Vô nhân – vô quốc
Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm
Vô học – vô hậu : vô nhân – vô quốc
Vô học-vô hậu là hệ lụy được phân tích trong tiểu luận này như một hệ luận : sử dụng sự thật để lý luận, vận dụng chân lý để lập luận, tận dụng lẽ phải để giải luận ; hệ luận này mang sức nặng của câu chuyện người Việt có giữ được đất nước, bảo vệ được dân tộc, bảo đảm được giống nòi hay không ? Hay ngược lại Việt tộc đang chịu đựng một sức đè vô hình có hậu quả của một hãm lực, tới từ một độc đảng toàn trị đã chọn cứu đảng hơn cứu nước, đã và đang sa vào tà lộ của phản dân hại nước, mà chỉ cần them một bước nữa là buôn dân bán nước.
Từ mật nghị Thành Đô 1990 là cứu đảng hơn cứu nước, mà đảng đây là Đảng cộng sản Việt Nam, tới nay chỉ riêng tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký với Tàu tặc khoảng 30 mật nghị khác. Bản chất mật nghị này là gì ? Nội dung của chúng ra sao ? Tại sao không cho dân tộc được biết ? Tại sao không cho xã hội được bàn bạc ? Ngược lại Đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng bỏ tù tất cả các con dân Việt yêu nước muốn các mật nghị này phải được minh bạch hóa.
Thái độ che giấu, hành vi che đậy, hành tác che phủ phải được lý giải như các hành động bất chính buôn dân bán nước, vì có tật mới giật mình, luôn sợ giấu đầu lòi đuôi, nên phải siết cổ bóp họng dân chúng bằng bạo quyền công an trị. Lấy đàn áp dân tộc qua quỷ quyền ác với dân, cùng lúc mở cửa cho Tàu tặc vì đã hứa với chúng là cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu gian bằng mật nghị, cụ thể là : hèn với giặc. Tất cả hệ lụy vô học-vô hậu làm nên hệ luận vô giáo lý-vô tương lai này đều tới từ một gốc, rễ, cội, nguồn của vô học (vắng tri thức lẫn đạo lý) đã dẫn đến vô hậu trong quy trình mất đất nước, mất giống nòi ! Không minh bạch hóa các mật nghị, không rành mạch hóa các thỏa ước với Tàu tặc trước dân tộc, trước công chúng thì không phải là chính sách ngu dân, không phải là quyết sách vô học, không phải là quyết định vô hậu thì còn là gì nữa ?
Từ đây, chúng ta phải cân, đo, đong, đếm các hệ lụy vô học-vô hậu, mà vô học không phải là chuyện bằng cấp của học vị, chứng chỉ của học hàm mà là quá trình không được giáo dục tử tế và không được giáo dưỡng đàng hoàng, bằng giáo lý biết dựa vào đạo lý (thương người như thể thương thân), biết tin vào đạo đức (máu chảy tới đâu, ruột đau tới đó). Nghịch lý mà cũng là bi kịch của các gia đình Việt còn muốn bảo vệ giáo lý làm người, với giáo huấn thương người, thì ngày ngày phải "lội ngược dòng" để chống lại tuyên truyền ngu dân của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị).
Vì chính hệ độc này sử dụng tuyên giáo, vận dụng tuyên huấn, tận dụng tuyên truyền để phục vụ cho một chính sách ngu dân trị : chặn tin tức làm nên sự thật, ngăn dữ kiện làm ra chân lý, hủy chứng từ làm rõ lẽ phải. Câu chuyện của tiểu luận này là xem, xét, nghiệm, tra chính sách ngu dân như một hằng số trong chế độ độc đảng, muốn độc quyền tuyên giáo, muốn độc tài tuyên huấn, muốn độc trị bằng tuyên truyền để duy trì không những chính sách ngu dân mà cả một chế độ sản xuất ra ngu dân, một chế độ với ý đồ thui chột hóa tri thức của Việt tộc ngay trong trứng nước !
Trong xã hội độc đảng trị hiện nay mà hậu đài là tham nhũng trị của mua chức bán quyền, mà hệ thống giáo dục mở cửa cho chuyện mua bằng bán cấp, với các hệ quả học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, với tràn lan cao học giả và tiến sĩ giấy, nên học vị giả và học hàm giả là chuyện "cơm bữa" trong phản xạ vô học, trong phản ứng vô hậu. Ngược lại, chuyện khó là chuyện học thật để hiểu thấu bằng học lực, nên học thật bằng học lực phải nhận vai trò phản biện vì tri thức để chống lại học vị giả và học hàm giả. Nhưng tại sao khi vô học lại là nguyên nhân của vô hậu ? Câu trả lời là khi không có giáo dục tử tế, và không được giáo dưỡng đàng hoàng, tức là vắng giáo lý, trống đạo lý, rỗng đạo đức, thì kẻ vô học sẽ chọn đường đi nẻo về của vô hậu qua tục quyền (ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau), qua bạo quyền (cá lớn nuốt cá bé), qua tà quyền (thừa nước đục thả câu), qua ma quyền (thừa gió bẽ măng), qua quỷ quyền (cõng rắn cắn gà nhà), qua điếm quyền (rước voi về giày mả tổ).
Khi chúng ta khẳng định bằng các định luận trên là vô học không hề là chuyện bằng cấp qua học hàm, học vị, mà vô học có phản biện là có học của con người có giáo dục và được giáo dưỡng bằng giáo lý bằng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên, bằng đạo đức có hậu của trách nhiệm với đồng bào, đồng loại, của bổn phận với đất nước, với xã hội. Từ đây, hệ vấn đề làm nên hệ luận giúp chúng ta vừa có lý, vừa có luận, để dùng thảo luận để trao luận, mà cụ thể là để chống ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của tuyên giáo độc đảng đang chủ trì hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay.
Tại các quốc gia có tiến bộ kinh tế, có phát triển khoa học, thì học sinh và sinh viên có một hệ thống giáo dục được trợ lực bởi văn minh của dân chủ, bởi văn hiến của nhân quyền giúp học sinh, sinh viên có lý trí tỉnh táo để chống bất công, có trí tuệ sáng suốt để bảo vệ công bằng, có tuệ giác nghiêm cẩn để đấu tranh vì công lý. Ngược lại, có những hệ thống giáo dục thui chột hóa lý trí, què quặt hóa trí tuệ, mù lòa hóa tuệ giác của học sinh sinh viên, đó là hệ thống giáo dục ngu dân trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam.
Hãy lấy ngay một thí dụ của khoa học giáo dục so sánh về giáo dục, giáo khoa, giáo lý, giáo trình, giáo án. Trong giáo trình của trung học phổ thông tại nhiều quốc gia Âu châu, có giáo án sử triết về các tư tưởng gia của thế kỷ thứ XVIII, tại đây các học sinh ở tuổi thiếu niên được học về ba nội dung của thế kỷ được đặt tên là thế kỷ của những ánh sáng :
- Sử dụng lý để luận, dùng lý lẽ để lập luận, dùng thảo luận để trao luận.
