Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm
Vô học-vô hậu: từ vốn vô học tới tuyên truyền trị, ngu dân trị và vô học trị
Một hệ thống độc đảng để toàn trị mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt từ khi nó cướp được chính quyền cho tới nay là độc quyền trong toàn trị lên xã hội, lên dân tộc mang cấu trúc của vô học-vô hậu :
- Tuyên truyền ngu dân bằng đổi trắng thay đen, che giấu sự thực để trưng bày ngược lại cái phản sự thật ; thi hành một chế độ công an trị mà tuyên truyền là chế độ của dân, do dân, vì dân. Nếu nó là một hệ thống tuyên truyền trị để cai trị thì ta phải gọi nó là tuyên truyền trị.
- Tuyên truyền ngu dân bằng ăn không nói có, che giấu một bản chất của một chế độ độc đảng để độc quyền trong đặc quyền, đặc ân, đặc lợi của tầng lớp lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, rất thiểu số, bọn này ăn trên ngồi trốc, cỡi đầu cỡi cổ cả một dân tộc khoảng 100 triệu người, mà ngày ngày ra rả chúng là đầy tớ của nhân dân. Nếu nó là một hệ thống vận dụng ngu dân để quản trị thì ta phải gọi nó là ngu dân trị.
- Tuyên truyền ngu dân bằng cướp ngày là quan, để tổ chức cướp đất của dân bằng cách đưa vào hiến pháp đã bị Đảng cộng sản Việt Nam "hiếp định" bằng điều : "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý", để cướp đất của dân, biến dân lành một sớm một chiều thành dân oan. Nếu nó là một hệ thống độc đảng trong vô hiến, vô pháp, vô công với bản chất vô tri, vô thức, vô minh thì ta phải gọi nó là vô học trị.
Khi bạo quyền lãnh đạo, chia chác cùng tà quyền tham quan, cả hai có liên minh với ma quyền tham đất, vì tất cả bọn chúng đều tham tiền, thì hệ lụy của tuyên truyền không còn là chuyện ăn gian nói dối, mà là chuyện tổ chức để cướp của hại người, theo nghĩa sâu xa nhất mà thí dụ cụ thể là bứng dân lành ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để một sớm một chiều thành dân oan, phải màn trời chiếu đất, phải đầu đường xó chợ. Tiểu luận này đề nghị phân tích và giải thích tuyên truyền ngu dân như quá trình độc quyền sinh sát của một độc đảng đứng và đạp trên tất số phận của một dân tộc, tận dụng tuyên truyền ngu dân như một quá trình giáo dục ngu dân :
- Độc quyền hóa từ quyền lực tới quyền lợi của một độc đảng, vừa độc tôn vừa độc trị để truy diệt từ khả năng phát triển kinh tế tới tiềm năng làm chủ tri thức nhân bản để có cuộc sống văn minh. Độc đảng này luôn tìm mọi cách hủy diệt đa nguyên của đa đảng biết tận dụng đa trí, đa tài, đa lực, đa năng, đa hiệu…
- Tư lợi hóa qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của một giai tầng thống trị, chỉ là một thiểu số gần 5 triệu đảng viên là thành phần nòng cốt tự lãnh đạo tới cán bộ để bòn rút tài nguyên đất nước, tiền của đồng bào, tiền tài của một dân tộc khoảng 100 triệu dân.
Từ ý đồ độc quyền làm nên con tính độc lợi chế tác ra quá trình tư lợi, tiểu luận đề nghị giải luận quá trình này vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả tới từ một quá trình chưa bao giờ được phân giải tới nơi tới chốn, đó là quá trình vô học-vô hậu :
- Vốn vô học của một tập đoàn lãnh đạo từ ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930, tới ngày cướp được chính quyền 1945, qua giai đoạn 1954 sử dụng chuyên chính vô sản với bản chất của chuyên chính vô học, bất chấp thảm họa nội chiến của hàng triệu triệu sinh linh trong huynh đệ tương tàn, cho tới ngày cướp trọn được chính quyền trên cả nước 1975. Chiến thắng tới từ vốn vô học của loài cố đấm ăn xôi, thuộc loại vua thua thằng liều, được sự hỗ trợ của hai cường quốc chuyên chính vô sản là Liên Xô và Trung Cộng, có cùng bản chất chuyên chính vô học-vô hậu của loại trộm, cắp, cướp, giật bằng con tính bất nhân mạnh được yếu thua, với con toán thất đức sự thật chỉ mặt qua nòng súng, kiểu Mao Trạch Đông.
