Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

mardi, 06 octobre 2020 12:26

Vô luận 5 : Vô phương – vô pháp

Vô phương – vô pháp

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

voluan1

 

Vô học – vô hậu : vô phương – vô pháp

 

Với thế giới ngày nay có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, chúng ta hãy cùng nhau xem lại giáo trình của trung học phổ thông dành cho thiếu niên với giáo lý, giáo luận, giáo dục có tiến bộ khoa học làm rường cột cho kiến thức khách quan ; với giáo khoa, giáo trình, giáo án có phát triển tri thức, đã có từ lâu tại các quốc gia phương tây là Tây Âu và Bắc Mỹ, mà bao năm nay các quốc gia tiến bộ tại châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… đã cập nhật :

- Khoa học tự nhiên (science naturelle), nơi mà sự sống của nhân loại được nghiên cứu và khai phá cùng với các tri thức về thực vật, về vật lý, về hóa học nơi mà phân tích khách quan với chứng minh cụ thể sẽ xóa, sẽ dẹp mọi tà tri của mê tín, mọi mê lộ của dị đoan, mọi tà kiến của cuồng tín.

- Khoa học đời sống (science de la vie), nơi mà mọi sinh vật được phân giải cặn kẻ từ thượng nguồn về sự ra đời, tới phân tích chặt chẽ tại trung nguồn về sự phát triển và trưởng thành, để có giải thích tại hạ nguồn sự sống và sự chết. Tại đây khoa học chối bỏ mọi quyền năng siêu hình, tại đây các khám phá khách quan phủ nhận mọi quyền lực cuồng tín đã lý giải sự sống và sự chết không bằng chứng từ khoa học để thực chứng chính xác bằng chứng minh kiểm nghiệm được.

- Khoa học trái đất (science de la terre), vừa có tri thức về quả địa cầu với môi trường cùng môi sinh làm nên sự sống, có địa chất học song hành cùng địa lý học, tri thức về môi trường học song lứa cùng kiến thức của thiên văn học… Tại đây, các định đề về thượng đế sáng tạo ra muôn loài, muôn vật được xét lại, xem lại, cụ thể là được kiểm lại bằng khoa học thực nghiệm, được tra lại bằng khoa học có thí nghiệm ; nơi mà cuồng tín lẫn cuồng đạo đều không có chỗ đứng ghế ngồi trong quá trình khách quan hóa của khoa học.

- Khoa học nhân văn và xã hội (sciences humaines et sociales), với tri thức của triết học, văn học, ngôn ngữ học trong nhân văn, song cặp cùng dân tộc học, xã hội học, sử học trong xã hội, đã được kết tinh để khai sáng tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức văn hóa, tổ chức giáo dục, nơi mà nhân tri phục vụ cho nhân sinh, nơi mà nhân trí phục vụ cho nhân loại. Tại đây, độc tài trong lạm quyền, cuồng đạo trong lộng quyền đều được đạo đức học và luật học khảo, tra, khám, nghiệm trong các định luận về nhân quyền và dân chủ, nên độc tài và cuồng tín bị mổ xẻ sâu trong cái vô học, bị vạch trần trong cái vô hậu của chúng.

Giáo lý, giáo luận làm nên giáo khoa, giáo trình, giáo án của hệ thống giáo dục tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, họ đã thành công khi chuẩn bị rồi trang bị cho thiếu niên, thiếu nữ những kiến thức rồi tri thức từ khoa học tới kỹ thuật, từ định chế chính trị với tam quyền phân lập tới tổ chức xã hội có phát triển kinh tế, có phát huy văn hóa, chuyện trong ấm ngoài êm của nhân sinh là tùy thuộc vào hệ thống giáo dục có học có hậu này.

Ngược lại, chế độ độc đảng toàn trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam với vốn vô học song cặp cùng vô học trị ; với tuyên truyền trị song lứa cùng ngu dân trị ; tất cả đều dưới trướng của tà tướng công an trị song hành cùng tham nhũng trị, thì đây là con đường nghịch chiều trái hướng với có học có hậu, nên nó mới mang tên là vô học hậu :

- Nếu các khám phá của các chuyên ngành khoa học thực nghiệm kể trên của nhân loại đã song hành cùng các khai sáng của các chuyên nghành khoa học nhân văn và xã hội không có đầy đủ trong giáo trình của trung học mà thay vào đó là một loại giáo trình buôn gian bán lận qua môn sử học, thay trắng đổi đen trong văn học ; thì tuyền truyền trị là một khuyết não của vô học sẽ tạo ra khuyết tật nặng nề của vô học trị trong vô hậu.

- Những tuyên truyền dựa trên hư cấu : về Lê Văn Tám, về Võ Thị Sáu, về Nguyễn Văn Bé… từ sử học tới văn học chỉ là loại âm kiến trong ma thức. Nơi mà sử học phải đóng vai phản diện để tuyên truyền trị ăn gian nói dối, nơi mà văn học phải cam nhận vai mồn loe mép giải để ngu dân trị múa gậy giữa vườn hoang.

Đây không phải là giáo dục, vì nó trống giáo lý, rỗng giáo luận, nên nó phải gian trong giáo khoa, lận trong giáo trình, lậu trong giáo án. Một chính quyền liêm chính với một Bộ Giáo dục có liêm sỉ thì :

- Hãy so sánh hệ thống giáo dục của độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam với các hệ thống giáo dục của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền của Tây Âu và Bắc Mỹ, rồi so sánh tiếp với các hệ thống giáo dục của các quốc gia tiến bộ của châu Á hiện nay : Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapour… để bỏ tuyên truyền trị, để bứng ngu dân trị, để xóa vô học trị theo lời dặn của tổ tiên Việt : làm đầy tớ người khôn hơn làm thầy người dại.

- Hãy ra sức học hỏi bằng cách tổ chức các hội nghị, hội thảo, hội luận có tầm vóc hiện đại của giáo lý, giáo luận, giáo dục ; có bản lĩnh văn minh của giáo khoa, giáo trình, giáo án với các lãnh đạo, với các chuyên gia của các quốc gia Tây Âu, Bắc Mỹ, mà không quên các quốc gia tiến bộ của châu Á hiện nay. Thấy chuyện so ra mới biết ngắn dài, để thấu chuyện biết người biết ta, để bỏ thói cả vú lấp miệng em của độc đảng trị.

- Hãy biết chung-để-chia với tiến bộ khoa học bằng cách bỏ tuyên truyền trị, hãy sống chia-để-chung với văn minh dân chủ, mà bứng ngu dân trị, hãy biết sống đúng để sống trúng với văn hiến nhân quyền mà nhổ đi vô học trị.

Từ đó học làm người không theo mô thức giáo luận của tổ tiên Việt :

Người khôn chưa đắn đã đo

Chưa ra tới biển đã dò nông sâu.

Từ đó tránh được nhục vị, xa được tồi thế của đứa dại mỗi khi phải va đầu chạm trán với người khôn :

Người khôn ăn nói nửa lời

Để cho đứa dại nửa lo nửa mừng.

Nếu lãnh đạo mà thâm căn cố đế trong vốn vô học thì có lẽ chỉ là một cái lỗi ! Nếu lãnh đạo mà cố tình cố ý sử dụng tuyên truyền trị, vận dụng ngu dân trị, tận dụng vô học trị để áp đặt lên dân tộc, lên giống nòi, lên các thế hệ tương lai. Đây là một cái tội, một tội ở cấp quốc gia : tội đồ của dân tộc, tội phạm trước giống nòi, tội nhân trước tiền đồ của tổ tiên Việt.

Vô trương bất tín, thấy mới tin không thấy không tin, đây là quy trình của giáo lý, giáo luận, giáo dục biết "trồng người" bằng quá trình của giáo khoa, giáo trình, giáo án ; các học sinh thiếu niên cấp trung học sơ cấp rồi phổ thông được học-để-hiểu và thấy-để-thấu về các điều hay lẽ phải qua thể loại đặc thù làm nên đặc điểm của thế kỷ khai sáng XVII và XVIII :

- Truyện triết luận (conte philosophique), như tác phẩm Candite của Voltaire.

- Văn phê phán (pamthlet), như tác phẩm De l’homme dangereux-La lecture của Voltaire.

- Tự điển triết học (dictionnaire philosophique) của Voltaire.

- Tùy bút (essai), như tác phẩm L’origine de la langue của Rousseau.

- Tiểu thuyết qua thư (roman épistolaire), như tác phẩm Lettres persanes của Montesquieu.

- Kịch thuật (théâtre), như tác phẩm kịch Le mariage de Figaro của Beamarchais.

- Truyện đối thoại (dialogue) như tác phẩm Supplément de voyage au Bougainville của Diderot.

- Tự điển bách khoa (encyclopédie) như công trình tự điển của Diderot.

Khi học sinh trung học tuổi thiếu niên được học giáo lý, giáo luận, giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án để chuẩn bị "thành người", thì thông điệp "được làm người" có trong tất cả các thể loại này, mà mẫu số chung là :

- Cái tới từ kiến thức là của chung toàn nhân loại, không ai có độc quyền về kiến thức.

- Cái có từ kiến thức soi sáng sự khoan dung, sẽ dẹp được cuồng tín và cuồng quyền.

- Cái dựa vào kiến thức là con đường đi tới tự do, đây là căn bản của dân chủ.

- Cái có cơ sở của kiến thức là con đường để mưu cầu hạnh phúc đây là chân trời của nhân quyền.

Nếu học sinh và sinh viên của hệ thống giáo dục hiện nay tại Việt Nam không được học cái lý của khoa học làm nên kiến thức, từ đó cái lý của dân chủ làm nên kiến thức công bằng, thì ý đồ cờ gian bạc lận qua tuyên truyền trị là chặn vừa kiến thức, vừa tự do để đổi trắng thay đen trong ngu dân trị là ngăn lộ trình mưu cầu hạnh phúc bằng vô học trị để trừ khử rồi loại bỏ nhân quyền.

 

voluan2

 

Vô học – vô hậu : vô dũng – vô kiệt

 

Chính trị học thực nghiệmxã hội học chính trị cùng hiểu ra là một vài cá nhân đại diện cho nhân trí có thể đưa cả nhân loại nhiều triệu người, rồi nhiều tỷ người vào không gian ánh sáng của nhân tri, đây mới thật là cuộc cách mạng khai thị nhân kiếp để khai thông nhân loại, đúng nghĩa là một cuộc cách mạng thay đời đổi kiếp, theo hướng thăng hoa từ nhân quyền tới nhân phẩm. Nên chính trị học thực nghiệm và xã hội học chính trị mới nhận ra là trong định lượng có đính chất : chỉ cần 5% công dân nổi lên chống bất công của bạo quyền là một chế độ có thể bị thay đổi ; và chỉ cần 10% công dân nổi lên chống tham nhũng của tà quyền là một độc đảng có thể bị lật đổ ! Giải luận : chỉ trong một sớm một chiều, rồi bị cuốn phăng đi như rác rưởi của hoạn sử !

Hãy trở lại giáo trình về thế kỷ XVIII của ánh sáng nhân tri và nhân trí dành cho thiếu niên thời học sinh trung học từ sơ cấp lên phổ thông tại các quốc gia hiện nay đã có văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền, thì các em học sinh này được thấy, được đọc, được học, được hiểu, được thấu ngay những trang đầu trong lời chương dẩn nhập để của bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot những lý luận sau đây :

- Quyền lực của lãnh đạo thì ép uổng được sự phục tùng của những kẻ phục vụ nó ; và quyền lực này không có nghĩa lý gì không nghĩa lý gì, khi nó không được dân bầu ra. (Đây không phải là nhân tri của dân chủ đang lột mặt nạ của bạo quyền thì còn là gì nữa ?).

- Quyền có tự do là quyền của mỗi cá nhân, vận dụng tự do cá nhân để khai sáng chính nhân trí của mình, để biết tự bảo vệ mình. (Đây không phải là nhân tri của nhân quyền để tự phòng thân, lập thân, tiến thân còn là gì nữa ?).

- Quyền lực tới cuồng tín tạo ra cuồng quyền, tới tự mê tín, dị đoan, nó không tới từ cái lý biết lý luận, nên nó cường điệu trong cuồng loạn, nó bạo động trong dã man. (Đây không phải là nhân tri chống ngu dân trị, nhân trí chống vô học trị thì còn là gì nữa ?).

- Quyền lực chính danh phải có chính nghĩa tới từ sự chọn lựa của cái lý, tới từ đại chúng, quyền lực chính danh có chính nghĩa là quyền lực xứng đáng trao gởi qua dân quyết. (Đây không phải là nhân trí dân chủ song hành cùng nhân luận để chống độc quyền trị thì còn là gì nữa ?).

- Quyền lực trong chính trị là sự xác chứng không ai ra đời mà có quyền hành lên người khác, không ai có quyền lực trên cuộc đời của ai cả, tại đây quyền có tự do là quyền thiêng liêng như quyền có lý để lý luận. (Đây không phải là chính nghĩa của chính trị biết song cặp cùng nhân lý dân chủ để chống bạo quyền thì còn là gì nữa ?).

- Quyền lực biết phục nhân sinh và nhân loại là quyền lực dẹp đi chế độ nô lệ, dẹp luôn cuồng quyền trong cuồng tín, khử luôn ngu muội trong ngu dân, bứng luôn tà quyền gây tha hóa, để triệt luôn mọi nguồn gốc gây ra bất hạnh cho nhân loại. (Đây không phải là nhân trí tự do song cặp cùng nhân tri biết mưu cầu hạnh phúc thì còn là gì nữa ?).

Khi bạo quyền quân chủ, phong kiến cùng cuồng quyền của giáo hội thời đó tại Âu châu đã thấy sợ : cái lý của tự do, cái luận của dân chủ, cái giải của nhân quyền, và quyền lực có chính nghĩa là quyền lực liêm chính được hiểu từ cái lý, có lý luận, có giải. Nên đám bạo quyền cùng cuồng quyền này, đã cấm lưu hành bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot. Nhưng kiến thức khoa học đã thành tri thức nhân sinh, và ý thức xã hội đã thành nhận thức chính trị, nên năm 1859 lũ bạo quyền chuyên chế cùng bọn cực quyền trong cuồng tín này đã ra lệnh đốt hết bộ tự điển bách khoa của Diderot. Nhưng đã trễ ! Chính độc giả, chính tác giả, chính các người yêu dân chủ, quý nhân quyền, trọng kiến thức của lý đã cứu được và cho tới nay thì các học sinh trung học vẫn được học, được đọc, được hiểu, được thấu về công cuộc khai trí của thế kỷ ánh sáng XVIII.

Khi ta nghiên cứu xong giáo trình về thế kỷ XVIII của ánh sáng nhân tri và nhân trí dành cho thiếu niên thời học sinh trung học từ sơ cấp lên phổ thông tại các quốc gia hiện nay đã có văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền để "vỡ lẽ" ra là các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo từ chính quyền qua chính phủ là họ không biết, không hiểu vì không học và không đọc về giáo trình về thế kỷ ánh sáng XVIII này. "Vỡ lẽ" rồi thì "chưng hửng" luôn là đại đa số trong họ cũng không biết cặn kẽ về binh nghiệp của Quang Trung, thi nghiệp của Nguyễn Du, cùng thế kỷ XVIII với Diderot, Hume, Jefferson, Kant, Locke, Montesquieu, Newton, Rousseau, Voltaire… Chưa hết, "vỡ lẽ" rồi "chưng hửng" giờ đến "té ngửa" khi họ không có một kiến thức gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, về Lê Hữu Trác Hải Thượng Lãn Ông. Chưa xong "té ngửa" rồi thì giờ đến "té lăn" là nhiều lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo từ chính quyền qua chính phủ là họ không biết gì về sự nghiệp của Phan Bội Châu với chủ sách khai trí, của Phan Chu Trinh với đề bạc nhân trí trước nhân sinh sau.

Mà cho tới bây giờ, không biết là các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam có biết là học thuật quốc tế về Việt Nam cận đại, đã xem Phan Bội Châu cùng Phan Chu Trinh là những trí thức của Việt tộc, còn Hồ Chí Minh và tất cả các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam không có ai là trí thức cả ! Vì những trí thức đã có lần trong đời theo họ như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi nếu không bị họ thanh toán về nhân trí, thì cũng đã bị họ thanh trừng về nhân tri rồi ! Đây không phải là hậu quả của vô học, hậu nạn của vô hậu thì còn là gì nữa ? Nhưng vô học còn dài vì vô hậu còn sâu, nếu bao thế hệ học sinh trung học phổ thông không được biết gì về các cuộc cách mạng khai sáng nhân loại từ khoa học đến kỹ thuật, từ công bằng đến công lý, từ dân chủ đến nhân quyền, thì chúng ta cùng đồng loạt "vỡ lẽ""chưng hửng" để "té ngửa" rồi "té lăn" ra là :

- Từ bộ trưởng tới thứ trưởng của Bộ Giáo dục hiện nay, họ không hề biết gì về các giáo lý, giáo luận, giáo dục đã làm nên giáo khoa, giáo trình, giáo án từ các cuộc cách mạng khai sáng nhân loại của thế kỷ XVIII.

- Từ bộ trưởng này tới bộ trưởng kia, rồi lên cao hơn thủ tưởng, thì chúng ta chắc bẩm là các lãnh đạo trong chính phủ hiện nay không có một tri thức gì về các đề nghị từ công bằng tới tự do, từ dân chủ tới nhân quyền, không phải họ chỉ bị cấm bởi bạo quyền độc đảng toàn trị của họ mà thực sự là họ không biết, không hiểu vì không đọc, không học về các cuộc cách mạng khai sáng nhân loại của thế kỷ XVIII.

- Từ hành pháp bây giờ qua tới lập pháp, là các đại biểu quốc hội phải bảo vệ dân thì dân chúng không thấy trong tuyên bố hay trả lời phỏng vấn là các đại biểu quốc hội có chút kiến thức về các tác phẩm, có chút tri thức gì về các tác giả của các cuộc cách mạng khai sáng nhân loại của thế kỷ XVIII.

- Từ hành pháp, lập pháp giờ đây qua tới tư pháp, là các chánh án, các quan tòa của bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, mà đem ra so sánh với các luật sư thì kiến thức của họ vừa thấp vừa tục, về giáo lý, giáo luận, giáo dục của tam quyền phân lập ; vừa hèn vừa tồi về các tác phẩm, các tác giả của các cuộc cách mạng khai sáng nhân loại của thế kỷ XVIII.

Nếu cả ba : hành pháp, tư pháp, lập pháp đắm chìm trong vô học về dân chủ, về nhân quyền, đuối ngộp về công bằng, về tự do làm nên tiến bộ và văn minh, thì nếu đây không phải là vô hậu từ não trạng tới não bộ thì còn là gì nữa ? Hãy khoan trách móc các thầy cô, các học giả, các dịch giả phải học hành trong họa cảnh trên đe dưới búa, phải học tập trong hoạn cảnh cá nằm trên thớt của hệthống giáo dục được điều khiển và điều hành bằng hệ độc (độc đảng, độc trị, độc quyền, độc tài, độc tôn). Hệ độc này thâm căn cố đế của chuyên chính vô học, với vốn vô học từ lãnh tụ đến lãnh đạo, chínhlà cha sinh mẹ đẻ của toàn bộ hệ thống giáo dục dựa vào vô học trị, sống nhờ tuyên truyền trị, có cột trụ của ngu dân trị. Hãy phân tích cụ thể :

- Bộ trưởng, thứ trưởng tới các lãnh đạo vụ, ban, ngành được hỏi là có các tác phẩm hay của các tác giả lớn của nhân loại được dịch ra tiếng Việt rồi thì tại sao các tác phẩm và các tác giả này không được đưa vào giáo khoa và giáo trình của hệ thống giáo dục hiện nay, thì chúng ta không có một câu trả lời nào thỏa đáng tới từ bộ trưởng, thứ trưởng, các lãnh đạo vụ, ban, ngành đang có trách nhiệm với hệ thống giáo dục hiện nay.

- Bộ trưởng, thứ trưởng tới các lãnh đạo vụ, ban, ngành được hỏi là có các tác phẩm hay của các tác giả lớn của nhân loại được dịch ra tiếng Việt rồi thì tại sao các tác phẩm và các tác giả này không là chủ đề của hội nghị, hội thảo, hội luận trong giới học thuật và nghiên cứu, thì chúng ta không có một câu trả lời nào chỉnh lý tới từ bộ trưởng, thứ trưởng, các lãnh đạo vụ, ban, ngành đang có trách nhiệm với hệ thống giáo dục hiện nay.

  • Bộ trưởng, thứ trưởng tới các lãnh đạo vụ, ban, ngành được hỏi là có các tác phẩm hay của các tác giả lớn của nhân loại được dịch ra tiếng Việt rồi thì tại sao các tác phẩm và các tác giả không là đối tượng của các cuộc đối thoại, đối luận, đối lý giữa các lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ, thì chúng ta không có một câu trả lời nào toàn lý tới từ bộ trưởng, thứ trưởng, các lãnh đạo vụ, ban, ngành đang có trách nhiệm với hệ thống giáo dục hiện nay.

voluan3

 

Vô học-vô hậu : vô tài - vô hiệu

 

Vô học rất thấm nên vô hậu rất "chàm", khi mọi người biết là tất cả các lãnh đạo trong chính phủ hiện nay của hệ thống vô học trị, thì :

- Từ thủ tướng tới các bộ trưởng, không có lãnh đạo nào tự viết được các tham luận mà họ phải đọc trước quần chúng, trước quốc hội, trước truyền hình ; nhất là trước các hội thảo, hội luận, hội nghị mà hội trường là những nhân sĩ có học, nên ta thường thấy các lãnh đạo này phải cầm giấy mà đọc những câu chữ mà họ không phải là tác giả. Không là tác giả của bài tham luận của mình, lại vừa chưa hề biết tác giả nào, tác phẩm nào trong học thuật và trí thức của nhân loại. Đây không phải là vô học trống chữ sinh ra vô hậu đọc nhại những chuyện mà mình không phải là tác giả thì còn là gì nữa ?

- Từ thủ tướng tới các bộ trưởng khi bị ký giả, phóng viên, truyền hình trực tiếp hỏi những lý luận làm ra chính sách, những lập luận làm ra quyết sách của chính phủ, thì chỉ từ 3 câu tới 5 câu hỏi của báo chí là ngữ vựng của lãnh tụ bị lộn âm, ngữ văn của lãnh đạo bị lộn ngôn, ngữ pháp của các đầu lãnh bị lộn ngữ. Vô trương bất tín, không thấy thì không tin, thấy rồi mới tin, và tai nghe mặt thấy để thấu cái thực chất vô học đã làm nên các vô nghệ trong lãnh đạo, vô nghề trong quản lý, vô nghiệp trong chính nghĩa.

- Từ thủ tướng tới các bộ trưởng, không có lãnh đạo nào dám đối diện với trí thức để tranh luận, đối thoại với chuyên gia để trao luận, đối thuyết với các lảnh đạo quốc tế của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hóa nhân quyền để cân, đo, đong, đếm từ tri thức tới tri lực, để so ra mới biết ngắn dài. Vì chuyện lãnh đạo từ quản trị tới quản lý, từ các quyết sách công ích xã hội tới các chính sách an sinh xã hội, tất cả đều là chuyện trình độ học thức, mà trình độ thì học thật sẽ lột đươc mặt nạ của học giả, và học lực sẽ vạch mặt chỉ tên học gian, học dối ! Và cái vô hậu vắng nhân tri, trống nhân trí, rỗng nhân lý sẽ bị lột trần lên bờ xuống ruộng trước học thuật.

Vô học rất lậu nên vô hậu rất nẩu, không có kiến thức chuyên môn nhưng lại cứ giành đi hội nghị quốc tế, không có tri thức chuyên khoa nhưng lại cứ đòi đi hội thảo quốc ngoại, không có trí thức chuyên ngành nhưng lại cứ ham đi hội luận toàn cầu, từ đây lòi ra bao nhiêu hậu quả của vô học, bao nhiêu hệ lụy của vô hậu :

- Một lãnh đạo đi ra nước ngoài kéo theo một thư ký, một trợ lý, một thông dịch viên, thành một phái đoàn có khi là 3, có khi là 5, có lúc là 7, thậm chí là 10. Từ khách sạn tới nhà hàng, từ chi tiêu tập thể tới chi phí hàng không cho cả đoàn, đi một, hai, ba tuần, gây tốn kém lên hàng bạc tỷ, với số tiền đó có thể chính phủ nuôi ăn hàng tháng được hẳn một xóm nghèo, môt làng nghèo.