- Vận dụng lý để bảo vệ tự do ngôn luận và tự do phát biểu của cá nhân.
- Tận dụng lý để chống lại bất công, bạo quyền và mê tín.
Khi được học cụ thể giáo án này, các học sinh trung học phổ thông tại quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, được thầy cô hướng dẫn để phân tích là khi có một hệ thống tư tưởng giúp chúng ta vừa có lý, lại vừa có luận, thì mỗi cá nhân chúng ta được tiếp nhận ít nhất ba quyền lợi mới, để chống lại các bất công trong xã hội :
- Chống độc tài trong cơ chế chính trị.
- Chống độc tôn trong cơ chế tôn giáo.
- Chống độc quyền trong cơ chế xã hội.
Khi các học sinh trung học ở tuổi thiếu niên được học và được hiểu :
- Chống bất công là chống độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc đảng.
- Chống bất công là chống đặc lợi, đặc quyền, đặc ân, đặc sủng.
- Chống bất công để bảo vệ công bằng, để bảo đảm công lý.
Giáo trình trung học phổ thông giúp học sinh tại phương Tây của dân chủ và nhân quyền có mang hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức), biết tỉnh thức trước mọi độc tài, trước mọi đặc lợi, trước mọi bất công. Giáo trình hoàn toàn vắng mặt trong giáo dục, giáo khoa, giáo lý, giáo án của hệ thống giáo dục từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền 1945, cả giai đoạn nội chiến 1954-1975, cho tới ngày nay trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của toàn cầu hóa biết chống bạo quyền vì công lý.
Nếu cả cuộc đời đi học từ mẫu giáo tới đại học, kể cả sau đại học tới lúc học tiến sĩ tới các lớp tập huấn cho lãnh đạo cao cấp, cho cán bộ nòng cốt mà cả đời cho tới chết không được học về giáo khoa, giáo trình, giáo án để được có giáo dục và giáo lý chống bất công vì công bằng, chống độc tài bằng công lý của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để tiếp nhận hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) thì đây không phải là vô học thì là gì nữa ? Vô học trong triệt hậu không giáo lý, trống đạo lý, rỗng đạo đức, vắng luân lý, thì đây không phải là vô hậu thì là gì nữa ?
Vô học-vô hậu : vô nhân-vô quốc, không hề là câu chuyện lý thuyết của giáo lý làm nên giáo dục, mà trước hết là câu chuyện vận dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để tận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức). Để từ đây, mà nhận ra hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ), mà đứng về phía đồng bào để chống bất công tới từ nội xâm của bạo quyền công an trị, của tà quyền tham nhũng trị, của ma quyền tham tiền trị. Cả ba đang đưa Việt tộc vào quỷ lộ xâm lược của Tàu tặc, đã và đang chiếm đất, biển, đảo của chúng ta.
Vô học-vô hậu : vô nhân-vô quốc, nếu là hậu quả hiện tiền, rồi thành hệ quả của một đất nước bị xâm lược, một dân tộc bị đồng hóa, một giống nòi sẽ bị "bụi đời hóa" ngay trên quê hương của mình thì đây không phải là vô hậu thì còn là gì nữa ?
Tại đây, phải vạch mặt chỉ tên một hệ thống giáo dục độc đảng toàn trị chỉ biết tuyền truyền ngu dân để phục vụ chuyên chính vô học, để phục dịch chuyên chính vô hậu. Vạch mặt chỉ tên các tội phạm chính là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lập lý lịch vô học để họa chân dung vô hậu rồi chú giảng rành mạch chúng là những tội đồ của giáo lý, là những tội phạm của giáo dục, là những tội nhân của giáo khoa, với giáo trình ngu dân để kéo dài trong truyền kiếp vô học, với giáo án tuyền truyền để dẫn đến ngõ cụt của một nhân kiếp vô hậu.
Khi một hệ thống giáo dục tôn trọng dân chủ, tôn vinh nhân quyền, thì thiếu niên từ trung học phổ thông được học để phân giải mà phân biệt :
- Chống độc tài trong cơ chế chính trị để chống cực quyền trong lãnh đạo.
- Chống độc tôn trong cơ chế tôn giáo để chống cuồng quyền trong giáo hội.
- Chống độc quyền trong cơ chế xã hội để chống lạm quyền trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội.
Chính Voltaire là tổ sư về các phương pháp luận để chống lại hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị) từ độc đảng trong tổ chức chính trị tới độc tôn trong tổ chức tôn giáo bằng lý luận :
- Khi một độc tài muốn độc quyền, thì chính quyền sẽ trở thành bạo quyền.
- Khi một đa nguyên muốn đa quyền, thì nó sẽ tự biết đa hòa, đa bình.
Chống độc quyền bằng đa quyền, chống bạo quyền bằng đa nguyên được xây dựng ngay trên thượng nguồn bằng tự do ngôn luận song hành cùng tự do thảo luận, đây là cơ bản của dân chủ mà cũng là cơ ngơi của nhân quyền, đã có trong cơ chế của dân chủ hy lạp trước công nguyên, đã được vận dụng từ nhiều thế kỷ tại Âu châu và Bắc Mỹ, đã được các học sinh trung học phổ thông tuổi thiếu niên tại phương Tây học và hiểu từ hơn một thế kỷ qua. Các học sinh thiếu niên này :
- Không bị một bạo quyền lãnh đạo nào vu cáo là những lực lượng thù địch, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình.
- Không bị một tà quyền lãnh đạo nào vu khống là những đối tượng chống phá chính quyền, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do thảo luận của mình.
- Không bị một ma quyền lãnh đạo nào vu oan là những cá nhân hay tập thể chống người đang thi hành công vụ, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do trao luận của mình.
- Không bị một điếm quyền lãnh đạo nào dùng luật an ninh mạng để vu họa là những cá nhân hay tập thể làm mất an ninh trật tự xã hội, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do truyền thông của mình.
Các bạo quyền, tà quyền, ma quyền, điếm quyền này không phải là bọn vô học trong vô hậu thì còn là gì nữa ?
Vô học-vô hậu : vô giáo-vô luận
Hãy sử dụng sử học để soi rọi vào mọi hành động của các lãnh tụ đã lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong độc đảng toàn trị, hãy vận dụng triết học để soi rõ vào mọi hành tác của họ, rồi tận dụng chính trị học để soi sâu vào mọi chính sách của các lãnh tụ. Mà không quên trưng dụng các phương pháp điều tra của xã hội học để thấy cho thấu về đường đi nẻo về trong mạt nghiệp vô học để nhận ra sát nghiệp vô hậu của họ, chúng ta hãy nhớ lại lời dặn của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là "phải lần cho tới tận nguồn lạch sông", và nên bắt đầu với lãnh tụ cha sinh ra chế độ độc đảng toàn trị trên đất nước là Hồ Chí Minh.
