Ngôn ngữ học tri thức & dân tộc học nhận thức
Ngữ luận 7 : Ta & Tà
Ta
Ta là một từ được định vị như số nhiều trong ngôn ngữ, hơn thế nữa nó là số nhiều của số nhiều, hiếm có từ nào được đại diện cho số nhiều như nó, xa hơn nó được dùng để xác nhận một tổng thể để nhận ra một tập thể, một cộng đồng. Ta, là từ có vị thế trung tâm trong tiếng Việt, nó xác chứng một tổng lực để nhận ra dân tộc, một hợp thể để nhìn ra giống nòi, nó có tầm vóc thiêng liêng riêng của nó. Chỉ một từ ta mà có nội công, bản lĩnh, tầm vóc của tổng thể, của hợp thể, của tổng lực, chữ ta sống hằng ngày trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội bằng sức mạnh của hai từ : chúng ta. Chuyện hay là từ ta rất dễ dùng, nó thân thiện, nó gần gũi, rồi biến thành phản xạ thân thương để khi chúng ta nói, khi chúng ta nghe được từ ta : thì chúng ta cảm thấy yên tâm.
Ta là từ mang sự chủ động của ngôn ngữ giúp chủ thể có được chủ từ là ta để nhận ra từ bản sắc tới văn hóa của mình, chỉ trong một tiếng dân ta, thì chúng ta thấy được nhân dạng của dân tộc, có lãnh thổ, có lịch sử, có truyền thống, có tổ tiên… Cái ta trong cái chung-biết-chia. Ta cũng là từ mang sự sống động của các cá thể không cô đơn trong nhân sinh, không cô độc giữa nhân thế. Khi một cá nhân dùng từ ta thì cá nhân đó không còn cô lẻ nữa ! Trong chữ ta có một địa lý chung, trên đó có một cộng đồng biết sống chung, nơi mà đất và người được sinh hoạt gần kề, có quan hệ gần gũi, với truyền thống thân thiện. Nên khi làng ta giúp ta nhận ra người làng ta, thì mọi sự lạ lẫm, mọi sự xa cách sẽ biến mất đi, nên dù không biết nhau, chưa hề gặp nhau, nhưng khi gặp nhau ở một châu lục xa xăm, một đất nước xa lạ, mà hai cá nhân cùng làng (ta), thì chắc chắn chuyện "trước lạ sau quen" sẽ là hiển nhiên.
Ta có mặt trong ngôn ngữ, trong truyền thông ngay giữa bối cảnh lưu vong của những đứa con xa xứ, mà thăng trầm đã tách cuộc đời của mỗi người khỏi quê hương, nhưng từ ta có mặt để giữ cho bằng được hai chữ : quê ta. Chữ ta hiện diện luôn trong văn chương, trong thi ca, trong ca khúc… nội lực của từ ta từ lâu đã thành hùng lực của ca dao, dân ca, châm ngôn, ngạn ngữ… Chữ ta xuất hiện như một không gian vừa chung cho những ai có cùng quê hương, xứ sở ; lại vừa của riêng của các thành viên có chung một cộng đồng, biết hưởng hương vị của món ta, chắc chắn không phải là món Tây ; biết trị bịnh bằng thuốc ta, chắc bẩm không phải là thuốc Tây.
Ta là từ còn tạo nên lực giao cảm ngay trong tiếng nói của một thể loại trong ngôn ngữ học có một địa lý chung-chia của một cộng đồng, của một dân tộc ; mà cũng là một địa danh chung-riêng giữa các cá nhân có chung một bản sắc, nhưng cũng biết có riêng cho mình những đặc sắc làm nên văn hóa đặc thù, chế tác ra đặc điểm làm nên một văn hiến đặc trưng. Nếu trong một ngôn ngữ chỉ qua một chữ ta mà biết cõng, bồng, bế, ẵm được chiều sâu tâm linh của một dân tộc, chiều dài văn hiến của một giống nòi, thì ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư tưởng, chỉ làm dụng cụ để tư tưởng chuyển tải ý muốn, ý định của tư tưởng.
Mà ngôn ngữ chính là tư tưởng, lời nói và chữ viết chính là tư tưởng của tư tưởng, vì không có ngôn ngữ định hình cho từ lý luận tới lập luận, từ giải luận tới diễn luận, thì làm sao có tư tưởng được ! Hãy cùng nhau nhận ra vai trò cao, chức năng sâu, vị thế rộng của ngôn ngữ, từ lời nói tới chữ viết là một hợp thể, một tổng thể có tổng lực từ kiến thức tới tri thức, từ ý thức tới nhận thức, từ trí thức tới tỉnh thức.