- Một lãnh đạo kéo theo 3, có khi là 5, có lúc là 7 người, lại còn cho vợ con đi theo. Sáng vào hội trường để "giả danh hội nghị", "giả dạng hội thảo", "giả tướng hội luận", nhưng sau cơm bữa trưa là nhờ vả đường dây Việt kiều tại chỗ để đi shopping, đi siêu thị, tha hồ mà mua sắm từ mỹ phẩm tới thực phẩm của các xứ Tây. Mà hóa đơn không rõ là tiền của cá nhân, của gia đình hay moi móc thẳng ra từ chi phí công vụ, tức là từ tiền thuế của dân lành, dân đen…

- Một lãnh đạo kéo theo cả đàn, cả đám, cả nhà tới xứ người, sau khi du lịch bằng công vụ, đi chơi cho thỏa, đến khi về lại quê nhà, thì đồng nghiệp hỏi về những đóng góp chuyên môn trong hội thảo ; đồng bào tra về những đón góp chuyên ngành trong hội nghị. Thì "vỡ lẽ" ra là không có báo cáo chuyên đề, không có tổng kết chuyên môn, không có một chứng thư, một chứng tích nào thuyết phục cho sự thành công của các chuyến công vụ. Mà cũng biết thực chất là du lịch, phung phí vô học, phung phá vô hậu trên tài sản của đất nước, trên mồ hôi của dân chúng.

Vô học rất thô nên vô hậu rất lộ, từ thực tập sinh tới học một, hai năm tới sinh viên du học từ cao học tới tiến sĩ được học nhiều năm tại các quốc gia phương Tây có tiến bộ khoa học, có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, lại có sáng tạo sinh động và sinh hoạt sôi động từ văn hóa tới nghệ thuật. Tại đây, các khuyết điểm vô học, các khuyết tật vô hậu từ kiến thức tới tri thức lộ ra ngay trong phản xạ hằng ngày, ngay trong phản ứng hằng tuần, hằng tháng, hằng năm trong xã hội phương Tây :

- Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì vì không muốn học hỏi thêm về văn hóa qua nghệ thuật, văn minh qua khoa học, văn hiến qua sử học của các quốc gia tiên tiến phương Tây. Mà muốn biết thì phải học, muốn học thì phải tới thư viện của đại học, của thành phố, của văn khố quốc gia, trung tâm tư liệu chuyên ngành… Họ không làm vì không muốn biết thêm về gốc, rễ, cội nguồn từ văn minh tới văn hóa các quốc gia này.

- Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì vì không đọc gì về các tác phẩm của các tác giả đã làm nên văn học, thi ca, âm nhạc, hội họa, kịch thuật, điện ảnh…và khi được đồng nghiệp, đồng bào hỏi về các tác phẩm của các tác giả, thì thường là họ "tảng lờ", chỉ vì họ không biết, chỉ vì họ không chịu học.

- Các thực tập sinh, các sinh viên du học không biết gì về các bảo tàng, các cuộc triển lãm, các buổi hòa nhạc, các lễ hội văn hóa… của các quốc gia phương Tây nơi họ đang học…và khi được đồng nghiệp, đồng bào hỏi về các sự kiện văn hóa, các sự cố nghệ thuật làm nên tầm vóc văn minh, làm nên vai vóc văn hiến của các quốc gia phương Tây, thì thường là họ "đánh trống lảng" chỉ vì không biết, mà không biết vì không chịu học.

Vô học rất tồi nên vô hậu rất tục, ngoài một thiểu số ham học, chăm học, hiếu học, thì đại đa số từ thực tập sinh tới sinh viên du học từ cao học tới tiến sĩ, họ mang những toan tính lấy học vị Tây để buôn học hàm Việt, cụ thể là họ tìm bằng cấp Tây để có chức quyền Việt trong không gian của xứ mù thằng chột làm vua. Họ vừa tìm bằng cấp Tây, học vị Tây để thoát học dở-thi gian-điểm lận-bằng giả trong hệ thống giáo dục buôn bằng bán cấp hiện nay, nhưng cùng lúc cũng để lèo, để dọa, để khoe rồi sau cùng là để có cớ mà thăng chức cho vững, tiến quyền cho mau. So với hoàn cảnh của các sinh viên trong những gia đình nghèo không có vốn liếng tài chính, phương tiện kinh tế để con em được đi du học, thì đại đa số của sinh viên du học, các thực tập sinh đến học tại các quốc gia phương Tây là đám người mà cha mẹ, và gia đình đều có thân tộc với độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị, đều có thâm tộc với vô học trị, ngu dân trị, tuyên truyền trị, nên phương Tây là nơi mà họ lại tái sản xuất cái vô học trong vô hậu của đàn cha, đàn chú, đàn cô, đàn anh, đàn chị của họ :

- Họ là con ông cháu cha, nên họ giành hết mọi học bổng mà các quốc gia, các đại học, các hội khuyến học… giành cho sinh viên, thực tập sinh có năng khiếu ngoại ngữ và trình độ tri thức, nhưng những thí sinh liêm chính này không sao rờ tới được các học bổng này.

- Họ thích tụ họp với nhau vừa là đồng bào nói tiếng Việt, nhưng phải vừa là đồng giới có cùng đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay ; ngay phương Tây họ tái diễn quyền lực, quyền lợi, quyền tiền của họ.

- Họ có tiền, có của, nên họ hay tụ họp với nhau để ăn uống rồi ăn chơi, để phung phí trong chi tiêu rồi phung phá tiền của gia đình tới từ tham ô, tham nhũng của cha mẹ của họ.

Vô học rất ngu nên vô hậu rất xuẩn, đây là thảm họa của dân tộc, thảm nạn của giống nòi trong thảm trạng của đất nước khi cái vô học từ xác minh tới xác chứng sự vô hậu của nó :

- Một lãnh đạo cấp trung ương tới Tây Âu với danh nghĩa là công vụ vì hợp tác quốc tế cứ nhờ vả tôi đưa đi tới các trung tâm thương mại để mua sắm các mỹ phẩm cho gia đình, tôi đề nghị nhân vật này vào bảo tàng Louvre xem các tác phẩm hội họa, thì được nhân vật này trả lời : "Nếu là hội họa thì cóc gì mà xem cho mất thì giờ !".

- Một viện trưởng của một viện nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nhờ tôi đưa tới một siêu thị để mua các thực phẩm Âu châu về tặng đồng nghiệp, tôi đề nghị nhân vật này tới nghe một học giả lớn thuyết trình về tác phẩm của ông vừa ra đời, và tôi tình nguyện làm thông dịch viên, thì được nhân vật này trả lời :"Tôi thấy mất thì giờ, vì thời gian của tôi quý lắm !".

- Một chuyên gia lãnh đạo trong văn hóa, nghệ thuật nhờ tôi đưa đi tới các thắng cảnh du lịch để chụp dược nhiều ảnh trước khi về nước, tôi đề nghị nhân vật này tới thăm một phòng triển lãm về nhiếp ảnh được liên kết với hai triển lãm, một về hội họa và một về thi ca thì được nhân vật này trả lời : "Mình chụp ảnh cho mình hay hơn là mình tới xem ảnh của người khác anh ạ !".

Vô học triền miên tới bao giờ ? Vô hậu lan man tới bao giờ ?

 

voluan4

 

Vô học – vô hậu : vô vị - vô thế

 

Khai thị nhân thế để khai sáng nhân trí ! Chính Diderot đã dấn thân và đã bị tù đày, nhưng học giả này vẫn làm cho bằng được bộ tự điển bách khoa của mọi chuyên môn, chuyên khoa, chuyên ngành trong hơn 20 năm. Mà ngày ngày trong chốn lao tù hay ngoài xã hội thì ông luôn bị bạo quyền phong kiến rình rập để "đâm lén", luôn bị tà quyền cuồng tín đạo lén lút "chém sau lưng". Y như hoạn cảnh hiện nay của các nhà đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì xã hội dân sự, một sớm một chiều thành các tù nhân lương tâm, trong vòng lao lý thì bị tra tấn, nhục hình, khi trở lại cuộc sống xã hội thì bị công an rình rập, bị xã hội đen được công an bảo kê tới đe dọa, khủng bố, không kể đám dư luận viên, (hàng chục ngàn hay hàng trăm ngàn ?), như âm binh chực chờ để dở trò "chó cắn trộm".

Không chỉ học giả Diderot, mà kịch giả Beaumarchais, và chính Voltaire một trong những thân phụ của lý luận nhân quyền, của lập luận dân chủ, của giải luận tam quyền phân lập, cũng bị những năm tháng tù đày mà bạo quyền đã bỏ tù các tư tưởng gia này chính là bọn vua chúa vô học, bọn cuồng đạo vô hậu. Nhưng thế kỷ XVIII, đúng là thế kỷ của ánh sáng đã khai thị lý trí cho nhân loại, đã khai sáng trí tuệ cho nhân thế, đã khai minh tuệ giác cho nhân sinh. Chỉ có một vài cá nhân, không chỉ là cá thể, mà họ chính là chủ thể nhận trách nhiệm với nhân quyền, nhận bổn phận với nhân vị, để đưa nhân loại về phía ánh sáng, cùng lúc vạch mặt chỉ tên bóng tối của ngu dân trị tới từ bạo quyền chính trị, tà quyền cuồng tín sản sinh ra đám âm binh vô học với âm tướng vô hậu.

Câu chuyện chỉ có một vài cá nhân là câu chuyện thật hay, thật đẹp cho nhân bản và nhân văn vì câu chuyện này vừa cao, vừa sâu cho nhân trí và nhân trí, lại vừa rộng, vừa xa cho nhân phẩm và nhân quyền. Chỉ có một vài cá nhân, mà cụ thể là tại Pháp chỉ có : Diderot, Montesquieu, Rousseau, Voltaire ; tại Anh chỉ có Hume, Locke, Newton, mà ta không quên Kant tại Đức, và Jefferson tại Mỹ, chỉ có vậy ! Chỉ có một vài cá nhân nhưng nhân trí của một vài cá nhân đã được Âu châu rồi Bắc Mỹ, mà giờ đây là cả thế giới đi theo, vì nhân loại nhận ra được rồi : đây chính là nhân lộ của văn minh dân chủ, đây chính là nhân đạo của văn hiến nhân quyền.Khi bạo quyền quân chủ, phong kiến cùng cuồng quyền của giáo hội thời đó tại Âu châu đã thấy sợ : cái lý của tự do, cái luận của dân chủ, cái giải của nhân quyền, và quyền lực có chính nghĩa là quyền lực liêm chính được hiểu từ cái lý, có lý luận, có giải. Nên đám bạo quyền cùng cuồng quyền này, đã cấm lưu hành bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot. Nhưng kiến thức khoa học đã thành tri thức nhân sinh, và ý thức xã hội đã thành nhận thức chính trị, nên năm 1859 lũ bạo quyền chuyên chế cùng bọn cực quyền trong cuồng tín này đã ra lệnh đốt hết bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot. Nhưng đã trễ ! Chính độc giả, chính tác giả, chính các người yêu dân chủ, quý nhân quyền, trọng kiến thức của lý đã cứu được và cho tới nay thì các học sinh trung học vẫn được học, được đọc, được hiểu, được thấu về công cuộc khai trí của thế kỷ ảnh sáng XVIII. Chính trị học tri thức phối hợp cùng xã hội học nhận thức đã phân tích để phân loại, đã phân định để phân giải là :

- Khi hai người bất tài trong một hội đồng phải bầu cho một thí sinh thay thế họ trong tương lai thì họ không thể bầu được một thí sinh có tài ; ở đây bất tài không đủ năng lực lẫn thông minh để bầu cho thực tài.

- Khi hai người trong một hội đồng ; một người bất tài, một người có tài phải bầu cho một thí sinh thay thế họ trong tương lai thì họ khó có thể bầu được một thí sinh có tài ; ở đây người có tài chưa chắc thuyết phục được người bất tài, vì kẻ bất tài vừa không đủ năng lực lẫn thông minh, lại vừa lo sợ hai kẻ tài, một là đồng nghiệp hai là thí sinh khinh chê cái bất tài của mình.

- Khi hai người trong một hội đồng ; cả hai đều có tài, cũng có khi họ bầu cho một người thiếu tài nhưng trung thành với họ để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của họ sau khi họ ra đi. Mà còn có khi hai kẻ có tài cũng có thể bầu cho một kẻ hoàn toàn bất tài để hai kẻ có tài này tiếp tục thao túng, o ép, giật dây thí sinh bất tài nhưng "dễ bảo trước đàn cha", "biết tuân lệnh đàn chú", "biết phục tùng đàn anh" …

Đưa thực tài vào định chế, đón chân tài vào cơ chế, nhận nhân tài vào cấp lãnh đạo là một quá trình thiên sơn vạn thủy trong nhân tri, là một quy trình vượt suối trèo đèo trong nhân trí.

Tại đây, thì bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền chỉ biết dựa vào quan hệ-hậu duệ-tiền tệ để diệt trí tuệ ; để tổ chức mua chức bán quyền qua mua bằng bán cấp của học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Cũng tại đây, độc đảng trong độc quyền sử dụng nền của tuyên truyền trị để mạo danh hồng hơn chuyên mà chọn cán bộ nguồn ; vận dụng gốc của ngu dân trị với mạo dạng lãnh đạo nòng cốt để dựng lên các thái tử đảng ; tận dụng rễ của vô học trị để mạo dạng : "con lãnh đạo mà lãnh đạo là hồng phúc cho dân tộc", một tuyên bố vô cùng vô học vì nó vô tận trong vô hậu của một bà đã là lãnh đạo trong Uỷ ban nhân dân thành Hồ. Từ đây, mới có hiện tượng vô học trong tà kiến, vô hậu trong tà luận, thí dụ dễ-thấy-vì-khó-nghe như hiện tượng tiến sĩ lu (dùng lu chống lụt cho thành Hồ), tiến sĩ lon (đọc chữ lon "lộn" ra một chữ được xem là tục trong truyền thông), thứ trưởng của Bộ (vô) văn hóa (đã trao tặng một người phụ nữ chuyên nghề hầu đồng chức hiệu nữ hoàng tâm linh).

Vô học ẩn nấp trong tà tri, vô hậu luồn lách trong điếm trí !

 

voluan1 (2)

***

Muốn xóa tuyên truyền trị thì nhân lý phải ngẩng đầu.

Muốn khử ngu dân trị thì nhân tri phải mở mắt.

Muốn tẩyvô học trị thì nhân trí phải tự đánh thức não.

***

Muốn cởi bỏ cái vốn vô học,

thì nhân tính cứ đi về phía ánh sáng của sự thật.

Muốn vứt bỏ cái vô học,

thì nhân bản cứ đi về phía chân trời của chân lý.

Muốn rứt bỏ cái vô hậu,

thì nhân tâm cứ đi về phía nhân dạng của lẽ phải.

***

Khai thị kiến thức khoa học để thoát vô minh.

Khai thác tri thức tự do để thắng vô tri.

Khai phá ý thức công bằng để vượt vô giác.

Khai phóng nhận thức bác ái để loại vô cảm.

Khai quật trí thức dân chủ để bứng vô tâm.

Khai minh tâm thức nhân phẩm để khử vô học.

Khai sáng tỉnh thức nhân quyền để rời vô hậu…

***

Con người chỉ thấy được lương tri của mình

khi con người trực diện trước bất công

để đấu tranh vì công bằng.

***

Con người chỉ nhận được nhân phẩm

của mình khi con người trực diện chống

bạo quyền để bảo vệ tự do cho đồng loại.

***

Con người đánh đổi nhân vị của chính mình

để đi tìm hùng vị của nhân quyền

dù chỉ bằng lời nói của nhân tính,

dù chỉ bằng chữ viết của nhân lý...

Lê Hữu Khóa

(05/10/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa
mardi, 06 octobre 2020 13:44

Vô luận 4 : Vô thức – vô thuật

 

Vô thức – vô thuật

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

voluan01

Vô học-vô hậu : vô thức-vô thuật

Câu chuyện vô học trở nên phức tạp khi chính cái vô học có mặt ngay trong cõi học, cõi của hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức, tỉnh thức), nơi mà học thuật phải là học lực tới từ học thật. Weber, người thầy của xã hội học cận đại, đã nhận ra cái học giả, học kém, học yếu của các cá nhân luôn tìm cách bám víu môi trường trí thức, sinh hoạt học thuật, quan hệ khoa học để tìm quyền lợi qua quyền lực của hành chính và cơ chế. Cụ thể là các cá nhân trí thức kém, các cá thể khoa học tồi luôn tìm cách có chức năng trong cơ chế, có phận sự qua hành chính, qua con dấu, chữ ký của những kẻ có quyền thế trong ngân sách để quyết định chính sách đầu tư trong học thuật, trong khoa học ; sau khi những kẻ này đã thất bại trong khoa học, đã thảm bại trong học thuật.

Thảm trạng của môi trường trí thức, sinh hoạt học thuật, quan hệ khoa học hiện nay tại Việt Nam trong tay độc đảng của vốn vô học và toàn trị bằng ngu dân trị thì những kẻ có quyền hành trong giáo dục, có quyền lực trong nghiên cứu là những kẻ học giả, học kém, học yếu. Mà chính những người thực tâm, thực tài trong nghiên cứu và học thuật đặt cho đám này là loại bất tài vô tướng, lọt vào chức quyền bằng tà lộ của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, nơi mà trí tuệ không hề có chỗ đúng ghế ngồi. Chúng có mặt giáo dục, trong học thuật, trong nghiên cứu không phải để phát triển khoa học, để thăng hoa tri thức, mà chúng có mặt để chỉ làm ít nhất ba chuyện :

- Thực thi tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị bằng cách hà hơi tiếp sức cho độc đảng trị, công an trị, tham nhũng trị trực tiếp tha hóa giáo lý, giáo luận, giáo luận để thối nát hóa giáo khoa, giáo trình, giáo án.

- Thực hành chuyên chính vô học với vốn vô học để vô học hóa cả một hệ thống giáo dục, học thuật, nghiên cứu phải lậm sâu vào hướng buôn bằng bán cấp, để phục vụ cho điếm lộ mua chức bán quyền bằng điếm thuật tham tiền trị.

- Thực hiện quá trình tha hóa giáo dục, học thuật, nghiên cứu để thay thế học thuật-học lực-học thật bằng học hành giả-học vị giả-học hàm giả ; biến hệ thống giáo dục quốc gia thành nơi buôn bằng bán cấp, với các lãnh đạo buôn gian bán lận từ học vị tới học hàm.

Hệ thống giáo dục quốc gia với bọn bất tài vô tướng vì là đám bất tài vô học có chức năng của tà quyền, có quyền năng của ma quyền, chúng làm một công ba việc cho chế độ chuyên chính vô học :

- Củng cố độc quyền trong độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam nơi mà quyền lực chính trị, quyền lợi xã hội và tư lợi kinh tế của tầng lớp lãnh đạo chỉ là một trong phản xạ tham quyền cố vị, với phản ứng cố đấm ăn xôi.

- Củng cố độc quyền cho độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì các lãnh đạo trong hệ thống giáo dục, học thuật, nghiên cứu trực tiếp củng cố đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của chúng, ngồi mát ăn bát vàng, được ban phát bởi Đảng cộng sản Việt Nam.

- Củng cố độc quyền cho độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, bằng bè phái lãnh đạo với giáo dục kém giáo lý, yếu giáo luận, tồi giáo khoa này luôn mang phản xạ thưa, bẩm, dạ, vâng, vì luôn có phản ứng cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc đảng của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trong chương trình của học sinh trung học phổ thông là các thiếu niên của các quốc gia có văn minh dân chủ, có với văn hiến nhân quyền, có nền móng của tiến bộ khoa học được học các giáo trình và giáo án :

- Các kiến thức khoa học là tài sản chung của nhân loại, mà nhân sinh phải tìm mọi cách để thông tin, truyền thông mà phổ biến và chia sẻ vừa ở trong hệ thống giáo dục và vừa ở ngoài đời sống xã hội. Các học sinh được học về lịch sử thế kỷ XVIII nơi mà các quán cà phê, các quán ăn, các nhà kịch, các tiền đình, các công viên… là không gian mà kiến thức được trao đổi các ý tưởng mới, có thảo luận để trao luận, có tranh luận để thuyết luận.

- Các kiến thức về tổ chức xã hội dựa trên công bằng và công lý, các tổ chức chính trị dựa trên dân chủ và nhân quyền tạo ra tam quyền phân lập, các tổ chức kinh tế dựa trên tự do kinh doanh và thương mại cùng được thảo luận, trao luận, tranh luận, thuyết luận tại các quán cà phê, các quán ăn, các nhà kịch, các tiền đình, các công viên…

- Các kiến thức khoa học, xã hội, chính trị, dân chủ, nhân quyền, tam quyền phân lập luôn được kích hoạt bởi tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí chính là những công cụ hữu hiệu chống bạo quyền độc tôn, chống cực quyền cuồng tín và cuồng đạo.

Tất cả các quyền tự do này đã qua ba thế kỷ, hiện đang bị cấm đoán bằng luật hình sự tại Việt Nam, nơi mà chế độ chuyên chính vô học bằng độc đảng vô thức và toàn trị vô thuật dùng :

- Bộ luật an ninh mạng, nhưng thực chất là để ngăn chặn và đàn áp tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí.

- Bộ luật hình sự bảo vệ an ninh xã hội, nhưng thực chất là để trấn áp và hủy diệt sinh hoạt dân chủ và nhân quyền của xã hội dân sự.

- Bộ luật hình sự bảo vệ trật tự xã hội, nhưng thực chất là truy cùng diệt tận các cuộc đấu tranh vì công bằng và công lý.

Vì các cuộc đấu tranh vì tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí ; vì dân chủ, nhân quyền, xã hội dân sự ; vì công bằng và công lý đều dẫn tới đa nguyên trong đa đảng, nơi mà đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu được phát huy. Đây là nguyên nhân cốt lõi làm cho chuyên chính vô học ngày đêm mất ăn mất ngủ ; đây cũng là lý do gốc rễ làm cho tuyên truyền trị, ngu dân tri, vô học trị phải ngày đêm đứng ngồi không yên ; đây là nội chất nguồn cội làm cho độc đảng trị, công an trị, tham nhũng trị ngày đêm lo đứng lo ngồi ! Cái vô học luôn vô hậu vì nó sử dụng cái ngu để diệt cái khôn, nó vận dụng cái ngốc để diệt cái minh, nó tận dụng cái ác để diệt cái sáng.

Trong giáo lý, giáo luận, giáo dục được cụ thể hóa qua giáo khoa, giáo trình, giáo án từ tiểu học tới trung học sơ cấp, từ trung học phổ thông lên đại học, các học sinh và sinh viên trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền được giáo dục và giáo dưỡng là :

- Trong mô tả phải kèm theo phân tích (vừa biết phân giải, vừa biết phân loại).

- Trong phân tích phải kèm theo giải thích (vừa biết giải đề, vừa biết giải luận).

- Trong giải thích phải kèm theo lý luận (vừa biết định hướng, vừa biết lối đi).

- Trong lý luận phải kèm theo lập luận (vừa biết đường đi nẻo về, vừa biết xây nền đắp móng).

- Trong lập luận phải kèm theo diễn luận (vừa biết đo đạc, vừa biết so sánh).

- Trong diễn luận phải kèm theo phê bình (vừa biết sự thật, vừa biết lẽ phải).

Những phương pháp luận giáo dục này không hề có trong :

- Não trạng của các lãnh tụ trong Đảng cộng sản Việt Nam có cố đế của chuyên chính vô học.

- Tư duy của các lãnh đạo trong chính quyềncó thâm căn của vốn vô học.

- Toan tính của các lãnh đạo hệ thống giáo dục có mưu toan vô học hóa.

- Nhược điểm của các lãnh đạo được đào tạo bằng tuyên truyền trị.

- Khuyết tật của các lãnh đạo được thăng quan tiến chức bằng ngu dân trị.

Vô học rất dai nên vô hậu rất dài, các du học sinh Việt Nam tới từ hệ thống giáo dục của thảm nạn chuyên chính vô học, vô học trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị để học cử nhân, cao học, tiến sĩ tại các quốc gia phương Tây, cụ thể Tây Âu và Bắc Mỹ, đều không được học nên không được biết giáo khoa làm nên học thuật tại các châu lục này :

- Trong mô tả phải kèm theo phân tích (các du học sinh Việt Nam lại biến mô tả thành kể lể dài dòng, biến dữ kiện thành thông tin kiểu "ba phải").

