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc tham).
h Hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
h Hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tín, bất trung).
h Hệ thất (thất đức, thất tri, thất tâm, thất đạo).
h Hệ vô (vô cảm, vô giác, vô minh, vô tình).
Khi nắm các hệ luận này rồi thì chúng ta sẽ dễ nhận ra sự vận hành tràn lan như đại dịch chung quanh đường đi nẻo về của động từ chạy. Hãy bắt đầu bằng lộ trình quái thai từ trường học tới xã hội :
h Chạy bằng, nơi mà cả một hệ thống giáo dục từ trung ương tới địa phương với giáo trình giả song hành cùng giáo án mạo của : học giả-thi giả-điểm giả để có bằng giả.
h Chạy cấp, nơi mà chạy ngạch là kết quả của mua bằng bán cấp, nơi đây đã có bao bì, bôi trơn, lót tay… thì chạy được tiền là sẽ có cấp, ngạch, chỗ trong một cơ chế, trong một công ty, trong một xí nghiệp…
h Chạy chức, là chuyện chạy hằng năm, chạy thường xuyên qua hối lộ để mãi lộ trong tà lộ của mua chức bán quyền, phải chạy trên để trao lén cho cấp trên, chạy dưới để dặn thầm cho cấp dưới, chạy trong lơ láo, chạy trong bùn nhơ.
h Chạy quyền, là ma lộ của cuộc chạy đua bằng quyền lực, vì kẻ tham ô, đứa tham nhũng, hít thở bằng quan niệm méo mó của công thức thô thiển, của cách thức thô tục : "còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm, hết gạo hết ông tôi".
h Chạy chỗ, có khi là chạy rút, có khi là chạy đường trường, có khi phải chạy với giá cao để cùng lúc chạy bằng, chạy cấp, chạy chức, chạy quyền. Ở đây xuất hiện loại buôn thần bán thánh, trong đám này, sẽ xuất hiện bọn sẵn sàng buôn dân bán nước.
Khi bị đe dọa bởi lao lý, với một hệ thống tư pháp thối nát, với các toàn án thối tha, với các quan tòa thối hôi, thì động từ chạy có một lộ trình của bi nạn :
h Chạy tòa, chạy từ quan tòa tới luật sư, chạy từ ngoài tòa bằng quà cáp cho gia đình, thân quyến của các quan tòa, tới chạy trong tòa với bao bì để lót tay mà bôi trơn từ lỗi cho tới tội.
h Chạy án, để biến án nặng thành án nhẹ, rồi biến án tù thành án treo, còn nếu là lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam thì biến cả án tử hình thành "khuyến cáo kỷ luật".
Khi bị đe dọa bởi bịnh tật, với một hệ thống y tế tồi tệ, với các bác sĩ tồi tục, với các y tá tồi bại… thì động từ chạy có một lộ trình của tán gia bại sản, một kẻ bịnh làm cả gia đình chạy từ suy cho tới sụp :
h Chạy chữa, sau khi đã vái tứ phương tám hướng mà nan bịnh không qua, thì phải chạy chữa qua bác sĩ, bịnh viện, y khoa, y tá… trong một xã hội luôn đánh tráo khái niệm bảo hiểm xã hội để đánh lận con đen qua mọi chi phí từ chính thức tới phụ trội, tất cả đều phải lót tay bằng bao bì, nơi mà chạy chữa là hạ nguồn của một thượng nguồn rối loạn trong chạy tiền.
h Chạy thuốc, là phản xạ của chạy chữa với những tốn kém không lường về giá thuốc, với hậu quả bất nhân thất đức của thuốc giả, mà Việt Nam là quốc gia độc nhất của thế kỷ này với bà Bộ trưởng cùng cả gia đình buôn thuốc ung thư giả mà không phải chạy tòa, chạy án, mà chỉ cần chạy với các lãnh tụ cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam để khỏi phải chạy chung quanh vòng lao lý.
h Chạy thầy (thuốc), là chạy từ quê ra tỉnh, chạy từ trong nước ra ngoài nước, nếu chạy được tiền để được chạy chữa tại các quốc gia có y khoa tiên tiến, có y tế văn minh. Đây là thực tế của các lãnh đạo trong Đảng cộng sản Việt Nam, đã chạy xong bằng, cấp, chỗ, chức, quyền, và đã vơ vét kỹ lưởng tiền bạc của dân tộc, đã nạo vét kỹ càng tài nguyên của đất nước. Nên chạy tiền để được để chạy chữa trong điều kiện các bịnh viện của phương Tây như các khách sạn năm sao.
Khi cảnh hoạn nạn giữa chợ đời buôn gian bán lận, dung dưỡng cho buôn quyền bán chức, tôi được nghe để được thấu động từ chạy trên các nẻo đường điển dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu về tác động của động từ chạy này trong quan hệ gia đình, những quan hệ thân thuộc, sâu kín vì riêng tư giữa các cá nhân :
h "Bố chạy cho con", đó là câu nói của một cậu con trai đánh nhau ngoài đường, giờ bị nhốt trong đồn công an, cậu nói câu nầy thật dễ dàng như loại hoang đàng đầu đường cuối chợ, mà cậu không cần nhìn kỹ khuôn mặt đầy nỗi lo của người cha đã bắt đầu suy tính chuyện chạy tiền để đưa cậu ra khỏi vòng lao lý.
h "Em chạy cho anh", đây là lời thì thầm của một người chồng vô trách nhiệm sau khi nhậu say trong giao thông đã gây trọng thương một bà cụ đang qua đường, người chồng này hiểu biết tới mức độ nào nỗi lo của vợ mình trước cảnh gia định đang túng thiếu ? Biết chạy xe mà không biết chạy tội, câu chuyện của ông này còn bất công hơn câu chuyện con dại cái mang, vì đây là chuyện rất bất nhẫn của chồng hư vợ chịu.
h "Ông bà chạy cho cháu", đó là câu nói tình thương của ông bà đang chạy lo thuốc chữa cho đứa cháu, chỉ mới mười tuổi đã phải nhận nan bịnh ung thư, lẻ loi trong một bịnh viện, lại không cha vắng mẹ, may mà ông bà có đây.
h "Tao chạy cho mày", đây là câu nói vừa buồn, vừa lo của một đứa bạn là luật sư nói cho thằng bạn làm càng sau khi đả thương một người hàng xóm khi nó không kềm được cơn giận trước ông láng giềng quá ồn ào trong thô tục, mà tôi là bạn của cả hai đứa, tôi quan sát kỹ thấy hai đứa bạn tôi khi nói chuyện mà không dám nhìn nhau.
h "Thầy chạy cho con", lại là một câu chuyện thương tâm khác, khi động từ chạy là đạo lý của người thầy nhận chăm lo cho sinh viên của mình sau một tai nạn trầm trọng trong giao thông. Cha mẹ của nạn nhân sống sâu tại miền Tây, lại trong cảnh nghèo khó, may mà thầy biết chạy, sẽ nhận lo cho sinh viên của mình từ chữa trị tới thi cử, để trò yên tâm tịnh dưỡng, không bị bỏ rơi trong thương tích, không bị bỏ lỏng trong học hành.
Từ chạy việc tới chạy chợ giữa một chợ đời trong một chế độ thối tha, với bao cơ chế thối nát, nếu muốn sống còn thì phải luôn có phản xạ :
h Chạy tiền, sử dụng vốn tiền của gia đình, vận dụng vốn liếng của bạn bè, tận dụng vốn quen trong xã hội bằng phương trình quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, cùng lúc phải biết dẹp đi trí tuệ của lẽ phải.
h Chạy nợ, là sự bất công đã tới gõ cửa các cá nhân còn không có vốn tiền, vốn liếng, vốn quen thì phải chuẩn bị đeo dai dẳng bao nhiêu nợ lên lưng, lên vai, lên đầu, mà một sớm một chiều nhân kiếp đã trở thành nhọc kiếp trong nhục kiếp.
h Chạy gạo, chạy trong ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống bị thu vào nhu yếu phẩm, và phản xạ loại, trừ, khử, diệt các xa xỉ phẩm, nơi mà cơm áo gạo tiền đã biến nhân kiếp thành vật kiếp của chén cơm manh áo, thành súc kiếp của giá áo túi cơm.