Ta là từ mang sự chủ động của ngôn ngữ giúp chủ thể có được chủ từ là ta để nhận ra từ bản sắc tới văn hóa của mình
Nhưng từ khi chế độ độc đảng toàn trị do Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc bằng công an trị song lứa để chung chạ cùng tuyên truyền trị, từ đó sinh ra hai quái thai là : ngu dân trị và mỵ dân trị, thì từ ta không những bị vo tròn bóp méo, mà còn bị tha hóa rồi biến chất. Giờ đây từ ta phải đi chung với những từ khác nghịch với nó về ngữ nghĩa, chống lại nó về ngữ văn, kình lại nó về ngữ pháp. Ngôn ngữ học khi hợp lực cùng triết học đạo đức để trợ lực cho khoa học tuyền thông thì các chuyên gia nhận ra là đánh trao khái niệm chính là "đánh lận con đen" không những trong ngôn ngữ, trong truyền thông mà còn là chuyện cờ gian bạc lận ngay trong đạo lý tổ tiên, ngay trong luân lý dân tộc, thí dụ thì không thiếu :
- Đảng ta, là một cấu trúc của tà ngữ trong gian lộ, nếu ta là chung của mọi người, không là sở hữu của riêng ai, thì ngược lại đảng là bè, là lũ, là nhóm, là phái, là đám, là một nhúm người hay một loại người có ý định riêng, có ý muốn riêng, có ý đồ riêng, thì làm sao mà trà trộn rồi pha loảng vào cái chung của ta được ! Chỉ có tà tâm trong điếm tính mới làm chuyện "đổ đồng" này.
- Chính phủ ta, là một cấu trúc của ma ngôn trong tà ngữ, nếu muốn được là chính phủ ta thì phải do dân chọn, dân cử, dân bầu ra, chớ chính phủ và chính quyền hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, không do dân ta chọn ra, cử ra, bầu ra thì chính phủ và chính quyền loại này chỉ là ma quyền trong biệt phủ, nó không hề là chính, vì nó không có chính danh làm nên chính nghĩa của nó ! Nó chỉ có ma quyền trong xảo ngữ nên nó mới làm chuyện "lộn sòng" này.
- Quốc hội ta, là một cấu trúc của trá ngôn trong xảo ngữ, nó không do dân ta chọn, dân ta cử, dân ta bầu ra, nó không thực sự đấu tranh cho dân ta, vì dân ta, mà nó là kết quả của tà trị "Đảng cử dân bầu" với đại đa số đại biểu là đảng viên. Nếu Quốc hội hiện nay là công cụ của Đảng cộng sản Việt Nam kiểu Tú Bà kiểu "Đưa người cửa trước, rước người cửa sau" để Đảng cộng sản Việt Nam ngồi xổm lên Hiến pháp kiểu "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", thì nó chỉ là xảo quyền trong trá ngôn. Nên mạt kiếp của nó chỉ là cúi đầu để bấm nút các lệnh của Đảng.
Chữ ta không dễ "biển lận", vì nó biết lợm giọng trước hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị), vì là nọc độc rất độc hại cho nội hàm của tự ta của cùng nhau, vì nhau, cho nhau, chung để chia, chia để được chung. Từ ta không dễ bị "giật dây", vì nó luôn buồn nôn trước đặc quyền để đặc lợi, trước đặc ân để đặc tham qua hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của bọn âm binh không tình nghĩa đồng bào, chúng cướp của công làm của riêng.
Nên chữ ta rất dị ứng "đảng ta", "chính phủ ta", "quốc hội ta", vì mỗi khi dân ta lên tiếng chống bất công, gào thét trước tham nhũng ; cụ thể là chống từ hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tới hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền), thì bị "đảng ta", "chính phủ ta", "quốc hội ta" buộc tội dân ta là : "lực lượng thù địch".
Lạ thật dân ta là dân mình sao có thể là "thù địch" ! Ngôn ngữ học là một chuyên ngành thông minh có sung lực của nhiều chuyên ngành khác trong khoa học xã hội và nhân văn, nên nó phân biệt rành mạch là phe ta ngược lại với phe địch, nên phía ta không bao giờ cùng một chiến tuyến với phía địch. Như vậy về nội hàm của ngữ nghĩa ta và địch là hai lãnh thổ riêng biệt, hai không gian tách biệt, "hai phương trời ly biệt", mà ác tâm thâm ý để làm chuyện trộn lẫn ta và địch thì luôn mang tới hậu quả của táng tận lương tâm.
Muốn thấy-để-thấu cái thâm, độc, ác, hiểm trong xảo ngôn là cha sinh mẹ đẻ của cái xấu, tồi, tục, dở trong gian ngữ, mà cả hai đều là loài ký sinh trùng ẩn nấp như âm binh để đánh lận con đen trong truyền thông ; thì ta phải hiểu cho đầy đủ về hệ quyền, nơi mà độc quyền sinh ra lộng quyền, lạm quyền vì tham quyền, rồi bạo quyền để tà quyền, và cuối cùng là cực quyền đẻ ra cuồng quyền.
Sự thành thật trong lời nói làm nên sự chân thành trong phát biểu, cả hai rất xa lạ với cái thâm, độc, ác, hiểm trong xảo ngữ, rất lạ lẫm với cái xấu, tồi, tục, dở trong gian ngữ. Tổ tiên Việt dặn dò con cháu Việt nếu chính tâm làm nên chính ngữ thì nó sẽ biết chế tác ái ngữ trong thuận ngôn, làm nên cái thanh dù nó bị cái tục trù ếm, bao vây. Nhưng thanh vẫn là thanh, vì thanh có cái thông minh tế nhị của nó luôn biết dựa vào tính chủ động trong tinh tế : đố tục giảng thanh. Liêm minh của chính-ái-thanh làm nên thuận ngữ biết dựa trên thuận ý để thuận lòng mà song hành cùng thuận lý : "Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây", để ta với mình tuy hai mà là một, chỉ là một để chống lại hệ độc không biết chung-chia, chống lại luôn hệ tham biến của công thành của riêng.