- Trong phân tích phải kèm theo giải thích, (các du học sinh Việt Nam lại biến phân tích thành trả bài được thuộc lòng, biến chứng từ thành chuyện "vô thưởng vô phạt").

- Trong giải thích phải kèm theo lý luận (các du học sinh Việt Nam lại biến giải thích thành trích đoạn thuộc lòng các lý thuyết không liên can gì tới thực tiễn, biến linh hoạt của một sự thật thành loại mô thuyết xơ cứng).

- Trong lý luận phải kèm theo lập luận (các du học sinh Việt Nam lại trống kiến thức của lý lẽ, vắng tri thức của lý giải, rỗng trí thức của đa thức).

- Trong lập luận phải kèm theo diễn luận (các du học sinh Việt Nam không biết phân định các quá trình lập luận để sắp xếp có lớp lang thứ tự các diễn biến của một lập luận !).

- Trong diễn luận phải kèm theo phê bình (các du học sinh Việt Nam lại không biết là sự thật tới từ khám phá khách quan chớ không tới từ tuyên truyền trị, họ không biết là chân lý tới từ minh chứng khoa học chớ không hề tới ngu dân trị, họ không biết là lẽ phải tới từ giáo lý có chỗ dựa là đạo lý, luân lý, đạo đức chớ không hề tới từ độc đảng trị !).

Học thuộc lòng các mô thức, mà chỉ biết mô thức đó thôi, thì tự biến mô thức đó thành mô hình, mà mọi mô hình đều là khung hình, một loạt khuôn hình kiểu nhà tù, độc thuyết trong độc thức biến tri thức thành ngục tù trên độc lộ tuyên truyền của độc đạo ngu dân. Vô cùng độc hại vì độc thức sẽ sinh ra cực đoan của độc tri, làm nên độc tài của ý thức hệ, sản sinh ra độc quyền chuyên chính vô tri, có gốc là độc tôn làm nên chuyên chính vô học, vì nó loại, bỏ, khử, trừ các đa thức, đa thuyết, đa luận, đa tri, đa lý…

voluan7

Vô học rất đậm nên vô hậu rất thâm, các du học sinh Việt Nam là nạn nhân của hệ thống giáo dục của thảm nạn chuyên chính vô học qua vô học trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị để học cử nhân, cao học, tiến sĩ tại các quốc gia phương Tây, từ giáo sư trách nhiệm công trình tới các hội đồng giám khảo đều có chung những nhận định :

- Các du học sinh Việt Nam mô tả dữ kiện, nhưng không biết phân tích sự kiện, và giải thích sự cố.

- Các du học sinh Việt Nam kể lể sự tình, nhưng không biết phân giải nhân tình để lý luận trên nhân thế bằng nhân lý.

- Các du học sinh Việt Nam học thuộc lòng mô thức lý thuyết, nhưng không biết đào sâu, leo cao, khơi rộng, đi xa ngay trên đa thức của lý thuyết.

- Các du học sinh Việt Nam trả bài để chứng tỏ là thuộc bài trên các mô hình kiến thức, nhưng không biết nhận định bằng lập luận để phê bình bằng diễn luận về quá trình khách quan khám phá ra sự thật. Nơi mà lịch sử của nhân loại đã rất rành mạch, nơi mà bạo quyền vô học bắt bớ các nhà khoa học, nơi mà tà quyền vô tri bỏ tù các tư tưởng gia tiến bộ, nơi mà ma quyền ngu dân tra tấn bằng nhục hình các chủ thể đấu tranh vì văn minh cho nhân loại.

- Các du học sinh Việt Nam mô tả, kể lể, học thuộc lòng, trả bài để chứng tỏ là thuộc bài, mà quên đi lý trí phê bình, trí tuệ phê phán, tuệ giác phê phẩm mới làm cho khoa học tiến bộ, mới làm cho tri thức thăng hoa, để văn hóa thành văn minh của dân chủ, để văn minh thành văn hiến của nhân quyền.

voluan02

Vô học-vô hậu : vô thông-vô tạo

Hãy phân tích các thực tế phản giáo dục, nghịch giáo lý, trái giáo luận hiện nay trong chế độ độc đảng trị sử dụng công an trị, vận dụng tham nhũng trị, tận dụng tham tiền trị, để thấy sự tha hóa đến cùng cực của hệ thống giáo dục hiện này của Đảng cộng sản Việt Nam :

- Học để vinh thân phì gia bằng hệ tham (tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền), cụ thể là vào đại học của Bộ Công an thì điểm phải rất cao, so với điểm vào đại học Sư phạm thì chỉ cần loại điểm rất thấp. Vì vào đại học của Bộ Công an thì "mau giàu", "dễ giàu","mau ra tiền", "dễ kiếm tiền". Một loại tư duy đốn mạt phản giáo dục, một loại tư tưởng khốn kiếp phản giáo lý, mượn bằng cấp để phì mập bằng vật chất, đây không phải là vô học thì còn là gì nữa ?

- Du học để tái sản xuất hệ con ông cháu cha, với hệ quả "con quan thì được làm quan", nhưng trong thực tế giáo dục của các quốc gia phương Tây có nội công của học thật, có nội lực của học lực, vì mang nội hàm của của học thuật. Nên đa số loại con ông cháu cha không thành công trong đại học ; không thành đạt trong sinh hoạt trí thức, không thành tựu trong đại học hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) trong nghề, nghệ, nghiệp bằng tiêu chuẩn và tiêu chí của các quốc gia phương Tây.

Thức khuya mới biết đêm dài là đây ! So ra mới biết ngắn dài là đây ! Lửa thử vàng, gian nan thử sức là đây ! Vì tại các quốc gia phương Tây thì vàng thau phân biệt, không hề lẫn lộn, tráo trá được :

- Cụ thể là học thật thì phải học cho tới nơi tới chốn ; học lực chăm chỉ bằng văn ôn võ luyện ; học thuật thì kỹ lưỡng từ tôn sư trọng đạo tới tầm sư học đạo, thấy cho thấu điều hay lẽ phải từ giáo dục khoa học tới giáo lý đạo đức, tới giáo luận đạo lý.

- Phương trình học thật-học lực-học thuật không sao chấp nhận đội trời chung với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Người kiên nhẫn trong kiên cường vì biết kết quả tích cực của câu chuyện có công mài sắt có ngày nên kim.

- Thực hư trong khoa học cũng như trong học thật-học lực-học thuật không hề chấp nhận loại cá mè một lứa với kẻ ăn khôn ngồi rồi ; với đứa chờ sung rụng ; với đám ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau ; với phường dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ; với lũ nhớt thây dầy cốt !

voluan6

Chuyện gì đã xảy ra cho đại đa số con ông cháu cha đã và đang du học tại các quốc gia có văn minh khoa học, có văn hóa dân chủ, có văn hiến nhân quyền, mà khi còn ở Việt Nam đám này đã quen thói ăn trên ngồi trốc trong chế độ độc đảng trị song lứa với vô học trị, song cặp với ngu dân trị, song hành cùng tham nhũng trị, để khi phải va đầu chạm trán với có học thật-học lực-học thuật của phướng Tây thì :

- Họ khám ra là họ học không kịp giáo trình, theo không kịp giáo án, bám không kịp giáo lý, đeo không kịp giáo luận, vì họ không hề có căn bản giáo dục từ ngay trung học phổ thông. Họ không hề có kiến thức về các khám phá khoa học căn bản, về các tư tưởng công bằng và tự do làm nên dân chủ và nhân quyền trong tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục…

- Họ khám phá ra là họ không có kiến thức phổ thông về các định chế văn minh được điều khiển và điều hành bằng tam quyền phân lập ; họ không có kiến thức phổ quát về các cơ chế từ tự do bầu cử tới tự do ứng cử trong đa đảng được bảo đảm bởi đa nguyên mang nội chất của đa tài, mang nội hàm của đa trí, mang nội lực của đa hiệu, đa năng

- Họ khám phá ra là muốn giỏi ngoại ngữ, muốn nắm quốc ngữ nơi quốc gia mà họ đang du học, thì họ phải đầu tư trí lực, tâm lực, lý lực, luận lực để thấy văn hóa, thấu văn minh, hiểu văn hiến xứ người. Không có trí lực, tâm lực, lý lực, luận lực, nơi mà biếng nhát không quyết tâm làm nên biếng lười không quyết chí, nên họ dễ bỏ học, dễ bỏ cuộc, dễ làm ngơ và dễ viện cớ này, cớ nọ để không học tới nơi, thấu tới chốn, hiểu cho tới gốc, rễ, cội, nguồn của học thuật.

họcchăm bằng chí, là hành bằng lực, mà lười thì làm sao có lực, mà lực ở đây là trí lực, tâm lực, thể lực trong nhân tri của thức khuya mới biết đêm dài của nhân trí.Vô trương bất tín, không thấy không tin, thấy rồi mới tin, chúng ta hãy vào những kinh nghiệm cụ thể :

- Các sinh viên du học tới từ Việt Nam, khi tìm các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ cho họ, mà các giáo sư này đại diện cho văn minh khoa học, văn hóa dân chủ, văn hiến nhân quyền, thì sau đó không lâu chính các giáo sư này tự khám phá ra là sinh viên du học tới từ Việt Nam không có kiến thức căn bản, không có tri thức lý luận, không có trí thức phân loại để phân giải nên không có lý trí phê bình để trí tuệ được thăng hoa.

- Các sinh viên du học tới từ Việt Nam, khi tìm các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ cho họ, gốc người Việt trong ý đồ tư lợi "giữa đồng bào với nhau phải giúp đỡ nhau chốn xứ lạ quê người" ; bằng toan tính vụ lợi là "giữa đồng bào với nhau nên dễ nhờ vả". Dễ nhờ vả cụ thể là dễ lợi dụng, là dễ giật dây, là dễ dối trá để đánh lận con đen, đây là loại hoạn kịch giữa sinh viên du học tới từ Việt Nam gốc con ông cháu cha với các giáo sư gốc Việt được đào tạo tự đầu tới cuối nơi xứ Tây !

Tại đây, có hai trường hợp, có hai khả năng, có hai cách giải quyết :

- Sự thật mất lòng, là xác nhận của các các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ gốc phương Tây, là sinh viên du học tới từ Việt Nam không có kiến thức căn bản, không có tri thức lý luận, thức phân loại để phân giải, lý trí phê bình để biết khám phá thêm trên con đường trí tuệ.

- "Hy sinh vì dân tộc", tức là giúp đỡ sinh viên du học tới từ Việt Nam, ngay thượng nguồn giúp họ "ghi danh" mà họ gọi là "đăng ký" vào trường tiến sĩ cùng lúc đưa họ vào một viện nghiên cứu để họ biết thế nào dây mơ rễ má của học thuật bằng nghiên cứu. Cho tới trung nguồn của mọi việc hiểu giáo trình, thấu giáo án, nhất là nhận thức rõ phương pháp giáo khoa, kể cả hạ nguồn là chỉ cách họ học để thi, nghiên cứu bằng khảo sát, điều tra bằng điền dã cấp tiến sĩ.

Nếu một giáo sư gốc Việt mà chọn phương án hai tức là "hy sinh vì dân tộc", thì cụ thể là họ phải hy sinh thời gian giảng dạy thêm, chỉ bảo thêm cho các sinh viên du học tới từ Việt Nam ; hy sinh trí lực cụ thể là giảng dạy lại, chỉ bảo lại các kiến thức căn bản của học sinh phương Tây cấp trung học phổ thông để họ biết căn cơ của đại học có vốn liếng thời trung học.

Hy sinh thời gian và hy sinh trí lực của chính mình mà còn phải hy sinh quan hệ đồng nghiệp, cụ thể là nhờ các đồng nghiệp gốc Tây giảng dạy thêm, chỉ bảo thêm, nếu cần thì ôn lại, nhắc lại, chỉ lại các kiến thức căn bản cấp trung học phổ thông. Chưa hết, còn phải hy sinh sinh hoạt giáo dục, cụ thể là yêu cầu các sinh viên gốc phương Tây có căn bản trung học, có tri thức đại học giúp chép bài, gởi bài tới cho các các sinh viên du học gốc Việt, không đủ ngoại ngữ để nghe, ghi, nhận, hiểu, thấu các giáo án hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng học kỳ…

voluan03

Vô học-vô hậu : vô ân-vô nghĩa

Nếu một giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ mà phải hy sinh : hy sinh thời gian, hy sinh trí lực, hy sinh quan hệ đồng nghiệp, hy sinh sinh hoạt giáo dục, thì trong xã hội học giáo dục đặc biệt nghiên cứu về sự thiệt thòi của cá nhân ngay trong đời sống giáo dục không còn gọi đó là hy sinh mà đặt tên nó là : thí mạng ! Mà đây là chuyện thí mạng thật, từ 1996 tới 2020, tôi đã nhận thí mạng cho nhiều sinh viên du học gốc Việt, khi họ tìm tới tôi để yêu cầu tôi nhận đào tào họ thành tiến sĩ. Từ thượng nguồn giáo khoa tới hạ nguồn giáo án tôi thực sự phải thí mạng trong các công đoạn sau đây :

- Phương án nghiên cứu có cơ sở của phạm trù nghiên cứu, với lý thuyết luận tri thức, với phương pháp luận nghiên cứu, với khoa học luận khảo sát và điều tra, song hành cùng tổng kết sơ khởi kiến thức thư mục qua các tác phẩm và tác giả về chủ đề và chuyên đề nghiên cứu, tại đây tôi phải viết các phương án nghiên cứu này thay cho họ, từ nội dung đến hình thức.

- Tổng kết thư mục qua tác phẩm và tác giả, để nhận ra đa thuyết trong đa thuật của học thuật, từ đó chọn lọc các tác phẩm chủ đạo, các tác giả cần thiết, sử dụng mô thức lý thuyết để tìm ra phương hướng khảo sát, phương pháp điều tra, phương án điền dã, tại đây tôi cũng phải giảng từ đầu đến cuối, thậm chí viết trọn cho họ.

- Phương pháp luận về điều tra thực địa, trong liên minh giữa định lượng (toán học, thống kê…) và định chất (quan sát, bảng câu hỏi, phỏng vấn, thảo luận, hồi ký…) từ điền dã thực địa tới tổng kết nghiên cứu qua phân loại, phân định, phân giải... tôi giảng, tôi bày binh bố trận cho họ, nhiều khi không đủ, thế là tôi phải phân tích, giải thích, bình phẩm thay họ.

- Khoa học luận từ giải thích tới giải luận, có phân tích song hành cùng giải thích, có diễn luận thăng hoa cho giải luận, mà không quên lý trí của lý luận, trí tuệ của lập luận làm nên tuệ giác của phê bình. Mà phê bình không hề là chuyện khen chê theo chủ quan của tuyên truyền trị sinh ra quái thai là ngu dân trị, mà đây là chuyện so ra mới biết ngắn dài của mức độ của kiến thức, mật độ của tri thức, cường độ của ý thức làm nên trình độ của nhận thức. Tại đây thì tôi thí mạng không những vài ngày, vài tuần, vài tháng mà trong nhiều năm ròng chỉ cho các thí sinh học tiến sĩ gốc Việt.

- Ngữ luận của luận án, của ngôn ngữ tiến sĩ bằng khoa học ngôn ngữ theo tiêu chuẩn hàn lâm, được chứng thực bằng ngữ vựng chính xác, với ngữ văn chỉnh lý, qua ngữ pháp khách quan, rành mạch để minh bạch. Tại đây, tôi mất nhiều thời gian để giải thích với họ là một câu văn xuôi cấp tiến sĩ không phải là loại câu điện tín thẳng thừng kiểu phổi bò ruột ngựa, cũng không hề câu nói vô thưởng vô phạt của loại người ba phải, không suy trước nghĩ sau. Một câu văn xuôi cẩn trọng trong thuật ngữ không những biết rào trước đón sau, mà còn là của thuật luận có lý luận khi phân tích, có lập luận khi phân loại.

- Thuật ngữ của tri thức, tránh mô tả dài dòng, tránh kể lể lan man, mà phải mô tả bằng dữ kiện gãy gọn, kể lể bằng chứng từ nghiêm túc, có phân tích hợp lý, có giải thích chỉnh lý, và sức thuyết phục bằng hợp lý, chỉnh lý tạo dựng lên học thuật luôn đi tìm sự toàn lý. Mô tả dài dòng, kể lể lan man không làm cho khoa học thăng tiến về lý trí trong lý luận, không làm cho học thuật thăng hoa về trí tuệ trong lập luận. Tôi đầu tư nhiều thời gian, rồi hao tổn bao trí lực trong giáo khoa luận làm nên tri thức luận này, hiệu quả thật mong manh, lắm khi tôi phải viết thay cho họ.

Purple flower growing on crack street, soft focus, blank text

Tại đây thì quá trình thí mạng thì nhiều nhưng kết quả thì không được bao nhiêu, nên thí mạng "đâm ra" thành liều mạng, cụ thể là tôi phải làm thay, viết thế cho họ. Rồi tự dặn lòng bằng cách tự an ủi là "không nên cầu toàn" về chuyện họ không được giáo dục đàng hoàng, giáo dưỡng tử tế. Vì họ là nạn nhân trực tiếp của ngu dân trị, vô học trị tới từ tuyên truyền trị, độc đảng trị, độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong giáo dục. Vậy nên giúp họ hoàn tất luận án tiến sĩ và chỉ mong sao khi về lại quê hương thì họ truyền đạt được giáo dục, giáo lý, giáo luận ; truyền thông được giáo khoa, giáo trình, giáo án của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hóa nhân quyền, mong cầu sao quy trình có học-có hậu sẽ dần dà đẩy lùi, rồi xua đi bóng tối âm loạn của vô học trị làm ra từ bóng đêm âm binh của vốn vô học. Tự an ủi để tránh cầu toàn, nên tôi đề nghị các phản biện viên là các giáo sư đồng nghiệp nên biết thông cảm với khuyết điểm của một hệ thống giáo dục ngu dân trị ; các giáo sư thành viên của hội đồng giám khảo bảo vệ luận án nên biết thông thấu về khuyết tật của của một hệ thống giáo lý tuyên truyền trị.

Cụ thể là cho phép bảo vệ luận án, nhưng quá trình hoàn thành luận án tới thời điểm bảo vệ luận án là một quy trình đấu tranh cực lực của có học để có hậu chống lại vô học nên vô hậu. Thấy khuyết điểm của ngu dân trị, thấu khuyết tật của tuyên truyền trị, từ đó các đồng nghiệp và tôi tìm mọi cách giúp đỡ các sinh viên du học cấp tiến sĩ gốc Việt, tránh để khuyết điểm, khuyết tật biến thành khuyết não. Tại đây, sinh viên du học cấp tiến sĩ gốc Việt phải nhận trách nhiệm với thế hệ đàn em, phải nhận bổn phận với thế hệ đàn con từ giáo dục, giáo lý, giáo luận tới giáo khoa, giáo trình, giáo án, là tạo điều kiện thuận lợi để thăng hoa ngay tại nơi mà họ có chức năng tri thức, nơi mà họ có vai trò trí thức.Trong hội đồng giám khảo luận án tiến sĩ cho các sinh viên du học gốc Việt, chúng tôi dặn dò nhau bằng một loại kết luận về tính mạng của học thuật :

- Nếu chúng tôi thành công trong việc chống khuyết não, thì từ thí mạng chúng tôi đã thuận duyên với học thuật để tiếp tục giữ mạng cho học thuật.

- Nếu chúng tôi thất bại trong việc chống khuyết não, thì từ thí mạng chúng tôi đã nghịch duyên với học thuật để bị mất mạng ngay trong học thuật.

Tại đây, nếu có hai trường hợp, có hai khả năng, có hai cách giải quyết cho giáo sự hướng dẫn luận án, thì cùng có hai thành phần sinh viên du học gốc Việt với hai đạo lý trái ngược nhau :

- Thành phần thứ nhất, có lương thiện trong học lực, có liêm chính trong học thuật luôn hiểu, thấy, thấu công tâm người thầy, dù thất bại hay thành công trên chặn đường du học, thì khi họ gặp tôi họ vẫn giữ lương tri tầm sư học đạo, vẫn giữ liêm sỉ tôn sư trọng đạo.

- Thành phần thứ nhì, rỗng lương thiện trong học lực, trống liêm chính trong học thuật nên tà ngôn trong điếm ngữ thường kết tội giáo dục của phương Tây quá lý thuyết, hoặc tà nghiệp trong ma lộ là giáo dục của các xứ tư bản không phù hợp với họ.

voluan5

Xã hội học giáo dục luôn được trợ duyên bằng tri thức luận đạo đức, cụ thể là cũng từ hai thành phần rất khác nhau này, sinh ra hai loại người đối nghịch nhau sau khi được đào tạo cấp tiến sĩ, sau khi có học vị để được nhận học hàm tại Việt Nam hiện nay, khi gặp lại tôi thì thái độ, hành vi, cách đối nhân xử thế của họ ra sao ? Cũng từ hai thành phần rất nghịch nhau :

- Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy, đó là thành phần thứ nhất biết sự vận hành sáng suốt của giáo lý Việt: một duyên, hai nợ, ba tình, cụ thể là duyên hội ngộ trong học thuật làm nên nợ hạnh ngộ trong trí thức, tạo nên duyên tái ngộ trên đường đời, với giáo lý một ngày nên nghĩa, một chữ nên thầy. Có những sinh viên đúng Ngày nhà giáo Việt Nam là gởi thư khẳng định đạo lý Việt ơn sâu nghĩa nặng với thầy, họ chúc tết cũng bằng đạo đức Việt : mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy. Mỗi dịp được trở lại quê hương để nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về các chủ đề về Việt Nam học, các sinh viên cao học, tiến sĩ đón đưa tôi với nhân dạng của trò ngoan, với nhân diện của trò khôn, vì họ thông minh theo giáo lý sáng suốt biết người biết ta, vì họ biết kính trên nhường dưới.

- Vong ân bội nghĩa, đó là thành phần thứ nhì, khi có được bằng cấp, học vị, kiêu căng trong tự mãn, cùng lúc trống vắng giáo lý Việt là không thầy đố mày làm nên. Khi gặp lại tôi mặc dầu tôi chẳng có gì để tâm sự với họ, nhưng họ lo ngại trong sợ sệt bằng cách cố tình quên đi, cố ý lảng đi một đạo đức căn bản nhất về sự trung tín được làm ra từ sự trung kiên thủa còn đi học :

Nắng ba năm ta (thầy) không bỏ bạn (trò)

Mưa một ngày bạn (trò) đã bỏ ta (thầy).

Họ quên hẳn đi là từ phương án nghiên cứu tới phương pháp thực địa ; từ kỹ thuật điều tra tới kỹ năng bình giải, bình phẩm ; từ ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp tới thuật ngữ, thuật học, thuật luận ; từ giáo sự phản biện tới hội đồng giám khảo, nếu không có tha nhân phù hộ độ trì, thì cá thể của họ chỉ là bụi đời trong học thuật, oan hồn trong giáo dục.

Câu chuyện vô học-vô hậu chính là câu chuyện vô thông-vô tạo; vì đây không hề là câu chuyện của bằng cấp làm nên học vị, học hàm, mà là câu chuyện có học-có hậu để có thông minh có sáng tạo. Cụ thể là có học bằng công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy nên có hậu trong một duyên, hai nợ, ba tình. Ngược lại vô học vì quên không thầy đố mày làm nên, để sinh sản ra loại quái thai trong âm tướng vong ân bội nghĩa, chóng chày gì cũng dẫn tới quái não trong âm diện lừa thầy phản bạn đây không phải là vô hậu thì còn là gì nữa ?

Lê Hữu Khóa

(01/10/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa
mardi, 06 octobre 2020 14:54

Vô luận 3 : Vô nhân – vô quốc

Vô nhân – vô quốc

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

 

VIETNAM-CHINA-DIPLOMACY

 

Vô học – vô hậu : vô nhân – vô quốc

 

Vô học-vô hậu hệ lụy được phân tích trong tiểu luận này như một hệ luận : sử dụng sự thật để lý luận, vận dụng chân lý để lập luận, tận dụng lẽ phải để giải luận ; hệ luận này mang sức nặng của câu chuyện người Việt có giữ được đất nước, bảo vệ được dân tộc, bảo đảm được giống nòi hay không ? Hay ngược lại Việt tộc đang chịu đựng một sức đè vô hình có hậu quả của một hãm lực, tới từ một độc đảng toàn trị đã chọn cứu đảng hơn cứu nước, đã và đang sa vào tà lộ của phản dân hại nước, mà chỉ cần them một bước nữa là buôn dân bán nước.