Một chế độ chính trị mà con người phải chạy tới tối tăm mặt mũi, thì chế độ chính trị đó bất nhân ! Một cơ chế xã hội mà con người phải chạy tới đầu tắt mặt tối, thì cơ chế xã hội đó thất đức ! Trong thảm trạng của dân tộc hiện nay, thì ta thấy có nhiều cách chạy, trong đó có kiểu chạy thô bỉ nhất là chuẩn bị cao bay xa chạy ra nước ngoài, qua phương Tây của các quan chức sau khi vơ vét bao tiền bạc của dân tộc, sau khi nạo vét bao tài nguyên của đất nước. Các quan chức này vừa là tham quan để tham tiền, vừa là trọc phú trong các biệt thự, biệt dinh, biệt phủ nhưng đã có thẻ xanh của Mỹ, quốc tịch ngoại của Âu châu. Chúng phè phởn với các đặc ân cùng như đặc lợi trong chế độ độc đảng toàn trị bằng công an trị ; một chế độ độc quyền trong bạo trị dung túng cho tham nhũng trị, mà tất cả đều là âm binh trong tham tiền trị, luôn chạy để mua quyền, luôn chạy để bán chức. Nhưng khôn quá hóa dại, vì tránh vỏ dưa sẽ gặp vỏ dừa, vì các nước mà chúng toan tính để mò mẫm tới mà dung thân, chính là quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, với công lý rất công minh, công pháp rất công tâm. Các quốc này sẽ nhận ra chân dung thối nát để có lý lịch thối tha của chúng, cùng lúc giúp Việt tộc kiểm nghiệm lại hai bài học của tổ tiên Việt để lại cho con cháu Việt :
h Chạy trời không khỏi nắng, nắng trời của hệ công (công lý, công minh, công pháp, công tâm) biết làm nên công luật ; cùng là nắng trời của sự thật, của lẽ phải.
h Chạy đằng trời, vì lưới trời lồng lộng, trong nhân luật của chân lý nhân quả, ăn ở bất nhân thất đức thì chạy đâu cho thoát !
Chạy có cùng vần điệu với cháy, mà Việt tộc thì được giáo dục bằng chân lý của chính ngữ là : Cháy nhà ra mặt chuột ; mà chuột là loài động vật sống trong nhơ nhớp của dịch bịnh, mang súc kiếp của loài chỉ chạy trốn, chớ không biết đi thong thả trong thư thái dưới ánh sáng. Nên các chế độ độc đảng toàn trị dựa trên phương trình công an trị-tham nhũng trị-tham tiền trị chỉ là những chế độ mà lãnh đạo là loài chuột bọ.
Chúng ta lần tìm nội nghĩa của động từ chạy bằng ngôn ngữ học, chúng ta dò tìm nội chứng của động từ chạy bằng xã hội học ngôn ngữ, chúng ta dò la nội lý của động từ chạy bằng triết học đạo đức, chúng ta dò sâu nội luận của động từ chạy bằng chính trị học tri thức. Giờ đây chúng ta cần sự có mặt của dân tộc văn hóa và nhân học văn hiến trong kho tàng đạo lý của Việt tộc mà tổ tiên Việt để lại cho con cháu Việt ; nơi mà đạo lý, đạo đức, luân lý chỉ là một ! Trong kho tàng này thì động từ chạy rất hay, đẹp, tốt, lành, tại đây nhân đạo là nhân nghĩa :
Đường dài ngựa chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa mấy năm cũng chờ.
Chưa hết, từ đây nhân tình là nhân tâm, nhân lý là nhân từ, nhân bản là nhân văn, nhân tính là nhân tri :
Sông dài cá lội biệt tăm
Người thương có nghĩa mấy năm cũng chờ.
Nội công đạo lý của tổ tiên là đây ! Bản lĩnh đạo đức của dân tộc cũng là đây ! Tầm vóc luân lý của một giống nòi chắc chắc là đây ! Nơi động từ chạy được bao che bởi động từ chờ, vì cả hai được bao dung bởi một động từ bao la khác là động từ : thương.
Chạy liên miên, chạy biền biệt, chạy không ngừng trước nhân thế, chạy không nghĩ vào nhân sinh, chạy không nguôi giữa nhân tình thế thái ; nhưng tâm không hoảng, trí không kinh, thân không đuối vì : người thương biết đợi ! Vì nhân nghĩa chính là đường đi nẻo về của nhân đạo. Tổ tiên Việt rất tỉnh táo để có những bài học sáng suốt cho con cháu Việt : Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn !
Kiểu chạy thô bỉ nhất là chuẩn bị cao bay xa chạy ra nước ngoài, qua phương Tây của các quan chức sau khi vơ vét bao tiền bạc của dân tộc, sau khi nạo vét bao tài nguyên của đất nước.
Cướp
Cướp là động từ có trong ngôn ngữ của mọi sắc tộc, chỗ nào có bất công thì ngôn ngữ học báo động là chỗ đó động từ cướp được sử dụng thường xuyên. Nơi nào công lý vắng mặt, công pháp bỏ cuộc, công tâm không có tiếng nói thì nơi đó động từ cướp sẽ phổ biến, có khi thành tiếng gào trước công luận ; có khi chỉ là tiếng khóc thầm giữa đêm của các nạn nhân bị cướp. Mà thủ phạm chuyện cướp là đám âm binh ẩn náu trong âm lộ của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cuồng quyền, cực quyền, lộng quyền, lạm quyền, tham quyền vì tham tiền mà thành kẻ cướp.
Khi ngôn ngữ học muốn "tự chuyển biến" vì muốn trở thành khoa học ngôn ngữ thì lộ trình của nó sẽ "lâm để lậm" vào khoa học luận mô hình kiểu toán học. Trong toán học thì : 1 + 1 = 2, nên có các chuyên gia ngôn ngữ khuyên chúng ta là nên "khoanh vùng" trong khoa học luận mô hình kiểu toán học này. Họ "trao tặng" cho chúng ta một thí dụ : khi ta lập ra một câu, thì câu đó phải có : chủ từ + động từ + túc từ, thì tha nhân hoặc đối tác mới hiểu được ý của ta, nghĩa câu này, đây là thí dụ của một mô hình kiểu toán học.
Nhưng phạm trù của ngôn ngữ học không bị giới hạn bởi mô hình, chính dân tộc học ngôn ngữ, cùng xã hội học chính trị và triết học đạo đức khi cùng nhau phân tích các động từ, thì nhận ra là có một số động từ mang nội lực biểu tượng. Từ các động từ này, ta nhận ra sự phân hóa ngay trong tổ chức xã hội, nơi mà động từ cướp trong Việt ngữ là một thí dụ xuất sắc ! Cả ba chuyên ngành này nhận ra là các động từ được sử dụng trong đời sống xã hội, được vận dụng trong sinh hoạt xã hội, được tận dụng trong quan hệ xã hội, như trường hợp động từ cướp trong Việt ngữ là ranh giới nói lên sự phân hóa trong tổ chức xã hội, sự phân cực trong tổ chức chính thể.
Câu chuyện của động từ cướp trở nên sắc nhọn khi các chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn biết nhận ra trong xã hội Việt hiện nay : Ai là nạn nhân của chuyện cướp ? Ai là thủ phạm của chuyện cướp ? Cụ thể là : Ai bị cướp ? Ai được quyền cướp ? Hùng lực của khoa học xã hội và nhân văn là đây, không phải là mô hình toán, vì khoa học xã hội và nhân văn đào sâu vào tâm trạng của nạn nhân là dân lành mà một sớm một chiều thành dân oan sau khi bị cướp đất, để thấu tâm địa của thủ phạm tham đất vì tham tiền.