Lạ thật dân ta là dân mình sao có thể là "thù địch" !
Tà
Tà đi từ động từ tà nơi mà ý muốn được toan tính như ý đồ của hệ bất (bất lương, bất chính, bất trung, bất tín) để sẵn sàng bất nhân để tới dạng của một trạng từ nơi mà kẻ tà là kẻ vận dụng những hành tác thâm, độc, ác, hiểm. Kẻ tà bất chấp các hậu quả xấu, tồi, tục, dở đến với tha nhân, sẵn sàng trùm phủ màu tối tà tội tệ lên số kiếp của đồng loại, và bọn cầm quyền khi dùng tà trị thì nó còn bất chấp luôn nhân kiếp của đồng bào chúng.
Nhận diện cái tà
Cái tà có thể được nhận diện bằng lộ trình của một phương pháp luận thực nghiệm của ngôn ngữ học nhận thức, được trợ lực bởi chính trị học luận chứng, tâm lý học xã hội, triết học đạo đức, xã hội học tri thức để thấy cho thấu hệ tà qua quá trình :
- Tà lộ của kẻ sử dụng hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) có cứu cánh và mục đích chỉ để phục vụ quyền lực và quyền lợi của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà. Rồi biến quyền lực thành độc quyền trong độc đảng của độc tài, độc trị, độc tôn trong toàn trị ; và quyền lợi thành tư lợi trong đặc lợi, đặc quyền, đặc ân, đặc sủng…
- Tà đạo của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà là con đường dẫn tới chân trời cụt, cụt như ngõ cụt, không tương lai cho giống nòi, vì không có thực chất phát triển đất nước, không có văn minh cho đồng bào. Một quá trình bần cùng hóa dân lành, tồi tệ hóa dân đen, nhục hình hóa dân oan, trong tà thuật tha hóa cả một dân tộc.
- Tà tâm với tâm địa của buôn gian bán lận, bằng tà ngữ của khẩu Phật tâm xà, với tà diện của Mã Giám Sinh (mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao), với tà ngôn của Sở Khanh (nói lời rồi lại nuốt lời như chơi), với tà dạng của Tú bà (đưa người cửa trước, rước người cửa sau), với tà tâm rước họa tới người, trùm nạn lên tha nhân, thậm chí còn thí mạng luôn cả thân bằng quyến thuộc.
- Tà lực, với tính toán luôn vụ lợi của loại mượn đầu heo nấu cháo, với toan tính vốn một lời mười, bằng tà tính của đi ngang về tắt bằng bối cảnh của đục nước béo cò, trong hoàn cảnh xấu của mượn gió bẻ măng. Với bản chất ký sinh trùng nên tà lực không có thực lực của tự chủ, tự tin, tự quyết, mà luôn ẩn nấp để ẩn náu loại chó cậy gần nhà, kiểu gà què ăn quẩn cối xay.
- Tà quyền, của loại đầu cơ chỉ biết mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền, thuộc loại đầu nậu bằng buôn thần bán thánh ngay nơi cửa Phật, rửa tiền bằng cách xây chùa rồi đưa bọn âm binh chính là các ma tăng mang tà chất của sư công an, sư quốc doanh. Tà quyền không những là bọn đầu cơ, là đám đầu nậu, mà chúng còn là phe đầu lãnh, tay nhúng chàm trong buôn dân bán nước, với não trạng ngập tà tính của loài phản dân hại nước.
- Tà cõi, là nơi chốn mà tà quyền luôn xảo ngôn điếm ngữ "lãnh đạo, cán bộ là đầy tớ của nhân dân" ; rồi lật lọng ngay của gian lời điêu nghĩa "ơn đảng, ơn Bác" ; trong tráo mừng lận xuân kiểu "mừng đảng, mừng xuân". Trong cõi này không có lời ngay lẽ đúng của sự thật, không có luôn chuyện lý ngay luận đúng của chân lý, nên biệt tích chuyện lời hay lẽ phải của lẽ phải làm nên chính ngôn, tạo nên chính ngữ, để tư cách làm nên phong cách mà bảo vệ nhân cách.
Chị bán hàng rong bị tịch thu hết rau củ chỉ vì đi bán rau trên phố vì cách ly ở Nhà k còn tiền
Vạch mặt kẻ tà
Có phương pháp luận để nhận ra đường đi nẻo về của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà trong chính quá trình cũng như quy trình của tà lộ, tà đạo, tà tâm, tà lực, tà quyền, tà cõi, vẫn chưa đủ, phải có khoa học luận để đối luận với hệ tà. Muốn đối luận thì phải lập đối kháng để đối chiếu bằng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận cho đối phương là tà, không bằng chỉ trích, chê bai, thóa mạ, cũng chẳng bằng hệ bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) chính là công cụ của tà quyền luôn có phản xạ đi về hướng bạo quyền, mà ngược lại bằng nhân tri bất bạo động qua các hệ sau :
- Hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp).
- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri).
- Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, tỉnh thức).
Để vạch mặt chỉ tên hệ tà, bằng chính lời khuyên của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch sông", cụ thể là vào thật sâu ngay trong sào huyệt của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà để thấy cho thấu cái tà bằng chính bản chất của nó qua :
- Hệ bất (bất nhân, bất tài, bất tin, bất trung, bất nhân).
- Hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền).