Thực chất vô minh, khi Hồ Chí Minh rời đất Việt để tới đất Pháp của bọn thực dân, mà đám xảo nghiệp tuyên giáo đặt tên là : "Bác đi tìm đường cứu nước", đây là câu chuyện nửa hư nửa thật, mà hư nhiều hơn thật, với các chứng từ mà tôi tìm được trong văn khố Pháp, đó là những đơn từ do chính tay Hồ Chí Minh viết xin thực dân được vào học trường thuộc địa của chúng. Hồ Chí Minh có các toan tính tư lợi của riêng ông, mọi người đều có thể thông cảm với ông, nhưng ông xin vào trường thuộc địa của thực dân là để phục vụ thực dân ngay trên thuộc địa Đông Dương thủa ấy. Mà đất này chính là quê hương của ông, nơi mà đồng bào của ông đang chịu ách nô lệ, thì ông phải trả lời cho rõ là thủa thanh niên của ông với lý trí minh mẫn, với trí tuệ tinh thông thì tuệ giác tỉnh táo của ông đã chọn phía nào ? Phía dân tộc hay phía thực dân ? Câu chuyện này không hề được Hồ Chí Minh trả lời khi ông sống. Vào thời điểm mà thực dân làm chúa lẫn làm chủ, bình thường thì các thí sinh muốn vào trường thuộc địa để vinh thân phì gia. Những đứa này bị nhân dân đặt tên là : Việt gian, Hồ Chí Minh muốn vào trường thuộc địa để "cứu nước" thì phải có từ dữ kiện tới chứng từ ngược lại, vì "cứu nước" và "bán nước" là hai thái cực, không hề "đội trời chung". Có nhiều người muốn cứu nước mà họ đâu cần phải xin vào trường thuộc địa, vì giáo dục, giáo khoa, giáo tình, giáo án của trường thuộc địa thì hoàn toàn ngược lại với tri thức yêu nước và nhận thức cứu nước. Bọn tụ hợp để học tập tại trường thuộc địa thì chỉ là đám phản dân hại nước, lũ buôn dân bán nước…
Nội chất vô học, khi bọn tuyên giáo làm chuyện tuyên truyền ngu dân không hề dám đá động gì đến chuyện đơn xin vào trường thực dân của ông, thì đối với các chuyên gia đã nghiên cứu về các chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị, họ đều biết chủ tịch đảng là chủ mưu bằng sát nghiệp để cướp chính quyền, thì bọn tuyên giáo làm chuyện đánh lận con đen ngay trên lịch sử là chuyện dễ hiểu của loài xảo nghiệp trong điếm lộ mà thôi. Chỉ tội cho các thế hệ sinh sau đẻ muộn, cùng lúc tôi nghiệp luôn cho số phận Việt tộc, đã một thế kỷ kể từ ngày ông đặt chân lên xứ thực dân Pháp để xin phục vụ cho chế độ thực dân. Cả một dân tộc phải chịu đựng trọn một thế kỷ với một tà nghiệp của loài ăn không nói có, với sát nghiệp cướp chính quyền, bằng xảo nghiệp cờ gian bạc lận ngay trong Việt sử cận đại! Nếu ta không nghi ngờ gì nhiều về lòng yêu nước của Hồ Chí Minh muốn giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, thì ta có thể đặt các câu hỏi về đường lối cùng chính sách dùng bạo lực để cướp chính quyền của ông và các đàn em, đàn cháu, đàn con của ông chung quanh đảng Đảng cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau biệt hiệu vô sản là thực chất vô minh, bản chất vô tri, nội chất vô học, đám tuyên giáo xảo nghiệp trong tà lộ đã đưa một lý lịch lập lờ đánh lận con đen. Từ đó, ỡm ờ trong bất chính ngay hệ thống giáo dục quốc gia, thì đây phải là vô học nói liều đã làm ra cái vô hậu nói điêu. Các chuyên gia trong giới nghiên cứu phương Tây về lý lịch của Hồ Chí Minh phải từ "nực cười" qua "té cười". Muốn chống vô học trong vô hậu, hãy đường đường chính chính, bằng quang minh chính đại mà trả sự thật về với chân lý để lẽ phải có danh chính ngôn thuận trong hệ thống giáo dục quốc gia biết chống ngu dân trị, biết khử tuyên truyền trị, biết trừ vô học trị.
Bản chất vô tri, cũng về lý lịch của Hồ Chí Minh, với bút hiệu Nguyễn Patriote ký trong một số bài báo Humanité là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp, không chỉ là của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này, mà là của nhiều trí thức Việt kiều thời đó, trong đó có Nguyễn Thế Truyền. Để giải luận cho chuyện này, tôi vận dụng từ dữ kiện tới chứng từ, từ giải luận tới diễn luận là Nguyễn Ái Quốc không được học tiếng Pháp từ khi còn ở bên nhà, khi qua Pháp lại phải đi làm nhân công, không được học tiếng Pháp đàng hoàng, đầy đủ để mà viết báo. Mà ngay như những bài mà Nguyễn Ái Quốc có viết cũng cần phải một hay nhiều người sửa chữa về ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp mới được gởi đi đăng. Chuyện nhờ người đọc lại để sửa cho ổn về về ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp trong giới trí thức Âu châu là chuyện rất bình thường, các tư tưởng gia, các lý thuyết gia viết Pháp ngữ loại hàn lâm vẫn gởi bài cho nhau, để người này giúp kẻ kia đọc lại để sửa, chỉ có sửa đi sửa lại thì bài mới là bài, mới gởi đi để đăng. Vì "bút sa gà chết" mà ; vì "sai con toán bán con trâu" mà ! Khi trở lại Việt Nam hàng năm để nghiên cứu, khi nghe một loại tuyên truyền là : "Bác Hồ viết tiếng Pháp rất giỏi, rất hay", người tôi như bị "nổi da gà".
Có lần, trong một chương trình được đài truyền hình quốc gia, tôi nghe rõ mồn một từ giọng lưỡi của một nhân vật được gọi là giáo sư, một chuyên gia về "Bác Hồ", đứng thuyết giảng trước hàng trăm học viên của học viện với tên gọi là trường đảng của Đảng cộng sản Việt Nam là : "Bác Hồ biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng". Tối hôm đó trong khách sạn, tôi thấy rõ ràng mình bị từ "lợm giọng" đang chuyển sang trạng thái "buồn nôn". Và tôi đã nôn thật sự ! Vì tôi luôn bị dị ứng từ rợn da lên tới rợn não trước những sự điêu ngoa, nhất là khi nó trắng trợn vỗ ngực xưng danh về chuyện nói điêu, nói gian, nói liều, nói láo, nói ngoa, nói xảo, nói xạo của nó. Tôi sinh hoạt tri thức thường xuyên với các chuyên gia của ngôn ngữ học của Ecole des hauts études de sciences sociales, Fondation de la Science de l’Homme, Collègue de France… cho tới nay đã gần nửa thế kỷ trong học thuật, thú thật là tôi chưa biết ai : "Biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng". Và tôi đã hỏi các đồng nghiệp là chuyên gia ngôn ngữ học là họ có biết ai : "Biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng", thì họ đều trả lời là : "Chưa thấy nên chưa biết !".