Khoa học xã hội và nhân văn đi xa trong thảm kịch của nạn nhân là dân đen đầu tắt mặt tối bị đủ chiều thuế má lại bị thêm tham nhũng lộng hành làm cho tối tăm mặt mũi để hiểu cái bất nhân của thủ phạm lãnh đạo trong trộm, cắp, cướp, giật. Khoa học xã hội và nhân văn tìm rộng trong hậu quả ngay trên nhân kiếp con sâu cái kiến của nạn nhân để nhìn thẳng vào cái thất đức của thủ phạm chính là bọn cướp ngày là quan. Khoa học xã hội và nhân văn leo cao trong luân lý cộng đồng, trong đạo lý dân tộc để nhận ra chân dung của các nạn nhân thấp cổ bé họng trước bọn bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cuồng quyền, cực quyền, lộng quyền, lạm quyền, tham quyền với lòng tham không đáy ! Tiếng Việt không ngừng ở động từ cướp, mà chuyển hóa động từ vào khu vực đặc biệt nhất của không gian danh từ chung :
h Tướng cướp, đó là các tướng trong quân đội hiện nay cướp đất của dân biến thành đất quốc phòng trường hợp của xã Đồng Tâm, để sau đó biến thành đất kinh doanh trong tay bọn đầu cơ chuyên nghề cạp đất, tức là cướp đất. Ta không quên các tướng lĩnh bộ công an giờ đã thành tướng cướp bao che, bảo kê, tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong Bộ Công An, để nhận bạc tỷ hàng tháng như tiền mãi lộ của bọn thảo khấu thủa nào. Đến khi ra tòa thì cúi đầu mà nhận là mình : óc bé nhưng tham vọng nhiều, thật là điếm nhục cho từ : tham vọng, bọn tướng cướp này không đủ nhân cách tối thiểu để nói cho rõ là chúng chỉ tham tiền !
h Quan cướp, bọn cướp ngày là quan có ít nhất là ba loại, loại thứ nhất là các bộ trưởng của các Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài nguyên môi trường, Bộ giao thông vận tải, Bộ thông tin truyền thông… chúng từ cướp chợ qua cướp đường. Loại thứ nhì là các quan chức cấp vùng, cấp thành phố từ Tỉnh ủy, Thành ủy, Huyện ủy tới các Ủy ban nhân dân, song hành cùng các đám đàn em dầy đặc như ký sinh trùng ngày ngày nhơ phớp cùng bọn xã hội đen để thông đồng từ cướp nhà qua cướp đất, từ cướp rừng tới cướp sông. Loại thứ ba là các quan chức, các cán bộ địa phương làng, xã, huyện… trong các Sở, Vụ, Ban, nơi mà chúng cướp bằng chữ ký, con dấu, cái mộc do chúng tự chế ra để tròng vào đầu dân bao thứ thuế, bao chi phí, bao "tự nguyện đóng góp"… chúng cướp lương bổng, cướp lợi tức, từ cướp bát cơm tới cướp tiền chợ của dân lành bị chúng bòn rút tận xương tủy giờ trơ xương, chỉ còn là dân đen.
h Quân cướp, ngập các ngã tư, đầy các nẻo đường chính là bọn công an, cảnh sát với não bộ của lý luận sâu rầy là : "còn đảng còn mình", mà nhân dân đặt biệt danh là chó xanh, chó vàng. Chúng cướp từ đầu đường tới cuối phố ; chúng còn tự cho phép tra tấn dân, hành sát dân, thủ tiêu dân, chúng đại diện cho một loại thống kê tồi tệ nhất trong nghiên cứu, điều tra, khảo sát của khoa học xã hội và nhân văn : Việt Nam hiện nay là đất nước có số người bị giết, bị tra tấn cho tới chết trong đồn công an ở cấp cao nhất.
h Đảng cướp, đó là tên gọi ngắn gọn của Đảng cộng sản Việt Nam mà nhân dân đã tặng cho một tập đoàn tội phạm chuyên nghề cướp, từ khi nó "cướp chính quyền" năm 1945, từ khi nó "cướp bầu cử tự do" năm 1954, từ khi nó "cướp nhân phẩm Việt" sau 1975. Đảng cướp này đã cướp tính mạng, cướp xương máu của đồng bào trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn 1954-1975, và vẫn là Đảng cướp, chủ soái của sào huyệt cướp của tướng cướp, quan cướp, quân cướp được chúng bảo kê ngay trong ổ cướp của Đảng cộng sản Việt Nam. Một sào huyệt cướp ngồi xổm trên Hiến pháp, ngồi trốc trên luật pháp, ngồi mốc trên công lý từ kkhi nó ra đời 1930.
Sau động từ cướp phải chỉ rõ tội phạm, vạch rõ tội đồ, để thấu rõ tội lý, không chỉ là thủ phạm cướp, mà giờ đây đã thành : tội nhân cướp !
Ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về các động từ không phải là khoa học mô hình kiểu toán học, vì ngôn ngữ học động từ tìm hiểu tần số cướp để thấu hiểu bản chất cướp. Nơi mà động từ cướp hiểu sự phân cực của một xã hội luôn tạo ra bất công để phân loại các thành phần xã hội ai là nạn nhân, ai là thủ phạm.
Ngôn ngữ học động từ giải thích rõ sự phân hóa của xã hội chấp chứa loài lãnh đạo bất chính để phân giải các ung thư của một xã hội trong chế độ độc đảng trong toàn trị của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cuồng quyền, cực quyền, lộng quyền, lạm quyền, tham quyền, của lòng tham không đáy !
Hãy phân loại hóa các thủ phạm bằng nội lực của Việt ngữ biết làm rõ chân dung đa dạng của bọn cướp :
h Cướp giựt ngoài đường, hay cướp cạn góc phố tới từ côn đồ, lưu manh, du đảng, kiểu đói làm càn, không nguy hại tới số kiếp, sinh mạng của nạn nhân, thì luật pháp, tòa án quản lý được bằng lao lý và giáo dục. Ở đây, công lý còn phân biệt được giữa lỗi và tội.
h Cướp trắng của cải, tiền bạc của dân chúng, cướp hết đất đai, tài nguyên của quốc gia, như lời bà phó chủ tịch quốc hội tuyên bố : "ăn (cướp) không chừa môt thứ gì ! để làm của riêng, biến thành tư lợi như các tướng cướp, quan cướp, quân cướp được Đảng cướp, ổ của đầu xỏ cướp, sào huyệt của đầu lãnh cướp là Đảng cộng sản Việt Nam thì chắc chắn đây là tội, chớ không còn là lỗi nữa.
Trong bối cảnh giải luận này thì ngôn ngữ học không được rời luật học và đạo đức học, cụ thể là sau động từ cướp phải chỉ rõ tội phạm, vạch rõ tội đồ, để thấu rõ tội lý, không chỉ là thủ phạm cướp, mà giờ đây đã thành : tội nhân cướp !
Lê Hữu Khóa
(29/06/2020
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Ngữ luận : Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức (truy ngôn để tầm ngữ)
Ngữ luận 1 : Ác
Tại sao cái ác lại được dùng làm tên để nhân dân gọi chính quyền : ác với dân ?
Ác
Ngày nhận giải Nobel văn chương, theo truyền thống thì người nhận giải phải đọc một bài tham luận, Soljenitsyne đã đọc một bài tham luận, và bài tham luận của ông có tầm vóc của con người ông. Trong đó, có một câu đã nắm tay tôi tới bàn viết để viết bài này : "Con người khi có mặt trên hành tinh này, thì lúc nào cũng muốn là chủ, là trung tâm của trái đất này, con người bây giờ đã là trung tâm của vũ trụ mà họ sống, nhưng họ không đủ thông minh để tìm ra một hệ thống tư tưởng với các giá trị tâm linh để giúp họ sống yên, sống lành nơi trung tâm của họ".
Soljenitsyne trong ngày nhận giải Nobel văn chương năm 1970
Từ luận điểm này, tôi muốn đi xa hơn để đặt một câu hỏi sâu hơn ngay trong số phận của Việt tộc : "Từ bao giờ cái ác đã ở vị trí trung tâm để cai trị, từ quản lý tới quản thúc nhân kiếp Việt tộc ? Tại sao cái ác lại được dùng làm tên để nhân dân gọi chính quyền : ác với dân ? Nếu chính quyền hiện nay "hèn với giặc" đã là khó hiểu rồi, lại còn "ác với dân" thì là chuyện khó hiểu, ác với chính đồng bào của mình, chuyện này tới từ đâu ?