Tại đây, đào thật kỹ rồi xới thật xa mà không quên phải cân, đo, đong, đếm mọi toan tính của của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà trong hệ quyền (độc quyền, tham quyền, lộng quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền). Mà không quên phân tích rồi giải thích những hậu quả vĩ mô tồi tệ nhất ngay trong tâm lý mới của quần chúng, ngay trong tâm tính mới của xã hội với hệ vô (vô cảm, vô tri, vô giác, vô minh). Từ đó, đi từ giải chứng tới giải luận các hậu nạn vô cùng tàn tệ không sao lường hết được trên giáo lý của tổ tiên, trên đạo lý của giống nòi, trên đạo đức của dân tộc khi kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà đã lậm sâu vào bùn lầy nhơ nhớp của bất nhân thất đức do chính chúng tạo ra.
Nhận ra quá trình cũng như quy trình của tà lộ, tà đạo, tà tâm, tà lực, tà quyền, tà cõi của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà vẫn chưa xong, phải thấy luôn tà ý của chúng là hủy diệt cho bằng được hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) với thâm ý truy cùng diệt tận hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) của Việt tộc. Từ đó, ngăn sống cấm chợ con đường phát triển của đất nước Việt, từ đây bế môn tỏa cảng chân trời văn minh của dân tộc Việt ; để cái tà tiếp tục ngự trị trên cái ngay, cái thẳng ; để cái tà tiếp tục đè đầu cởi cổ mà cai trị cái khôn, cái sáng có trong sáng dạ sáng lòng làm nên phẩm chất của Việt tộc.
Kẻ tà : kẻ kế thừa không di chúc
Char, thi sĩ của triết luận và thi hào của nhân luận, gọi tên một loại người luôn gây ra thảm họa cho tha nhân, thảm nạn cho đồng loại là : kẻ kế thừa không di chúc, đó là số kiếp của của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà. Chúng không phải là kẻ kế thừa bình thường, vì không ai bầu cho chúng, vì chúng không phải là ứng cử viên đường đường chính chính, chúng không thắng cử trong quang minh chính đại, vì nó không hệ tôn trọng tuyển cử trong dân chủ. Hành tác của nó là cướp ! như "cướp chính quyền", là cướp giật chính quyền có chính danh để thế bằng một tà quyền. Nên nó không hề là kẻ thừa kế văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, vì nó không hề có vốn liếng được trao tặng từ giáo lý của tổ tiên, luân lý của giống nòi, đạo đức của dân tộc.
Kế thừa là một phạm trù của giáo lý biết lấy đạo lý hay, đẹp, tốt, lành mà tự giáo dục, để nhận ra luân lý có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với đồng loại mà làm giáo khoa ngay trong sinh hoạt cộng đồng, ngay trong quan hệ xã hội. Từ giáo lý có lời hay lẽ phải để giáo dục, có đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn làm nên giáo khoa, nên giáo trình của nhân tính là thương người như thể thương thân, được cụ thể hóa bằng giáo án một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Chính hệ giáo (giáo lý, giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án) chuyển hóa người thành nhân, bằng hệ nhân (nhân từ, nhân tâm, nhân tính, nhân bản, nhân văn, nhân nghĩa, nhân đạo) ; kẻ gian thì ngược lại không được giáo huấn từ ngày cha sinh mẹ đẻ ra nó, nên tà ý của nó là hủy diệt mọi di chúc trong hệ giáo của đồng bào, với tà tâm là thủ tiêu luôn hệ nhân của đồng loại.
Nhân dân không lầm khi xếp kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà vào loài sâu bọ giả người, ngay khi chúng là cán bộ, là lãnh đạo thì nhân dân nhận ra ngay là giòi bọ mặc áo quan, với tà chất sâu dân mọt nước của chúng. Khi nhìn chân dung rồi xem lại lý lịch của chúng, thì chân tướng của chúng lộ ra ngay trong tà đạng của chúng :
- Lừa thầy phản bạn, từ khi đi học đến khi trưởng thành, từ môi trường học đường tới quan hệ bạn bè, thì kẻ tà vận dụng động từ lừa để sử dụng động từ phản, để gian trong kiến thức, để dối trong tri thức. Vụ lợi để phản, rồi lừa người vì tư lợi, mà bất chấp mọi hậu quả trong quan hệ giáo lý đối với thầy, trong sinh hoạt xã hội đối với bạn. Trong quá trình mua chức bán quyền, thì kẻ tà không ngần ngại vu cáo rồi tố cáo thầy của nó, không chần chừ đổ tội để đấu tố nhanh bạn bè của nó.
- Đá cá lăn dưa là quá khứ của nó khi kẻ tà còn bần hàn, nghèo túng, nơi mà nó đã là đứa không những xài luật rừng của kẻ mạnh vì gian, mà nó còn ăn cháo đá bát của loài vong ân bội nghĩa. Trong loạn cảnh đầu đường xó chợ, thì kẻ tà đã có phản xạ trộm, cắp, cướp, giật, nên trong hoạn lộ bằng hối lộ để được làm quan thì nhân dân nhận ra ngay chân dung diện mạo của kẻ tà là cướp ngày là quan.