- Vô học hóa cả một dân tộc dựa trên vốn vô học của lãnh đạo từ tuyên truyền ngu dân tới tới giáo dục ngu dân ; vô học hóa từ định chế làm nên luật pháp tới cơ chế trong sự vận hành của một xã hội. Nơi mà quần chúng liêm chính, dân chúng liêm khiết, nhân sĩ liêm minh hoàn toàn không có chỗ đứng ghế ngồi, nơi mà hiền tài là nguyên khí của quốc gia đã bị đào tận gốc bới tận rễ, để nhường chỗ cho hằng số vô học-vô hậu : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, hằng số này có chủ thầu là vô minh, có đầu nậu là vô tri, có đầu cơ là vô trí để truy, hủy, diệt, triệt trí tuệ.
Đây chính là bi kịch của đất nước hiện nay, là thảm kịch của Việt tộc, đã và đang bị trùm phủ bởi hằng số vô học-vô hậu, từ gần một thế kỷ (1930-2020). Hãy phân tích rõ vai trò và chức năng của trí tuệ ; chính là hiện thân của có học-có hậu khi trí tuệ được trợ lực bởi lý trí biết giải thích để nhận ra sự thật ; vì trí tuệ được trợ duyên bởi tuệ giác biết giải luận để nhận ra lẽ phải. Câu chuyện có học-có hậu chính là con đường sống của Việt tộc, đây là chân trời của tất cả thế hệ tương lai. Câu chuyện của tiểu luận mang tựa lạ lẫm này : vô luận, đề nghị một quá trình phân giải để thấy-cho-thấu :
- Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô học được toan tính bởi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) mang khuyết tật của vốn vô học, lấy bất nhân thất đức của ăn tươi nuốt sống mà nuốt trọn cái ăn hiền ở lành biết làm nên cái ăn ở có hậu trong giáo lý Việt.
- Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô hậu đã và đang ngăn chặn con đường phát triển kinh tế vì một xã hội tiến bộ, biết thăng hoa một dân tộc trong một đời sống văn minh, đã bị hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của tập đoàn lãnh đạo độc đảng toàn trị, mà bản chất là một tập đoàn tội phạm đã bứng đi cội đạo lý Việt ăn ở có nhân mười phần không khó ; đã bị bứt đi rễ giáo lý Việt đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn.
Nhập đề để nhập nội, cụ thể là nhập trí của lý trí có nhân bản, là nhập tri có nhân văn, để thấy cho thấu hằng số vô học-vô hậu mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc chỉ là một hằng số : tạm thời ! và hằng số này chấm dứt sớm hay muộn là tùy vào trí thức của Việt tộc biết hay không biết vận dụng văn minh của dân chủ, biết tận dụng đa nguyên làm nên đa trí, đa tài, đa lực, đa dũng, đa năng, đa hiệu, vì văn hiến của nhân quyền để biết tự bảo vệ nhân vị lẫn nhân phẩm của mình.
Nên câu chuyện cốt lõi vẫn là có-học-để-có-hậu, câu chuyện này hoàn toàn không hề là câu chuyện về bằng cấp, nơi mà học vị lẫn học hàm hiện nay đều bị giả hóa ở những mức độ khác nhau trong hệ thống giáo dục của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) có anh em sinh đôi với hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Hệ thống giáo dục này đã và đang bị quá trình mua bằng bán cấp, giả hóa rồi tha hóa về mọi mặt, từ giáo lý, giáo luận, giáo dục tới giáo khoa, giáo trình, giáo án. Mua bằng bán cấp trong giáo dục để mua chức bán quyền ngoài xã hội từ gốc tới ngọn, cái giả đã thay thế cái thật với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.
Nên câu chuyện gốc rễ vẫn là có-học-để-có-hậu, không hề câu chuyện về bằng cấp có thể bị giả, nơi mà học vị có thể bị gian, học hàm có thể bị dối, ngược lại có-học-để-có-hậu là câu chuyện :
- học thật của ăn ở có nhân mười phần không khó,
- học lực của đường mòn nhân nghĩa chằng mòn,
- học thuật của sống lâu mới biết lòng người có nhân.