Cái ác : hằng số, hàm số, ẩn số
Hành trình đi tìm các hằng số, các hàm số, các ẩn số về cái ác có quỹ đạo mà loài khẩu Phật tâm xà oang oang rồi sa sả bằng tuyên truyền ngu dân ; có tà lộ mà âm binh lòng lang dạ thú thường lẩn khuất để hại người trong bóng tối ; có cõi ma của đám từ lãnh đạo độc tài nhưng bất tài trong quản lý đất nước, rành rõi chuyện gắp lửa bỏ tay người, biết điều khiển, xúi giục bọn bút nô, ký nô, văn nô làm chuyện ngậm máu phun người. Khi chúng ta muốn thấy để thấu : quỷ đạo, tà lộ, cõi ma của cái ác, thì chúng ta phải chấp nhận trực diện với quỷ dữ, với âm binh, với ma trơi, ma xó, ma bùn… mà phải luôn biết giữ thân thể, trí thể, tâm thể không để bị lấm bùn nhơ. Vì nghiên cứu về quỷ, về ma, về âm binh là binh đoàn của cái ác, thì chúng ta luôn đứng trước những thử thách về đạo lý nơi mà nhân cách hay, đẹp, tốt, lành ngày ngày bị cái ác thiêu hủy. Cụ thể là chúng ta phải đứng trước những thăng trầm về luân lý nơi mà nhân tính làm nên nhân lý, nhân tâm làm ra nhân từ thường xuyên bị hù dọa, đe nẹt, truy bức, hãm hại, truy diệt…
Ác biến dạng từ động từ tới trạng từ, để thành cái ác như một danh từ, trong khoa học xã hội nhân văn thì cái ác được chia năm sẻ bảy, như công thức mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã đề ra "phải lần cho tới tận nguồn lạch sông". Trên thượng nguồn cái ác là một khái niệm (notion), theo dòng chảy của tri thức nơi trung nguồn nó thành một phạm trù (concept) vừa chứa một không gian lý thuyết, vừa cõng luôn cả các phương pháp muốn nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về nó. Khi tới hạ nguồn trong bình nguyên thênh thang của các kiến thức khách quan trong khoa học xã hội nhân văn, thì cái ác là đối tượng của một hệ thống nhận thức chủ đạo làm nên chủ thuyết (théorie de connaissance). Một hệ thống nhận thức biết tự tái tạo các chủ đề mới vì học thuật luôn muốn tìm hiểu thêm về chân dung diện mạo của cái ác trong nhân sinh hiện nay, trong nhân thế bây giờ và ở đây. Nên trong học thuật cái ác không những có chỗ đứng để chính trị học và xã hội học phân tích nó, có ghế ngồi để triết học và sử học phân định nó, mà nó còn có luôn giường nằm (nhưng là giường mổ) để phân tâm học và tri thức học mổ xẻ nó, mổ bụng nó để khi mổ nó xong, thì con người hy vọng là nó không còn tác oai tác quái bằng nọc độc của nó nữa. Khi nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về cái ác qua hơn ba mươi công trình trong bộ luận (1), giờ đây tôi đề nghị lộ trình học thuật sau đây về cái ác :
Dù tu mấy kiếp, Tâm Phật khẩu xà thì vinh hoa phú quý rồi cũng mất
Cái ác : cực đoan, cực quyền
Nơi đây, cái ác được hiểu rồi đươc vận dụng trên quy trình cứu cánh ác biện minh cho phương tiện ác vì quyền lực ác, để biến quyền lực thành độc quyền, mà không quên biến quyền lực thành quyền lợi, tiếp theo là biến quyền lợi thành tư lợi trong đặc lợi, đặc ân, đặc sủng… Đây là định đề làm nên định nghĩa về bạo quyền, dùng cái ác để trị, sâu xa hơn là dùng cái ác giết cái thiện, để diệt cái nhân có trong nhân tính và nhân lý được giáo dưỡng bằng nhân từ và nhân tâm. Cái ác cực đoan không biết nhân nhượng nhân đạo và nhân nghĩa, nó không biết khoan dung trước nhân tri và nhân trí, nên nó sẵn sàng xiết cổ cho tới tắt thở nhân bản và nhân văn. Khi cái ác không tôn trọng nhân quyền của các nạn nhân bị nó diệt, thì bản thân nó khi hề có ý niệm gì về nhân phẩm của chính nó. Giáo lý sống lâu mới biết lòng người có nhân làm trò cười cho nó ; giáo dục đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn là trò hề đối với nó, nên sự giáo dưỡng một duyên, hai nợ, ba tình là chuyện trừu tượng đối với nó.
Chúng ta sẽ không nhận diện ra cái ác, nếu chúng ta không lấy cái thiện để trực diện với nó ; nếu chúng ta không có cái nhân để trực luận với nó, để biến cái thiện và cái nhân là tấm gương đôi mà soi để xét cái ác. Tại đây cái ác sẽ lộ ra chân dung quỷ dữ, ra hình tướng âm binh mặt người dạ (dã) thú của nó. Sử học nhận ra trong lịch sử con người cái ác có trong hành vi của bạo chúa, loài dã thú giết người như ngóe thời phong kiến. Cái ác tồn tại trong các chế độ độc tài gia đình trị, quân đội trị với những công cụ, phương tiện sở trường của nó là : ám sát, tù đày, tra tấn, nhục hình, thủ tiêu… Trong thời đại này, thì cái ác nhập nội vào quá trình độc, hiểm, thâm, xảo… của hành vi bất nhân thất đức bằng sự sinh đôi ra hai cái ác khác :
Trong độc đảng giữ độc quyền là với quan niệm là quyền thì không chia sẻ được… nên phải thanh trừng nội bộ bằng cách phải thanh toán chính các đồng chí của mình...
Cái ác : cường độ, mức độ, mật độ
Hằng số bạo quyền trong hằng sử cuồng quyền chính là đường đi nẻo về của cái ác cực đoan để có cực quyền, khi nó muốn cai trị nhân sinh, thống trị nhân thế, quản thúc nhân loại, chỉ bằng cái ác vận dụng để giết cái tâm, diệt cái lý, chôn luôn cái luật. Nó tự cho nó cái quyền sinh sát : muốn giết thì giết, muốn diệt ai thì diệt. Cái ác cực đoan vì cực quyền có vóc dáng vĩ mô của nó trong điều tra định lượng nơi mà cái ác đã giết hại, truy diệt, thảm sát hàng trăm triệu người trong các chế độc do độc đảng cộng sản toàn trị, hơn hàng chục lần con số tử vong của mỗi cuộc thế chiến trong thế kỷ XX vừa qua, nó hiện diện trong Cải cách ruộng đất 1954-1960, với hàng trăm ngàn nạn nhân (2).
Cái ác có chân tướng vi mô của nó với đồng chí diệt đồng chí, nơi mà anh có thể giết em trong độc quyền của độc hại, trong độc tôn trị của độc đoán, như giả thuyết được lưu thông rồi lưu hành để trở thành thịnh hành trong Đảng cộng sản Việt Nam là ông anh Lê Đức Thọ đã giết chính em của ông là tướng Đinh Đức Thiện trước đại hội Đảng cộng sản Việt Nam. Và đây không còn là giả thuyết mà luôn là hằng số trong quá trình chuẩn bị đại hội đảng của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà chuẩn bị đại hội chính là thời điểm của hệ thanh (thanh lọc, thanh trừng, thanh toán) với các toan tính bằng cái ác. Cái ác có luật rừng của lập nhóm, xây phái, tạo phe, dựng đám ngay trong đảng cầm quyền, qua lộ trình thẳng tắp từ đấu tố tới ngục tù, trong bạo lực của cá lớn nuốt cá bé. Thậm tệ hơn là ăn tươi nuốt sống lẫn nhau giữa các đồng chí, từ vu oan giá họa bằng vu khống, vu cáo để chạy thẳng tới giết nhau ngoài đường bằng tai nạn giao thông, cho tới diệt nhau trong lao tù bằng độc dược…
Khi cái ác cầm quyền thì nó đã cầm dao bằng tay phải, cầm súng tay trái, bụng đeo lựu đạn, vai đội đại bác, lưng cõng bom, mà miệng của nó đã nuốt chửng công bằng lẫn công lý từ lâu. Tự thân của cái ác không có luân lý của cái thiện làm nên bổn phận đồng bào phải đùm bọc nhau, với trách nhiệm đồng loại phải che chở nhau. Trong bản chất của cái ác không có đạo lý bầu ơi thương lấy bí cùng, làm nên đạo đức một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ ; để bảo vệ giáo lý của dân tộc, của giống nòi là : máu chảy tới đâu ruột đau tới đó. Nên nội chất của cái ác chính là độc tố của nó, sẵn sàng xóa trắng lương tâm, nên cái ác trống lương tri vì vắng lương thiện, hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) không có chỗ đứng ghế ngồi trong thâm tâm nó, vì cái ác nạo luân lý, nhổ đạo lý, bứng đạo đức.