Cái vô học nó hiện diện ngay trong tuyên truyền trị của loại ăn không nói có, nó lộ diện ngay trong ngu dân trị kiểu thay đen đổi trắng, nó giấu đầu lòi đuôi ngay trong vô học trị từ khi vốn vô học trong các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam ngự trị trong độc đảng toàn trị từ ngày lập đảng 1930 tới nay đã gần một thế kỷ, với những tuyên ngôn vô học trong vô hậu :
- Lê Duẩn tuyên bố : "Chúng ta làm cách mạng nên không cần luật học", trong hoạn cảnh của một chế độ dùng bạo quyền diệt nhân quyền bằng luật rừng…
- Nông Đức Mạnh khuyên nên "canh tác loại cây này, chăn nuôi loại thú kia", ngay trong bối cảnh của các đô thị, của các thành phố…
- Nguyễn Xuân Phúc giảng dạy mỗi khi đi thăm một tỉnh, một vùng, một thành phố thì thúc các tỉnh, các vùng, các thành phố phải là "đầu tàu cho cả nước", một đất nước mà đầy dẫy những đầu tàu mà không cần định hướng…
- Nguyễn Phú Trọng, tự hào "chưa bao giờ đất nước được như ngày hôm nay" trong bối cảnh bao triệu đồng bào đã và đang bỏ nước ra đi, với thảm cảnh trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng (Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc…).
Mà chúng ta biết rõ các quốc gia láng giềng có cùng một văn hóa trong cùng nôi tam giáo đồng nguyên với chúng ta, cụ thể là họ không thông minh hơn dân tộc Việt, tại sao con dân Việt phải đi làm tôi tớ cho họ ? Phải chăng vốn vô học của các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã độc quyền trong vô học trị, độc tài trong ngu dân trị, độc tôn trong tuyên truyền trị, đã độc trị bằng công an trị, đã biến thanh niên, thiếu nữ thành ra đày tớ cho thiên hạ ! Đây không phải là vô học trong tôi đòi làm nên vô hậu trong tôi mọi thì còn là gì nữa ?
Trong khi đó các thiếu niên là học sinh trong giáo trình trung học phổ thông tại các quốc gia đã và đang có văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền thì các học trò phương Tây được học về thế kỷ XVIII, thế kỷ mệnh danh là thế kỷ của ánh sáng biết khai sáng nhân tri để khai phá nhân trí. Các học sinh thiếu niên nay được học về nội dung của bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot, trong đó mọi khám phá khoa học và kỹ thuật, kể cả nghệ thuật được xếp loại và giải thích theo chuyên môn, chuyên khoa, chuyên ngành. Chuyện khai trí cho nhân sinh không hề là chuyện lý thuyết ; chuyện khai minh cho nhân loại không hề là chuyện trừu tượng ; đó là chuyện liêm chính của kiến thức biết bảo vệ liêm sỉ cho tri thức.
Vô học-vô hậu : vô tri-vô trí
Chuyện gì đã xẩy ra trong thế kỷ XVIII, với các triết gia, các tư tưởng gia, mà nhân loại đặt tên thế kỷ này là thế kỷ của những ánh sáng (siècle des lumières). Những ánh sáng tức là của nhiều ánh sáng, từ khoa học kỹ thuật tới sáng tạo nghệ thuật, nhất trong khoa học xã hội và nhân văn, nơi mà triết học nhận vai trò chủ đạo để bảo về tự nhân quyền tới nhân phẩm :
- Montesquieu, tại Pháp quốc, thân phụ của lý luận tam quyền phân lập, trong tam quyền có hành pháp, lập pháp, tư pháp, và cụm từ phân lập vừa phải hiểu là phân lập, vừa phải hiểu là phân định. Tách biệt cho rõ ràng để tách hẳn trong minh bạch ba loại quyền lực, mà cả ba đều phải chịu sự chỉ đạo của luật : lập pháp bảo vệ luật, hành pháp thi hành luật, tư pháp vận dụng luật để xử. Tư tưởng gia này kết luận nếu chỉ một người, một nhóm, một đảng mà nắm cả ba quyền lực một lúc : hành pháp, lập pháp, tư pháp thì cuối cùng nó sẽ mất cả ba, mà trong quá trình nó đánh mất cả ba, thì nó đã gây ra bao tổn hại, bao khổ nạn cho dân tộc, cho đất nước, cho xã hội đã là nạn nhân của sự độc quyền của nó.
- Kant, tại Đức quốc, đề nghị khi chúng ta nói về hạnh phúc của một dân tộc, về an sinh của một xã hội, thì chúng ta nên nói cho rõ là hạnh phúc của một tập thể, an sinh của một cộng đồng chính là công ích xã hội. Mà công ích xã hội này phải được phân phát rộng rãi, phân chia công bằng, phân trao càng rộng càng tốt, chính con số ngày càng đa số, ngày càng nhiều trong dân chúng được hưởng công ích xã hội nói lên tính liêm chính của các chính sách an sinh xã hội. Công bằng là nền móng và công ích là vách mái cho công lý, nên chức năng của công lý là bảo vệ công lợi của quốc gia, vì dân tộc và nhân loại.
- Hume, tại Anh quốc, đã phân tích rõ là một chính quyền liêm chính là một chính quyền không cần ý thức hệ, nên chẳng cần giáo điều để làm danh hiệu cho nó. Chính quyền liêm chính này chỉ cần giải quyết một cách rộng rãi nhất công bằng xã hội, từ tổ chức lao động tới phân chia các công ích xã hội. Mục đích làm nên mục tiêu, một chính quyền liêm sỉ chỉ cần bảo vệ công bằng và công lý, nó loại bất công vừa bằng kinh tế, vừa bằng luật pháp, phương châm của nó là công ích trong công bằng, an sinh trong công lý.