Từ mật nghị Thành Đô 1990 là cứu đảng hơn cứu nước, mà đảng đây là Đảng cộng sản Việt Nam, tới nay chỉ riêng tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký với Tàu tặc khoảng 30 mật nghị khác. Bản chất mật nghị này là gì ? Nội dung của chúng ra sao ? Tại sao không cho dân tộc được biết ? Tại sao không cho xã hội được bàn bạc ? Ngược lại Đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng bỏ tù tất cả các con dân Việt yêu nước muốn các mật nghị này phải được minh bạch hóa.

Thái độ che giấu, hành vi che đậy, hành tác che phủ phải được lý giải như các hành động bất chính buôn dân bán nước, vì có tật mới giật mình, luôn sợ giấu đầu lòi đuôi, nên phải siết cổ bóp họng dân chúng bằng bạo quyền công an trị. Lấy đàn áp dân tộc qua quỷ quyền ác với dân, cùng lúc mở cửa cho Tàu tặc vì đã hứa với chúng là cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu gian bằng mật nghị, cụ thể là : hèn với giặc. Tất cả hệ lụy vô học-vô hậu làm nên hệ luận vô giáo lý-vô tương lai này đều tới từ một gốc, rễ, cội, nguồn của vô học (vắng tri thức lẫn đạo lý) đã dẫn đến vô hậu trong quy trình mất đất nước, mất giống nòi ! Không minh bạch hóa các mật nghị, không rành mạch hóa các thỏa ước với Tàu tặc trước dân tộc, trước công chúng thì không phải là chính sách ngu dân, không phải là quyết sách vô học, không phải là quyết định vô hậu thì còn là gì nữa ?

Từ đây, chúng ta phải cân, đo, đong, đếm các hệ lụy vô học-vô hậu, mà vô học không phải là chuyện bằng cấp của học vị, chứng chỉ của học hàm mà là quá trình không được giáo dục tử tế và không được giáo dưỡng đàng hoàng, bằng giáo lý biết dựa vào đạo lý (thương người như thể thương thân), biết tin vào đạo đức (máu chảy tới đâu, ruột đau tới đó). Nghịch lý mà cũng là bi kịch của các gia đình Việt còn muốn bảo vệ giáo lý làm người, với giáo huấn thương người, thì ngày ngày phải "lội ngược dòng" để chống lại tuyên truyền ngu dân của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị).

Vì chính hệ độc này sử dụng tuyên giáo, vận dụng tuyên huấn, tận dụng tuyên truyền để phục vụ cho một chính sách ngu dân trị : chặn tin tức làm nên sự thật, ngăn dữ kiện làm ra chân lý, hủy chứng từ làm rõ lẽ phải. Câu chuyện của tiểu luận này là xem, xét, nghiệm, tra chính sách ngu dân như một hằng số trong chế độ độc đảng, muốn độc quyền tuyên giáo, muốn độc tài tuyên huấn, muốn độc trị bằng tuyên truyền để duy trì không những chính sách ngu dân mà cả một chế độ sản xuất ra ngu dân, một chế độ với ý đồ thui chột hóa tri thức của Việt tộc ngay trong trứng nước !

Trong xã hội độc đảng trị hiện nay mà hậu đài là tham nhũng trị của mua chức bán quyền, mà hệ thống giáo dục mở cửa cho chuyện mua bằng bán cấp, với các hệ quả học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, với tràn lan cao học giả tiến sĩ giấy, nên học vị giả học hàm giả là chuyện "cơm bữa" trong phản xạ vô học, trong phản ứng vô hậu. Ngược lại, chuyện khó là chuyện học thật để hiểu thấu bằng học lực, nên học thật bằng học lực phải nhận vai trò phản biện vì tri thức để chống lại học vị giả học hàm giả. Nhưng tại sao khi vô học lại là nguyên nhân của vô hậu ? Câu trả lời là khi không có giáo dục tử tế, và không được giáo dưỡng đàng hoàng, tức là vắng giáo lý, trống đạo lý, rỗng đạo đức, thì kẻ vô học sẽ chọn đường đi nẻo về của vô hậu qua tục quyền (ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau), qua bạo quyền (cá lớn nuốt cá bé), qua tà quyền (thừa nước đục thả câu), qua ma quyền (thừa gió bẽ măng), qua quỷ quyền (cõng rắn cắn gà nhà), qua điếm quyền (rước voi về giày mả tổ).

Khi chúng ta khẳng định bằng các định luận trên là vô học không hề là chuyện bằng cấp qua học hàm, học vị, mà vô học có phản biện là có học của con người có giáo dục và được giáo dưỡng bằng giáo lý bằng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên, bằng đạo đức có hậu của trách nhiệm với đồng bào, đồng loại, của bổn phận với đất nước, với xã hội. Từ đây, hệ vấn đề làm nên hệ luận giúp chúng ta vừa có lý, vừa có luận, để dùng thảo luận để trao luận, mà cụ thể là để chống ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của tuyên giáo độc đảng đang chủ trì hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay.

Tại các quốc gia có tiến bộ kinh tế, có phát triển khoa học, thì học sinh và sinh viên có một hệ thống giáo dục được trợ lực bởi văn minh của dân chủ, bởi văn hiến của nhân quyền giúp học sinh, sinh viên có lý trí tỉnh táo để chống bất công, có trí tuệ sáng suốt để bảo vệ công bằng, có tuệ giác nghiêm cẩn để đấu tranh vì công lý. Ngược lại, có những hệ thống giáo dục thui chột hóa lý trí, què quặt hóa trí tuệ, mù lòa hóa tuệ giác của học sinh sinh viên, đó là hệ thống giáo dục ngu dân trị hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam.

Hãy lấy ngay một thí dụ của khoa học giáo dục so sánh về giáo dục, giáo khoa, giáo lý, giáo trình, giáo án. Trong giáo trình của trung học phổ thông tại nhiều quốc gia Âu châu, có giáo án sử triết về các tư tưởng gia của thế kỷ thứ XVIII, tại đây các học sinh ở tuổi thiếu niên được học về ba nội dung của thế kỷ được đặt tên là thế kỷ của những ánh sáng :

- Sử dụng lý để luận, dùng lý lẽ để lập luận, dùng thảo luận để trao luận.

- Vận dụng lý để bảo vệ tự do ngôn luận và tự do phát biểu của cá nhân.

- Tận dụng lý để chống lại bất công, bạo quyền và mê tín.

Khi được học cụ thể giáo án này, các học sinh trung học phổ thông tại quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, được thầy cô hướng dẫn để phân tích là khi có một hệ thống tư tưởng giúp chúng ta vừa có lý, lại vừa có luận, thì mỗi cá nhân chúng ta được tiếp nhận ít nhất ba quyền lợi mới, để chống lại các bất công trong xã hội :

- Chống độc tài trong cơ chế chính trị.

- Chống độc tôn trong cơ chế tôn giáo.

- Chống độc quyền trong cơ chế xã hội.

Khi các học sinh trung học ở tuổi thiếu niên được học và được hiểu :

- Chống bất công là chống độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc đảng.

- Chống bất công là chống đặc lợi, đặc quyền, đặc ân, đặc sủng.

- Chống bất công để bảo vệ công bằng, để bảo đảm công lý.

Giáo trình trung học phổ thông giúp học sinh tại phương Tây của dân chủ và nhân quyền có mang hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức), biết tỉnh thức trước mọi độc tài, trước mọi đặc lợi, trước mọi bất công. Giáo trình hoàn toàn vắng mặt trong giáo dục, giáo khoa, giáo lý, giáo án của hệ thống giáo dục từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền 1945, cả giai đoạn nội chiến 1954-1975, cho tới ngày nay trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của toàn cầu hóa biết chống bạo quyền vì công lý.

Nếu cả cuộc đời đi học từ mẫu giáo tới đại học, kể cả sau đại học tới lúc học tiến sĩ tới các lớp tập huấn cho lãnh đạo cao cấp, cho cán bộ nòng cốt mà cả đời cho tới chết không được học về giáo khoa, giáo trình, giáo án để được có giáo dục và giáo lý chống bất công vì công bằng, chống độc tài bằng công lý của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để tiếp nhận hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) thì đây không phải là vô học thì là gì nữa ? Vô học trong triệt hậu không giáo lý, trống đạo lý, rỗng đạo đức, vắng luân lý, thì đây không phải là vô hậu thì là gì nữa ?

Vô học-vô hậu : vô nhân-vô quốc, không hề là câu chuyện lý thuyết của giáo lý làm nên giáo dục, mà trước hết là câu chuyện vận dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để tận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức). Để từ đây, mà nhận ra hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ), mà đứng về phía đồng bào để chống bất công tới từ nội xâm của bạo quyền công an trị, của tà quyền tham nhũng trị, của ma quyền tham tiền trị. Cả ba đang đưa Việt tộc vào quỷ lộ xâm lược của Tàu tặc, đã và đang chiếm đất, biển, đảo của chúng ta.

Vô học-vô hậu : vô nhân-vô quốc, nếu là hậu quả hiện tiền, rồi thành hệ quả của một đất nước bị xâm lược, một dân tộc bị đồng hóa, một giống nòi sẽ bị "bụi đời hóa" ngay trên quê hương của mình thì đây không phải là vô hậu thì còn là gì nữa ?

Tại đây, phải vạch mặt chỉ tên một hệ thống giáo dục độc đảng toàn trị chỉ biết tuyền truyền ngu dân để phục vụ chuyên chính vô học, để phục dịch chuyên chính vô hậu. Vạch mặt chỉ tên các tội phạm chính là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lập lý lịch vô học để họa chân dung vô hậu rồi chú giảng rành mạch chúng là những tội đồ của giáo lý, là những tội phạm của giáo dục, là những tội nhân của giáo khoa, với giáo trình ngu dân để kéo dài trong truyền kiếp vô học, với giáo án tuyền truyền để dẫn đến ngõ cụt của một nhân kiếp hậu.

Khi một hệ thống giáo dục tôn trọng dân chủ, tôn vinh nhân quyền, thì thiếu niên từ trung học phổ thông được học để phân giải mà phân biệt :

- Chống độc tài trong cơ chế chính trị để chống cực quyền trong lãnh đạo.

- Chống độc tôn trong cơ chế tôn giáo để chống cuồng quyền trong giáo hội.

- Chống độc quyền trong cơ chế xã hội để chống lạm quyền trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội.

Chính Voltaire là tổ sư về các phương pháp luận để chống lại hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị) từ độc đảng trong tổ chức chính trị tới độc tôn trong tổ chức tôn giáo bằng lý luận :

- Khi một độc tài muốn độc quyền, thì chính quyền sẽ trở thành bạo quyền.

- Khi một đa nguyên muốn đa quyền, thì nó sẽ tự biết đa hòa, đa bình.

Chống độc quyền bằng đa quyền, chống bạo quyền bằng đa nguyên được xây dựng ngay trên thượng nguồn bằng tự do ngôn luận song hành cùng tự do thảo luận, đây là cơ bản của dân chủ mà cũng là cơ ngơi của nhân quyền, đã có trong cơ chế của dân chủ hy lạp trước công nguyên, đã được vận dụng từ nhiều thế kỷ tại Âu châu và Bắc Mỹ, đã được các học sinh trung học phổ thông tuổi thiếu niên tại phương Tây học và hiểu từ hơn một thế kỷ qua. Các học sinh thiếu niên này :

- Không bị một bạo quyền lãnh đạo nào vu cáo là những lực lượng thù địch, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình.

- Không bị một tà quyền lãnh đạo nào vu khống là những đối tượng chống phá chính quyền, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do thảo luận của mình.

- Không bị một ma quyền lãnh đạo nào vu oan là những cá nhân hay tập thể chống người đang thi hành công vụ, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do trao luận của mình.

- Không bị một điếm quyền lãnh đạo nào dùng luật an ninh mạng để vu họa là những cá nhân hay tập thể làm mất an ninh trật tự xã hội, khi các học sinh thiếu niên này sử dụng quyền tự do truyền thông của mình.

Các bạo quyền, tà quyền, ma quyền, điếm quyền này không phải là bọn vô học trong vô hậu thì còn là gì nữa ?

 

voluan2

 

Vô học-vô hậu : vô giáo-vô luận

 

Hãy sử dụng sử học để soi rọi vào mọi hành động của các lãnh tụ đã lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong độc đảng toàn trị, hãy vận dụng triết học để soi rõ vào mọi hành tác của họ, rồi tận dụng chính trị học để soi sâu vào mọi chính sách của các lãnh tụ. Mà không quên trưng dụng các phương pháp điều tra của xã hội học để thấy cho thấu về đường đi nẻo về trong mạt nghiệp vô học để nhận ra sát nghiệp vô hậu của họ, chúng ta hãy nhớ lại lời dặn của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là "phải lần cho tới tận nguồn lạch sông", và nên bắt đầu với lãnh tụ cha sinh ra chế độ độc đảng toàn trị trên đất nước là Hồ Chí Minh.

Thực chất vô minh, khi Hồ Chí Minh rời đất Việt để tới đất Pháp của bọn thực dân, mà đám xảo nghiệp tuyên giáo đặt tên là : "Bác đi tìm đường cứu nước", đây là câu chuyện nửa hư nửa thật, mà hư nhiều hơn thật, với các chứng từ mà tôi tìm được trong văn khố Pháp, đó là những đơn từ do chính tay Hồ Chí Minh viết xin thực dân được vào học trường thuộc địa của chúng. Hồ Chí Minh có các toan tính tư lợi của riêng ông, mọi người đều có thể thông cảm với ông, nhưng ông xin vào trường thuộc địa của thực dân là để phục vụ thực dân ngay trên thuộc địa Đông Dương thủa ấy. Mà đất này chính là quê hương của ông, nơi mà đồng bào của ông đang chịu ách nô lệ, thì ông phải trả lời cho rõ là thủa thanh niên của ông với lý trí minh mẫn, với trí tuệ tinh thông thì tuệ giác tỉnh táo của ông đã chọn phía nào ? Phía dân tộc hay phía thực dân ? Câu chuyện này không hề được Hồ Chí Minh trả lời khi ông sống. Vào thời điểm mà thực dân làm chúa lẫn làm chủ, bình thường thì các thí sinh muốn vào trường thuộc địa để vinh thân phì gia. Những đứa này bị nhân dân đặt tên là : Việt gian, Hồ Chí Minh muốn vào trường thuộc địa để "cứu nước" thì phải có từ dữ kiện tới chứng từ ngược lại, vì "cứu nước" "bán nước" là hai thái cực, không hề "đội trời chung". Có nhiều người muốn cứu nước mà họ đâu cần phải xin vào trường thuộc địa, vì giáo dục, giáo khoa, giáo tình, giáo án của trường thuộc địa thì hoàn toàn ngược lại với tri thức yêu nước và nhận thức cứu nước. Bọn tụ hợp để học tập tại trường thuộc địa thì chỉ là đám phản dân hại nước, buôn dân bán nước

Nội chất vô học, khi bọn tuyên giáo làm chuyện tuyên truyền ngu dân không hề dám đá động gì đến chuyện đơn xin vào trường thực dân của ông, thì đối với các chuyên gia đã nghiên cứu về các chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị, họ đều biết chủ tịch đảng là chủ mưu bằng sát nghiệp để cướp chính quyền, thì bọn tuyên giáo làm chuyện đánh lận con đen ngay trên lịch sử là chuyện dễ hiểu của loài xảo nghiệp trong điếm lộ mà thôi. Chỉ tội cho các thế hệ sinh sau đẻ muộn, cùng lúc tôi nghiệp luôn cho số phận Việt tộc, đã một thế kỷ kể từ ngày ông đặt chân lên xứ thực dân Pháp để xin phục vụ cho chế độ thực dân. Cả một dân tộc phải chịu đựng trọn một thế kỷ với một tà nghiệp của loài ăn không nói có, với sát nghiệp cướp chính quyền, bằng xảo nghiệp cờ gian bạc lận ngay trong Việt sử cận đại! Nếu ta không nghi ngờ gì nhiều về lòng yêu nước của Hồ Chí Minh muốn giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, thì ta có thể đặt các câu hỏi về đường lối cùng chính sách dùng bạo lực để cướp chính quyền của ông và các đàn em, đàn cháu, đàn con của ông chung quanh đảng Đảng cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau biệt hiệu vô sản là thực chất vô minh, bản chất vô tri, nội chất vô học, đám tuyên giáo xảo nghiệp trong tà lộ đã đưa một lý lịch lập lờ đánh lận con đen. Từ đó, ỡm ờ trong bất chính ngay hệ thống giáo dục quốc gia, thì đây phải là vô học nói liều đã làm ra cái vô hậu nói điêu. Các chuyên gia trong giới nghiên cứu phương Tây về lý lịch của Hồ Chí Minh phải từ "nực cười" qua "té cười". Muốn chống vô học trong vô hậu, hãy đường đường chính chính, bằng quang minh chính đại mà trả sự thật về với chân lý để lẽ phải có danh chính ngôn thuận trong hệ thống giáo dục quốc gia biết chống ngu dân trị, biết khử tuyên truyền trị, biết trừ vô học trị.

Bản chất vô tri, cũng về lý lịch của Hồ Chí Minh, với bút hiệu Nguyễn Patriote ký trong một số bài báo Humanité là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp, không chỉ là của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này, mà là của nhiều trí thức Việt kiều thời đó, trong đó có Nguyễn Thế Truyền. Để giải luận cho chuyện này, tôi vận dụng từ dữ kiện tới chứng từ, từ giải luận tới diễn luận là Nguyễn Ái Quốc không được học tiếng Pháp từ khi còn ở bên nhà, khi qua Pháp lại phải đi làm nhân công, không được học tiếng Pháp đàng hoàng, đầy đủ để mà viết báo. Mà ngay như những bài mà Nguyễn Ái Quốc có viết cũng cần phải một hay nhiều người sửa chữa về ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp mới được gởi đi đăng. Chuyện nhờ người đọc lại để sửa cho ổn về về ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp trong giới trí thức Âu châu là chuyện rất bình thường, các tư tưởng gia, các lý thuyết gia viết Pháp ngữ loại hàn lâm vẫn gởi bài cho nhau, để người này giúp kẻ kia đọc lại để sửa, chỉ có sửa đi sửa lại thì bài mới là bài, mới gởi đi để đăng. Vì "bút sa gà chết" mà ; vì "sai con toán bán con trâu" mà ! Khi trở lại Việt Nam hàng năm để nghiên cứu, khi nghe một loại tuyên truyền là : "Bác Hồ viết tiếng Pháp rất giỏi, rất hay", người tôi như bị "nổi da gà".

Có lần, trong một chương trình được đài truyền hình quốc gia, tôi nghe rõ mồn một từ giọng lưỡi của một nhân vật được gọi là giáo sư, một chuyên gia về "Bác Hồ", đứng thuyết giảng trước hàng trăm học viên của học viện với tên gọi là trường đảng của Đảng cộng sản Việt Nam là : "Bác Hồ biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng". Tối hôm đó trong khách sạn, tôi thấy rõ ràng mình bị từ "lợm giọng" đang chuyển sang trạng thái "buồn nôn". Và tôi đã nôn thật sự ! Vì tôi luôn bị dị ứng từ rợn da lên tới rợn não trước những sự điêu ngoa, nhất là khi nó trắng trợn vỗ ngực xưng danh về chuyện nói điêu, nói gian, nói liều, nói láo, nói ngoa, nói xảo, nói xạo của nó. Tôi sinh hoạt tri thức thường xuyên với các chuyên gia của ngôn ngữ học của Ecole des hauts études de sciences sociales, Fondation de la Science de l’Homme, Collègue de France… cho tới nay đã gần nửa thế kỷ trong học thuật, thú thật là tôi chưa biết ai : "Biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng". Và tôi đã hỏi các đồng nghiệp là chuyên gia ngôn ngữ học là họ có biết ai : "Biết thông thạo hơn 29 thứ tiếng", thì họ đều trả lời là : "Chưa thấy nên chưa biết !".

Cái vô học nó hiện diện ngay trong tuyên truyền trị của loại ăn không nói có, nó lộ diện ngay trong ngu dân trị kiểu thay đen đổi trắng,giấu đầu lòi đuôi ngay trong vô học trị từ khi vốn vô học trong các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam ngự trị trong độc đảng toàn trị từ ngày lập đảng 1930 tới nay đã gần một thế kỷ, với những tuyên ngôn vô học trong vô hậu :

- Lê Duẩn tuyên bố : "Chúng ta làm cách mạng nên không cần luật học", trong hoạn cảnh của một chế độ dùng bạo quyền diệt nhân quyền bằng luật rừng

- Nông Đức Mạnh khuyên nên "canh tác loại cây này, chăn nuôi loại thú kia", ngay trong bối cảnh của các đô thị, của các thành phố…

- Nguyễn Xuân Phúc giảng dạy mỗi khi đi thăm một tỉnh, một vùng, một thành phố thì thúc các tỉnh, các vùng, các thành phố phải là "đầu tàu cho cả nước", một đất nước mà đầy dẫy những đầu tàu mà không cần định hướng…

- Nguyễn Phú Trọng, tự hào "chưa bao giờ đất nước được như ngày hôm nay" trong bối cảnh bao triệu đồng bào đã và đang bỏ nước ra đi, với thảm cảnh trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng (Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc…).

Mà chúng ta biết rõ các quốc gia láng giềng có cùng một văn hóa trong cùng nôi tam giáo đồng nguyên với chúng ta, cụ thể là họ không thông minh hơn dân tộc Việt, tại sao con dân Việt phải đi làm tôi tớ cho họ ? Phải chăng vốn vô học của các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã độc quyền trong vô học trị, độc tài trong ngu dân trị, độc tôn trong tuyên truyền trị, đã độc trị bằng công an trị, đã biến thanh niên, thiếu nữ thành ra đày tớ cho thiên hạ ! Đây không phải là vô học trong tôi đòi làm nên vô hậu trong tôi mọi thì còn là gì nữa ?

Trong khi đó các thiếu niên là học sinh trong giáo trình trung học phổ thông tại các quốc gia đã và đang có văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền thì các học trò phương Tây được học về thế kỷ XVIII, thế kỷ mệnh danh là thế kỷ của ánh sáng biết khai sáng nhân tri để khai phá nhân trí. Các học sinh thiếu niên nay được học về nội dung của bộ tự điển bách khoa (encyclopédie) của Diderot, trong đó mọi khám phá khoa học và kỹ thuật, kể cả nghệ thuật được xếp loại và giải thích theo chuyên môn, chuyên khoa, chuyên ngành. Chuyện khai trí cho nhân sinh không hề là chuyện lý thuyết ; chuyện khai minh cho nhân loại không hề là chuyện trừu tượng ; đó là chuyện liêm chính của kiến thức biết bảo vệ liêm sỉ cho tri thức.

 

voluan3

 

Vô học-vô hậu : vô tri-vô trí

 

Chuyện gì đã xẩy ra trong thế kỷ XVIII, với các triết gia, các tư tưởng gia, mà nhân loại đặt tên thế kỷ này là thế kỷ của những ánh sáng (siècle des lumières). Những ánh sáng tức là của nhiều ánh sáng, từ khoa học kỹ thuật tới sáng tạo nghệ thuật, nhất trong khoa học xã hội và nhân văn, nơi mà triết học nhận vai trò chủ đạo để bảo về tự nhân quyền tới nhân phẩm :

- Montesquieu, tại Pháp quốc, thân phụ của lý luận tam quyền phân lập, trong tam quyền có hành pháp, lập pháp, tư pháp, và cụm từ phân lập vừa phải hiểu là phân lập, vừa phải hiểu là phân định. Tách biệt cho rõ ràng để tách hẳn trong minh bạch ba loại quyền lực, mà cả ba đều phải chịu sự chỉ đạo của luật : lập pháp bảo vệ luật, hành pháp thi hành luật, tư pháp vận dụng luật để xử. Tư tưởng gia này kết luận nếu chỉ một người, một nhóm, một đảng mà nắm cả ba quyền lực một lúc : hành pháp, lập pháp, tư pháp thì cuối cùng nó sẽ mất cả ba, mà trong quá trình nó đánh mất cả ba, thì nó đã gây ra bao tổn hại, bao khổ nạn cho dân tộc, cho đất nước, cho xã hội đã là nạn nhân của sự độc quyền của nó.