Khi chúng ta phân tích định lượng để giải thích định chất, giải đề vi mô để giải luận vĩ mô về nội chất cái ác, thì chúng ta thấy sự leo thang của những kẻ ác, khi chúng đấu giá để trả giá, như đám đầu nậu muốn làm chủ thầu để xây dựng tà lộ cho cái ác. Cụ thể, sau khi chế ra bom để giết người, thì kẻ ác dùng bom nguyên tử để giết được nhiều người, và hiện nay những kẻ ác còn tìm cách nghiên cứu rồi sử dụng bom hóa học để sẽ giết tràn lan thật nhiều người. Mà một trong những giả thuyết về nguyên nhân xuất hiện đại dịch cúm Tàu năm 2020 này, là có thể tới từ sự sơ sẩy của một trung tâm nghiên cứu, thí nghiệm vũ khí sinh học ngay tại Vũ Hán. Trong khi chờ đợi sự xác chứng về âm mưu giết người, diệt nhân loại bằng vũ khí sinh học của Tàu họa, thì chính chúng ta phải xác định rõ thái độ, hành vi của chúng ta trước các hiểm họa quái ác này, cụ thể là phải bảo vệ cho bằng được hòa bình khi những kẻ ác luôn dùng chiến tranh để thí nghiệm các vũ khí giết người cùng vĩ mô của chúng.
Hãy tận dụng liên minh chặt chẽ của luân lý-đạo lý-đạo đức đã làm nên giá trị nhân từ trong hằng số nhân bản là : sự sống mang một giá trị của vô giá ! Chính vì thế mà tất cả chính giáo, chính đạo đều cấm giết người, cấm diệt nhân.
Tất cả chính giáo, chính đạo đều cấm giết người, cấm diệt nhân. Ảnh minh họa Lực lượng Cảnh sát cơ động được đưa đến xã Đồng Tâm để trấn áp và xử tử cụ Lê Đình Kình sáng ngày 09/01/2020 ngay tại nhà.
Cái ác : tà lộ trong điếm kiếp
Cái ác lén lút để lẩn khuất trong tà lộ với ma lực và quỷ quyền, ma lực hành tác trong bóng tối, quỷ quyền hành động sau lưng người ngay, kẻ thẳng, lúc thì như chó cắn trộm, lúc thì đâm người sau lưng, kể cả khi nó xử tử hình các nạn nhân liêm chính của nó, ngay lúc hành quyết nó cúi đầu, nó chột mắt, khom lưng để nhắm bắn, chớ không dám thản nhiên nhìn thẳng để tranh luận với nạn nhân liêm chính bị nó (lén) giết. Nên cái bạo của cái ác chính là cái hèn của cái độc, nó cúi đầu, khom lưng để luồn lách như âm binh chuyên nghề đâm lén, chém sau lưng, nên đừng mong nó quang minh chính đại mà trực diện với :
Khi quan sát được chân dung, diện mạo của cái ác, thì đừng quên đường ma nẻo tà của cái ác là nó thường mất ăn mất ngủ trước hai hệ luôn đe dọa tuổi thọ của nó, đó là hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) luôn chung lưng đấu cật với hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để đứng về phía ánh sáng của lẽ sống. Hãy tìm hiểu đường đi nẻo về của cái ác qua tà lộ của quỷ quyền độc đảng toàn trị, nơi mà cái ác ngự trị trong độc tôn bất chấp luân lý lẫn luật pháp.
Cái bạo của cái ác chính là cái hèn của cái độc, nó cúi đầu, khom lưng để luồn lách như âm binh chuyên nghề đâm lén, chém sau lưng...
Cái ác : từ hiện loạn tới hậu nạn
Kẻ ác hành tác trong toan tính một chiều, nó là đứa trống vắng ý thức về các hậu quả làm ra bao hậu nạn mà kẻ ác là thủ phạm trực tiếp, gián tiếp ; nên khi chúng ta nghiên cứu về cái ác, thì không nên ngừng ở động thái ác mà phải đi sâu, đi xa hơn nữa để cân, đo, đong, đếm các hậu quả bây giờ sẽ thành chướng nghiệp với các hậu nạn mà các nạn nhân của cái ác phải nhận lãnh, đừng trông chờ kẻ ác lường hết mọi hiện loạn sẽ làm nên bao hậu nạn từ những hành động ác của nó :
h Diệt cái khôn của tri thức, thường được đại diện bởi trí thức, mà trong cả quá trình cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam chưa lần nào Đảng cộng sản Việt Nam dám trực diện để trực luận với trí thức, không dám đối thoại vì tránh đối luận bằng luận thức. Ngược lại cái ác lận cái độc trong cái hèn để làm chuyện ngậm máu phun người, rồi trở tay mà dở trò thủ tiêu những trí thức bị chụp mũ là Nhóm xét lại ; thanh trừng văn nghệ sĩ trong Nhân văn giai phẩm.
h Tạo cái ngu, qua ngu dân bằng tuyên truyền của tuyên huấn, cái ác luồn cái thâm trong cái tồi để tạo tà lộ của điếm nghiệp : học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả được khai thác, được tận dụng để mua gian bán lận trong việc thật-chỗ thật-chức thật-quyền thật.
h Dựng cái đểu, tại đây cái ác vận dụng cái giả để truy sát cái thật, nên những kẻ được nó bổ nhiệm vào quy trình việc thật-chỗ thật-chức thật-quyền thật là nhân viên thật với chứng chỉ giả, là cán bộ thật với bằng cấp giả, là lãnh đạo thật với chuyên môn giả, để đánh lận con đen trong toàn xã hội với luật rừng không những của cha chung không ai khóc, mà còn với luật đểu của bây chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi.
h Tráo cái kiếp, ý đồ ác song lứa cùng mưu độc sau khi nó diệt hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), giết hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để thế vào đó là tham tính làm nên thâm tính của chính sách xuất khẩu lao động, biến trai thành lao nô, gái thành nô tỳ cho các quốc gia láng giềng để chúng yên tâm mà tiếp tục vơ vét qua ngoại tệ của kiều bào
h Thông cái độc là lấy cái ác này để đồng lõa với cái ác kia, cái ác nọ để thông đồng với cái ác khác. Sau khi đã vơ vét tiền bạc của đồng bào, đã nạo vét tài nguyên của đất nước, thì mở cửa cho Tàu tặc cướp đất, biển, đảo ; cho Tàu họa gây nhiễm ô từ bô-xít Tây Nguyên tới luyện thép kiểu diệt môi trường của Formosa tại Hà Tĩnh.
h Tạo cái họa, bằng Tàu hoạ với thực phẩm bẩn, hóa chất độc, trên không khí thì khói của nhiệt điện than, dưới đất lòng nước thì nhiễm ô đã lần mò tới nội tạng của từng người dân, ở giữa là những làng ung thư cùng các thành phố được xếp loại ô nhiễm nhất thế giới.
h Chế cái nạn, của Tàu tà của buôn ma túy, buôn nội tạng, buôn người tới Tàu phỉ của trộm, cắp, cướp, giật ngay trên quê hương Việt mà luật pháp Việt không được quyền xét xử mà phải dẫn độ, tức là phải trả về lại đất Tàu nạn ; quê hương của đại dịch Vũ Hán, nơi mà cúm Tàu man thảnh thơi vào đất Việt mà chính quyền ác nhưng lại hèn với giặc không dám đóng các cửa khẩu biên giới để ác với dân trong vô cảm trước bao sinh mạng con dân Việt.