Không cần phải kể thêm các ngôi sao khác trong thế kỷ này đã xây dựng trọn vẹn từ lý luận đến thực tiễn cho văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền, họ đã có mặt và có sự nghiệp tư tưởng trước Marx là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản khoảng một thế kỷ, trước Lenin là cha ruột của chế độ cộng sản khoảng hai thế kỷ. Giờ đây thì mọi chuyện đã rõ, từ chủ nghĩa cộng sản đến chế độ cộng sản, tất cả đều đã sụp đổ vào cuối thế kỷ qua, cụ thể là thời điểm 1990, chính là ngày tận thế của cả hai. Riêng tam quyền phân lập, đại diện cho văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền còn đứng vững, ngày càng lan rộng, chỉ vì văn minh và văn hiến này đã bảo vệ vừa tiến bộ cho nhân sinh, vừa tiến hóa cho nhân phẩm.
Trong tất cả tuyên bố và văn bản của ông là Hồ Chí Minh, tôi đều không thấy từ phân tích tới giải thích về các triết gia, các tư tưởng gia của thế kỷ XVIII này, theo tôi chỉ có vài ba giả thuyết về sự vô tri này :
- Ông không biết gì về gốc, rễ, cội, nguồn của văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.
- Ông không đọc gì về cành, lá, hoa, trái văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.
- Ông không hiểu gì về chiều cao, chiều sâu, chiều rộng, chiều dày văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.
Đây không phải là vô minh thì là gì nữa đây ? Câu chuyện văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền vẫn là câu chuyện phân minh để phân định giữa chuyên chính vô tri và dân chủ minh tri :
- Văn minh dân chủ là một cuộc cách mạng rộng rãi nhất với tam quyền phân lập nhưng lại thường hay bị những lãnh đạo cộng sản chụp mũ rồi vu cáo là sản phẩm của tư sản, của tư bản, đây là loại vu khống rất hồ đồ, vì nếu để mọi dân tộc chọn lựa giữa độc đảng trong chuyên chính vô sản-vô học và đa nguyên trong đa đảng để vận dụng tối đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu… thì chắc chắn độc đảng sẽ thảm bại và phải giải tán trước đa nguyên. Không một chế độ độc đảng toàn trị nào hiện nay đang sống sót (Cuba, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam) có đủ liêm sỉ chính trị với liêm chính chế độ mà tổ chức tự do đầu phiếu. Vì chính quyền mà các độc đảng này đang nắm chính là của cướp được (cướp chính quyền), khó có chuyện kẻ cướp của lại trả lại của cải cho nạn nhân của nó.
- Văn hiến nhân quyền là một cuộc cách mạng sâu xa khi công bằng phải là nền của nhân lý, khi công lý phải là gốc của nhân tri để bảo vệ nhân vị bằng nhân bản và nhân văn. Nơi mà nhân quyền có mặt thì tự do của nhân lý và nhân trí sẽ có mặt ; nơi mà nhân quyền xuất hiện thì bác ái của nhân tâm và nhân từ sẽ xuất hiện ; nơi mà nhân quyền hiện diện thì công ích xã hội xuất hiện cùng với xã hội dân sự, luôn thông minh trong sáng tạo để bảo vệ và bảo đảm an sinh xã hội. Các lãnh tụ cộng sản thường tự vỗ ngực trong múa gậy vườn hoang để tự phô trương tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa, đây là lúc so ra mới biết ngắn dài theo giáo lý của tổ tiên Việt. Vì tự vỗ ngực rồi tự phô trương là mình ưu việt hơn người chỉ là trò láo, gian, xảo, lận, hãy phân tích công ích xã hội, an sinh xã hội như hai chỉ báo thực ; và phân định dân chủ, đa nguyên là hai chỉ báo nguồn, đã làm nên nhân quyền thì mọi việc sẽ được minh bạch ngay.
Từ ngày Hồ Chí Minh mang danh hiệu "ra đi tìm đường cứu nước" tới bây giờ đã là một thế kỷ, với chế độ độc đảng toàn trị không dân chủ, cũng chẳng nhân quyền, thì tri thức về tam quyền phân lập trong quy luật của đa nguyên không hề có chỗ đứng ghế ngồi trong độc đảng toàn của Đảng cộng sản Việt Nam ! Cụ thể sau một thế kỷ khi bị gieo trồng chuyên chính vô sản thì tất cả thế hệ sau Hồ Chí Minh do độc đảng giáo dục, do toàn trị giáo dưởng thì họ cũng không biết gì thêm về thế kỷ XVIII với những ánh sáng của dân chủ, của nhân quyền.
Đây là hậu quả mà cũng là hệ lụy của chế độ do Đảng cộng sản Việt Nam cố tình duy trì cho tới nay chỉ để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong chuyên chính vô học-vô hậu. Mà ai cũng biết là mọi chính sách ngu dân đều dựa trên ý đồ ngu dân tập thể trong hành vi, ngu dân cộng đồng trong hành động, ngu dân giống nòi trong hành tác. Hậu quả ngu dân không sao lường hết được, nơi mà vốn vô học của nó đã thành quyết sách vô học hóa để trùm phủ lên nhân kiếp của Việt tộc, chủ xướng bởi tuyên truyền trị, chủ trì bởi ngu dân trị, chủ đạo bởi vô học trị. Lấy cái vô học để vùi lấp cái có học, bằng ý đồ truy diệt tới tận gốc rễ hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức).
Cái vô học của các lãnh đạo cộng sản không có học lực bằng học thật thì chúng luôn mượn giai cấp công nhân và nông dân vốn không có được các điều kiện thuận lợi để học hành tới nơi tới chốn ra làm bình phong ; từ đó giật dây hai giai cấp này trong đấu tranh giai cấp, mà thực chất là thanh trừng tri thức. Nơi đây, trí thức là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp để phủ lấp cái vô học của các lãnh đạo cộng sản, với ý đồ như hằng số trong toán học là thanh trừng cái có học, như hàm số trong toan tính thâm độc để thanh toán hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức). Khi cướp được chính quyền rồi, thì chính hai giai cấp công nhân và nông dân không hề được giáo dục tử tế, được giáo dưỡng đàng hoàng, với giáo khoa có lớp lang thứ tự của khoa học, với giáo trình có dây mơ rễ má của dân chủ, với giáo án lấy học thật làm học lực của nhân quyền, để nhận học vị trong liêm chính, để nhận học hàm trong liêm khiết.