Nhập đề để nhập nội, với rào trước đón sau lấy chữ nhân làm gốc, rồi rào dậu tát ao lấy chữ học (học thật bằng học lực để hiểu học thuật) làm chủ lực để đối kháng, để kình chống, để phản kháng, để chống đối từ hậu quả tới hệ quả với tất cả hệ lụy tới từ vô học-vô hậu !
Như vậy, độc giả đừng đọc và đừng hiểu vô học-vô hậu là không có bằng cấp, trống học vị, rỗng học hàm ; mà vô học-vô hậu đây là : vô nhân làm nên vô tri, vô tri làm nên vô trí, vô trí làm nên vô giác, vô giác làm nên vô cảm, vô cảm làm nên vô tâm, mà tất cả có cùng cha sinh mẹ đẻ là : bất nhân thất đức.
Nếu muốn tránh hiểu lầm mô thức vô học-vô hậu của tiểu luận vô luận này, thì độc giả hãy đọc bằng nhân tri của nhân trí, bằng nhân lý của nhân tính, bằng nhân bản của nhân văn, bằng nhân tâm của nhân từ, bằng nhân vị của nhân quyền, và chúng ta cùng nhau bảo vệ nhân phẩm của chính mình trước bạo quyền của ngu dân trị, tà quyền của tuyên truyền trị, ma quyền của vô học trị.
Tri thức luận chống vô học-vô hậu
Lập luận phản biện chống vô học-vô hậu có các phương pháp cụ thể để lội ngược dòng mọi ý đồ của tuyên truyền ngu dân do độc đảng toàn trị dùng tuyên huấn qua tuyên giáo, đã và đang gây ra nhiều hậu quả với bao hệ lụy trùm phủ lên nhân kiếp Việt tộc, lên số kiếp của nhiều thế hệ mai sau :
- Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan của mắt thấy tai nghe, từ thượng nguồn của các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra cho tới hiện tượng học trực diện trước các hậu quả, các hệ lụy mà Việt tộc đang phải gánh chịu hiện nay. Mà Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo tức là nó chính là chủ mưu trong quá trình vô học hóa toàn xã hội, nó cũng là đầu nậu một ý thức hệ dựa vào tuyên truyền trị, nó là đầu cơ bằng ngụy tạo qua các chính sách lấy ngu dântrị vừa làm phương tiện, vừa là cứu cánh. Hậu quả giờ đây đã rõ, từ một quê hương gấm vóc giờ đã thành một đất nước cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm từ nguồn nước tới không khí loại hàng đầu trên thế giới ; từ một dân tộc thông minh bây giờ đã thành lao nô cho các nước láng giềng, cho Tàu tặc không những cướp đất, biển, đảo, mà còn thao túng kinh tế Việt, giăng bẫy thương mại Việt và đang bóc lột nhân công Việt ngay trên đất Việt…
- Lý thuyết luận của hiện tượnghọc lý trí, đề nghị sử dụng lý thuyết để phê bình lý thuyết, vận dụng chủ thuyết để phê bình chủ thuyết, tận dụng luận thuyết để phê bình luận thuyết, ở đây không có chỗ đứng ghế ngồi cho hệ độc (độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn, độc đảng) kiểu cả vú lập miệng em. Không gian của lý thuyết luận này có gốc, rễ, cội, nguồn của hệ đa của đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu làm nên từ đa thức, đa tri, đa trí ; có chỗ dựa là đa nguyên. Chính đây mới là không gian của phương trình sự thật-chân lý : so ra mới biết ngắn dài. Nơi mà phản diện của hệ vô (vô minh,vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) chính là hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) có trí lực của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), có luận lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo).
- Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức, biết phân tích để giải thích các hậu quả, hậu nạn tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu. Cấu trúc của khoa học luận này tuân thủ bốn công đoạn của khoa học xã hội thực nghiệm qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã thực địa, nơi mà dữ kiện mang theo chứng từ, chứng tích, chứng nhân để lập lại sự thật, để dựng lại chân lý :
- Khoa học thuật sử tính, là công đoạn một, có quá trình sử luận, nơi mà các sự cố là sự kiện mà người nghiên cứu định vị được không gian và thời gian. Nếu định vị được địa điểm và thời điểm của sử kiện thì sẽ định vị được kết quả, hậu quả, hiệu quả của sự kiện đã là sự cố hay đã là biến cố tác động lên sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội, tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu.