- Kant, tại Đức quốc, đề nghị khi chúng ta nói về hạnh phúc của một dân tộc, về an sinh của một xã hội, thì chúng ta nên nói cho rõ là hạnh phúc của một tập thể, an sinh của một cộng đồng chính là công ích xã hội. Mà công ích xã hội này phải được phân phát rộng rãi, phân chia công bằng, phân trao càng rộng càng tốt, chính con số ngày càng đa số, ngày càng nhiều trong dân chúng được hưởng công ích xã hội nói lên tính liêm chính của các chính sách an sinh xã hội. Công bằng là nền móng và công ích là vách mái cho công lý, nên chức năng của công lý là bảo vệ công lợi của quốc gia, vì dân tộc và nhân loại.

- Hume, tại Anh quốc, đã phân tích rõ là một chính quyền liêm chính là một chính quyền không cần ý thức hệ, nên chẳng cần giáo điều để làm danh hiệu cho nó. Chính quyền liêm chính này chỉ cần giải quyết một cách rộng rãi nhất công bằng xã hội, từ tổ chức lao động tới phân chia các công ích xã hội. Mục đích làm nên mục tiêu, một chính quyền liêm sỉ chỉ cần bảo vệ công bằng và công lý, nó loại bất công vừa bằng kinh tế, vừa bằng luật pháp, phương châm của nó là công ích trong công bằng, an sinh trong công lý.

Không cần phải kể thêm các ngôi sao khác trong thế kỷ này đã xây dựng trọn vẹn từ lý luận đến thực tiễn cho văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền, họ đã có mặt và có sự nghiệp tư tưởng trước Marx là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản khoảng một thế kỷ, trước Lenin là cha ruột của chế độ cộng sản khoảng hai thế kỷ. Giờ đây thì mọi chuyện đã rõ, từ chủ nghĩa cộng sản đến chế độ cộng sản, tất cả đều đã sụp đổ vào cuối thế kỷ qua, cụ thể là thời điểm 1990, chính là ngày tận thế của cả hai. Riêng tam quyền phân lập, đại diện cho văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền còn đứng vững, ngày càng lan rộng, chỉ vì văn minh và văn hiến này đã bảo vệ vừa tiến bộ cho nhân sinh, vừa tiến hóa cho nhân phẩm.

Trong tất cả tuyên bố và văn bản của ông là Hồ Chí Minh, tôi đều không thấy từ phân tích tới giải thích về các triết gia, các tư tưởng gia của thế kỷ XVIII này, theo tôi chỉ có vài ba giả thuyết về sự vô tri này :

- Ông không biết gì về gốc, rễ, cội, nguồn của văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.

- Ông không đọc gì về cành, lá, hoa, trái văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.

- Ông không hiểu gì về chiều cao, chiều sâu, chiều rộng, chiều dày văn minh của dân chủ, cho văn hiến của nhân quyền của thế kỷ của những ánh sáng này.

Đây không phải là vô minh thì là gì nữa đây ? Câu chuyện văn minh dân chủvăn hiến nhân quyền vẫn là câu chuyện phân minh để phân định giữa chuyên chính vô tri và dân chủ minh tri :

- Văn minh dân chủ là một cuộc cách mạng rộng rãi nhất với tam quyền phân lập nhưng lại thường hay bị những lãnh đạo cộng sản chụp mũ rồi vu cáo là sản phẩm của tư sản, của tư bản, đây là loại vu khống rất hồ đồ, vì nếu để mọi dân tộc chọn lựa giữa độc đảng trong chuyên chính vô sản-vô học và đa nguyên trong đa đảng để vận dụng tối đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu… thì chắc chắn độc đảng sẽ thảm bại và phải giải tán trước đa nguyên. Không một chế độ độc đảng toàn trị nào hiện nay đang sống sót (Cuba, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam) có đủ liêm sỉ chính trị với liêm chính chế độ mà tổ chức tự do đầu phiếu. Vì chính quyền mà các độc đảng này đang nắm chính là của cướp được (cướp chính quyền), khó có chuyện kẻ cướp của lại trả lại của cải cho nạn nhân của nó.

- Văn hiến nhân quyền là một cuộc cách mạng sâu xa khi công bằng phải là nền của nhân lý, khi công lý phải là gốc của nhân tri để bảo vệ nhân vị bằng nhân bản và nhân văn. Nơi mà nhân quyền có mặt thì tự do của nhân lý và nhân trí sẽ có mặt ; nơi mà nhân quyền xuất hiện thì bác ái của nhân tâm và nhân từ sẽ xuất hiện ; nơi mà nhân quyền hiện diện thì công ích xã hội xuất hiện cùng với xã hội dân sự, luôn thông minh trong sáng tạo để bảo vệ và bảo đảm an sinh xã hội. Các lãnh tụ cộng sản thường tự vỗ ngực trong múa gậy vườn hoang để tự phô trương tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa, đây là lúc so ra mới biết ngắn dài theo giáo lý của tổ tiên Việt. Vì tự vỗ ngực rồi tự phô trương là mình ưu việt hơn người chỉ là trò láo, gian, xảo, lận, hãy phân tích công ích xã hội, an sinh xã hội như hai chỉ báo thực ; và phân định dân chủ, đa nguyên là hai chỉ báo nguồn, đã làm nên nhân quyền thì mọi việc sẽ được minh bạch ngay.

Từ ngày Hồ Chí Minh mang danh hiệu "ra đi tìm đường cứu nước" tới bây giờ đã là một thế kỷ, với chế độ độc đảng toàn trị không dân chủ, cũng chẳng nhân quyền, thì tri thức về tam quyền phân lập trong quy luật của đa nguyên không hề có chỗ đứng ghế ngồi trong độc đảng toàn của Đảng cộng sản Việt Nam ! Cụ thể sau một thế kỷ khi bị gieo trồng chuyên chính vô sản thì tất cả thế hệ sau Hồ Chí Minh do độc đảng giáo dục, do toàn trị giáo dưởng thì họ cũng không biết gì thêm về thế kỷ XVIII với những ánh sáng của dân chủ, của nhân quyền.

Đây là hậu quả mà cũng là hệ lụy của chế độ do Đảng cộng sản Việt Nam cố tình duy trì cho tới nay chỉ để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong chuyên chính vô học-vô hậu. Mà ai cũng biết là mọi chính sách ngu dân đều dựa trên ý đồ ngu dân tập thể trong hành vi, ngu dân cộng đồng trong hành động, ngu dân giống nòi trong hành tác. Hậu quả ngu dân không sao lường hết được, nơi mà vốn vô học của nó đã thành quyết sách vô học hóa để trùm phủ lên nhân kiếp của Việt tộc, chủ xướng bởi tuyên truyền trị, chủ trì bởi ngu dân trị, chủ đạo bởi vô học trị. Lấy cái vô học để vùi lấp cái có học, bằng ý đồ truy diệt tới tận gốc rễ hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức).

Cái vô học của các lãnh đạo cộng sản không có học lực bằng học thật thì chúng luôn mượn giai cấp công nhân và nông dân vốn không có được các điều kiện thuận lợi để học hành tới nơi tới chốn ra làm bình phong ; từ đó giật dây hai giai cấp này trong đấu tranh giai cấp, mà thực chất là thanh trừng tri thức. Nơi đây, trí thức là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp để phủ lấp cái vô học của các lãnh đạo cộng sản, với ý đồ như hằng số trong toán học là thanh trừng cái có học, như hàm số trong toan tính thâm độc để thanh toán hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức). Khi cướp được chính quyền rồi, thì chính hai giai cấp công nhân và nông dân không hề được giáo dục tử tế, được giáo dưỡng đàng hoàng, với giáo khoa có lớp lang thứ tự của khoa học, với giáo trình có dây mơ rễ má của dân chủ, với giáo án lấy học thật làm học lực của nhân quyền, để nhận học vị trong liêm chính, để nhận học hàm trong liêm khiết.

Sau gần nửa thế kỷ hết chiến tranh, thống nhất đất nước với độc đảng toàn trị kiểu Đảng cộng sản Việt Nam từ định chế tới cơ chế, từ giáo dục tới hướng nghiệp, thì cả dân tộc trong đó có hai giai cấp công nhân và nông dân mang tiếng được đi học, nhưng họ lại phải nhận cả một quá trình mua bằng bán cấp với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ; giả vì hữu danh vô thực. Có học vị mà không phải là chuyên gia trong chuyên môn của mình ; có học hàm mà không biết chuyên ngành cùng chuyên khoa của mình là gì ; để tới khi chính các chuyên gia thực thụ hỏi về học lực tức là học thật qua trường thật-học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật thì không trả lời được. học vị, học hàm mà không có học lực tức là học thật nên tránh hội luận, trốn hội thảo, chuồn hội nghị về chuyên môn, chuyên ngành, chuyên khoa, tức là chuyên nghiệp của mình. Trong trà dư tửu hậu thì từ chê bai tới mạt sát nhau là : cao học giả, tiến sĩ giấy… lấy chuyện mua bằng bán cấp ra để mua chức bán quyền, để phỉ báng nhau trước bàng quan thiên hạ rồi tự vỗ ngực để tự nhận là mình : khôn lanh hơn người. Khi bị đồng bào hỏi lại ngược lại : dân tộc cần người khôn có thông minh biết yêu nước thương nòi, chớ không hề cần bọn lanh (đầu khờ miệng lanh) trong buôn gian bán lận từ bằng câp tới lý lịch, thì lại đớ lưỡi, cứng họng, nghẹn cổ mà chẳng trả lời được ! Đây không phải là vô minh thì là gì ? Đây không phải là vô tri thì là gì ? Đây không phải là vô học thì là gì ?

 

voluan4

 

Vô học-vô hậu : vô hiến-vô pháp

 

Hậu quả của vô học là nên hậu nạn của vô hậu có ngay trong thượng nguồn của hiến pháp làm cơ sở cho mọi hạ nguồn của pháp luật có mặt để bảo vệ tự do và công bằng, trong công lý của công luật. Chuyện gì đã xẩy ra từ cuối thế kỷ XVII qua tới thế kỷ thứ XVIII, được gọi là thế kỷ của văn minh dân chủ, thế kỷ của văn hiến nhân quyền ; mà thiếu niên là học sinh trung học phổ thông của các quốc gia có tiến bộ khoa học, có phát triển kinh tế lại được thừa hưởng một nền giáo dục có nhân dạng của nhân quyền, có nhân trí của nhân vị :

- Condorcet, một nhà toán học của Pháp quốc, giới thiệu số lượng trong toán học cũng là quá trình của lý trí trong định lượng, một chính quyền liêm chính không tới tự quân chủ chỉ biết phục vụ vua chúa, không tới tự tôn giáo chỉ biết phục dịch quyền lợi của giáo hội, mà nó phải tới tự số đông trong xã hội đó là dân chúng, đó là dân chúng, đó là đại đa số của một dân tộc. Như vậy, phương pháp số lượng toán học của đại đa số chính là phương pháp tổ chức chế độ và cơ chế từ dưới lên trên, từ dưới của đại đa số dân chúng lên tới trên cấp chính quyền để bầu cử ra một chính phủ biết bảo vệ quyền lợi của đại đa số.

- Locke, một bác sĩ tại Anh quốc có đầy đủ kiến thức triết học, một tư tưởng gia với trọn vẹn kiến thức của chính trị học, đã nhận ra cái bất chính các chuyên chế từ quân chủ tới giáo hội, luôn khai thác độc quyền để lạm quyền. Muốn loại bỏ đặc quyền của các chuyên chế này ra khỏi nhân sinh thì phải gạt chúng bằng sự khai sáng của cái lý : cái lý của tự do, cái lý của công bằng, cái lý biết bảo vệ công lý. Mà tự do, công bằng, công lý phải được công nhận bằng một khế ước xã hội biết tôn trọng dân tộc, biết tôn vinh tự chủ của mỗi công dân. Nên một chính quyền có chính danh là một chính quyền biết bảo vệ tự do, công bằng và công lý, vì biết mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân, cho đại chúng.

- Jefferson, một luật gia của Mỹ quốc, đã thừa hưởng mọi kiến thức từ khoa học tới kinh tế, từ dân chủ tới nhân quyền của thế kỷ XVIII, để xây dựng và chính là cha đẻ ra Hiến pháp của Mỹ quốc. Mặc dầu ông không giãi quyết dứt khoát chế độ nô lệ đang uy hiếp người da đen, nhưng ông đã cho ra đời một hiến pháp với tam quyền phân lập. Một hiến pháp được ra đời mà không kinh qua một kinh nghiệm quân chủ hay tôn giáo nào, một nền dân chủ không cần vua, không cần chúa. Hiến pháp của Mỹ quốc đã làm nền cho bản Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp, mà nó còn là rường cột của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền nơi mà hai quyền làm người được công nhận : quyền tự do ngôn luận qua quyền tự do báo chí ; và quyền có công bằng không những trước luật pháp, mà còn là quyền được hưởng công bằng trong mọi cơ may để thành công trong xã hội.

Khi gặp các đại biểu Việt hiện nay của quốc hội Việt đang đại diện cho lập pháp, các chuyên gia của khoa học xã hội và nhân văn mới "vỡ lẽ" ra là các đại biểu này không có kiến thức lẫn tri thức về :

- Các tác giả có tác phẩm đã làm nền móng cho cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), đã làm rường cột dân chủ (đa nguyên, đa đảng) trực tiếp phục vụ cho nhân quyền. Cụ thể là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì họ không đọc các tư tưởng gia đã đặt nền tảng từ định đề tới định luận về công bằng xã hội, về tự do ngôn luận.

- Các tác giả có tác phẩm làm gốc cội cho tam quyền phân lập. Rõ ràng là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì là họ không đọc các tư tưởng gia đã khai sáng từ giải thích tới giải luận quy trình tam quyền phân lập.

- Các tác giả có tác phẩm về công ước xã hội của Rousseau, khế ước xã hội của Locke ; các khoa học gia như Buffon, Condorcet, Newton vận dụng cái lý trong khoa học để đề nghị tận dụng cái lý trong tổ chức xã hội, tổ chức chính quyền, tổ chức luật pháp. Rõ như ban ngày là các đại biểu hiện nay của Quốc hội không biết, không hiểu vì là họ không đọc các tác phẩm của các tác giả này.

Nếu độc đảng toàn trị giả danh dân chủ, giả hiệu tam quyền phân lập với các đại biểu hiện nay của Quốc hội vô kiến thức về dân chủ, vô tri thức về tam quyền phân lập. Họ có được chỗ, được ghế đại biểu qua buôn gian bán lận kiểu đảng cử dân bầu, hoặc họ thuộc loại chạy ghế đại biểu, chạy chỗ trong quốc hội bằng tiền kiểu mua chức bán quyền, qua hệ thống tham nhũng cũng do đảng lãnh đạo và quản lý. Từ đây, số phận của dân tộc là phải sống với quốc hội giả, nhân kiếp của giống nòi là phải sống với lập pháp gian, đây không phải là hậu quả của vô học làm nên hậu nạn trong vô hậu thì còn là gì nữa ?

Học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để mua một chức quyền thật thì chỉ là chuyện đánh lận con đen, mạo danh thì không sao có được chính danh lập pháp của chính nghĩa lập hiến. Nếu mạo danh tam quyền phân lập, mạo dạng dân chủ với buôn gian bán lận bằng cao học giả, tiến sĩ giấy, bằng bằng cấp nơi mà học vị, học hàm mà không hề qua học thật bằng học lực, thì cũng chỉ là bọn buôn bằng bán cấp để buôn chức ban bán quyền mà thôi ! Bọn này sẽ không dám vào đào thật sâu nội dung của công bằng, xới thật rộng nội hàm của tự do, khơi thật cao nội lực của dân chủ. Hãy hỏi họ một vài câu :

- Tại sao hiến pháp có quy định về tự do ngôn luận cùng như tự do phát biểu và tự do báo chí; mà họ lại "bỏ phiếu thuận" cho một đạo luật quái thai kiểu âm binh là luật an ninh mạng, để trấn áp tự do ngôn luận, để đàn áp tự do phát biểu trên mạng xã hội ? Đây có phải hành tác điếm đểu, kiểu Sở Khanh (Nói lời rồi lại quên lời như chơi) ?

- Tại sao một chủ tịch quốc hội lại thúc hối các đại biểu phải mau mau bỏ phiếu cho luật đặc khu, vì Bộ chính trị đã quyết định rồi. Lập pháp là quốc hội phải đại diện cho nhân dân để bảo vệ luật, chớ sao lại cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối rồi bấm nút theo lệnh của bạo quyền độc đảng? Đây không phải là hành động điếm lợi, kiểu Tú Bà (Đưa người của trước, rước người cửa sau) ?

- Tại sao lại có một Tổng bí thư kiêm cả chức Chủ tịch nước lại tuyên bố là điều lệ và nội quy của Đảng cộng sản Việt Nam thì cao hơn, quan trọng hơn cả Hiến pháp, tại sao lại dám tự cho phép Đảng cộng sản Việt Nam đi trên lưng luật pháp, dẵm lên vai công pháp, đạp lên đầu Hiến pháp ? Đây có phải hành vi điếm quyền, kiểu Má Giám Sinh (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng) ?

Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám sinh là loại vô học, là loài vô hậu, chúng không những trống hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chúng còn rỗng luôn cả hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ), nếu đây không phải là vô học vì vắng hệ thức, nếu đây không phải là vô hậu vì biệt hệ liêm thì còn là gì nữa ?

Hãy đi thêm bước nữa về ba tư tưởng gia trên để hiểu sâu hơn về dân chủ, hiểu rộng hơn về tự do, hiểu cao hơn về công bằng, hiểu xa hơn về nhân quyền :

- Condorcet, một dân chủ chính danh vì có chính nghĩa phải bảo đảm được ít nhất 5 điều : bảo đảm con người, bảo đảm tự do, bảo đảm tài sản, bảo đảm tự do có tài sản, bảo đảm trọn công bằng về tự do, về tài sản.

- Locke, một dân chủ chính hiệu phải có chính nghĩa về công bằng, phải hiểu và bảo vệ vừa bình đẳng, vừa công bằng, nơi mà bình đẳng xã hội và công bằng xã hội phải được xem ngay từ đầu bình đẳng tự nhiên, công bằng tự nhiên, không phải là một ân huệ được ban pháp bởi một quyền lực nào cả.

- Jefferson, tự do phát biểu chính kiến chính là tự do chính trị làm nên tự do xây dựng một thể chế, một chế độ có công bằng dựa trên toàn bộ xã hội, với tự do cho tất cả công dân, có nhân quyền nơi mà mọi công dân được mưu cầu hạnh phúc ngay trong xã hội mà mình đang sống, đang lao động.

Khi tổng kết các lý luận trên để có một tổng luận chỉnh lý, thì ta nhận ra :

- Tự do vận dụng lý luận để thiết lập ra dân chủ thì nó tự hoàn thiện hóa bằng nhân lộ của công bằng.

- Tiến bộ của nhân sinh phải là sự chia sẻ nhân tri nhân trí không những trong mọi khám phá về khoa học kỹ thuật, mà cả trong mọi khai phá về nhân quyền.

Những tư tưởng gia của nhân quyền, nhưng triết gia của dân chủ chính là những chủ thể trực diện đấu tranh chống bạo quyền, chống độc tài, họ dấn thân và họ đã bị đàn áp rồi bị tù đày, trong đó có trường hợp của kịch giả Beaumarchais, của nhà toán học Condorcet, của khoa học gia Diderot, của tư tưởng gia Voltaire... Chính trong bóng tối của độc quyền quân chủ tuyệt đối ngày ngày bòn rút tới tận xương tủy của dân tộc Pháp trong thời cuộc của thế kỷ XVIII, Condorcet vững tin vào ánh sáng của lẽ phải : "Có một ngày mà ánh sáng trên trái đất này chính là tự do, nơi mà con người không còn bị nô lệ bởi bất cứ một quyền lực nào, ngoài quyền lực của cái lý vì tự do".

 

voluan5

 

Vô học-vô hậu : vô lương-vô liêm

 

Nếu nhận ra vô học là vô tri thức dẫn tới vô hậu là vô tương lai, mà nguyên nhân chính là không có đủ kiến thức để có những định hướng, những dự phóng, những phương án để thăng hoa hay để tồn tại trong mai hậu. Như vậy thì xã hội Việt hiện nay đã và đang đi sâu vào tà lộ của vô học-vô hậu. Tại đây, chỉ cần soi xét ba chỉ báo để nhận ra chân dung của hậu quả vô học và chân tướng của hệ lụy hậu.

Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền bằng vốn vô học của họ dựa trên công an trị, đang điều hành chính phủ bằng tuyền truyền trị, cụ thể là đang điều khiển không những tổ chức chính trị mà cả tổ chức kinh tế, tổ chức khoa học, tổ chức xã hội bằng ngu dân trị. Các lãnh tụ trước đây và các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam không có điều kiện được học hành trước khi lãnh đạo thì đây không phải là một cái tội. Nhưng khi họ nhận các chức năng trong quản lý trong chính quyền, nhận các chức vụ trong quản trị trong chính phủ mà không chịu học hỏi là một cái lỗi lớn. Và với chức quyền mà họ đang nắm hiện nay họ còn thông đồng hoặc thỏa hiệp với ma trận học-giả-thi giả-điểm giả-bằng giả không những cho họ mà cho thân thuộc của họ trong tà giới quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ. Mà trực tiếp hay gián tiếp diệt trí tuệ, triệt nguyên khí quốc gia, chặn những chân tài, ngăn những thực tài của dân tộc, thì đây là một cái tội, một tội rất lớn! Đây vừa là chân dung của vốn vô học làm nên chân tướng tướng vô học trị.

Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền có những tướng trong từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an, đã phá kỷ lục thế giới về số lượng hơn 500 tướng, cụ thể là phá kỷ lục về mua chức bán quyền. Đám tướng này có chức tướng không hề qua kiến thức an ninh quốc phòng, lẫn tri thức trật tự xã hội của một thể chế văn minh biết dựa vào một dân tộc có văn hiến. Mà lũ tướng này, dân chúng gọi là tướng cướp, các tướng của Bộ Quốc phòng thì biến đất quốc phòng thành đất kinh doanh, ăn đất để ăn tiền. Cùng các tướng của Bộ Công an đã tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong sào huyệt của Bộ Công an, nơi mà các tướng công an trở thành những tên đầu nậu, lấy xâu bài qua chủ cái bằng tham nhũng lên tới bạc tỷ mỗi tháng. Đây là là chân dung của tham ô trị làm nên chân tướng tướng vô học trị có anh em sinh đôi là tham nhũng trị.

Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an đã liên minh với côn đồ, lưu manh, du đảng mà tên gọi thông dụng là xã hội đen để tiếp tục làm đầu nậu từ đất đai tới các dịch vụ phạm pháp trầm trọng nhưng lại được được các tướng bảo kê. Chúng sẵn sàng phá nhà để cướp đất của dân ; biến dân lành, dân đen một sớm một chiều thành dân oan trong với thảm họa màn trời chiếu đất, với thảm cảnh đầu đường xó chợ. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng côn đồ trị.

Các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo chính quyền qua các tướng của Bộ Công an liên minh sử dụng côn đồ, lưu manh, du đảng của xã hội đen để hành hung, khủng bố, truy diệt các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, vì nhân quyền, vì tiến bộ, vì văn minh, đây là những đứa con tin yêu của Việt tộc, chính các chủ thể này đại diện cho có học-có hậu để chống lại tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô hậu. Đây là chân dung của công an trị làm nên chân tướng tướng vô học trị.

Chỉ với vài chỉ báo này trong hàng trăm, hàng ngàn chỉ báo khác tạo dựng lên của tà nghiệp trong ma lộ của vô học-vô hậu, chúng ta hãy cùng nhau nhận ra nội dung và nội hàm của có học-có hậu, trước hết qua đạo đức được kết tinh bằng đạo lý của hai hệ :

- Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) có tình cảm chân thiện ăn hiền ở lành, thì sẽ dễ có tâm cảm thương người như thể thương thân, từ đó sẽ nhận ra sức liên kết giữa quá khứ-hiện tại-tương lai trong phương trình ăn ở có hậu chính là cốt lõi của lương tri, một tri thức biết nhận ra điều hay lẽ phải.

- Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) để trong sạch khi học làm người, trong sáng khi nhận trách nhiệm và khi lảnh bổn phận trước đồng bào, đồng loại; lại biết giữ sĩ diện cho mình và cho người bằng sự tôn trọng lẫn nhau qua công bằng xã hội, qua công lý của pháp luật.