Sau gần nửa thế kỷ hết chiến tranh, thống nhất đất nước với độc đảng toàn trị kiểu Đảng cộng sản Việt Nam từ định chế tới cơ chế, từ giáo dục tới hướng nghiệp, thì cả dân tộc trong đó có hai giai cấp công nhân và nông dân mang tiếng được đi học, nhưng họ lại phải nhận cả một quá trình mua bằng bán cấp với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ; giả vì hữu danh vô thực. Có học vị mà không phải là chuyên gia trong chuyên môn của mình ; có học hàm mà không biết chuyên ngành cùng chuyên khoa của mình là gì ; để tới khi chính các chuyên gia thực thụ hỏi về học lực tức là học thật qua trường thật-học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật thì không trả lời được. Có học vị, học hàm mà không có học lực tức là học thật nên tránh hội luận, trốn hội thảo, chuồn hội nghị về chuyên môn, chuyên ngành, chuyên khoa, tức là chuyên nghiệp của mình. Trong trà dư tửu hậu thì từ chê bai tới mạt sát nhau là : cao học giả, tiến sĩ giấy… lấy chuyện mua bằng bán cấp ra để mua chức bán quyền, để phỉ báng nhau trước bàng quan thiên hạ rồi tự vỗ ngực để tự nhận là mình : khôn lanh hơn người. Khi bị đồng bào hỏi lại ngược lại : dân tộc cần người khôn có thông minh biết yêu nước thương nòi, chớ không hề cần bọn lanh (đầu khờ miệng lanh) trong buôn gian bán lận từ bằng câp tới lý lịch, thì lại đớ lưỡi, cứng họng, nghẹn cổ mà chẳng trả lời được ! Đây không phải là vô minh thì là gì ? Đây không phải là vô tri thì là gì ? Đây không phải là vô học thì là gì ?
Vô học-vô hậu : vô hiến-vô pháp
Hậu quả của vô học là nên hậu nạn của vô hậu có ngay trong thượng nguồn của hiến pháp làm cơ sở cho mọi hạ nguồn của pháp luật có mặt để bảo vệ tự do và công bằng, trong công lý của công luật. Chuyện gì đã xẩy ra từ cuối thế kỷ XVII qua tới thế kỷ thứ XVIII, được gọi là thế kỷ của văn minh dân chủ, thế kỷ của văn hiến nhân quyền ; mà thiếu niên là học sinh trung học phổ thông của các quốc gia có tiến bộ khoa học, có phát triển kinh tế lại được thừa hưởng một nền giáo dục có nhân dạng của nhân quyền, có nhân trí của nhân vị :
- Condorcet, một nhà toán học của Pháp quốc, giới thiệu số lượng trong toán học cũng là quá trình của lý trí trong định lượng, một chính quyền liêm chính không tới tự quân chủ chỉ biết phục vụ vua chúa, không tới tự tôn giáo chỉ biết phục dịch quyền lợi của giáo hội, mà nó phải tới tự số đông trong xã hội đó là dân chúng, đó là dân chúng, đó là đại đa số của một dân tộc. Như vậy, phương pháp số lượng toán học của đại đa số chính là phương pháp tổ chức chế độ và cơ chế từ dưới lên trên, từ dưới của đại đa số dân chúng lên tới trên cấp chính quyền để bầu cử ra một chính phủ biết bảo vệ quyền lợi của đại đa số.
- Locke, một bác sĩ tại Anh quốc có đầy đủ kiến thức triết học, một tư tưởng gia với trọn vẹn kiến thức của chính trị học, đã nhận ra cái bất chính các chuyên chế từ quân chủ tới giáo hội, luôn khai thác độc quyền để lạm quyền. Muốn loại bỏ đặc quyền của các chuyên chế này ra khỏi nhân sinh thì phải gạt chúng bằng sự khai sáng của cái lý : cái lý của tự do, cái lý của công bằng, cái lý biết bảo vệ công lý. Mà tự do, công bằng, công lý phải được công nhận bằng một khế ước xã hội biết tôn trọng dân tộc, biết tôn vinh tự chủ của mỗi công dân. Nên một chính quyền có chính danh là một chính quyền biết bảo vệ tự do, công bằng và công lý, vì biết mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân, cho đại chúng.
- Jefferson, một luật gia của Mỹ quốc, đã thừa hưởng mọi kiến thức từ khoa học tới kinh tế, từ dân chủ tới nhân quyền của thế kỷ XVIII, để xây dựng và chính là cha đẻ ra Hiến pháp của Mỹ quốc. Mặc dầu ông không giãi quyết dứt khoát chế độ nô lệ đang uy hiếp người da đen, nhưng ông đã cho ra đời một hiến pháp với tam quyền phân lập. Một hiến pháp được ra đời mà không kinh qua một kinh nghiệm quân chủ hay tôn giáo nào, một nền dân chủ không cần vua, không cần chúa. Hiến pháp của Mỹ quốc đã làm nền cho bản Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp, mà nó còn là rường cột của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền nơi mà hai quyền làm người được công nhận : quyền tự do ngôn luận qua quyền tự do báo chí ; và quyền có công bằng không những trước luật pháp, mà còn là quyền được hưởng công bằng trong mọi cơ may để thành công trong xã hội.
Khi gặp các đại biểu Việt hiện nay của quốc hội Việt đang đại diện cho lập pháp, các chuyên gia của khoa học xã hội và nhân văn mới "vỡ lẽ" ra là các đại biểu này không có kiến thức lẫn tri thức về :
- Các tác giả có tác phẩm đã làm nền móng cho cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), đã làm rường cột dân chủ (đa nguyên, đa đảng) trực tiếp phục vụ cho nhân quyền. Cụ thể là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì họ không đọc các tư tưởng gia đã đặt nền tảng từ định đề tới định luận về công bằng xã hội, về tự do ngôn luận.
- Các tác giả có tác phẩm làm gốc cội cho tam quyền phân lập. Rõ ràng là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì là họ không đọc các tư tưởng gia đã khai sáng từ giải thích tới giải luận quy trình tam quyền phân lập.
- Các tác giả có tác phẩm về công ước xã hội của Rousseau, khế ước xã hội của Locke ; các khoa học gia như Buffon, Condorcet, Newton vận dụng cái lý trong khoa học để đề nghị tận dụng cái lý trong tổ chức xã hội, tổ chức chính quyền, tổ chức luật pháp. Rõ như ban ngày là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì là họ không đọc các tác phẩm của các tác giả này.
Nếu độc đảng toàn trị giả danh dân chủ, giả hiệu tam quyền phân lập với các đại biểu hiện nay của Quốc hội vô kiến thức về dân chủ, vô tri thức về tam quyền phân lập. Họ có được chỗ, được ghế đại biểu qua buôn gian bán lận kiểu đảng cử dân bầu, hoặc họ thuộc loại chạy ghế đại biểu, chạy chỗ trong quốc hội bằng tiền kiểu mua chức bán quyền, qua hệ thống tham nhũng cũng do đảng lãnh đạo và quản lý. Từ đây, số phận của dân tộc là phải sống với quốc hội giả, nhân kiếp của giống nòi là phải sống với lập pháp gian, đây không phải là hậu quả của vô học làm nên hậu nạn trong vô hậu thì còn là gì nữa ?