- Đầu trộm đuôi cướp, từ bé đến lớn quen thói trộm, cắp, cướp, giật, nên kẻ tà trống giáo lý, vắng nhân nghĩa, sống mà không được kế thừa bằng chính trải nghiệm của giáo luận là sống lâu mới biết lòng người có nhân, nên kẻ tà xem tha nhân phải là nạn nhân của nó trong gian tính nuôi ong tay áo, trong xảo tính nuôi cáo dòm nhà. Nơi mà phản xạ trộm, cắp, cướp, giật đã thành tâm tính làm ra tà tâm được đằng chân lên đằng đầu bằng tà lộ của mua một bán hai lời ba.
Kẻ tà luôn nghĩ làm mình khôn lanh hơn tha nhân, nhưng nó không biết là nó đã bị xếp loại bởi tổ tiên Việt trong loài khôn quá hóa dại, nó là đứa thuộc tạp loại lưỡi gian mép xảo. Kẻ tà rất khác với kẻ khôn nhà dại chợ giành cho người khờ, kẻ khạo, đây chỉ là một cái lỗi, khi được sửa đúng bằng giáo dục để đưa nó vào một quỹ đạo tốt, thì tha nhân sẵn sàng tha lỗi cho họ. Còn kẻ khôn nhà dại chợ khi là lãnh đạo trong quan hệ quốc tế với các quốc gia có văn minh của dân chủ có văn hiến của nhân quyền mà dám xảo môi điếm giọng tuyên bố là chế độ độc đảng toàn trị hiện nay : "không có tù nhân lương tâm". Cụ thể chế độ độc tài hiện nay phủ nhận là không có các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì đa nguyên, mà cả thế giới đều biết về tà trị của Đảng cộng sản Việt Nam là : hèn với giặc, ác với dân, thì đây không còn là lỗi mà là tội. Tội lỗi với tổ tiên vì đã là tội đồ của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam là hèn với giặc, ác với dân, thì đây không còn là lỗi mà là tội. Tội lỗi với tổ tiên vì đã là tội đồ của dân tộc.
Thấy cái tà, thấu cái gian
Sartre vừa là triết gia, vừa là văn sĩ, khi ông nhận lời mời tại UNESCO của Liên Hiệp Quốc để trình bày về chủ đề Trách nhiệm của người cầm bút, thì ông không rời quan niệm về tự do, nơi mà kẻ cầm bút đại diện cho bản lĩnh của nhân sinh để chống lại cái tà, cái gian, cái ác luôn có mặt trong nhân thế. Luận điểm của ông là người cầm bút phải suy nghĩ, phải viết để bảo vệ tự do cho đồng loại, cả cho nhân loại. Ông miệt mài giải thích rằng các tà quyền làm ra bạo quyền độc đảng, dựng lên ma quyền độc tài không sợ các giá trị đã vĩnh hằng trong nhân phẩm, nó chỉ sợ sự vận hành của tự do ! Tự do đứng lên, tự do đi tới, để trực diện với tà quyền mà đòi công bằng và bác ái, đó là đường đi nẻo về của cộng hòa. Ông chăm chú giải luận chính tự do không khuất phục tà quyền, chính sự tự tin không muốn bị thuần hóa trước bạo quyền, chính sự tự chủ không muốn bị nô dịch bởi ma quyền, trong nhận thức biết tự trọng đã thúc đẩy con người biết thẳng lưng để nhìn thẳng cái tà mà vạch mặt chỉ tên các lỗi, các tội mà nó đã, đang, sẽ gây ra cho nhân vị, nhân bản, nhân văn, nhân phẩm.
Như vậy, Sartre xem hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng) vừa là động cơ vừa là dàn phóng của ba hệ : hệ công (công bằng, công tâm, công lý, công pháp) ; hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, tỉnh thức). Cũng chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối cho hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để nhập nội vào hệ đa (đa trí, đa tài, đa dung, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên, đây chính là chân trời của văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền. Các hệ này là nguồn cơn làm cho kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà mất ăn mất ngủ, khi cái tà luôn vận dụng đạo đức giả của hệ bất (bất lương, bất tín, bất trung, bất tài) để lừa gạt người, luôn tận dụng tuyên truyền ngu dân bằng hệ gian (gian xảo, gian lận, gian trá, gian manh) để lừa dối người. Từ các định luận này, hãy nhận ra các chỉ báo để xem xét sự vận hành của kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà :
- Buôn gian bán lận, có nội chất mật nghị Thành Đô, 1990, nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam không chọn dân tộc Việt làm hậu phương, mà chọn tâm địa của Đảng cộng sản Trung Quốc làm địa đạo để toan tính duy trì độc đảng toàn trị trên nhân kiếp của Việt tộc. Biết nhân dân hiểu nội chất của loại mật nghị này, nên tà quyền luôn che giấu nội dung của nó, mà cho tới thời điểm này 2020 nhân dân vẫn chưa được thông báo các điều lệ của mật nghị này. Giữ kín giấu kỹ chuyện buôn gian bán lận là nội chất của mọi tà quyền.
- Cờ gian bạc lận, có trong các hiệp định giữa hai đảng Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, lúc thì mang thương hiệu bạn vàng, khi thì mang bảng hiệu bạn tốt, nhưng thực chất là Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc là Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của Việt Nam làm cha ! Mà cho tới thời điểm này, năm 2020, nhân dân mới từ ngạc nhiên tới kinh hoàng, mà khám phá ra lộ trình buôn dân bán nước ngay trong luật dẫn độ về Tàu các tội phạm tàu đã giết người, buôn ma túy… ngay trên đất Việt mà luật pháp Việt không được quyền xử chúng.