Diệt cái khôn của tri thức, chưa lần nào Đảng cộng sản Việt Nam dám trực diện để trực luận với trí thức... Ảnh minh họa Thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh bị tuyên y án 11 năm tù trong phiên phúc thẩm 20/04/2020
Cái ác : gần cái chết, xa sự sống
Khi cái ác xuất hiện, nó thường là hiện thân cho cái chết, nó hăm dọa là sẽ giết hại các nạn nhân của nó nếu các nạn nhân này không tuân phục ý đồ của nó ; nó răn đe là sẽ tiêu diệt những cá nhân, những tập thể, những cộng đồng nào không tuân thủ các toan tính của nó ; nó quát nạt là sẽ truy sát những chủ thể, những phong trào, những nhân tố nào không phục tùng các âm mưu của nó. Từ hăm dọa, răn đe, quát nạt tới bắt bớ, tù đày, tra tấn chỉ là một bước ngắn đối với cái ác ; từ nhục hình, khổ hình, cực hình tới giết chóc, ám sát, tử hình, thủ tiêu chỉ là một bước gọn đối với nó. Cái ác sử dụng, vận dụng, tận dụng cái chết để gây sợ hãi, gieo kinh hoàng, tạo khiếp đảm giữa sự sống, bằng cách cái ác tự vỗ ngực xưng danh, tự đại diện cho cái chết để đe nẹt sự sống. Gần cái chết, xa sự sống, cái ác ăn ngủ không yên trong thời hiện đại của truyền thông trực tiếp, nơi mà toàn cầu hóa thông tin là hùng lực của sự thật, sung lực của chân lý, mãnh lực của lẽ phải, khi :
h Tin tức về cái ác chính là dữ kiện về sự xuất hiện của cái ác.
h Dữ kiện về cái ác chính là chứng từ về sự hiện diện cái ác.
h Chứng từ về cái ác sẽ cho xuất hiện chứng tích, chứng nhân của cái ác.
Khi cái ác sử dụng, vận dụng, tận dụng cái chết để khống chế nhân tính, để khuất phục nhân lý, để thuần hóa nhân bản, thì chính nó rất luôn mang mặc cảm về bản chất xấu, tồi, tục, dở luôn song cặp cùng nội chất thâm, độc, ác, hiểm của nó, vì cái ác hoàn toàn không có :
h Nhân tri làm nên cộng hòa trong tự do, công bằng, bác ái.
h Nhân trí làm ra nhân quyền trong dân chủ, đa nguyên, đa đảng.
Cụ thể là không một lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nào đã suy nghĩ để viết lách, thảo luận để định luận về tam quyền phân lập đã có từ ba thế kỷ nay, họ mù tịt về nhân tri và nhân trí trong các tác phẩm của các tác giả đại diện cho văn minh cộng hòa, văn hiến dân chủ : Diderot, Montesquieu, Rousseau, Voltaire, là thượng nguồn của mọi thực thể tiến bộ của tất cả các quốc gia phát triển hiện nay. Không lý trí cộng hòa, trống trí tuệ dân chủ, vắng tuệ giác nhân quyền, nên những nơi nào cái ác xuất thì cái chết lần mò đến, nơi mà thể lực, tâm lực, trí lực của con người bị đục khoét, nạo vét, tới tàn hơi để cái chết chỉ cần bước tới vác đi thân thể giờ đây đã thành thi thể. Đó là các đồn công an, nơi mà thú tính công an trị giết người diệt nhân với bảng thống kê loại cao nhất của thế giới mà tư pháp đã thành tà quyền không dám rờ tới, vì nó đã bị xiết cổ tắt hơi bởi bạo quyền độc đảng từ lâu. Chính bạo quyền lãnh đạo toàn trị trong độc đảng đã giết người trong các trại học tập sau 1975 với chính sách cải tạo bằng hận thù của bên thắng cuộc, thắng nhờ ác. Nhưng hoàn toàn thất bại trên tất cả các lĩnh vực khác, từ văn hóa tới giáo dục, từ nghệ thuật tới văn học, tự kinh tế tới khoa học, từ nhân bản tới nhân văn…
Khi đã đại diện cho cái chết, cái giết, cái diệt, với mặc cảm tự ti không lý trí cộng hòa, trống trí tuệ dân chủ, vắng tuệ giác nhân quyền ; lại song hành cùng mặc cảm tội lỗi từ đồn công an tới trại học tập, nên cái ác cũng mất ăn mất ngủ mà bế môn tỏa cảng không mở cửa cho Liên Hiệp Quốc khảo sát, điều tra về điều kiện lao tù hiện nay của các tù nhân lương tâm. Chính cái ác không dám mở bất cứ trại tù nào đang giam cầm trong nhục hình những đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì dân chủ, đa nguyên, nhân quyền bằng bất bạo động. Tình khoan dung, tính rộng lượng, lòng vị tha của bất bạo động -phản diện của cái ác- đã tạo nên một mặc cảm khác ngay trong tâm địa của kẻ ác : mặc cảm bất nhân, đây là loại mặc cảm đã được giáo lý Việt tộc đặt tên, nêu tánh trong mặc định của : trời không dung, đất không tha, mà tội lỗi làm nên tội đồ lập chân dung của tội phạm, vẻ diện mạo của tội nhân để xếp loại là loài : trời tru đất diệt !
Cái ác : mượn người để giết người
Phải tập hợp cả ba loại mặc cảm : mặc cảm tự ti, mặc cảm tội lỗi, mặc cảm bất nhân để đi sâu vào tâm bệnh của cái ác, nơi mà tâm thần học giải thích được phản xạ giết người diệt nhân luôn bị mất thăng bằng trên dàn phóng của cái chết. Giết người diệt nhân chính là giết người diệt thức, trong Việt sử kẻ ác giết không những chỉ Nguyễn Trải, mà kẻ ác còn thi hành tru di tam tộc, giết từ gốc rễ lên tới tận ngọn cành. Truy diệt hệ nhân (nhân từ, nhân tâm, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân quyền) để ám sát hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri), rồi tận diệt hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức), phải truy cùng diệt tận cả ba hệ này, cái ác mới tồn tài, kẻ ác mới tiếp tục ác thêm.
Vì cái ác có tâm địa của sự ganh tị, có gốc rễ cội nguồn tới từ ba loại mặc cảm : mặc cảm tự ti, mặc cảm tội lỗi, mặc cảm bất nhân. Trong sinh hoạt văn nghệ độc đảng để độc ác, Tố Hữu mang đầy đủ ba loại mặc cảm này, để truy cùng diệt tận không những Nhân văn - Giai phẩm, mà luôn cả sự nghiệp sáng tác của Trần Dần, Hoàng Cầm, khi mang cùng lúc ba loại mặc cảm này như mang cùng lúc ba loại ung thư, thì sự ganh ghét đã lậm sâu trong nội tạng của ông ta. Về mặt phân tâm học, thì ba mặc cảm này sẽ làm tăng các động cơ làm nên thù, hận, oán, hờn của kẻ ác, rồi đưa đẩy kẻ ác vào chuyện nhúng chàm để sát nhân, vì vậy người tốt, kẻ lành phải vô cùng thận trọng trước lòng ganh ghét, trước tâm địa tị hiềm.
Khi chung quanh ta, có những có kẻ ác với hận thù của ganh tị trong điếm lý, nhưng luôn tìm cách giấu biệt ba loại mặc cảm này, để rồi sau đó nó muốn mượn tay người để giết người. Sau 1975 cho tới khi qua thế kỷ XXI này, vẫn có kẻ chung quanh ta xúi dục ta, giật dây ta, đưa đẩy ta vào chuyện sát nhân, lúc thì mang Phạm Duy ra xử rồi bắn, khi thì mang Trịnh Công Sơn ra tòa án rồi hành sát. Chúng ta phải nhận ra để tránh xa loại người này, loại mượn tay người để giết người. Chúng còn tồi tệ hơn đám ngậm máu phun người, chúng còn thô bỉ hơn đám gắp lửa bỏ tay người, chúng là bọn bắt người lương thiện cầm dao, cầm súng rồi chúng ép họ đâm người thế chúng, bắn người thay chúng, chúng là đám sát nhân bằng điếm não.