Học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để mua một chức quyền thật thì chỉ là chuyện đánh lận con đen, mạo danh thì không sao có được chính danh lập pháp của chính nghĩa lập hiến. Nếu mạo danh tam quyền phân lập, mạo dạng dân chủ với buôn gian bán lận bằng cao học giả, tiến sĩ giấy, bằng bằng cấp nơi mà học vị, học hàm mà không hề qua học thật bằng học lực, thì cũng chỉ là bọn buôn bằng bán cấp để buôn chức ban bán quyền mà thôi ! Bọn này sẽ không dám vào đào thật sâu nội dung của công bằng, xới thật rộng nội hàm của tự do, khơi thật cao nội lực của dân chủ. Hãy hỏi họ một vài câu :
- Tại sao hiến pháp có quy định về tự do ngôn luận cùng như tự do phát biểu và tự do báo chí; mà họ lại "bỏ phiếu thuận" cho một đạo luật quái thai kiểu âm binh là luật an ninh mạng, để trấn áp tự do ngôn luận, để đàn áp tự do phát biểu trên mạng xã hội ? Đây có phải hành tác điếm đểu, kiểu Sở Khanh (Nói lời rồi lại quên lời như chơi) ?
- Tại sao một chủ tịch quốc hội lại thúc hối các đại biểu phải mau mau bỏ phiếu cho luật đặc khu, vì Bộ chính trị đã quyết định rồi. Lập pháp là quốc hội phải đại diện cho nhân dân để bảo vệ luật, chớ sao lại cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối rồi bấm nút theo lệnh của bạo quyền độc đảng? Đây không phải là hành động điếm lợi, kiểu Tú Bà (Đưa người của trước, rước người cửa sau) ?
- Tại sao lại có một Tổng bí thư kiêm cả chức Chủ tịch nước lại tuyên bố là điều lệ và nội quy của Đảng cộng sản Việt Nam thì cao hơn, quan trọng hơn cả Hiến pháp, tại sao lại dám tự cho phép Đảng cộng sản Việt Nam đi trên lưng luật pháp, dẵm lên vai công pháp, đạp lên đầu Hiến pháp ? Đây có phải hành vi điếm quyền, kiểu Má Giám Sinh (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng) ?
Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám sinh là loại vô học, là loài vô hậu, chúng không những trống hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chúng còn rỗng luôn cả hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ), nếu đây không phải là vô học vì vắng hệ thức, nếu đây không phải là vô hậu vì biệt hệ liêm thì còn là gì nữa ?
Hãy đi thêm bước nữa về ba tư tưởng gia trên để hiểu sâu hơn về dân chủ, hiểu rộng hơn về tự do, hiểu cao hơn về công bằng, hiểu xa hơn về nhân quyền :
- Condorcet, một dân chủ chính danh vì có chính nghĩa phải bảo đảm được ít nhất 5 điều : bảo đảm con người, bảo đảm tự do, bảo đảm tài sản, bảo đảm tự do có tài sản, bảo đảm trọn công bằng về tự do, về tài sản.
- Locke, một dân chủ chính hiệu phải có chính nghĩa về công bằng, phải hiểu và bảo vệ vừa bình đẳng, vừa công bằng, nơi mà bình đẳng xã hội và công bằng xã hội phải được xem ngay từ đầu bình đẳng tự nhiên, công bằng tự nhiên, không phải là một ân huệ được ban pháp bởi một quyền lực nào cả.
- Jefferson, tự do phát biểu chính kiến chính là tự do chính trị làm nên tự do xây dựng một thể chế, một chế độ có công bằng dựa trên toàn bộ xã hội, với tự do cho tất cả công dân, có nhân quyền nơi mà mọi công dân được mưu cầu hạnh phúc ngay trong xã hội mà mình đang sống, đang lao động.
Khi tổng kết các lý luận trên để có một tổng luận chỉnh lý, thì ta nhận ra :
- Tự do vận dụng lý luận để thiết lập ra dân chủ thì nó tự hoàn thiện hóa bằng nhân lộ của công bằng.
- Tiến bộ của nhân sinh phải là sự chia sẻ nhân tri và nhân trí không những trong mọi khám phá về khoa học kỹ thuật, mà cả trong mọi khai phá về nhân quyền.
Những tư tưởng gia của nhân quyền, nhưng triết gia của dân chủ chính là những chủ thể trực diện đấu tranh chống bạo quyền, chống độc tài, họ dấn thân và họ đã bị đàn áp rồi bị tù đày, trong đó có trường hợp của kịch giả Beaumarchais, của nhà toán học Condorcet, của khoa học gia Diderot, của tư tưởng gia Voltaire... Chính trong bóng tối của độc quyền quân chủ tuyệt đối ngày ngày bòn rút tới tận xương tủy của dân tộc Pháp trong thời cuộc của thế kỷ XVIII, Condorcet vững tin vào ánh sáng của lẽ phải : "Có một ngày mà ánh sáng trên trái đất này chính là tự do, nơi mà con người không còn bị nô lệ bởi bất cứ một quyền lực nào, ngoài quyền lực của cái lý vì tự do".
Vô học-vô hậu : vô lương-vô liêm
Nếu nhận ra vô học là vô tri thức dẫn tới vô hậu là vô tương lai, mà nguyên nhân chính là không có đủ kiến thức để có những định hướng, những dự phóng, những phương án để thăng hoa hay để tồn tại trong mai hậu. Như vậy thì xã hội Việt hiện nay đã và đang đi sâu vào tà lộ của vô học-vô hậu. Tại đây, chỉ cần soi xét ba chỉ báo để nhận ra chân dung của hậu quả vô học và chân tướng của hệ lụy vô hậu.
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền bằng vốn vô học của họ dựa trên công an trị, đang điều hành chính phủ bằng tuyền truyền trị, cụ thể là đang điều khiển không những tổ chức chính trị mà cả tổ chức kinh tế, tổ chức khoa học, tổ chức xã hội bằng ngu dân trị. Các lãnh tụ trước đây và các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có điều kiện được học hành trước khi lãnh đạo thì đây không phải là một cái tội. Nhưng khi họ nhận các chức năng trong quản lý trong chính quyền, nhận các chức vụ trong quản trị trong chính phủ mà không chịu học hỏi là một cái lỗi lớn. Và với chức quyền mà họ đang nắm hiện nay họ còn thông đồng hoặc thỏa hiệp với ma trận học-giả-thi giả-điểm giả-bằng giả không những cho họ mà cho thân thuộc của họ trong tà giới quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ. Mà trực tiếp hay gián tiếp diệt trí tuệ, triệt nguyên khí quốc gia, chặn những chân tài, ngăn những thực tài của dân tộc, thì đây là một cái tội, một tội rất lớn! Đây vừa là chân dung của vốn vô học làm nên chân tướng tướng vô học trị.