- Đánh lận con đen, giữa mùa đại dịch cúm tàu 2020, thì tà quyền để lộ ra chuyện mất chủ quyền không những tại Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cửa khẩu biên giới, nơi mà tà quyền không được đơn phương đóng các cửa khẩu biên giới để bảo vệ chính nhân dân của mình. Nên nội chất của các hiệp định bạn vàng, bạn tốt đều chính là hiếp định, nơi mà tà lực của mạnh được yếu thua làm ra tà luật của cá lớn nuốt cá bé, nơi mà kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà ở thế yếu, thế cô, luôn bị hiếp đáp, hiếp hãm, hiếp cho nhục bởi kẻ tà mạnh, bằng luật rừng của thắng làm cha, thua chịu nhục.
Tà quyền luôn phải chịu nhục hình trong nhục kiếp, mỗi khi nó rời giáo lý của tổ tiên, luân lý của giống nòi, đạo đức của dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận giặc là Tàu tặc đã chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển của Việt Nam làm cha ! - Ảnh minh họa Lễ đón chính thức Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra tại Phủ Chủ tịch vào chiều 12/11/2017, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì.
Cái tà : thấm cái hiểm, lậm cái độc
Foucault khi nghiên cứu về quan hệ giữa quyền lực và tri thức, đã nhận ra kẻ tà trong tà cách khi sử dụng tà quyền là luôn vận dụng cái hiểm, luôn tận dụng cái độc để trợ lực cho nó. Mà cụ thể là cái dọa của tà luôn song hành cùng cái tù của cái độc, cái rình rập luôn song đôi cùng cái bắt bớ của cái hiểm, thầy dặn dò các môn đệ của thầy rằng : cái canh gác của tà quyền luôn song lứa với cái trừng phạt rất nhẫn tâm, bất nhân. Kẻ tà không ngần ngại vừa làm chó săn, vừa làm cai tù, đảng tà không do dự trước hành tác vừa làm công an vừa là tòa án, lại vừa quản giáo lại vừa là đao phủ thủ để hành quyết người lành, kẻ thiện. Lấy nhục hình thay nhân lý, lấy cực hình thế nhân tính, mang hành tác của âm binh giết người diệt nhân trong bóng tối để truy cùng diệt tận nhân bản, nhân văn, để thủ tiêu nhân từ, nhân tâm, để dễ dàng xóa nhân vị và nhân quyền, cho nên nhân phẩm không có một giá trị gì đối với kẻ tà.
Từ nhận định trên, thì kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà luôn mang trong phản xạ mua ân báo oán khi nó cần dùng tà quyền, nhưng nó lại không đủ lương tri để kiểm soát, không dày liêm chính để kiềm chế hệ tà hành (hành vi tà, hành động tà, hành tác tà) của chính nó. Cụ thể là nó dễ rơi vào ba quá trình sau đây mà chính nó cũng không lường hết mọi hậu quả cho đồng loại, mọi hậu nạn cho đồng bào :
- Cõng rắn cắn gà nhà, nơi mà kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà có chân dung diện mạo của Lê Chiêu Thống, với phản xạ mại quốc cầu vinh, để tiếp tục được vinh thân phì gia, nên một sớm một chiều chúng bán nước như chơi !
- Mang voi dày mã tổ, nơi mài kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà có bản lai diện mục của Hoàng Văn Hoan, cùng nhiều đứa khác nữa mà tướng Trương Giang Long đã thổ lộ là "hiện nay chúng dày đặc sinh sôi nẩy nở kiểu "trăm này sinh ra trăm kia" ngay trong giới lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam".
- Gà nhà bôi mặt đá nhau, là loại dị dạng trong quái tướng của bất nhân thất đức dùng tà quyền để dựng nên thảm cảnh huynh đệ tương tàn trong loạn cảnh nội chiến 1954-1975. Vì đây là bản chất lòng lang dạ thú đang ngày ngày làm ra nội chất thanh trừng để thanh toán giữa các đồng chí chỉ vì quyền và tiền.
Thiếu tướng Trương Giang Long - Quan hệ Việt Nam với các nước lớn tháng 3/2017 [Tư liệu]
Nên kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà không có tâm để có tầm mà vận dụng :
- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) để tạo văn minh cho Việt tộc, được sánh vai cùng các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền.
- Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) của Việt tộc mà tạo tiến bộ cho xã hội Việt, được sánh bước với các quốc gia có khoa học kỹ thuật, có sáng tạo từ văn hóa tới nghệ thuật, từ giáo dục tới y tế… để phục vụ cho an sinh xã hội.
Muốn có tầm phải có tâm, mà tà tâm thì hoàn toàn trái ngược với chính tâm làm nên chính ngữ trong chính trị, làm nên chính sách trong quản trị, nên đất nước đã hòa bình, thống nhất và dân tộc đã thoát được nội chiến từ 1975, gần nửa thế kỷ rồi, mà cái tà được đại diện bởi kẻ tà, nhóm tà, phe tà, phái tà, đảng tà không thực hiện được ít nhất ba chuyện không khó, dễ làm, lại có kết quả tốt đẹp ngay tức khắc :
- Hòa hợp hòa giải dân tộc, để quên đi thảm họa gà nhà bôi mặt đá nhau trong nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ qua, mà cùng nhau chung lưng đấu cật xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, với dân tộc Việt thật tử tế, có nhân cách ăn hiền ở lành, vì có nhân tri ăn ở có hậu.