Khi Kant phân tích về cái ác dám giết người, thì triết gia này này giải thích rằng : kẻ ác khi thành kẻ sát nhân thì trước đó là nó xem tha nhân như đối phương, rồi đối thủ và sau cùng là kẻ thù không đội trời chung với nó : tử thù ! mà nó phải tận diệt, mặc dù nạn nhân của nó không hề xem kẻ ác sát nhân là đối phương, đối thủ, tử thù. Kẻ ác giết người luôn bằng lý luận đơn phương của nó. Có loại ác thứ hai là kẻ ác giết người đơn phương trong đơn luận để đơn quyết khi nó xem tha nhân là : vô dụng, vô ích cho ý đồ của cái ác, giết đi để khỏi phải kham, khỏi phải gánh, khỏi phải lo, đây là quyết định sát nhân tùy tiện, bất chấp sinh mạng của tha nhân.
Goldelier, nhà nhân học khi nghiên cứu vẻ cái ác trong các sắc dân sống bạo động như "cơm bữa", thì yêu cầu ta chú ý mà không quên loại ác thứ ba có thượng nguồn là hận thù, có hành sát để sát nhân, rồi có luôn hành động ăn gan uống mật của nạn nhân họ bị giết vì bị xem là tử thù. Ông giải thích là ăn tươi nuốt sống kẻ thù để kẻ thù không đầu thai được vào con cái của họ, để thế hệ sau không biết đường mà trả thù ! Nếu đây là lý lẽ (rất dị đoan của mê tín) có trong các bộ lạc xa xưa ăn thịt người để sống, nhưng nếu nó còn tồn tại trong thời đại hiện nay thì hành động man rợ này phải được xét xử để xếp loại nó vào loài lòng lang dạ thú để pháp luật phải xử nó tới nơi tới chốn.
Sau 1975 cho tới khi qua thế kỷ XXI này, vẫn có kẻ chung quanh ta xúi dục ta, giật dây ta, đưa đẩy ta vào chuyện sát nhân. Ảnh minh họa Nguyễn Tư Sang bị xử tử sau ngày 30/4/1975 về tội chống đối tại Phường Yên Đổ Sài Gòn.
Cái ác : mượn đấu tố để giết người
Arendt đặt cái ác biết giết người vào tội ác tuyệt đối, nó không đứng cạnh sự sống, nó đứng đối diện để nghịch hướng với sự sống, nó chọn chỗ đứng tuyệt đối kề cận cái chết để diệt sự sống, không chỉ một người, một nhóm. Mà bằng một chính sách với chương trình mạch lạc, với nhận thứ rõ ràng, đó là cuộc thảm sát có tính toán của Đức quốc xã khi nó đưa vào lò thiêu hằng trăm ngàn người Do Thái bằng một quyết sách diệt chủng. Bà dùng triết học để làm sáng lên vai trò của luật học, bà giải thích nếu con người dùng cái ác để diệt người, thì không thể trao toàn quyền cho con người để thoát ra khỏi cái ác. Từ đây, bà đề nghị hành vi hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý làm nên luân lý của bổn phận bảo vệ tha nhân, làm ra trách nhiệm bảo vệ đồng loại, phải được bảo trì và bảo hành bằng luật pháp. Chính công lý trong công bằng sẽ giúp đạo lý và luân lý bảo vệ được sự sống, được mạng sống của tha nhân, của chúng ta.
Nên quá trình mà kẻ ác thực hiện cái ác qua đấu tố trong Cải cách ruộng đất 1954-1960, không phải là quá trình của tòa án có công tâm để làm nên công lý, là chỗ dựa cho công pháp để pháp luật thực thi công bằng từ phán quyết tới phán xử. Mà đấu tố là sự thay trắng đổi đen của kẻ ác, bất chấp đạo lý tổ tiên trong tình làng nghĩa xóm, bất chấp luôn luật pháp là nói có sách mách có chứng, cái ác thủ tiêu từ chứng từ tới chứng nhân, để diệt sự thật lẫn lẽ phải, để cả hai không thể phản biện trước hành tác tìm cớ để giết người của quá trình đấu tố. Nếu đặt tên đấu tố là tòa án nhân dân, thì kẻ ác đang mặc áo cà sa cho quỷ dữ.
Nơi nào có đấu tố trong cùng một làng, một tộc, một họ, một gia đình mà con tố cha, em tố anh, cháu tố ông… thì chỗ đó cái ác đã xuất hiện, nơi đây kẻ ác vừa là đao phủ thủ, vừa là quan tòa, vì nó tự phong cho mình chức năng đôi là vừa là thẩm phán, vừa là luật sư, trên tay phải của nó đang cầm cán cân công lý đã bị nó bẻ cong, rồi tay trái của nó đã cầm dao với lời lẽ lăm le là nó sẽ giết người không gớm tay để đào tận gốc, trốc tận rễ.
Nơi nào có những đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền vì một xã hội tiến bộ lại bị chính quyền vu khống là chống đối chính quyền với các bản án nặng nhiều năm tù, nơi đó cái ác đã xuất hiện. Nơi nào có những phòng trào xã hội đấu tranh để bảo vệ công bằng cho dân lành, dân đen, dân oan, lại bị chính quyền vu cáo là phá rối trật tự công cộng, nơi đó cái ác đã xuất hiện.
Nơi nào có những chủ thể Việt kiều thiết tha với vận nước hiện nay như chỉ mành treo chuông trước họa Tàu tặc, lại bị chính quyền chụp mũ là các lực lượng thù địch, nơi đó cái ác đã xuất hiện. Chưa hết : cái ác hiện nay biết dùng côn đồ, lưu manh, du đảng của xã hội đen để phá nhà cướp đất dân oan ; để hành hung các nhà đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền, nơi đó cái ác đã xuất hiện. Chưa hết cái ác biết chận đường, ngăn xe, bắt người kẻ thiện nguyện chỉ đi làm từ thiện là cứu đói trên miền cao, miền xa để đòi tiền mãi lộ, để cướp thực phẩm của các con dân đang đói gục trong khốn cùng, nơi đó cái ác đã có mặt.
Cái ác hiện nay biết dùng côn đồ, lưu manh, du đảng của xã hội đen để phá nhà cướp đất dân oan
Cái ác : có phản diện là niềm tin vào sự sống
Freud khi vận dụng phân tâm học để tìm lối thoát, lối ra mỗi khi chúng ta phải đối mặt chạm trán với cái ác trực tiếp hay gian tiếp đe dọa sự sống, hãm hại mạng sống của chúng ta ; thì câu trả lời có trong chân trời của niềm tin. Ông tin rằng niềm tin có trong mỗi chúng ta, đó chính là giá trị tinh thần và tâm linh cao quý nhất, tên của nó là : niềm tin vào sự sống. Bảo vệ bằng được sự sống, bằng cách đứng về phía sự sống, mà vạch mặt chỉ tên cái phản diện của nó là cái chết, đứa con chính tông của cái ác.
Niềm tin vào sự sống không hề là loại niềm tin đơn lẻ của cá nhân, đơn độc của một thành phần trong xã hội, đơn côi của người trí thức có kiến thức lý thuyết về cái ác. Mà niềm tin này vượt cá nhân, mạnh hơn cá thể vì nó hướng sự sống về phía quan hệ giữa và người, niềm tin này cô độc trong não bộ của người, nó ra ngoài bằng khả năng đấu tranh để sống còn, tìm mọi cách gạt bỏ sự đe dọa của cái chết. Cụ thể là đấu tranh để được sống chung và sống cùng với tha nhân, với đồng loại, nó có từ phản xạ cảm nhận của đứa trẻ thơ luôn tìm mẹ để được nuôi nấng, rồi để được bảo vệ trước mọi cái ác có thể ập tới khi nó chưa đủ lông, đủ cánh để tự bảo vệ.