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền có những tướng trong từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an, đã phá kỷ lục thế giới về số lượng hơn 500 tướng, cụ thể là phá kỷ lục về mua chức bán quyền. Đám tướng này có chức tướng không hề qua kiến thức an ninh quốc phòng, lẫn tri thức trật tự xã hội của một thể chế văn minh biết dựa vào một dân tộc có văn hiến. Mà lũ tướng này, dân chúng gọi là tướng cướp, các tướng của Bộ Quốc phòng thì biến đất quốc phòng thành đất kinh doanh, ăn đất để ăn tiền. Cùng các tướng của Bộ Công an đã tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong sào huyệt của Bộ Công an, nơi mà các tướng công an trở thành những tên đầu nậu, lấy xâu bài qua chủ cái bằng tham nhũng lên tới bạc tỷ mỗi tháng. Đây là là chân dung của tham ô trị làm nên chân tướng tướng vô học trị có anh em sinh đôi là tham nhũng trị.
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an đã liên minh với côn đồ, lưu manh, du đảng mà tên gọi thông dụng là xã hội đen để tiếp tục làm đầu nậu từ đất đai tới các dịch vụ phạm pháp trầm trọng nhưng lại được được các tướng bảo kê. Chúng sẵn sàng phá nhà để cướp đất của dân ; biến dân lành, dân đen một sớm một chiều thành dân oan trong với thảm họa màn trời chiếu đất, với thảm cảnh đầu đường xó chợ. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng côn đồ trị.
Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an liên minh sử dụng côn đồ, lưu manh, du đảng của xã hội đen để hành hung, khủng bố, truy diệt các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì tiến bộ, vì văn minh, đây là những đứa con tin yêu của Việt tộc, chính các chủ thể này đại diện cho có học-có hậu để chống lại tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô hậu. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng vô học trị.
Chỉ với vài chỉ báo này trong hàng trăm, hàng ngàn chỉ báo khác tạo dựng lên của tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô hậu, chúng ta hãy cùng nhau nhận ra nội dung và nội hàm của có học-có hậu, trước hết qua đạo đức được kết tinh bằng đạo lý của hai hệ :
- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) có tình cảm chân thiện ăn hiền ở lành, thì sẽ dễ có tâm cảm thương người như thể thương thân, từ đó sẽ nhận ra sức liên kết giữa quá khứ-hiện tại-tương lai trong phương trình ăn ở có hậu chính là cốt lõi của lương tri, một tri thức biết nhận ra điều hay lẽ phải.
- Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) để trong sạch khi học làm người, trong sáng khi nhận trách nhiệm và khi lảnh bổn phận trước đồng bào, đồng loại; lại biết giữ sĩ diện cho mình và cho người bằng sự tôn trọng lẫn nhau qua công bằng xã hội, qua công lý của pháp luật.
Hai hệ lương và liêm dựng lên đạo đức được kết tinh bằng luân lý trách nhiệm và bổn phận, sẽ mở ra hai hệ khác chính là giáo lý của dân chủ luôn có cùng một dòng sinh mệnh với có học-có hậu :
- Hệ công (công bằng, công lý, công tâm) công bằng xuất hiện vì con người luôn muốn xóa bất bình đẳng trong nhân sinh; công lý trực diện với bất công bằng đạo lý và luật pháp để chống lại bất công. Và công tâm cũng có mặt để trợ lực cho công lý có thêm tình người, biết hiểu hoàn cảnh để thấy cho thấu tâm cảnh, từ đó có tâm cảm trong rộng lượng, trong khoan dung, biết lấy từ tâm để trợ duyên cho công tâm.
- Hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng), nơi mà tự do là nhân quyền cơ bản để vừa bảo vệ công bằng giữa mọi người, vừa giúp mọi người được mưu cầu hạnh phúc cho chính bản thân của mình. Với lực tự chủ từ học hành tới nghệ nghiệp, từ kinh tế tới xã hội, từ văn hóa tới giáo dục, luôn được củng cố bằng lòng tự tin vào công lý trong giáo dục lương thiện, trong giáo dưỡng liêm chính, để có tự trọng với tư cách có học trong nhân cách có hậu.
Khi hai hệ lương và liêm của đạo đức biết chung lưng đấu cật với hai hệ công và tự của công lý, thì dân tộc được tiến bộ, giống nòi được thăng hoa, qua hai hệ tinh anh của có học-có hậu :
- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) bằng vốn liếng của Việt tộc đã là một minh tộc biết dựng nước và giữ nước bằng chính sự thông minh của mình, với tri thức tinh tế về đất nước, về địa dư, về tiềm năng… Thông minh được thể hiện, được hành tác bằng sự thông thạo vận dụng các tiềm năng có sẵn, tận dụng lòng yêu nước của Việt tộc luôn là một dũng tộc có can đảm trong kiên cường quyết tâm bảo vệ quê hương và giống nòi, bằng sự thông thái trong chiến lược quân sự và ngoại giao chống ngoại xâm.
- Hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng chế, sáng tạo), bằng sự chủ động ngay trong tư duy, lấy sáng kiến để vượt thoát mọi hiểm nạn từ nội xâm buôn dân bán nước tới ngoại xâm lòng lang dạ thú như Tàu tặc hiện nay. Cả hai, nội xâm lẫn ngoại xâm, đều vô học vì vô đạo đức và vô công lý, nên chúng sẽ vô hậu vì vô lương tâm và vô liêm sỉ. Chúng sẽ bị triệt hạ bởi những lực lượng tiến bộ của xã hội dân sự, biết sáng lập ra những phong trào dân chủ, biết sáng chế ra những trào lưu nhân quyền, để nhận lại nhân phẩm Việt luôn có học đạo đức và công lý, luôn có hậu từ lương thiện tới liêm khiết.
Cuộc hành trình của Việt tộc trong thời điểm lịch sử sắp tới và đang tới là một quá trình đảm nhận đầy đủ hai hệ lương và liêm của đạo đức, để lảnh nhận trọn vẹn hai hệ công và tư của công lý, từ đó sử dụng, vận dụng, tận dụng hai hệ thông và sáng, có sẵn trong vốn liếng của dân tộc, của giống nòi, mang tinh anh của có học trong thể phách có hậu. Các dân tộc cùng nôi văn hóa và văn hiến với chúng ta trong tam giáo đồng nguyên đã thành công, như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… thì chúng ta phải thành công như họ. Câu chuyện thành công trong dân chủ, thành tựu trong đa nguyên, thành đạt trong nhân quyền phải bắt đầu dẹp để xóa đi :
- Độc đảng toàn trị bằng vốn vô học.
- Độc tài nhưng bất tài vì vô học trị.
- Độc trị nhưng không biết quản trị vì ngu dân trị.
- Độc quyền nhưng cuồng quyền bằng công an trị
- Độc tôn nhưng không thượng tôn pháp luật vì tham nhũng trị.
Tất cả đều là độc đạo nên vô cùng độc hại vì tham quyền, tham tiền, vì lạm quyền, lộng quyền, đây là chân dung vô học trong cực quyền làm nên chân tướng vô hậu trong cuồng quyền.
Lê Hữu Khóa
(29/09/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.