- Quang minh chính đại, trong lúc chờ đợi dân chủ trong đa nguyên, thì phải tự tìm cho ra minh quân thực tài nên không bất tài như hiện nay ; minh chúa thực tâm nên không thất đức như hiện nay ; minh chủ có thực lực của toàn thể dân tộc trong một minh trí làm nên minh trị, biết tập hợp thành tổng lực tất cả các minh lực từ trong nước ra ngoài nước, có nhân dân Việt mà có cả kiều bào hải ngoại, vì tất cả đều là con dân Việt.
- Biết người biết ta, ngay trong hệ đa thấy được đa tài, đa trí, để vận dụng đa năng, đa hiệu, thấu được đa dũng, đa hùng, để nhận ra đa đảng được đều chế bằng đa nguyên của "sân chơi" đầy đủ, với "trò chơi" rõ ràng, cùng "luật chơi" minh bạch của tam quyền phân lập.
Hiện nay thì tình hình đất nước ngày càng đen tối, với số phận Việt tộc như chỉ mành treo chuông trước Tàu tặc đã lậm vào hệ xâm (xâm chiến, xâm lược, xâm lăng) từ đất ra biển, từ đảo tới thành phố, vùng miền… Không những bằng quân sự, chính trị, ngoại giao mà còn bằng công nghệ bẩn, kinh tế gian, thương mại xảo, vì Tàu phỉ đã tha hóa trong nhục kiếp các lãnh đạo đương nhiệm của Đảng cộng sản Việt Nam rồi. Chúng ta mong cầu trong hiểm họa này, trong đảng tà, tự nhiên xuất hiện ra một kẻ tà, một phái tà, một nhóm tà, một phe tà biết cải tử hoàn đồng, biết thay đời đổi kiếp của chính họ, để nhận ra minh lực trong minh lộ của kẻ thẳng người ngay mà tìm cách lội ngược giòng tà giang. Để từ minh dạng mà nhận ra nhân dạng, tức là nhận ra đại dương của hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn nhân từ, nhân tâm, nhân vị, nhân quyền, nhân đạo, nhân phẩm) để cứu nguy cho dân tộc, mà cũng để kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà tự cứu lấy mình !
Cái tà đẫm cái thâm, thấm cái cướp
Kẻ tà khác với kẻ ác bất nhân trong cực đoan, thất đức trong cuồng tín chỉ biết truy để diệt, hủy để chôn, kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà biết lấy nhục hình của lao lý để thay cái chết, lấy cực hình của tra tấn để thay cái diệt. Nó chúng sử dụng lao tù để biến tù nhân thành lao công, nhà tù thành nơi có cưỡng bức lao động, có cưỡng chế lao công làm ra sản phẩm để phục vụ cho tà quyền. Cụ thể là kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà thay án tử hình bằng án lao nô, thế án hành quyết bằng án khổ sai trong lao động không công, không lương.
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà còn chế tạo ra một tổ chức xã hội của lao động cưỡng bức qua sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, nơi chúng khai thác triệt để thể lực của nhân dân bằng sưu cao thuế nặng. Trong hiện cảnh của tất cả quần chúng trong tổ chức xã hội dựa vào đàn áp của công an trị, thì tà quyền hay phô trương tà lực toàn trị của nó, nhưng cùng lúc lại giấu che thực chất tham nhũng trị, cùng lúc che phủ nội chất tham tiền trị làm nên tà lộ trong điếm nghiệp của chúng. Trong thảm trạng của xã hội Việt Nam thì rất dễ quan sát quá trình này :
- Với dân lành, sống chỉ để chạy theo cơm, áo, gạo, tiền, luôn đầu tắt mặt tối vì chén cơm manh áo.
- Với dân đen luôn tối tăm mặt mũi, phải chạy gạo, chạy cơm từng ngày, với âu lo ăn bữa sáng lo bữa tối.
- Với dân oan, trước đó là dân lành, dân oan, một sớm một chiều thành dân oan bị tham quan cướp đất để bán lại cho trọc phú, gieo bao bạo họa đầu đường xó chợ, với bao bạo nạn màn trời chiếu đất.
Cả ba thành phần này đã là đại đa số của dân số quốc gia, họ là nạn nhân của một thiểu số có tà chất của hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng) lúc nhúc kiểu ký sinh trùng chung quanh quyền lực và quyền lợi của Đảng cộng sản Việt Nam, sống còn nhờ tà thuật của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn). Nơi mà kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà tha hồ vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước, bằng bộ ba tà dạng :
- bạo quyền độc đảng sử dụng công an trị,
- tà quyền tham quan vận dụng tham nhũng trị.
- ma quyền tham đất tận dụng tham tiền trị.