- Khoa học thuật bối cảnh, là công đoạn hai, để phân tích thực cảnh của một xã hội nơi mà sự cố đã thành biến cố, để phân loại các hoàn cảnh, tại đây hoạt cảnh xã hội bị đóng khung bởi các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu ; từ đó phân giải toàn cảnh các chính sách của tuyên truyền trị, ngu dân trị mang thực chất vô học trị. Các chính sách tuyên truyền ngu dân của độc đảng toàn trị được "chống lưng" bởi một hệ thống công an trị, và "sân sau" của các chính sách này chính là tham nhũng trị ; được bảo kê kiểu "ô dù" giữa các bè, đám, nhóm, phái… với mưu hèn kế bẩn, mà tất cả đều bị chi phối bởi tham tiền trị.
- Khoa học so sánh, là công đoạn ba, nơi mà mọi dữ kiện trong cùng một bối cảnh, mọi chứng từ trong cùng một hoàn cảnh, mọi cá nhân trong cùng một hoạt cảnh, đều có thể so sánh được, ở cấp độ khác nhau từ địa phương tới trung ương, ở mức độ khác nhau từ quốc gia tới quốc tế, ở cường độ khác nhau từ kiến thức tới ý thức, ở trình độ khác nhau từ tri thức tới nhận thức… Cụ thể là đưa ra ánh sáng các chính sách tuyên truyền ngu dân gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, rồi vận dụng so sánh để đo đạc cường độ, mật độ, mức độ của các chính sách tuyên truyền ngu dân này, để hiểu bản chất của nó qua chính trình độ của nó.
- Khoa học tổng quan, là công đoạn bốn, với đồ hình được phân định và phân giải vừa hợp lý, vừa chỉnh lý của khoa học sử tính, khoa học bối cảnh, khoa học so sánh, để có nhận định tổng thể , từ đây hình thành sự phân loại các thành phần bằng các khuynh hướng chung, các hành vi đa số, các hành tác thiểu số, các hành động đơn lẻ của bè, đám, đảng, nhóm, phái, qua quan hệ giữa quyền lực và quyền lợi, trong không gian của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu.
Khi phân tích, phân định, phân loại, phân giải các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây ra hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, ngay trong hệ vô (vô minh,vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) thì khoa học luận sẽ sử dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để thấy-cho-thấu từ nội dung tới nội hàm của hệ quả(kết quả, hệ quả, hậu quả) mà không quên nhân quả của câu chuyện vô học về tri thức làm ra vô hậu không tương lai. Tại đây, hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) vừa là phương pháp luận nòng cốt, vừa là khoa học cốt lõi, để xây dựng lý thuyết luận chủ đạo, từ đó cho ra đời các tri thức luận sau đây :
- Tri thức luận lịch sử, những kiến thức căn bản của thế kỷ XVIII làm nên ít nhất năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền trong đó hai định luận về công bằng và công lý là những hằng số không chỉ có phương Tây, cụ thể là Tây Âu và Bắc Mỹ được thụ hưởng mà các hằng số này đã trở thành sở hữu của nhân loại, nếu nhân loại đó muốn nhân sinh sống bằng tiến bộ, muốn nhân thế sống trong văn minh. Hậu quả của vốn vô học trong não bộ lãnh đạo đã tạo ra quá trình vô học hóa ngay trong chính sách tuyên truyền ngu dân áp đặt lên hệ thống giáo dục quốc gia từ đó tạo ra bao thế hệ học sinh và sinh viên : vô kiến thức tiến bộ, vô tri thức văn minh. Rồi sau đó các học sinh và sinh viên này khi trưởng thành không hiểu được chức năng của tri thức để có được vai trò của các công dân biết đóng góp vào tiến bộ xã hội, vào văn minh của dân tộc.