Hai hệ lương liêm dựng lên đạo đức được kết tinh bằng luân lý trách nhiệm và bổn phận, sẽ mở ra hai hệ khác chính là giáo lý của dân chủ luôn có cùng một dòng sinh mệnh với có học-có hậu :

- Hệ công (công bằng, công lý, công tâm) công bằng xuất hiện vì con người luôn muốn xóa bất bình đẳng trong nhân sinh; công lý trực diện với bất công bằng đạo lý và luật pháp để chống lại bất công. Và công tâm cũng có mặt để trợ lực cho công lý có thêm tình người, biết hiểu hoàn cảnh để thấy cho thấu tâm cảnh, từ đó có tâm cảm trong rộng lượng, trong khoan dung, biết lấy từ tâm để trợ duyên cho công tâm.

- Hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng), nơi mà tự do là nhân quyền cơ bản để vừa bảo vệ công bằng giữa mọi người, vừa giúp mọi người được mưu cầu hạnh phúc cho chính bản thân của mình. Với lực tự chủ từ học hành tới nghệ nghiệp, từ kinh tế tới xã hội, từ văn hóa tới giáo dục, luôn được củng cố bằng lòng tự tin vào công lý trong giáo dục lương thiện, trong giáo dưỡng liêm chính, để có tự trọng với tư cách có học trong nhân cách có hậu.

Khi hai hệ lương liêm của đạo đức biết chung lưng đấu cật với hai hệ công tự của công lý, thì dân tộc được tiến bộ, giống nòi được thăng hoa, qua hai hệ tinh anh của có học-có hậu :

- Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) bằng vốn liếng của Việt tộc đã một minh tộc biết dựng nước giữ nước bằng chính sự thông minh của mình, với tri thức tinh tế về đất nước, về địa dư, về tiềm năng… Thông minh được thể hiện, được hành tác bằng sự thông thạo vận dụng các tiềm năng có sẵn, tận dụng lòng yêu nước của Việt tộc luôn là một dũng tộc có can đảm trong kiên cường quyết tâm bảo vệ quê hương và giống nòi, bằng sự thông thái trong chiến lược quân sự và ngoại giao chống ngoại xâm.

- Hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng chế, sáng tạo), bằng sự chủ động ngay trong tư duy, lấy sáng kiến để vượt thoát mọi hiểm nạn từ nội xâm buôn dân bán nước tới ngoại xâm lòng lang dạ thú như Tàu tặc hiện nay. Cả hai, nội xâm lẫn ngoại xâm, đều vô học vì vô đạo đức và vô công lý, nên chúng sẽ vô hậu vì vô lương tâm và vô liêm sỉ. Chúng sẽ bị triệt hạ bởi những lực lượng tiến bộ của xã hội dân sự, biết sáng lập ra những phong trào dân chủ, biết sáng chế ra những trào lưu nhân quyền, để nhận lại nhân phẩm Việt luôn có học đạo đức và công lý, luôn có hậu từ lương thiện tới liêm khiết.

Cuộc hành trình của Việt tộc trong thời điểm lịch sử sắp tới và đang tới là một quá trình đảm nhận đầy đủ hai hệ lương liêm của đạo đức, để lảnh nhận trọn vẹn hai hệ công của công lý, từ đó sử dụng, vận dụng, tận dụng hai hệ thông sáng, có sẵn trong vốn liếng của dân tộc, của giống nòi, mang tinh anh của có học trong thể phách có hậu. Các dân tộc cùng nôi văn hóa và văn hiến với chúng ta trong tam giáo đồng nguyên đã thành công, như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc… thì chúng ta phải thành công như họ. Câu chuyện thành công trong dân chủ, thành tựu trong đa nguyên, thành đạt trong nhân quyền phải bắt đầu dẹp để xóa đi :

-     Độc đảng toàn trị bằng vốn vô học.

-     Độc tài nhưng bất tài vì vô học trị.

-     Độc trị nhưng không biết quản trị vì ngu dân trị.

-     Độc quyền nhưng cuồng quyền bằng công an trị

-     Độc tôn nhưng không thượng tôn pháp luật vì tham nhũng trị.

Tất cả đều là độc đạo nên vô cùng độc hại vì tham quyền, tham tiền, vì lạm quyền, lộng quyền, đây là chân dung vô học trong cực quyền làm nên chân tướng vô hậu trong cuồng quyền.

Lê Hữu Khóa

(29/09/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa
mardi, 06 octobre 2020 15:15

Vô luận 2 : Vô minh - vô tri

 

Vô minh - vô tri

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

voluan1

Vô học-vô hậu : Vô minh - vô tri

 

Vô luận là vận dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để thấy cho thấu từ nội dung tới nội hàm hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) bằng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ).

Vô minh, có thượng nguồn của hệ ngu (ngu si, ngu đần, ngu dại) ngay trong não trạng của một cá nhân mang vào sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội bằng hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) của mình. Bi nạn của một dân tộc, của một đất nước tới từ những các cá nhân lãnh đạo biến hệ ngu này thành chính sách, tên gọi của nó là : ngu dân, đây là loại hệ lụy của một chế độ chính trị áp đặt lên một giống nòi, một xã hội, lên luôn tất cả các chân trời tương lai của nhiều thế hệ mai hậu. Một cá nhân lãnh đạo vô minh khi tạo ra một đảng cầm quyền vô minh, thì sẽ dựng lên một chế độ độc đảng vô minh, sẽ tạo ra một định chế toàn trị vô minh, sẽ xây lên một hệ thống chuyên chính vô minh. Tất cả hệ lụy này sẽ thủ tiêu không những nhân tri, nhân trí mà nó hủy diệt nhân tính, nhân lý của dân tộc đó, mà không quên thanh trừng luôn nhân bản nhân văn của dân tộc đó.

Vô tri, vì không hiểu nên không biết một chuyện cơ bản trong nhân sinh là phải học, học mới biết, học đây là học thật, học để hiểu, hiểu để phân tích sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội. Hiểu để giải thích tới nơi tới chốn từ hiệu quả tới hậu quả, từ hệ lụy tới hệ luận về chính sách, chế độ, định chế, hệ thống… Nơi nào vô tri ngự trị thì nơi đó, xã hội đó, dân tộc đó sẽ mất trọn nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn. Khi vô tri được xem là một thực trạng không nắm hiểu biết tới từ một thực tế bất tri vì không có hiểu biết, chính nó sẽ tạo ra thất tri tức là không có sự hiểu biết có căn bản, có căn cơ, có căn cứ. Khi mất nguồn cội căn bản này thì sẽ tiếp tục đánh mất mọi hiểu biết tiếp theo, sau này. Vì quy luật của sự hiểu biết là tiến trình thăng hoa, từ dưới lên trên, từ thấp lên cao, từ dễ tới khó, có hiểu biết căn bản ban đầu sẽ có căn cơ hiểu biết thêm các chuyện khác khó hơn, phức tạp hơn. Như vậy, câu chuyện học để hiểu, là câu chuyện học thật để hiểu thật, học từ gốc, rễ, cội, nguồn để cá nhân được hiểu tới nơi tới chốn về cành, lá, chồi, nhụy, lộc, hoa, trái… Câu chuyện học thật để hiểu thật hoàn toàn ngược lại với chuyện mua bằng bán cấp trong chế độ vô minh với cơ chế vô tri hiện nay với học giả-thi gia-điểm giả-bằng giả, từ lãnh đạo tới cán bộ.

voluan2

Khi khoa học giáo dục so sánh có mặt để cân, đo, đong, đếm, giáo khoa, giáo trình, giáo án dựa trên giáo lý, giáo luận, giáo dục của hai hệ thống giáo dục, hệ thống thứ nhất là của Việt Nam hiện nay trong tay độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam lấy tuyên truyền ngu dân để diệt nhân trí ; và hệ thống giáo dục thứ nhì các nước hiện nay đang sống với văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền, thì mọi sự thật về giáo khoa, giáo trình, giáo án làm nên chân lý về giáo lý, giáo luận, giáo dục, từ đây nội dung của giáo dục là phải làm sáng tỏ được lẽ phải của giáo dục. Thí dụ cụ thể dễ dàng kiểm chứng nhất là giáo trình trung học phổ thông dành cho học sinh tuổi thiếu niên tại các quốc gia tiến bộ này là :

Cái lý dùng để phân tích và giải thích sự thật, làm nên từ lý lẽ để con người lý luận mà nhận ra chân lý chỉ bằng còn đường của lý, và tất cả con đường khác không qua lý luận để giải luận, thì các con đường nếu không là mê tín, dị đoan, cuồng đạo, thì là con đường của bạo quyền, tà quyền, ma quyền.

Cái lý dùng để phân tích và giải thích mọi khám phá khoa học, kỹ thuật, tạo điều kiện ra đời của cái lý biết phân tích và giải thích mọi bất bình đẳng, bất công trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội ; và cũng chính cái lý này dắt con người tới con đường đấu tranh vì công bằng và công lý.

Cái lý dùng để phân tích và giải thích từ tiến bộ khoa học, kỹ thuật tới con đường đấu tranh vì công bằng và công lý, cũng sẽ được vận dụng như cái lý để định nghĩa thế nào là hạnh phúc, thế nào là tự do, thế nào là nhân quyền, thế nào là là dân chủ. Cái lý chính là chủ lực để chống bạo quyền, tà quyền, ma quyền, nên nó chống luôn cuồng quyền, cực quyền, lộng quyền, lạm quyền, tham quyền.

chính lý thì phải chỉnh lý khi phân tích, hợp lý khi giải thích, toàn lý khi thuyết phục đối tác, tha nhân, đồng loại, tại đây phương trình (chính lý, chỉnh lý, hợp lý, toàn lý) làm chỗ dựa cho cảm xúc đúng (bất nhẫn khi thấy bất công), làm nền móng cho cảm động đúng (dấn thân khi thấy bất công tới từ bạo quyền). Cảm xúc đúng vì biết thương người, cảm động đúng vì biết thương đồng bào, đồng loại chính là cái lý của đạo đức (thương người như thể thương thân) làm nên giáo lý (bầu ơi thương lấy bí cùng).

Từ đó biết đấu tranh bằng hệ lý của luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) sử dụng thảo luận để tranh luận, vận dụng tranh luận để thuyết luận, tận dụng thuyết luận để trao luận. Đây là một quá trình truyệt đối bất bạo động của các chủ thể vừa biết tôn trọng lý lẽ của sự thật, lý luận của chân lý, lập luận của lẽ phải, một quá trình thông minh của cách đối nhân xử thế văn minh, nơi mà :

Cái lý có thượng nguồn từ đề nghị tới trung nguồn của thảo luận để có hạ nguồn thái hòa cùng nhau quyết định trên cái lý để cùng nhau thực hiện bằng hành động vì cái lý của công bằng, tự do, bác ái, đó là cái lý của cộng hòa. Quy trình đề nghị-thảo luận-quyết định-thực hiện chính là quy trình của giáo lý thông thái làm nên giáo luận thông minh nơi mà học thuật chính là học thật ; và học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả hoàn toàn không có chỗ đứng ghế ngồi trong giáo lý làm nên nhân lý này.

Cái lý có tự thượng nguồn từ đa tài, đa lực, đa trí, đa dũng, đa năng, đa hiệu, tới trung nguồn của đa nguyên để có hạ nguồn hòa bình cùng nhau quyết định trên đa đảng để cùng nhau thực hiện bằng hành động vì cái lý mà bảo vệ nhân quyền, đó là cái lý của dân chủ. Khi cái lý cho xuất hiện cái đa, thì đa tài này bổ sung cho đa tài kia, thì đa trí này bổ túc cho đa trí kia, thì đa hiệu này trợ lực cho đa hiệu kia. Nên đa nguyên vận dụng đa đảng, để đảng này cạnh tranh bằng đa dũng với đảng kia, để đảng này tranh đua bằng đa lực với đảng kia, để thông minh của đảng này được thể nghiệm, rồi thi thố với thông thái của đảng kia. Đây chính là nhân trí phải có trong nhân giáo của giáo dục.

voluan3

Ngược lại, hệ thống giáo dục của Việt Nam hiện nay trong tay độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam có :

Giáo lý, giáo luận, giáo dục qua tuyên truyền ngu dân về tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là loại tư-tưởng-rỗng-tư-tưởng, vì định nghĩa của một tư tưởng phải dựa trên một hệ thống lý luận trong đó nội dụng của tư tưởng này phải có xác chứng của sự thật, có minh chứng của chân lý, và có thực chứng của lẽ phải. Nơi mà tất cả các lý luận về sự thật, chân lý, lẽ phải đều mang một giá trị vừa khách quan trên tiêu chuẩn của khoa học, vừa nhân bản và nhân văn trên các tiêu chuẩn nhân đức.

Giáo khoa, giáo trình, giáo án là qua tuyên truyền ngu dân về tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là loại tư-tưởng-trống-tư-tưởng, mà chỉ là các hiệu lệnh không có dẫn chứng của chứng minh khách quan. Nó chỉ là các khẩu lệnh không có sự chuẩn xác của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành biết chế tác ra một nhân sinh quan biết tôn trọng nhân quyền, một thế giới quan biết tôn vinh nhân loại. Tính phổ quát của một tư tưởng phải có nhân tâm để bảo vệ nhân sinh, phải có nhân lý để bảo vệ nhân thế, phải có nhân tri để bảo vệ nhân tính.

Giáo lý, giáo luận, giáo khoa, giáo trình, giáo án sử dụng một tư tưởng để giảng dạy trong hệ thống giáo dục, thì tư tưởng này phải dựa trên một tác giả có những tác phẩm làm nên sự nghiệp được hình thành qua một tư tưởng có lớp lang thứ tự của một hệ thống. Tại đây, đặc thù của tác giả là gốc, rễ, cội, nguồn làm nên đặc tính của tác phẩm, làm ra đặc điểm của tư tưởng này, Hồ Chí Minh không hề là một tác giả của bất cứ một tác phẩm nào, để làm (cho ra trò) một tư tưởng nào !

voluan4

Nếu ngay trong một hệ thống giáo dục quốc gia, mà tuyên truyền ngu dân đã đánh lận con đen từ kiến thức tới tri thức, từ trí thức tới ý thức, từ nhận thức tới tâm thức, thì đây không phải là vô học trong vô hậu thì còn gì nữa đây ?

Chưa hết, khi tuyên truyền ngu dân từ tận dụng tới lạm dụng một hệ thống giáo dục quốc gia để lập nên một quá trình giáo lý, giáo luận, giáo khoa của đánh lận con đen, để tạo ra một quy trình giáo khoa, giáo trình, giáo án thay trắng đổi đen, tuyên truyền ngu dân bằng tuyên giáo độc ngôn, khi nó muốn thay thế giáo lý của đạo đức thì tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị phải "dở trò" :

Cả vú lấp miệng em, cụ thể là nó chống lại các tri thức phản biện bằng lý trí, trong khi đó chúng ta biết là các học sinh từ tiểu học tới trung học tại các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền được học kỹ lưỡng và rõ ràng về tri thức phản biện, cần thiết để công dân phải biết tự bảo vệ công bằng và công lý trước bạo quyền và bạo lực.

Cố đấm ăn xôi, cụ thể là nó chống lại tri thức phê bình bằng trí tuệ, trong khi đó chúng ta biết là các học sinh từ tiểu học tới trung học tại các quốc gia có phát triển giáo dục, có tiến bộ khoa học được học rành mạch và minh bạch về tri thức phê bình, cần thiết để công dân phải biết tự bảo đảm công luật và công pháp trước lạm quyền và lộng quyền.

Vụng chèo khéo chống, cụ thể là nó chống lại tri thức đa nguyên bằng tuệ giác, trong khi đó chúng ta biết là các học sinh từ tiểu học tới trung học tại các quốc gia có lý trí của giáo lý, có trí tuệ của giáo luận được học trong tỉnh táo để có sáng suốt mà phân giải. Cụ thể là đa tài hơn độc tài, đa trí hơn độc trí, đa lực hơn độc lực, đa năng hơn độc năng, đa hiệu hơn độc hiệu. Đa là dụng cái này để bổ sung, bổ túc cho cái kia, vì đa lực làm nên tổng lực, vì đa trí chắc chắn là khôn hơn độc tôn ! Nên đa đảng năng động trong thông minh, chủ động trong thông thái hơn độc đảng.

Như vậy, tuyên truyền ngu dân khi lạm dụng một hệ thống giáo dục quốc gia để cả vú lấp miệng em, rồi cố đấm ăn xôi, và vụng chèo khéo chống để ba khuyết tật này trở thành khuyết não. Một khuyết não ngay trong giáo dục, giáo lý, giáo luận, giáo khoa, giáo trình, giáo án từ kiến thức tới tri thức, từ trí thức tới ý thức, từ nhận thức tới tâm thức. Một khuyết não ngay trong quá trình trưởng thành của học sinh, sinh viên. Nếu đây không phải là hậu quả của vô học đã làm nên hậu nạn của vô hậu thì còn là gì nữa ?

voluan5

Có những quốc gia trên đường đi tìm văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền trên nhiều châu lục, mà cụ thể là các hàng xóm láng giềng của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour đã có những minh quân, minh vương, minh chúa, minh chủ đã thấy để thấu :

Phải sử dụng hệ đa, nơi mà đa nguyên mang sung lực của đa tài, đa trí, đa lực, đa dung, đa năng, đa hiệu để phát triển khoa học kỹ thuật từ đó xây dựng tiến bộ về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục…

Phải vận dụng hệ thông, nơi mà sự thông thái của một hệ thống giáo dục đã giáo dưỡng được sự thông minh của học sinh, sinh viên để khi họ trưởng thành như công dân thì họ là những chủ thể thông thạo từ huấn nghiệp tới tu nghiệp, từ nghề nghiệp tới sự nghiệp.

Phải vận dụng hệ sáng, nơi mà một hệ thống giáo dục luôn tạo điều kiện thuận lợi cho phản biện, cho phê bình, cho đa nguyên để học sinh, sinh viên có sáng kiến ngay trong giáo lý, giáo luận, giáo khoa, có sáng tạo ngay trong giáo khoa, giáo trình, giáo án. Những chủ thể của giáo dục có tự do trong lý luận, có tự chủ trong lập luận, có tự tin trong giải luận, nơi mà luận luôn song hành với nhau để sáng lập ra những mô thức tiến bộ mới, những mô hình phát triển mới.

Thảm họa tới từ tuyên truyền ngu dân của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống giáo-điều-phản-giáo-dục, làm nên khuyết tật trong giáo lý, giáo luận, giáo dục, tạo ra khuyết não ngay trong giáo khoa, giáo trình, giáo án, nó truy, hủy, diệt, triệt :

- Văn hóa cộng hòa : tự do bảo trì công bằng.

- Văn minh dân chủ : đa nguyên bảo vệ đa đảng.

- Văn hiến nhân quyền : nhân vị bảo đảm nhân phẩm.

Chưa hết, tuyên truyền ngu dân trong hệ thống giáo-điều-phản-giáo-dục truy, hủy, diệt, triệt ngay trong trứng nước mọi xuất hiện, mọi hiện diện của minh quân, minh vương, minh chúa, minh chủ. Vì nó đã chôn sống ngay trên thượng nguồn mọi nguyên khí của quốc gia chính là những hiền tài của dân tộc, đây không phải là hậu quả của vô học đã làm nên hậu nạn của vô hậu thì còn là gì nữa ?

voluan6

Vô học-vô hậu : vô giác-vô cảm

 

Hãy bắt đầu từ định vị tới định nghĩa về vô giác vô cảm :

Vô giác, từ vô tri giác tới vô cảm giác luôn mang theo khuyết tật vô tự giác của nó. Một kẻ vô giác thì không những vô minh từ lý trí tới trí tuệ, mà còn vô tri từ cảm xúc tới cảm động ; vô giác là thụơng nguồn của vô tình, vô tâm với tha nhân, với đồng loại. Nơi mà sự thông cảm để chia sẻ nỗi khổ niềm đau với đồng bào, đồng loại hoàn toàn vắng mặt từ tư duy tới hành vi. Vô giác biệt dạng trong tâm khảm, vì nó đã biệt tăm trong tâm trí. Khi vô giác xuất hiện trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội thì nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ không hề có chỗ đứng ghế ngồi gì trong não trạng của kẻ vô giác. Câu chuyện vô tự giác có cha sinh mẹ đẻ là vô tri giác vô cảm giác, là câu chuyện sinh cùng năm đẻ cùng tháng với hệ lụy vô học-vô hậu, mà vô học không phải là chuyện đi học để lấy bằng cấp, mà là chuyện được giáo dục tử tế và được giáo dưỡng đàng hoàng bằng giáo lý. Cụ thể là kẻ thoát được vô học thì chọn khôn không chọn ngu (Kẻ ngu cởi truồng, người khôn mất mặt) ; cụ thể là kẻ thoát được vô học thì chọn thanh không chọn hèn

(Thân em như giếng giữa đàng

Người thanh rửa mặt, kẻ hèn rửa chân).

Như vậy câu chuyện vô học-vô hậu không hề là chuyện học vị hay học hàm, mà là chuyện học lực qua giáo dục của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, vì biết dựa trên giáo lý khôn-để-thanh, vì chỉ có ngu mới hèn, mới thô, mới tục mà thôi.

Vô cảm, cảm xúc biệt tăm, cảm động biệt tích trước bi cảnh của tha nhân, trước thảm cảnh của đồng loại, với thái độ thờ ơ trước các bất công, với hành vi hững hờ trước các hậu quả do bạo quyền, tà quyền, ma quyền gây ra ngay trong đạo lý tổ tiên, ngay trong luân lý dân tộc, ngay trong giáo lý của đạo đức. Nếu vô cảm tới từ vô minh, nó sẽ truy diệt nhân tri, nhân trí ; nếu vô cảm tới từ vô tri, nó sẽ thủ tiêu nhân tính, nhân lý ; nếu vô cảm tới từ vô giác nó sẽ thanh trừng nhân bản, nhân văn, mà không quên thanh toán luôn nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ. Vô cảm đang tràn lan trong xã hội hiện nay, với sự thờ ơ trước bạo quyền độc đảng công an trị, sự hững hờ trước tà quyền tham nhũng trị, sự dửng dung trước ma quyền tham tiền trị. Nơi mà sự ích kỷ luôn đi tìm tư lợi trong ma lộ ai chết mặc ai ; nơi mà tư lợi đã thành khuyết tật chỉ biết vụ lợi của điếm tật bây chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi. Tại đây, đã tạo ra một tâm nạn tập thể gây ra bao họa nạn cho toàn một xã hội ; nơi mà dân tộc của xã hội đó đang tự "ghẻ lạnh hóa" từ nhân vị, nhân đạo tới nhân nghĩa, nhân tâm của chính mình.

Khi ta có từ định vị tới định nghĩa về vô giác, vô cảm, ta có thể đi thêm một bước nữa để tới định đề rồi tới định luận về các hậu quả của giác, cảm chính là sự vắng mặt của giáo lý biết thương đồng bào, của giáo luận biết quý đồng loại. Đây là câu chuyện của kiến thức về tình thương được bắt đầu bằng tri thức về tình người, nơi mà tình thương và tình người phải bắt đầu bằng kiến thức về công bằng, bằng tri thức về công lý. Tại sao trong giáo lý, giáo luận làm nên giáo dục, giáo khoa, dựng nên giáo trình, giáo án của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền thì học sinh được học, được hiểu, được thấu rất rõ ràng trong rành mạch về công bằng lẫn công lý. Cụ thể là trong giáo trình của trung học phổ thông của các quốc gia vừa có phát triển kinh tế, vừa có tiến bộ khoa học để bảo vệ văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền, các thiếu niên được học từ sử học tới triết học của thế kỷ XVIII, thế kỷ của những ánh sáng của sự thật, của chân lý, của lẽ phải :

Lập luận về công lý, có chỗ dựa là lý luận về công bằng, lập luận là xây nền, tường, mái phải dựa vào lý luận là tìm đường đi nẻo về, có phương pháp đi và có biện pháp về. Từ đây, mỗi học sinh biết tự lập luận để chống bất công, tự lý luận để không phạm pháp trước công lý.

Giải luận chống cuồng tín, tới từ mê tín, dị đoan có chỗ dựa là diễn luận chống cuồng đạo tới từ đạo giáo, tôn giáo, nơi mà mọi thế lực muốn độc quyền để tăng quyền lực lẫn quyền lợi của nó trong xã hội, trong dân tộc, đều đáng được dẹp bỏ.