Đừng chỉ nhìn kẻ tà qua tà quyền trong định chế, mà phải thấy nó lan tỏa như đại dịch cúm Tàu năm 2020, nó lan lây trong quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để chôn, diệt, hủy, thiêu cái chính danh của trí tuệ. Nó còn tổ chức thành mạng lưới với các đồ đệ có tà tướng như âm binh của xã hội đen với côn đồ, du đảng, lưu manh trong quan hệ bằng bạo hành để đàn áp, hành hung dân lành, dân đen, dân oan. Cùng lúc kẻ tà dùng tà quyền trong thượng tầng lãnh đạo thường luồn lách trong hệ thống giáo dục, để buôn gian bán lận bằng học giả-thi giả-điểm-giả-bằng giả để lây bịnh vào giáo lý tổ tiên, chui sâu để lây dịch vào luân lý của giống nòi, lách để cấy khuẩn giết người của nó vào đạo đức của dân tộc. Cái tà luôn tìm cách biến mọi quan hệ xã hội thành quan hệ vụ lợi, mọi sinh hoạt xã hội thành sinh hoạt trục lợi, mọi tổ chức xã hội thành tổ chức để tư lợi.
Cái tà chìm trong cái nhục
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà lùa con người xa hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân bản, nhân văn nhân từ, nhân tâm, nhân vị, nhân quyền, nhân đạo, nhân phẩm), để xua con người vào chốn của bản năng đói ăn khát uống, khi bần cùng sinh đạo tặc trong tà lộ thì sẵn sàng ăn tươi nuốt sống đồng loại. Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà thường sống với toan tính khuất phục ý chí nhân tính, thuần hóa ý lực của nhân lý, thô tục hóa nhân cách để trần truồng hóa nhân vị. Mà chuyện rất lạ là kẻ tà không biết ngượng, không biết xấu hổ, không biết nhục, chỉ có người ngay, kẻ thanh mới biết ngượng, biết xấu hổ, biết nhục thay cho chúng. Vì tà dạng thường sinh đôi cùng tục tướng, tổ tiên Việt chẳng lầm khi mô thức hóa tà cách trong ngu thân : "Đứa ngu cởi truồng, người khôn mất mặt".
Kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà luôn có phản xạ của hệ đồng :
- Đồng chí trong bạo quyền để đồng lõa trong tà quyền ;
- Đồng bọn trong ma quyền để đồng hội trong cực quyền ;
- Đồng tội trong cuồng quyền để đồng thuyền trong âm quyền.
Cụ thể là chúng bắt đầu bằng trộm, cắp, cướp, giật của dân lành, dân đen, dân oan, mà hạ nguồn là không ăn chia đồng đều, thì chúng giở thói ganh tị của trâu buộc ghét trâu ăn, nên :
- Thanh toán nhau bằng bắt bớ, tù đày,
- Thanh trừng nhau bằng thủ tiêu, ám sát,
- Thanh lọc nhau bằng tai nạn, bằng thuốc độc.
Khi đứng trước tòa án là tướng mà khóc trong "tà lệ" xin tha tội bằng cách thú tội mình có tham vọng (tiền) nhiều nhưng não bộ lại quá bé. Khi đứng trước luật pháp thì bộ trưởng này ảo não trong tâm sự là tiền tham nhũng không biết để đâu, bộ trưởng kia thì khai báo cùng lúc luôn tố cáo đồng bọn, đồng lõa, đồng phạm để được giảm án nhẹ tù, bộ trưởng nọ thì khai liều luôn là tiền tham ô là do con gái mình giữ… Cái tù làm lộ cái tục, của các tướng lĩnh, cái nhục của các bộ trưởng trước vành móng ngựa !
Trong cái tục và cái nhục của cái tà, nhân dân nhận ra ngay cái điếm trong cái kiếp, cái phận của kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà :
- Khi một người đói phải ăn cắp để có ăn, thì bị tà quyền xử vài năm tù.
- Khi người ngay nói thật đúng sự thật qua mạng xã hội thì bị xử nhiều năm tù.
- Khi các đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh vì công ích xã hội qua công bằng, tự do, bác ái, bằng đề nghị của dân chủ, đa nguyên vì nhân quyền thì bị xử nhiều năm tù.
Trường phái "Hãy khóc trước cổng tòa" tạo nên một làn sóng đầy tính nhân văn trong lớp người đã một thời hét ra lửa nay xảy chân ngã ngựa phải kéo nhau ra tòa thì hãy khóc, khóc để cho ai đó hãy xử các ông như những con người. Ảnh minh họa cựu trung tướng công an Phan Văn Vĩnh khóc trước tòa ngày 23/11/2018 và mong được giảm án tới mức thấp nhất (24h.com).
Nhưng khi đồng bọn, đồng lỏa, đồng chí cùng tà đảng với nhau, đã biển lận hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ đồng, thì được giảm án trước để được ân xá sau. Khi cái nhục luồn trong cái điếm để làm nên kẻ tà, thì kẻ này không bao giờ chấp nhận "sân chơi" đàng hoàng, với "trò chơi" tử tế, cùng "luật chơi" nghiêm minh. Kẻ yếu vía trong nhân sinh phải quỵ phục kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà khi chúng dùng bạo quyền để khuất phục họ, nhưng họ không khâm phục chúng. Kẻ cứng vía giữa nhân thế luôn trực diện với kẻ tà, phái tà, nhóm tà, phe tà, đảng tà để trực luận trước tà quyền, chắc chắn là họ không quỵ phục, không khuất phục, không khâm phục chúng, vì sao ? Chỉ vì sau tà tâm thâm, độc, ác, hiểm làm ra tà tướng xấu, tồi, tục, dở, làm nên tà diện của bất nhân thất đức làm cho chúng ta tởm ngôn lợm ngữ khi phải thấy tâm, tướng, diện, mạo của tà !
Lê Hữu Khóa
(11/07/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.