- Tri thức luận giáo dục, từ khám phá tới ứng dụng vào đời sống, vào xã hội, vào định chế và vào cơ chế, thì các tiến bộ tạo nên đời sống văn minh tới từ năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền biết bảo vệ và bảo đảm về công bằng và công lý, thì các tiến bộ và văn minh này phải được đưa vào hệ thống giáo dục. Một hệ thống giáo dục quốc gia, có giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh tuổi thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Nếu hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay tại Việt Nam không giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh mà chỉ mượn hệ thống giáo dục để áp đặt tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, thì sẽ không tránh khỏi hậu quả của vô học, sẽ không tránh được hệ quả và hệ lụy của vô hậu (vì vô tri thức nên vô tương lai).
- Tri thức luận chính sách, của một chế độ độc đảng toàn trị vận dụng tuyên truyền trị, để độc đảng được độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn mà đi ngược lại văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì tuyên truyền trị là anh em sinh đôi với ngu dân trị. Mà hậu quả ngu dân trị trước hết là tự tha hóa dân tộc của mình, kế đó là tự nô lệ hóa cho ngoại bang, và cuối cùng là tự đồng hóa từ trí thức tới giống nòi, cụ thể là trao thân gởi phận cho ngoại bang. Nghịch lý của mọi chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tới từ tập đoàn lảnh đạo chính là các tác giả của độc đảng, các tác nhân của toàn trị, thì chính các chính sách này tự vô học hóa từ não trạng tới não bộ của họ. Nhưng thảm họa thì thật lớn cho một dân tộc, cho một giống nòi, vì các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tiêu diệt các nguyên khí quốc gia, hủy triệt các hiền tài của dân tộc.
- Tri thức luận trình độ, xác chứng mọi chính sách ngu dân luôn đi ngược lại với các chính sách vì dân, cụ thể là vì khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền,công bằng, công lý là những quốc sách vì dân. Nhưng bản chất của các chính sách đều có cốt lõi của vần đề : trình độ ! Có những chế độ độc tài nhưng được điểu khiển và điều hành bởi các minh vương, minh quân, mình chủ, minh chúa ; cũng như có các chế độ lạm dụng hình thức dân chủ của tam quyền phân lập nhưng bị tham nhũng thối nát hóa ngay từ bên trong. Các loại dân chủ hình thức để mạo danh tam quyền phân lập này đã để bất tài diệt thực tài, thì tiến bộ không tới với dân tộc, mà văn minh cũng không có mặt trong xã hội. Câu chuyện trình độ là câu chuyện cốt lõi để có nhận thức là trong toàn cầu hóa thông tin và truyền thông hiện nay thì quá trình khám phá khoa học, khai phá nhân quyền, khai thác sức mạnh của dân chủ đã là quá trình trực tuyến. Có tin tức tức khắc, có thông tin tức thì, có chứng từ, chứng tích, chứng nhân để chứng minh sự thật tức thời, đó là chân lý có mặt ngay bây giờ và ở đây. Nên tuyên truyền trị để ngu dân trị hoàn toàn bị phản tác dụng, vì sẽ bị vô hiệu hóa bởi tin tức tức khắc, thông tin tức thì, sự thật tức thời trong bối cảnh toàn cầu hóa truyền thông hiện nay. Vì vậy, tuyên truyền trị là bản lai diện mục của vô minh và vô tri ; và ngu dân trị là dị tướng làm nên dị dạng của vô giác và vô cảm ; tất cả làm nên vô tâm và vô trí của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay do Đảng cộng sản Việt Nam điều hành và điều khiển.
- Tri thức luận xã hội, kiến thức của cá nhân có từ giáo dục gia đình, rồi giáo dục học đường, và sau đó là giáo dục xã hội, nơi mà sinh hoạt xã hội được trao cho các lãnh đạo có tri thức biết thừa nhận các công ích xã hội được đặt trên tự lợi cá nhân của mình. Từ tri thức tới ý thức, các lãnh đạo sẽ lần lượt nhận ra trong các quan hệ xã hội thì an sinh xã hội quan trọng hơn tính toán ích kỷ cá nhân trong quá trình sống chung để chung sống với tập thể, với cộng đồng. Chung là chia vì chia để chung, đây là căn bản để có đời sống xã hội, tại đây ý thức đã trở thành nhận thức bằng đạo lý xã hội, lấy công bằng làm cơ sở cho tổ chức xã hội, trong đó cá nhân là công dân có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào. Chính công dân này chủ động để trở thành chủ thể biết vận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để đưa văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền song hành cùng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục… vào xã hội.