Khi niềm tin này lớn khôn lên thì cha mẹ, gia đình, thân tộc, làng nước luôn là chỗ dựa, để mỗi cá thể tự nhận ra nơi chôn nhau cắt rốn ngày mình ra đời cũng là nơi mình muốn yên thân lá rụng về cội khi phải rời cuộc sống. Niềm tin về sự sống chính là Niềm tin về sự an sinh, nên những chính quyền liêm chính của các quốc gia tiên tiến có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền thì cái chết bị đẩy lùi, cái ác bị án khổ sai trong biệt tăm, biệt tích. Niềm tin vào sự sống còn biết đi xa, đi rộng, đi cao hơn nữa khi nó luôn cần sự có mặt của các hệ sau đây để bảo vệ, che chở nó, giúp nó vượt thoát cái chết, vượt thắng cái ác :
h Hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp).
h Hệ đa (đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng).
h Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri).
h Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo).
h Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái).
h Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
Khi con người được trang bị đầy đủ các hệ này, thì con người luôn tỉnh thức trước cái ác lúc nào cũng đe dọa con người bằng cái giết, cái diệt, cái chết. Khi được trang bị các hệ này con người có tâm lực, trí lực và thể lực để tái tạo sự sống, để tiếp tục bảo vệ sự sống. Khi chúng ta được trang bị bởi các hệ này để tỉnh táo trong quyết định và sáng suốt trong hành động với quyết tâm chống lại cái ác biết giết người, diệt nhân. Vì cái ác mang trong nó hai ý đồ xảo trá dưới dạng hai chính sách :
h Chính sách đạo đức giả, của xảo ngôn về sự hy sinh : hy sinh vì đất nước, hy sinh vì dân tộc, hy sinh vì giống nòi… nơi mà kẻ thiện phải chết thay cho kẻ ác trong chiến tranh, nơi trận mạc.
h Chính sách ngu dân, khi kẻ ác dùng với giọng lưỡi của điêu ngữ bằng tráo ngôn về bảo vệ quốc phòng : bảo vệ đất nước, bảo vệ dân tộc, bảo vệ giống nòi… nơi mà kẻ thiện thay kẻ ác để giết những người thiện khác tới từ xa.
Vận dụng đạo đức giả, tận dụng ngu dân là ý đồ của mọi ý đồ có trong bản chất của cái ác, đây là chiến thuật mà cùng là sách lược của kẻ ác muốn phổ biến cái ác bằng cách phổ quát cái chết để phổ thông hóa rồi bình thường hóa mọi hành tác ác của kẻ ác.
Cái ác giết người để diệt quan hệ
Pascal nhận ra là cái thiện không những đứng về phía sự sống để bảo vệ sự sống còn của nó, mà nó chọn sự sống để chống lại cái chết do cái ác làm ra ; vì chỉ có sự sống mới bảo vệ được các quan hệ mà con người thừa hưởng khi được sống cùng và sống chung với tha nhân, với đồng loại. Đó là quan hệ gia đình, quan hệ thân tộc, quan hệ xóm giềng, quan hệ bạn bè, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ xã hội… Từ đây, tư tưởng gia này giải thích chính sự sống và tất cả quan hệ có trong cuộc sống là nền tảng của mọi định nghĩa về hạnh phúc, mà cái thiện có thể mang tới cho con người. Nên cái thiện luôn đối nghịch với cái ác chính là cha sinh mẹ đẻ ra cái chết giết người để diệt không những mọi quan hệ, mà còn hủy diệt luôn cơ may mưu cầu hạnh phúc của con người muốn sống cùng và sống chung với tha nhân, với đồng loại.
Kẻ ác khi muốn hành tác ác để đưa cái ác vào cuộc sống thì nó thường có thói lấy hệ độc (độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) bằng độc đoán để diệt cả hai hệ đa : hệ thứ nhất : đa diện, đa dạng, đa cách, đa pháp ; hệ thứ nhì : đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng. Nên khi chúng ta đấu tranh chống kẻ ác luôn độc hại trong độc đạo do nó chế ra, thì chúng ta đừng quên vận dụng hai hệ đa này, đây là sự phong phú của số nhiều làm nên nhiều thông minh, nhiều sáng tạo. Số nhiều của đa nguyên trong muôn hình vạn trạng của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) biết mở ra nhiều chân trời, không những bảo đảm được đa sinh, đa sản của sức sống, cùng lúc lật măt nạ cái ác, để vạch mặt chỉ tên kẻ ác, để minh chứng rằng nhân sinh có nhiều đường đi nẻo về, chớ không phải chỉ có độc đạo trong độc trị, độc tài trong độc quyền, độc tôn trong độc đảng.
Vạch trần liên minh nội kết của cái ác : tổ chức ác-cơ chế ác-chế độ ác-hiến pháp ác-điều lệ ác-chính sách ác
Triết học đạo đức từ Levinas tới Ricoeur, lý giải cái ác bằng triết luận để phân tích cái thiện phải luôn trực diện với cái ác bằng nhân tính làm nên thành lũy của nhân lý bằng chất liệu của cái thiện ; nên cái thiện luôn có ý thức cao cùng nhận thức rộng để nhìn ra ý đồ của kẻ ác là luôn toan tính đánh đổ để thiêu hủy thành lũy của cái thiện. Từ đây tâm địa của kẻ ác mang động cơ tận dụng cái ác để diệt ý chí của cái tốt, giết ý lực của cái đẹp, hủy ý muốn của cái lành, nên trong thâm ý của kẻ ác là khi nó thủ tiêu được cái thiện, thì kẻ này tự thỏa mãn là nó không những đã truy diệt được cái thiện, mà nó còn truy sát luôn cái tốt, cái đẹp, cái lành làm nên nhân sinh quan của nhân tâm, tạo ra thế giới quan của nhân từ, sinh ra vũ trụ quan cho nhân tri.
Câu cuối lời kết của bài này có nên giành cho chính kẻ ác đang ngày ngày tạo ra cái ác ? Câu cuối lời kết phải là câu trả lời cho câu hỏi cái ác từ đâu tới ? Cái ác nội chất tật nguyền từ tâm linh tới não trạng khi cái ác đơn phương lo cho hạnh phúc ích kỷ tuyệt đối của riêng nó. Cái ác khẳng định là nó không sống bằng sự ân cần với tha nhân, mà thậm chí nó còn tìm lối tắt đường mòn bằng cái ác để loại, để hủy, để diệt tha nhân, đồng loại.
Từ đây, chúng ta không ngừng ở các phạm trù đạo đức xã hội để đánh giá đạo lý của cá nhân ác, mà chúng ta phải đi sâu vào nghiên cứu các định chế từ ý thức hệ tới chính trị, từ kinh tế tới xã hội, từ văn hóa tới giáo dục để nhận diện cái ác không chỉ được tạo ra, lập nên từ một hay vài kẻ ác. Mà cái ác được sinh sôi nảy nở trong một tổ chức ác biết giết người cướp của, tới cơ chế ác biết dính máu ăn phần, nơi mà chế độ ác được biển lận trong hiến pháp ác với điều lệ ác. Tại đây, đất là sở hữu của toàn dân (chớ không phải là sở hữu của người dân) do nhà nước quản lý (để chính quyền độc đảng tha hồ quy hoạch mà trộm, cắp, cướp, giật) bằng chính sách ác.
Chính liên minh nội kết tổ chức ác-cơ chế ác-chế độ ác-hiến pháp ác-điều lệ ác- chính sách ác được nuôi dưỡng không những bằng bạo quyền công an trị, mà còn bằng tà quyền tham nhũng trị, sinh đôi với ma quyền tham tiền trị, cả ba đang trùm phủ lên cả nhân kiếp của Việt tộc bằng mùng mền của cái ác, nơi mà con dân Việt đang sống trong một xã hội dễ dàng sa vào cái ác, rồi rơi sâu vào tội ác !
Lê Hữu Khóa
(27/06/2020)
(1) Vùng Khả luận (trang thầy Khóa) Facebook, nhà xuất bản Les Indes Savantes, nhà ấn bản Anthropol-Asie.
(2) Lê Hữu Khóa, Anthropologie du Vietnam, Tome I, II,III, IV, V, Editions Les Indes Savantes. Paris.
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.