Định luận về tự do, chỉ thực hiện được tự do khi tự do có gốc, rễ, cội của công bằng, làm nên nền, tường, mái cho công lý, nơi mà bạo quyền độc trị, tà quyền độc đảng, ma quyền độc tài không được có chỗ đứng ghế ngồi trong không gian của công bằng lẫn công lý, trong không gian của tự do lẫn tự chủ.

voluan7

Các thiếu niên của các quốc gia có phát triển kinh tế, vừa có tiến bộ khoa học để bảo vệ văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền được học-để-hiểu, được thấy- để-thấu (đây là học thật hoàn toàn ngược lại với học giả) :

Newton, là một khoa học gia chủ trương khám phá khoa học ngay trong nhân sinh phải trở thành nhân tri ngay trong nhân thế ; nhân trí ngay trong nhân loại, nên ông chống lại một loại giáo hội lạm quyền trong độc quyền, chặn kiến thức, ngăn tri thức, ông chủ trương phổ biến, phát hành, truyền thông mọi kiến thức khoa học tới dân chúng, quần chúng. Một nhân sinh càng nhiều nhân tri, một nhân loại càng nhiều nhân trí, thì ngu dân trị phải lùi, thì tuyên truyền trị phải lui, thì vô học trị phải tự vùi để tự diệt.

Diderot là một khoa học gia chủ trương biến kiến thức kinh điển thành tri thức tự điển, với một công trình vừa chính xác trên các khám phá khoa học, vừa tổng quan trên các chuyên khoa, chuyên nghành, để biến kiến thức hàn lâm thành tri thức phổ thông. Mọi chính quyền ngăn kiến thức phổ quát đều là tà quyền, mọi chính phủ chặn tri thức tổng quát đều là ma quyền, chúng không có chính nghĩa nên không có chính danh được công nhận như một chính quyền. Chính nghĩa của kiến thức phải được lưu hành rộng rãi, và chính danh của tri thức phải được phát hành rộng khắp.

Voltaire, một tư tưởng gia của tự do ngôn luận, triết gia của tự do diễn đạt nơi mà tự do biết tạo ra dân chủ, nơi mà công lý có mặt để bảo vệ nhân quyền. Ông bảo vệ tư tưởng của ông trong hiện cảnh của quân chủ độc quyền, ông bảo lưu triết học của ông trong thực cảnh của thiên chúa giáo độc tôn, với lý luận của công bằng trong quyền làm người, với lập luận của công lý trong chọn lựa về dân chủ.

Nếu các học giả trên có trong giáo trình của trung học phổ thông giành cho thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền thì tại sao :

Giáo lý, giáo luận, giáo dục, giáo trình, giáo án này lại vắng mặt trong của hệ thống giáo dục dưới quyền cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam, luôn được mỵ danh trong mỵ dân là sự nghiệp trồng người ?

Giáo lý, giáo luận, giáo dục, giáo trình, giáo án loại này có thể được thay thế hoặc được trợ lực bằng chính các nhân sĩ Việt như Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông), như Lê Quý Đôn, bằng các tư tưởng gia như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… ?

Không phối hợp danh nhân của thế giới với các nhân sĩ của Việt tộc, khi tất cả các chủ thể này đều có một giáo lý tử tế, vào một giáo luận đàng hoàng trong một hệ thống giáo dục có giáo trình tiến bộ khoa học, có giáo án văn minh dân chủ ?

Khi trao đổi về giáo lý, giáo luận, giáo dục, giáo trình, giáo án làm nên tiến bộ cho nhân sinh, văn minh cho nhân loại, từ tác giả tới tác phẩm, thì người ta mới "ngả ngửa" mà nhận ra là :

Các lãnh đạo trong trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam, đã hoặc đang giữ những chức vụ then chốt từ chính quyền tới chính phủ, không hề biết vì không hề hiểu, chỉ vì chưa hề đọc các tác phẩm danh nhân quốc tế với các danh nhân của Việt tộc.

Các lãnh đạo trong Bộ Giáo dục, đã hoặc đang giữ những chức năng chủ đạo từ bộ trưởng tới các thứ trưởng, không biết, không hiểu, vì không hề đọc các tác phẩm danh nhân quốc tế với các danh nhân của Việt tộc.

Đây không phải là vô học trong giáo lý, giáo luận, giáo dục, nên vô hậu trong giáo khoa, giáo trình, giáo án thì còn là gì nữa ? Với một hệ thống ngu dân trị ngay trong não trạng hàng dọc từ lãnh tụ trong chính quyền tới lãnh đạo trong chính phủ, thì đây hoàn toàn không phải lỗi của thầy cô đang nhận giáo năng giảng, dạy, trao, truyền học thức tới học sinh. Cũng hoàn toàn không phải lỗi của học sinh đang đi học muốn học những điều hay lẽ phải, nhưng lại phải cúi đầu học các mê thức tuyên truyền ngu dân, chính là thân phụ của vô học và thân mẫu của vô hậu.

voluan8

Vô học-vô hậu : vô tâm-vô kiến

 

Khi tâm lý học xã hội nghiên cứu hiện tượng vô tâm như hành vi không có sự thương cảm về nỗi khổ niềm đau của đồng bào, đồng loại, được trợ lực bởi xã hội học nhận thức với phân tích về hành vi của các cá nhân không có sự chia sẻ trước các nạn nhân của các bất bình đẳng, của các bất công làm ra bao thảm họa cho xã hội. Khi trong quan hệ xã hội chỉ thấy hậu duệ ; trong sinh hoạt xã hội chỉ thấy tiền tệ ; nên trong đời sống xã hội trí tuệ bị hủy diệt ngay trong trứng nước. Diệt trí tuệ là ý đồ của ngu dân trị, hủy lý trí là tà sách của tuyền truyền trị, triệt tuệ giác là ma lộ của vô học trị.

Vô tâm, xuất hiện khi lương tâm không có chỗ trong tâm cảm, để thấy cho thấu tâm cảnh khốn cùng của tha nhân, của đồng loại, sáng sớm còn là dân lành mà chiều tối đã thành dân oan, nạn nhân của bọn cướp ngày là quan, được bảo kê bởi bạo quyền công an trị, bởi tà quyền tham nhũng trị, bởi ma quyền tham tiền trị. Vô tâm có cùng cha sinh mẹ đẻ với vô cảm, có thân tộc là vô minh, mang huyết thống của vô tri, đây là loại người nhìn mà không thấy, và khi thấy rồi thì cũng không hiểu. Vì khi lương thiện vắng mặt trong lương tâm, thì lương tri đã biệt tăm biệt tích ngay trong tư duy của kẻ vô tâm, không có cảm tình của cảm tính thì sao có được cảm xúc tạo nên cảm động, mà biết thương cảm đồng bào, dân tộc, giống nòi. Khi vô tâm xuất hiện trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội thì bạo quyền công an trị, thì tà quyền tham nhũng trị, thì ma quyền tham tiền trị đã lộng quyền trong lạm quyền rồi. Tại đây, nhân vị, nhân bản, nhân văn sẽ tan nát ; rồi nhân tri, nhân trí, nhân lý sẽ tan tành ; cuối cùng là nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ sẽ vĩnh viễn tan biến !

Hãy cân, đo, đong, đếm hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) bằng mô thức giải luận của các bậc đàn cha, đàn chú, đàn anh (Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện, Trần Đại Nghĩa…) đã phải trả những giá rất đắt để rời không gian của hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) tại phương Tây, vì đã nghe lời của Hồ Chí Minh là rời Pháp để về lại quê nhà mà "phục vụ cách mạng". Khi về tới nơi, khi khám phá ra chế độ độc đảng toàn trị của hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm), thì họ đã cắn răng rồi thốt lên từ đáy lòng :

"Cái đáng sợ của chuyên chính vô sản mà bản chất của nó chính là chuyên chính vô học !".

Chuyên chính vô học là sợi chỉ đỏ để nhận ra tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, phải nói ngay từ bây giờ một cách thật rõ ràng trong rành mạch là vô học không hề là chuyện được đi học, để có bằng cấp qua học vị rồi học hàm. Mà vô học ở đây là không được giáo dục một cách lớp lang thứ tự, không được giáo dưỡng suốt đời và suốt kiếp bằng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ) để tiếp, nhận, trao, truyền hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức). Cả hai, hệ nhân và hệ thức, chính là hai đại diện của :

- Văn minh của cộng hòa có nền là tự do, công bằng, bác ái.

- Văn hiến của nhân quyền có gốc là dân chủ, đa nguyên, đầu phiếu.

voluan9

Vô kiến chính là hậu quả của vô tri bất kiến, không có tri thức nên không có ý kiến trước hậu quả của ngu dân trị, không có chính kiến trước tà ngữ của tuyền truyền trị, vì không có chính kiến nên không có chính ngữ trước vô học trị. Trống ý kiến, vắng chính kiến vì ngay trên thượng nguồn của vô học trị đã rỗng chính trí, đã biệt chính tâm. Khi ta xếp đặt lại thứ tự của hành vi vô kiến theo hệ lụy vô tri nên vô kiến trong vô ngôn lẫn vô ngữ thì ta sẽ nhận ra chân dung của kẻ vô kiến, chân tướng của kẻ vô tri, chính là nạn nhân của ngu dân trị, của tuyên truyền trị, của vô học trị. Cụ thể là từ khi tấm bé còn đi tới ngày rời trường lớp tới khi rời đại học, thì các học sinh, các sinh viên phải học một giáo trình vô học trị :

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là không phải là tư tưởng, vì nó trống nội dung, rổng giá trị, vắng lý luận…

- Học tập đường lối và chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà đường lối là ngu dân trị và chính sách là tuyên truyền trị trong độc ngôn của độc đảng vô học trị.

Các học sinh, các sinh viên này đã "lảnh đủ" để cam chịu nên là nạn nhân của vốn vô học có trong não trạng của các lãnh tụ và lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam dung độc đảng toàn trị áp đặt lên nhân kiếp của các học sinh, các sinh viên bằng giáo trình trình vô học hóa, có bằng cấp nhưng là học giả, có học vị nhưng là thi giả, có học hàm nhưng là chứng chỉ giả. Các học sinh, các sinh viên sẽ phải "lảnh nhận" kiếp vô kiến trong ngu muội của vô tri, và khi gặp kiến thức thật song hành cùng tri thức thật thì họ cúi đầu trong vô kiến. Khi gặp trí thức thật trong ý thức thật thì họ khoanh tay trong vô ngôn, khi gặp nhận thức thật trong tâm thức thật thì họ khom lưng trong vô ngữ. Hậu quả của ngu dân trị không sao lường hết được, hệ lụy của quá trình vô học hóa không sao đo đạt được. Ngay khi các nạn nhân này có thành công kinh tế, có thành đạt vật chất và khi họ tự vỗ ngực tự gọi họ là : "đại gia", thì vô kiến không giấu được vô minh và vô tri, nên ngoài xã hội họ vẫn bị đặt tên là : "trọc phú" !

Câu chuyện vô kiến vì vô minh và vô tri, có gốc, rễ, cội, nguồn của quá trình mất nhân tri vì trống vắng kiến thức thật, lạc nhân trí vì rỗng loát tri thức thật là thảm họa của nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên trong chế độ độc tài toàn trị hiện nay. Các thế hệ này bị ma trận liên hoàn của : ngu dân trị, tuyền truyền trị, vô học trị được chủ xướng bởi độc đảng trị, trong một nhà tù vô hình được cai quản bởi công an trị. Các bạn sinh viên, học sinh hãy tâm niệm chỉ một thi từ của thi sĩ Tô Thùy Yên : "Hỡi ơi ! Hiền sĩ gặp ma trận !". Mà trong hậu đài là một tập đoàn tội phạm với vốn vô học nhưng lại biết mạo danh là "cách mạng", biết mạo ngữ là"chuyên chính vô sản", biết mạo ngôn là"xã hội chủ nghĩa" lại còn biết mạo dạng là"đầy tớ của nhân dân". Nhưng là một lũ buôn bằng bán cấp, một đám buôn chức bán quyền, một đảng luôn tìm mọi cách để giữ đặc quyền bằng tham nhũng trị, bám đặc lợi bằng tham tiền trị, mặc dầu chúng biết rất rõ là chế độ vô học hóa của chúng chế tác ra rất vô hậu ! Vì nó đang đưa nhân kiếp của Việt tộc xuống tầng đáy vực của hệ : vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm vô học trong vô hậu.

Vô hậu trước Tàu tặc đang cướp đất, biển đảo ; trước Tàu họa đang ô nhiễm hóa trầm trọng môi trường và môi sinh của Việt tộc, từ bô-xít Tây Nguyên tới Formosa tại Hà Tĩnh, cùng nhiều nhà máy nhiệt điện tha biến đất nước không những thành một ổ rác khổng lồ của Tàu gian mà biến các thành phố lớn trên đất Việt thành những thành phố ô nhiễm loại hàng đầu của thế giới. Với Tàu hoạn là thực phẩm bẩn cùng hóa chất độc ; với Tàu nạn là buôn ma túy, buôn người để buôn nội tạng ; song hành cùng Tàu tà ngày ngày tha hóa văn hóa, văn minh, văn hiến Việt ; trong hoạn cảnh của một tập đoàn vô kiến hèn với giặc trong vô hậu, và ác với dân trong vô học. Bi kịch của đất nước và là thảm kịch của Việt tộc hiện nay là phải "lảnh đủ" mọi hậu quả rồi "gánh trọn" mọi hậu nạn của một phương trình đầy ngập các ẩn số : Tàu tặc, Tàu họa, Tàu gian, Tàu hoạn, Tàu nạn, Tàu tà…

voluan10

Tại các quốc gia có văn minh của dân chủ song hành cùng các phát minh của khoa học, có văn hiến của nhân quyền song đôi cùng các khai phá về tự do vì công bằng, thì các học sinh thiếu niên cấp trung học phổ thông được học các giáo lý, giáo luận, giáo dục tới từ thế kỷ XVIII, mang tên là thế kỷ của những ánh sáng, qua lịch sử với các tư tưởng gia, các triết gia, các khoa học gia đã trao tới quần chúng, cụ thể là đã đại chúng hóa, ít nhất bốn thông điệp :

- Phổ biến tri thức tới toàn xã hội.

- Pháp huy lý trí tới toàn nhân loại.

- Phát triển trí tuệ phê bình để chống bất công.

- Phản kháng ngu dân để chống độc tài.

Tất cả những thông điệp này, được tóm gọn trong mô thức của triết học tri thức của Kant : "Cái lý mà biết chống lại cái ngu dân, thì cái lý là cái lõi của sự thông minh trong nhân tri". Những điều hay lẽ phải này đã trở thành giáo khoa, giáo trình, giáo án cho học sinh thiếu niên tại các quốc gia có tiến bộ nhân lý, có văn minh nhân trí, tại sao nó lại vắng mặt, biệt dạng trong hệ thống giáo dục hiện nay trong tay độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Và khi các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ phải rời vô kiến để có ý kiến về các cuộc cách mạng thực sự của nhân loại như :

- Cách mạng khoa học trong khai phá kiến thức và tri thức

- Cách mạng chính trị trong khai sáng công bằng và tự do

- Cách mạng xã hội trong khai phóng dân chủ và nhân quyền

Thì nhân dân mới "vỡ lẽ" ra, thì dân chúng mới "chưng hửng", thì đại chúng mới "té ngửa" ra là các lãnh tụ của Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ không hề có một kiến thức cơ bản nào, không hề có một cơ sở gì cho trí thức về giáo lý tri thức làm nên giáo trình trí thức này. Tại sao vậy ? Chỉ tại vì :

Lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết, không hiểu vì không học và không đọc gì về các kiến thức và tri thức của nhân loại.

Lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề biết, không hề hiểu, không hề học, không hề đọc thì làm sao họ xây dựng được giáo lý, giáo luận, giáo dục trên các kiến thức và tri thức của nhân loại mà họ không biết.

Lãnh tụ đã hoặc đang lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết, không hiểu, không học, không đọc thì làm sao họ tạo dựng được giáo khoa, giáo trình, giáo án trên các kiến thức và tri thức của nhân loại mà họ không biết.

Ngay khi họ "biết sơ sơ" "hiểu sới sới" về các cuộc cách mạng đã khai sáng nhân tri, đã khai phá nhân trí, đã khai phóng nhân quyền, thì họ lại tìm mọi cách để ngăn, chặn, hủy, diệt, triệt cho bằng được ! Vì cách mạng khai sáng nhân tri trực tiếp tẩy xóa đi chính sách ngu dân trị của họ ; vì cách mạng khai phá nhân trí trực tiếp khử trừ đi chính sách tuyên truyền trị của họ, vì cách mạng khai phóng nhân quyền trực tiếp bứt bứng đi chính sách vô học trị của họ. Đây không phải là vô học vì không có kiến thức đã làm nên vô hậu là diệt tri thức ngay trong trứng nước thì còn là gì nữa đây ?

Ngược lại các hệ thống giáo dục của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hóa nhân quyền, thì sân chơi là học thuật, trò chơi là học lực, và luật chơi là học thật. Chính phương trình học thuật-học lực-học thật là thực thể không đội trời chung với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ; nên độc đảng trị, công an trị, tham nhũng trị không có ghế ngồi trong giáo lý, giáo luận, giáo dục của các quốc gia có văn minh dân chủ. Nên tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị không có chỗ dựa, chỗ bám trong giáo khoa, giáo trình, giáo án của các quốc gia có văn hiến nhân quyền. Khi vào sâu để khảo sát hệ thống giáo dục của các quốc gia, có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì chúng ta thấy các học sinh thiếu niên cấp trung học phổ thông được học các giáo trình của sử học và triết học của thế kỷ khai sáng XVII và XVIII :

- Chống cuồng đạo, cực quyền.

- Chống lộng quyền, lạm quyền.

- Dựng khoan dung để xây độ lượng.

- Chống định kiến để xa tà kiến.

- Quá trình mưu cầu hạnh phúc.

Ngược lại, hệ thống giáo dục của tuyên truyền trị-ngu dân trị-vô học trị mang hàm số kiểu : ơn Bác, ơn Đảng, để trá nhân giả nghĩa của một bạo quyền công an trị, của một tà quyền tham nhũng trị, của một ma quyền tham tiền trị, trong hành tác âm binh vừa ăn cướp vừa la làng, bóc lột dân tộc tới tận xương tủy, cùng lúc bắt buộc nhân dân phải mang ơn mình ! Đây không là vô học trong vô luân làm ra vô hậu trong vô luận thì còn là gì nữa !

Lê Hữu Khóa

 (26/09/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO  Liên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa
mardi, 06 octobre 2020 16:49

Vô luận 1 : Vô học - vô hậu

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

 

voluan1

 

Vô học-vô hậu: từ vốn vô học tới tuyên truyền trị, ngu dân trị và vô học trị

 

Một hệ thống độc đảng để toàn trị mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt từ khi nó cướp được chính quyền cho tới nay là độc quyền trong toàn trị lên xã hội, lên dân tộc mang cấu trúc của vô học-vô hậu :

- Tuyên truyền ngu dân bằng đổi trắng thay đen, che giấu sự thực để trưng bày ngược lại cái phản sự thật ; thi hành một chế độ công an trị mà tuyên truyền là chế độ của dân, do dân, vì dân. Nếu nó là một hệ thống tuyên truyền trị để cai trị thì ta phải gọi nó là tuyên truyền trị.

- Tuyên truyền ngu dân bằng ăn không nói có, che giấu một bản chất của một chế độ độc đảng để độc quyền trong đặc quyền, đặc ân, đặc lợi của tầng lớp lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, rất thiểu số, bọn này ăn trên ngồi trốc, cỡi đầu cỡi cổ cả một dân tộc khoảng 100 triệu người, mà ngày ngày ra rả chúng là đầy tớ của nhân dân. Nếu nó là một hệ thống vận dụng ngu dân để quản trị thì ta phải gọi nó là ngu dân trị.

- Tuyên truyền ngu dân bằng cướp ngày là quan, để tổ chức cướp đất của dân bằng cách đưa vào hiến pháp đã bị Đảng cộng sản Việt Nam "hiếp định" bằng điều : "đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước quản lý", để cướp đất của dân, biến dân lành một sớm một chiều thành dân oan. Nếu nó là một hệ thống độc đảng trong vô hiến, vô pháp, vô công với bản chất vô tri, vô thức, vô minh thì ta phải gọi nó là vô học trị.

Khi bạo quyền lãnh đạo, chia chác cùng tà quyền tham quan, cả hai có liên minh với ma quyền tham đất, vì tất cả bọn chúng đều tham tiền, thì hệ lụy của tuyên truyền không còn là chuyện ăn gian nói dối, mà là chuyện tổ chức để cướp của hại người, theo nghĩa sâu xa nhất mà thí dụ cụ thể là bứng dân lành ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để một sớm một chiều thành dân oan, phải màn trời chiếu đất, phải đầu đường xó chợ. Tiểu luận này đề nghị phân tích và giải thích tuyên truyền ngu dân như quá trình độc quyền sinh sát của một độc đảng đứng và đạp trên tất số phận của một dân tộc, tận dụng tuyên truyền ngu dân như một quá trình giáo dục ngu dân :

- Độc quyền hóa từ quyền lực tới quyền lợi của một độc đảng, vừa độc tôn vừa độc trị để truy diệt từ khả năng phát triển kinh tế tới tiềm năng làm chủ tri thức nhân bản để có cuộc sống văn minh. Độc đảng này luôn tìm mọi cách hủy diệt đa nguyên của đa đảng biết tận dụng đa trí, đa tài, đa lực, đa năng, đa hiệu…

- Tư lợi hóa qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của một giai tầng thống trị, chỉ là một thiểu số gần 5 triệu đảng viên là thành phần nòng cốt tự lãnh đạo tới cán bộ để bòn rút tài nguyên đất nước, tiền của đồng bào, tiền tài của một dân tộc khoảng 100 triệu dân.

voluan2

Từ ý đồ độc quyền làm nên con tính độc lợi chế tác ra quá trình tư lợi, tiểu luận đề nghị giải luận quá trình này vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả tới từ một quá trình chưa bao giờ được phân giải tới nơi tới chốn, đó là quá trình vô học-vô hậu :

- Vốn vô học của một tập đoàn lãnh đạo từ ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930, tới ngày cướp được chính quyền 1945, qua giai đoạn 1954 sử dụng chuyên chính vô sản với bản chất của chuyên chính vô học, bất chấp thảm họa nội chiến của hàng triệu triệu sinh linh trong huynh đệ tương tàn, cho tới ngày cướp trọn được chính quyền trên cả nước 1975. Chiến thắng tới từ vốn vô học của loài cố đấm ăn xôi, thuộc loại vua thua thằng liều, được sự hỗ trợ của hai cường quốc chuyên chính vô sản là Liên Xô và Trung Cộng, có cùng bản chất chuyên chính vô học-vô hậu của loại trộm, cắp, cướp, giật bằng con tính bất nhân mạnh được yếu thua, với con toán thất đức sự thật chỉ mặt qua nòng súng, kiểu Mao Trạch Đông.

- Vô học hóa cả một dân tộc dựa trên vốn vô học của lãnh đạo từ tuyên truyền ngu dân tới tới giáo dục ngu dân ; vô học hóa từ định chế làm nên luật pháp tới cơ chế trong sự vận hành của một xã hội. Nơi mà quần chúng liêm chính, dân chúng liêm khiết, nhân sĩ liêm minh hoàn toàn không có chỗ đứng ghế ngồi, nơi mà hiền tài là nguyên khí của quốc gia đã bị đào tận gốc bới tận rễ, để nhường chỗ cho hằng số vô học-vô hậu : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, hằng số này có chủ thầu là vô minh, có đầu nậu là vô tri, có đầu cơ là vô trí để truy, hủy, diệt, triệt trí tuệ.

voluan3

Đây chính là bi kịch của đất nước hiện nay, là thảm kịch của Việt tộc, đã và đang bị trùm phủ bởi hằng số vô học-vô hậu, từ gần một thế kỷ (1930-2020). Hãy phân tích rõ vai trò và chức năng của trí tuệ ; chính là hiện thân của có học-có hậu khi trí tuệ được trợ lực bởi lý trí biết giải thích để nhận ra sự thật ; vì trí tuệ được trợ duyên bởi tuệ giác biết giải luận để nhận ra lẽ phải. Câu chuyện có học-có hậu chính là con đường sống của Việt tộc, đây là chân trời của tất cả thế hệ tương lai. Câu chuyện của tiểu luận mang tựa lạ lẫm này : vô luận, đề nghị một quá trình phân giải để thấy-cho-thấu :

- Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô học được toan tính bởi hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) mang khuyết tật của vốn vô học, lấy bất nhân thất đức của ăn tươi nuốt sống mà nuốt trọn cái ăn hiền ở lành biết làm nên cái ăn ở có hậu trong giáo lý Việt.