- Tri thức luận định chế, một chế độ toàn trị dựa trên độc đảng bám độc quyền để độc trị bằng độc tôn qua tuyên truyền trị song hành cùng công an trị để tạo dựng một định chế với hệ thống giáo dục của ngu dân trị, tạo ra một hệ thống xã hội thất nhân bất đức vì thất tri bất thức. Định chế này bất chấp hậu quả và hậu nạn của vô học trong tri thức, vô hậu trong nhận thức, vì ý đồ đã thành mưu toan quyết định mọi chính sách của độc đảng toàn trị là : phát triển tuyền truyền trị, củng cố công an trị để thực hiện sâu đậm quyết sách ngu dân trị. Đây là một tà lộ trong ma nghiệp (đi dễ khó về, vì dễ chết khó sống) trước nhân loại văn minh, trước nhân sinh tiến bộ của thế giới hiện nay. Chỉ vì vốn vô học của lãnh đạo chính trị vừa là gốc, rễ, cội, nguồn của tuyên truyền trị, vừa là móng, nền, tường, mái của ngu dân trị để vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Nên sinh lộ của Việt tộc là minh lộ của văn minh dân chủ, là nhân lộ của văn hiến nhân quyền, cả hai biết bảo đảm tự do, biết bảo vệ công bằng, biết bảo hành công lý. Vì đây là nhân đạo của nhân tri, nhân trí xây nên nhân bản và nhân văn để giữ nhân vị và nhân tâm mà phục vụ cho nhân phẩm.
- Tri thức luận lãnh đạo, là xới tới nơi trong phân tích để soi tới chốn trong giải thích về hệ vô thức (vô kiến thức, vô tri thức, vô trí thức, vô ý thức, vô nhận thức, vô tâm thức) có từ vốn vô học chính là điểm khởi hành của một tập đoàn lãnh đạo mang ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng phương án vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Với ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng cách ngăn chặn một hệ thống giáo dục quốc gia dựa vào khai sáng nhân tri, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Ngược lại giáo trình của trung học phổ thông này hoàn toàn không được hiện diện trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang được điều khiển và điều hành bởi ngu dân trị có dây mơ rễ má tới từ vô học trị của các lãnh tụ và các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể là lực lượng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa dân tộc, giống nòi, xã hội, đất nước vào ma lộ của vô minh, khi họ đã chặn ngay thượng nguồn mọi ánh sáng tới từ khám phá về văn hiến nhân quyền, tới từ khai phá về văn minh dân chủ.
- Tri thức luận tiến bộ, thấy để thấu vì phải thấy để tin là cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền,công bằng, công lý thực sự là những tiến bộ, không thể chối cải được, nên không thể không thừa nhận bởi mọi chính quyền, chính phủ có chính danh, vì có chính nghĩa do dân và vì dân. Mọi bạo quyền công an trị, mọi tà quyền tuyên truyền trị, mọi ma quyền ngu dân trị đều là bọn âm binh mang quỷ nghiệp trong điếm tri khi chúng đi ngược lại nhân lộ trong ánh sáng của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền. Bọn âm binh này mới chính là bọn phản động, theo đúng ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của từ phản động được định nghĩa và định luận là : những cá nhân, bè nhóm, đảng phái, tập đoàn lãnh đạo đi ngược lại văn minh dân chủ ; đi trái chiều với tiến bộ khoa học biết bảo vệ nhân sinh ; đi nghịch hướng với văn minh nhân tri biết bảo vệ nhân quyền, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại.
- Tri thức luận văn minh, khi tiến bộ song hành cùng văn minh là khi khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật tạo ra phát triển sản xuất để tạo thăng tiến kinh tế. Thì cùng lúc các tiến bộ và văn minh này đã phát huy dân chủ và nhân quyền ; những tiến bộ và văn minh cũng là những công cuộc đấu tranh để bảo vệ công bằng chống bất bình đẳng, để bảo đảm công lý chống bất công. Mà bất bình đẳng và bất công tới từ các chính quyền mà thực chất là bạo quyền sử dụng tà quyền để tham quyền ; là ma quyền vận dụng lạm quyền để lộng quyền ; là điếm quyền tận dụng cực quyền để cuồng quyền. Loại chính quyền âm binh này ngày đêm rình rập dân chúng bằng công an trị, ra rả qua nhồi sọ bằng tuyên truyền trị, rà rỉ qua tẩy não bằng ngu dân trị, luồn lách bằng vô học trị qua mua bằng bán cấp (học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả), để mua chức bán quyền (cao học gian, tiến sĩ giấy, học vị lừa, học hàm lận).
- Tri thức luận dân chủ, nơi đây tiến bộ và văn minh đã rõ nét trên nhiều lãnh vực, có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để bảo vệ hệ thống giáo dục quốc gia, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ của lý trí, có giáo khoa, giáo án dựa trên sự khai hóa của trí tuệ. Có hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm) biết bảo trị nhân vị, biết bảo đảm nhân quyền, và nhân phẩm luôn được bảo vệ bởi hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công luật). Chính dân chủ với tự do đầu phiếu trong tự do ứng cử và bầu cử là nơi mà nguyên khí của quốc gia là các hiền tài của dân tộc được nhập nội vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên để đa đảng được hiện diện từ chính quyền tới chính phủ. Chính tri thức luận dân chủ là điểm khởi hành trên nhân lộ của khai sáng văn minh dân chủ, để xóa đi tuyên truyền trị, để khử đi ngu dân trị, để tẩy đi vô học trị, mang hậu quả và hậu nạn của vô hậu, vì vô tri thức nên vắng chân trời.
- Tri thức luận nhân quyền, là công cuộc đấu tranh cho toàn bộ hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm,nhân vị, nhân đạo, nhân quyền, nhân phẩm). Tại đây, tri thức luận nhân quyền trực diện để chống lại tuyên truyền trị, mang chân dung của ngu dân trị, có chân tướng vô học trị, tới từ độc đảng trị là cha sinh mẹ đẻ của bạo quyền công an trị, được "chống lưng" bởi tà quyền tham nhũng trị, có "sân sau" của ma quyền tham tiền trị. Một bên là ánh sáng của nhân quyền biết tôn trọng dân chủ để tôn vinh công lý, để thăng hoa tự do công bằng và bác ái. Ánh sáng của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và ánh sáng của nhân quyền (dân chủ, đa nguyên, văn minh) tạo nên hùng lực khai sáng nhân tri để khai hóa nhân trí, để lột mặt nạ tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, để vạch mặt chỉ tên độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị.
Bạo quyền độc đảng hiện nay đi ngược lại mọi tiến hóa của nhân loại vì nhân quyền, đi nghịch hướng với tự do vì công bằng ; đi trái chiều với dân chủ vì văn minh và tiến bộ. Mà thảm kịch là tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị đã và đang hủy diệt hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) của Việt tộc, một dân tộc không hề thua kém các dân tộc láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đó là : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Nhưng giờ đây dưới sự lãnh đạo toàn trị trong ngu dân, độc đảng với vốn vô học đã biến thanh niên Việt thành lao nô, phụ nữ Việt thành nô tỳ trong các quốc gia láng giềng này. Hậu quả của vô học-vô hậu là : nô lệ, nô bộc, nô công, nô tỳ…
Hãy tổng kết lại các liên minh trong học thuật :
- Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan
- Lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí
- Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức.
Hãy đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát :
- Khoa học thuật sử tính
- Khoa học thuật bối cảnh
- Khoa học thuật so sánh
- Khoa học thuật tổng quan.
Hãy liên kết lại các liên đới trong điều tra :
- Tri thức luận lịch sử
- Tri thức luận giáo dục
- Tri thức luận chính xác
- Tri thức luận trình độ
- Tri thức luận xã hội
- Tri thức luận định chế
- Tri thức luận lãnh đạo
- Tri thức luận tiến bộ
- Tri thức luận văn minh
- Tri thức luận dân chủ
- Tri thức luận nhân quyền
Khi đã có tổng kết lại các liên minh trong học thuật, đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát, liên kết lại các liên đới trong điều tra, thì đây là lúc áp dụng mô thức học thuật của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch song" để xới tới cội, bới tới nguồn của độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị ; để đào tới gốc, tới rễ của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị.
Lê Hữu Khóa
(23/09/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.