- Hậu quả cùng hệ quả qua các hệ lụy của hằng số vô hậu đã và đang ngăn chặn con đường phát triển kinh tế vì một xã hội tiến bộ, biết thăng hoa một dân tộc trong một đời sống văn minh, đã bị hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) của tập đoàn lãnh đạo độc đảng toàn trị, mà bản chất là một tập đoàn tội phạm đã bứng đi cội đạo lý Việt ăn ở có nhân mười phần không khó ; đã bị bứt đi rễ giáo lý Việt đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn.

voluan4

Nhập đề để nhập nội, cụ thể là nhập trí của lý trí có nhân bản, là nhập tri có nhân văn, để thấy cho thấu hằng số vô học-vô hậu mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt lên nhân kiếp của Việt tộc chỉ là một hằng số : tạm thời ! và hằng số này chấm dứt sớm hay muộn là tùy vào trí thức của Việt tộc biết hay không biết vận dụng văn minh của dân chủ, biết tận dụng đa nguyên làm nên đa trí, đa tài, đa lực, đa dũng, đa năng, đa hiệu, vì văn hiến của nhân quyền để biết tự bảo vệ nhân vị lẫn nhân phẩm của mình.

Nên câu chuyện cốt lõi vẫn là có-học-để-có-hậu, câu chuyện này hoàn toàn không hề là câu chuyện về bằng cấp, nơi mà học vị lẫn học hàm hiện nay đều bị giả hóa ở những mức độ khác nhau trong hệ thống giáo dục của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) có anh em sinh đôi với hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền). Hệ thống giáo dục này đã và đang bị quá trình mua bằng bán cấp, giả hóa rồi tha hóa về mọi mặt, từ giáo lý, giáo luận, giáo dục tới giáo khoa, giáo trình, giáo án. Mua bằng bán cấp trong giáo dục để mua chức bán quyền ngoài xã hội từ gốc tới ngọn, cái giả đã thay thế cái thật với trường giả-học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.

Nên câu chuyện gốc rễ vẫn là có-học-để-có-hậu, không hề câu chuyện về bằng cấp có thể bị giả, nơi mà học vị có thể bị gian, học hàm có thể bị dối, ngược lại có-học-để-có-hậu là câu chuyện :

- học thật của ăn ở có nhân mười phần không khó,

- học lực của đường mòn nhân nghĩa chằng mòn,

- học thuật của sống lâu mới biết lòng người có nhân.

Nhập đề để nhập nội, với rào trước đón sau lấy chữ nhân làm gốc, rồi rào dậu tát ao lấy chữ học (học thật bằng học lực để hiểu học thuật) làm chủ lực để đối kháng, để kình chống, để phản kháng, để chống đối từ hậu quả tới hệ quả với tất cả hệ lụy tới từ vô học-vô hậu !

Như vậy, độc giả đừng đọc và đừng hiểu vô học-vô hậu là không có bằng cấp, trống học vị, rỗng học hàm ; mà vô học-vô hậu đây là : vô nhân làm nên vô tri, vô tri làm nên vô trí, vô trí làm nên vô giác, vô giác làm nên vô cảm, vô cảm làm nên vô tâm, mà tất cả có cùng cha sinh mẹ đẻ là : bất nhân thất đức.

Nếu muốn tránh hiểu lầm mô thức vô học-vô hậu của tiểu luận vô luận này, thì độc giả hãy đọc bằng nhân tri của nhân trí, bằng nhân lý của nhân tính, bằng nhân bản của nhân văn, bằng nhân tâm của nhân từ, bằng nhân vị của nhân quyền, và chúng ta cùng nhau bảo vệ nhân phẩm của chính mình trước bạo quyền của ngu dân trị, tà quyền của tuyên truyền trị, ma quyền của vô học trị.

voluan5

 

Tri thức luận chống vô học-vô hậu

 

Lập luận phản biện chống vô học-vô hậu có các phương pháp cụ thể để lội ngược dòng mọi ý đồ của tuyên truyền ngu dân do độc đảng toàn trị dùng tuyên huấn qua tuyên giáo, đã và đang gây ra nhiều hậu quả với bao hệ lụy trùm phủ lên nhân kiếp Việt tộc, lên số kiếp của nhiều thế hệ mai sau :

- Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan của mắt thấy tai nghe, từ thượng nguồn của các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra cho tới hiện tượng học trực diện trước các hậu quả, các hệ lụy mà Việt tộc đang phải gánh chịu hiện nay. Mà Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo tức là nó chính là chủ mưu trong quá trình vô học hóa toàn xã hội, nó cũng là đầu nậu một ý thức hệ dựa vào tuyên truyền trị, nó là đầu cơ bằng ngụy tạo qua các chính sách lấy ngu dântrị vừa làm phương tiện, vừa là cứu cánh. Hậu quả giờ đây đã rõ, từ một quê hương gấm vóc giờ đã thành một đất nước cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm từ nguồn nước tới không khí loại hàng đầu trên thế giới ; từ một dân tộc thông minh bây giờ đã thành lao nô cho các nước láng giềng, cho Tàu tặc không những cướp đất, biển, đảo, mà còn thao túng kinh tế Việt, giăng bẫy thương mại Việt và đang bóc lột nhân công Việt ngay trên đất Việt…

- Lý thuyết luận của hiện tượnghọc lý trí, đề nghị sử dụng lý thuyết để phê bình lý thuyết, vận dụng chủ thuyết để phê bình chủ thuyết, tận dụng luận thuyết để phê bình luận thuyết, ở đây không có chỗ đứng ghế ngồi cho hệ độc (độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn, độc đảng) kiểu cả vú lập miệng em. Không gian của lý thuyết luận này có gốc, rễ, cội, nguồn của hệ đa của đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu làm nên từ đa thức, đa tri, đa trí ; có chỗ dựa là đa nguyên. Chính đây mới là không gian của phương trình sự thật-chân lý : so ra mới biết ngắn dài. Nơi mà phản diện của hệ vô (vô minh,vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) chính là hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) có trí lực của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), có luận lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo).

- Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức, biết phân tích để giải thích các hậu quả, hậu nạn tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu. Cấu trúc của khoa học luận này tuân thủ bốn công đoạn của khoa học xã hội thực nghiệm qua nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã thực địa, nơi mà dữ kiện mang theo chứng từ, chứng tích, chứng nhân để lập lại sự thật, để dựng lại chân lý :

- Khoa học thuật sử tính, là công đoạn một, có quá trình sử luận, nơi mà các sự cốsự kiện mà người nghiên cứu định vị được không gian và thời gian. Nếu định vị được địa điểm và thời điểm của sử kiện thì sẽ định vị được kết quả, hậu quả, hiệu quả của sự kiện đã là sự cố hay đã là biến cố tác động lên sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội, tới từ các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu.

- Khoa học thuật bối cảnh, là công đoạn hai, để phân tích thực cảnh của một xã hội nơi mà sự cố đã thành biến cố, để phân loại các hoàn cảnh, tại đây hoạt cảnh xã hội bị đóng khung bởi các chính sách tuyên truyền ngu dân mang thực chất vô học-vô hậu ; từ đó phân giải toàn cảnh các chính sách của tuyên truyền trị, ngu dân trị mang thực chất vô học trị. Các chính sách tuyên truyền ngu dân của độc đảng toàn trị được "chống lưng" bởi một hệ thống công an trị, và "sân sau" của các chính sách này chính là tham nhũng trị ; được bảo kê kiểu "ô dù" giữa các bè, đám, nhóm, phái… với mưu hèn kế bẩn, mà tất cả đều bị chi phối bởi tham tiền trị.

- Khoa học so sánh, là công đoạn ba, nơi mà mọi dữ kiện trong cùng một bối cảnh, mọi chứng từ trong cùng một hoàn cảnh, mọi cá nhân trong cùng một hoạt cảnh, đều có thể so sánh được, ở cấp độ khác nhau từ địa phương tới trung ương, ở mức độ khác nhau từ quốc gia tới quốc tế, ở cường độ khác nhau từ kiến thức tới ý thức, ở trình độ khác nhau từ tri thức tới nhận thức… Cụ thể là đưa ra ánh sáng các chính sách tuyên truyền ngu dân gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, rồi vận dụng so sánh để đo đạc cường độ, mật độ, mức độ của các chính sách tuyên truyền ngu dân này, để hiểu bản chất của nó qua chính trình độ của nó.

- Khoa học tổng quan, là công đoạn bốn, với đồ hình được phân định và phân giải vừa hợp lý, vừa chỉnh lý của khoa học sử tính, khoa học bối cảnh, khoa học so sánh, để có nhận định tổng thể , từ đây hình thành sự phân loại các thành phần bằng các khuynh hướng chung, các hành vi đa số, các hành tác thiểu số, các hành động đơn lẻ của bè, đám, đảng, nhóm, phái, qua quan hệ giữa quyền lực và quyền lợi, trong không gian của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây nên hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu.

voluan6

Khi phân tích, phân định, phân loại, phân giải các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị gây ra hậu quả và hậu nạn vô học-vô hậu, ngay trong hệ vô (vô minh,vô tri, vô giác, vô cảm, vô tâm) thì khoa học luận sẽ sử dụng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để thấy-cho-thấu từ nội dung tới nội hàm của hệ quả(kết quả, hệ quả, hậu quả) mà không quên nhân quả của câu chuyện vô học về tri thức làm ra vô hậu không tương lai. Tại đây, hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) vừa là phương pháp luận nòng cốt, vừa là khoa học cốt lõi, để xây dựng lý thuyết luận chủ đạo, từ đó cho ra đời các tri thức luận sau đây :

- Tri thức luận lịch sử, những kiến thức căn bản của thế kỷ XVIII làm nên ít nhất năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền trong đó hai định luận về công bằngcông lý là những hằng số không chỉ có phương Tây, cụ thể là Tây Âu và Bắc Mỹ được thụ hưởng mà các hằng số này đã trở thành sở hữu của nhân loại, nếu nhân loại đó muốn nhân sinh sống bằng tiến bộ, muốn nhân thế sống trong văn minh. Hậu quả của vốn vô học trong não bộ lãnh đạo đã tạo ra quá trình vô học hóa ngay trong chính sách tuyên truyền ngu dân áp đặt lên hệ thống giáo dục quốc gia từ đó tạo ra bao thế hệ học sinh và sinh viên : vô kiến thức tiến bộ, vô tri thức văn minh. Rồi sau đó các học sinh và sinh viên này khi trưởng thành không hiểu được chức năng của tri thức để có được vai trò của các công dân biết đóng góp vào tiến bộ xã hội, vào văn minh của dân tộc.

- Tri thức luận giáo dục, từ khám phá tới ứng dụng vào đời sống, vào xã hội, vào định chế và vào cơ chế, thì các tiến bộ tạo nên đời sống văn minh tới từ năm cuộc cách mạng : khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền biết bảo vệ và bảo đảm về công bằngcông lý, thì các tiến bộ và văn minh này phải được đưa vào hệ thống giáo dục. Một hệ thống giáo dục quốc gia, có giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh tuổi thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Nếu hệ thống giáo dục quốc gia hiện nay tại Việt Nam không giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh mà chỉ mượn hệ thống giáo dục để áp đặt tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, thì sẽ không tránh khỏi hậu quả của vô học, sẽ không tránh được hệ quả và hệ lụy của vô hậu (vì vô tri thức nên vô tương lai).

- Tri thức luận chính sách, của một chế độ độc đảng toàn trị vận dụng tuyên truyền trị, để độc đảng được độc quyền, độc trị, độc tài, độc tôn mà đi ngược lại văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì tuyên truyền trị là anh em sinh đôi với ngu dân trị. Mà hậu quả ngu dân trị trước hết là tự tha hóa dân tộc của mình, kế đó là tự nô lệ hóa cho ngoại bang, và cuối cùng là tự đồng hóa từ trí thức tới giống nòi, cụ thể là trao thân gởi phận cho ngoại bang. Nghịch lý của mọi chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tới từ tập đoàn lảnh đạo chính là các tác giả của độc đảng, các tác nhân của toàn trị, thì chính các chính sách này tự vô học hóa từ não trạng tới não bộ của họ. Nhưng thảm họa thì thật lớn cho một dân tộc, cho một giống nòi, vì các chính sách tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị tiêu diệt các nguyên khí quốc gia, hủy triệt các hiền tài của dân tộc.

- Tri thức luận trình độ, xác chứng mọi chính sách ngu dân luôn đi ngược lại với các chính sách vì dân, cụ thể là vì khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền,công bằng, công lý là những quốc sách vì dân. Nhưng bản chất của các chính sách đều có cốt lõi của vần đề : trình độ ! Có những chế độ độc tài nhưng được điểu khiển và điều hành bởi các minh vương, minh quân, mình chủ, minh chúa ; cũng như có các chế độ lạm dụng hình thức dân chủ của tam quyền phân lập nhưng bị tham nhũng thối nát hóa ngay từ bên trong. Các loại dân chủ hình thức để mạo danh tam quyền phân lập này đã để bất tài diệt thực tài, thì tiến bộ không tới với dân tộc, mà văn minh cũng không có mặt trong xã hội. Câu chuyện trình độ là câu chuyện cốt lõi để có nhận thức là trong toàn cầu hóa thông tin và truyền thông hiện nay thì quá trình khám phá khoa học, khai phá nhân quyền, khai thác sức mạnh của dân chủ đã là quá trình trực tuyến. Có tin tức tức khắc, có thông tin tức thì, có chứng từ, chứng tích, chứng nhân để chứng minh sự thật tức thời, đó là chân lý có mặt ngay bây giờ và ở đây. Nên tuyên truyền trị để ngu dân trị hoàn toàn bị phản tác dụng, vì sẽ bị vô hiệu hóa bởi tin tức tức khắc, thông tin tức thì, sự thật tức thời trong bối cảnh toàn cầu hóa truyền thông hiện nay. Vì vậy, tuyên truyền trị là bản lai diện mục của vô minh và vô tri ; và ngu dân trị là dị tướng làm nên dị dạng của vô giác và vô cảm ; tất cả làm nên vô tâm và vô trí của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay do Đảng cộng sản Việt Nam điều hành và điều khiển.

- Tri thức luận xã hội, kiến thức của cá nhân có từ giáo dục gia đình, rồi giáo dục học đường, và sau đó là giáo dục xã hội, nơi mà sinh hoạt xã hội được trao cho các lãnh đạo có tri thức biết thừa nhận các công ích xã hội được đặt trên tự lợi cá nhân của mình. Từ tri thức tới ý thức, các lãnh đạo sẽ lần lượt nhận ra trong các quan hệ xã hội thì an sinh xã hội quan trọng hơn tính toán ích kỷ cá nhân trong quá trình sống chung để chung sống với tập thể, với cộng đồng. Chung là chia vì chia để chung, đây là căn bản để có đời sống xã hội, tại đây ý thức đã trở thành nhận thức bằng đạo lý xã hội, lấy công bằng làm cơ sở cho tổ chức xã hội, trong đó cá nhân là công dân có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào. Chính công dân này chủ động để trở thành chủ thể biết vận dụng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để đưa văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền song hành cùng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục… vào xã hội.

- Tri thức luận định chế, một chế độ toàn trị dựa trên độc đảng bám độc quyền để độc trị bằng độc tôn qua tuyên truyền trị song hành cùng công an trị để tạo dựng một định chế với hệ thống giáo dục của ngu dân trị, tạo ra một hệ thống xã hội thất nhân bất đức thất tri bất thức. Định chế này bất chấp hậu quả và hậu nạn của vô học trong tri thức, vô hậu trong nhận thức, vì ý đồ đã thành mưu toan quyết định mọi chính sách của độc đảng toàn trị là : phát triển tuyền truyền trị, củng cố công an trị để thực hiện sâu đậm quyết sách ngu dân trị. Đây là một tà lộ trong ma nghiệp (đi dễ khó về, vì dễ chết khó sống) trước nhân loại văn minh, trước nhân sinh tiến bộ của thế giới hiện nay. Chỉ vì vốn vô học của lãnh đạo chính trị vừa là gốc, rễ, cội, nguồn của tuyên truyền trị, vừa là móng, nền, tường, mái của ngu dân trị để vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Nên sinh lộ của Việt tộc là minh lộ của văn minh dân chủ, là nhân lộ của văn hiến nhân quyền, cả hai biết bảo đảm tự do, biết bảo vệ công bằng, biết bảo hành công lý. Vì đây là nhân đạo của nhân tri, nhân trí xây nên nhân bản và nhân văn để giữ nhân vị và nhân tâm mà phục vụ cho nhân phẩm.

- Tri thức luận lãnh đạo, là xới tới nơi trong phân tích để soi tới chốn trong giải thích về hệ vô thức (vô kiến thức, vô tri thức, vô trí thức, vô ý thức, vô nhận thức, vô tâm thức) có từ vốn vô học chính là điểm khởi hành của một tập đoàn lãnh đạo mang ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng phương án vô học hóa toàn xã hội, toàn dân tộc. Với ý đồ độc quyền lãnh đạo bằng cách ngăn chặn một hệ thống giáo dục quốc gia dựa vào khai sáng nhân tri, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ, có giáo khoa, giáo án dựa trên văn minh đã có mặt trong giáo trình của trung học phổ thông dành cho học sinh thiếu niên tại các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Ngược lại giáo trình của trung học phổ thông này hoàn toàn không được hiện diện trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang được điều khiển và điều hành bởi ngu dân trị có dây mơ rễ má tới từ vô học trị của các lãnh tụ và các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể là lực lượng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa dân tộc, giống nòi, xã hội, đất nước vào ma lộ của vô minh, khi họ đã chặn ngay thượng nguồn mọi ánh sáng tới từ khám phá về văn hiến nhân quyền, tới từ khai phá về văn minh dân chủ.

- Tri thức luận tiến bộ, thấy để thấu vì phải thấy để tin là cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, tri thức, dân chủ, nhân quyền,công bằng, công lý thực sự là những tiến bộ, không thể chối cải được, nên không thể không thừa nhận bởi mọi chính quyền, chính phủ có chính danh, vì có chính nghĩa do dân và vì dân. Mọi bạo quyền công an trị, mọi tà quyền tuyên truyền trị, mọi ma quyền ngu dân trị đều là bọn âm binh mang quỷ nghiệp trong điếm tri khi chúng đi ngược lại nhân lộ trong ánh sáng của văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền. Bọn âm binh này mới chính là bọn phản động, theo đúng ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của từ phản động được định nghĩa và định luận là : những cá nhân, bè nhóm, đảng phái, tập đoàn lãnh đạo đi ngược lại văn minh dân chủ ; đi trái chiều với tiến bộ khoa học biết bảo vệ nhân sinh ; đi nghịch hướng với văn minh nhân tri biết bảo vệ nhân quyền, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại.

- Tri thức luận văn minh, khi tiến bộ song hành cùng văn minh là khi khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật tạo ra phát triển sản xuất để tạo thăng tiến kinh tế. Thì cùng lúc các tiến bộ và văn minh này đã phát huy dân chủ và nhân quyền ; những tiến bộ và văn minh cũng là những công cuộc đấu tranh để bảo vệ công bằng chống bất bình đẳng, để bảo đảm công lý chống bất công. Mà bất bình đẳng và bất công tới từ các chính quyền mà thực chất là bạo quyền sử dụng tà quyền để tham quyền ; là ma quyền vận dụng lạm quyền để lộng quyền ; là điếm quyền tận dụng cực quyền để cuồng quyền. Loại chính quyền âm binh này ngày đêm rình rập dân chúng bằng công an trị, ra rả qua nhồi sọ bằng tuyên truyền trị, rà rỉ qua tẩy não bằng ngu dân trị, luồn lách bằng vô học trị qua mua bằng bán cấp (học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả), để mua chức bán quyền (cao học gian, tiến sĩ giấy, học vị lừa, học hàm lận).

- Tri thức luận dân chủ, nơi đây tiến bộ và văn minh đã rõ nét trên nhiều lãnh vực, có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) để bảo vệ hệ thống giáo dục quốc gia, nơi mà giáo lý, giáo luận dựa trên tiến bộ của lý trí, có giáo khoa, giáo án dựa trên sự khai hóa của trí tuệ. Có hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm) biết bảo trị nhân vị, biết bảo đảm nhân quyền, và nhân phẩm luôn được bảo vệ bởi hệ công (công bằng, công lý, công tâm, công luật). Chính dân chủ với tự do đầu phiếu trong tự do ứng cử và bầu cử là nơi mà nguyên khí của quốc gia là các hiền tài của dân tộc được nhập nội vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu) làm nên đa nguyên để đa đảng được hiện diện từ chính quyền tới chính phủ. Chính tri thức luận dân chủ là điểm khởi hành trên nhân lộ của khai sáng văn minh dân chủ, để xóa đi tuyên truyền trị, để khử đi ngu dân trị, để tẩy đi vô học trị, mang hậu quả và hậu nạn của vô hậu, vì vô tri thức nên vắng chân trời.

- Tri thức luận nhân quyền, là công cuộc đấu tranh cho toàn bộ hệ nhân (nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân tâm,nhân vị, nhân đạo, nhân quyền, nhân phẩm). Tại đây, tri thức luận nhân quyền trực diện để chống lại tuyên truyền trị, mang chân dung của ngu dân trị, có chân tướng vô học trị, tới từ độc đảng trị là cha sinh mẹ đẻ của bạo quyền công an trị, được "chống lưng" bởi tà quyền tham nhũng trị, có "sân sau" của ma quyền tham tiền trị. Một bên là ánh sáng của nhân quyền biết tôn trọng dân chủ để tôn vinh công lý, để thăng hoa tự do công bằng và bác ái. Ánh sáng của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và ánh sáng của nhân quyền (dân chủ, đa nguyên, văn minh) tạo nên hùng lực khai sáng nhân tri để khai hóa nhân trí, để lột mặt nạ tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị, để vạch mặt chỉ tên độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị.

Bạo quyền độc đảng hiện nay đi ngược lại mọi tiến hóa của nhân loại vì nhân quyền, đi nghịch hướng với tự do vì công bằng ; đi trái chiều với dân chủ vì văn minh và tiến bộ. Mà thảm kịch là tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị đã và đang hủy diệt hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) lẫn hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) của Việt tộc, một dân tộc không hề thua kém các dân tộc láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đó là : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Nhưng giờ đây dưới sự lãnh đạo toàn trị trong ngu dân, độc đảng với vốn vô học đã biến thanh niên Việt thành lao nô, phụ nữ Việt thành nô tỳ trong các quốc gia láng giềng này. Hậu quả của vô học-vô hậu là : nô lệ, nô bộc, nô công, nô tỳ…

voluan7

Hãy tổng kết lại các liên minh trong học thuật :

- Phương pháp luận của hiện tượng học trực quan

- Lý thuyết luận của hiện tượng học lý trí

- Khoa học luận của hiện tượng học nhận thức.

Hãy đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát :

- Khoa học thuật sử tính

- Khoa học thuật bối cảnh

- Khoa học thuật so sánh

- Khoa học thuật tổng quan.

Hãy liên kết lại các liên đới trong điều tra :

- Tri thức luận lịch sử

- Tri thức luận giáo dục

- Tri thức luận chính xác

- Tri thức luận trình độ

- Tri thức luận xã hội

- Tri thức luận định chế

- Tri thức luận lãnh đạo

- Tri thức luận tiến bộ

- Tri thức luận văn minh

- Tri thức luận dân chủ

- Tri thức luận nhân quyền

Khi đã có tổng kết lại các liên minh trong học thuật, đúc kết lại các liên hiệp trong khảo sát, liên kết lại các liên đới trong điều tra, thì đây là lúc áp dụng mô thức học thuật của cụ Tiên Điền Nguyễn Du là : "Phải lần cho tới tận nguồn lạch song" để xới tới cội, bới tới nguồn của độc đảng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị ; để đào tới gốc, tới rễ của tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị.

Lê Hữu Khóa

(23/09/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO  Liên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa