Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

06/10/2020

Vô luận 4 : Vô thức – vô thuật

Lê Hữu Khóa

 

Vô thức – vô thuật

Vô minh sinh vô tri, tạo vô giác, dựng vô cảm, xây vô tâm

voluan01

Vô học-vô hậu : vô thức-vô thuật

Câu chuyện vô học trở nên phức tạp khi chính cái vô học có mặt ngay trong cõi học, cõi của hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thức, tỉnh thức), nơi mà học thuật phải là học lực tới từ học thật. Weber, người thầy của xã hội học cận đại, đã nhận ra cái học giả, học kém, học yếu của các cá nhân luôn tìm cách bám víu môi trường trí thức, sinh hoạt học thuật, quan hệ khoa học để tìm quyền lợi qua quyền lực của hành chính và cơ chế. Cụ thể là các cá nhân trí thức kém, các cá thể khoa học tồi luôn tìm cách có chức năng trong cơ chế, có phận sự qua hành chính, qua con dấu, chữ ký của những kẻ có quyền thế trong ngân sách để quyết định chính sách đầu tư trong học thuật, trong khoa học ; sau khi những kẻ này đã thất bại trong khoa học, đã thảm bại trong học thuật.

Thảm trạng của môi trường trí thức, sinh hoạt học thuật, quan hệ khoa học hiện nay tại Việt Nam trong tay độc đảng của vốn vô học và toàn trị bằng ngu dân trị thì những kẻ có quyền hành trong giáo dục, có quyền lực trong nghiên cứu là những kẻ học giả, học kém, học yếu. Mà chính những người thực tâm, thực tài trong nghiên cứu và học thuật đặt cho đám này là loại bất tài vô tướng, lọt vào chức quyền bằng tà lộ của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, nơi mà trí tuệ không hề có chỗ đúng ghế ngồi. Chúng có mặt giáo dục, trong học thuật, trong nghiên cứu không phải để phát triển khoa học, để thăng hoa tri thức, mà chúng có mặt để chỉ làm ít nhất ba chuyện :

- Thực thi tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị bằng cách hà hơi tiếp sức cho độc đảng trị, công an trị, tham nhũng trị trực tiếp tha hóa giáo lý, giáo luận, giáo luận để thối nát hóa giáo khoa, giáo trình, giáo án.

- Thực hành chuyên chính vô học với vốn vô học để vô học hóa cả một hệ thống giáo dục, học thuật, nghiên cứu phải lậm sâu vào hướng buôn bằng bán cấp, để phục vụ cho điếm lộ mua chức bán quyền bằng điếm thuật tham tiền trị.

- Thực hiện quá trình tha hóa giáo dục, học thuật, nghiên cứu để thay thế học thuật-học lực-học thật bằng học hành giả-học vị giả-học hàm giả ; biến hệ thống giáo dục quốc gia thành nơi buôn bằng bán cấp, với các lãnh đạo buôn gian bán lận từ học vị tới học hàm.

Hệ thống giáo dục quốc gia với bọn bất tài vô tướng vì là đám bất tài vô học có chức năng của tà quyền, có quyền năng của ma quyền, chúng làm một công ba việc cho chế độ chuyên chính vô học :

- Củng cố độc quyền trong độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam nơi mà quyền lực chính trị, quyền lợi xã hội và tư lợi kinh tế của tầng lớp lãnh đạo chỉ là một trong phản xạ tham quyền cố vị, với phản ứng cố đấm ăn xôi.

- Củng cố độc quyền cho độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì các lãnh đạo trong hệ thống giáo dục, học thuật, nghiên cứu trực tiếp củng cố đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, đặc sủng của chúng, ngồi mát ăn bát vàng, được ban phát bởi Đảng cộng sản Việt Nam.

- Củng cố độc quyền cho độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, bằng bè phái lãnh đạo với giáo dục kém giáo lý, yếu giáo luận, tồi giáo khoa này luôn mang phản xạ thưa, bẩm, dạ, vâng, vì luôn có phản ứng cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc đảng của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trong chương trình của học sinh trung học phổ thông là các thiếu niên của các quốc gia có văn minh dân chủ, có với văn hiến nhân quyền, có nền móng của tiến bộ khoa học được học các giáo trình và giáo án :

- Các kiến thức khoa học là tài sản chung của nhân loại, mà nhân sinh phải tìm mọi cách để thông tin, truyền thông mà phổ biến và chia sẻ vừa ở trong hệ thống giáo dục và vừa ở ngoài đời sống xã hội. Các học sinh được học về lịch sử thế kỷ XVIII nơi mà các quán cà phê, các quán ăn, các nhà kịch, các tiền đình, các công viên… là không gian mà kiến thức được trao đổi các ý tưởng mới, có thảo luận để trao luận, có tranh luận để thuyết luận.

- Các kiến thức về tổ chức xã hội dựa trên công bằng và công lý, các tổ chức chính trị dựa trên dân chủ và nhân quyền tạo ra tam quyền phân lập, các tổ chức kinh tế dựa trên tự do kinh doanh và thương mại cùng được thảo luận, trao luận, tranh luận, thuyết luận tại các quán cà phê, các quán ăn, các nhà kịch, các tiền đình, các công viên…

- Các kiến thức khoa học, xã hội, chính trị, dân chủ, nhân quyền, tam quyền phân lập luôn được kích hoạt bởi tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí chính là những công cụ hữu hiệu chống bạo quyền độc tôn, chống cực quyền cuồng tín và cuồng đạo.

Tất cả các quyền tự do này đã qua ba thế kỷ, hiện đang bị cấm đoán bằng luật hình sự tại Việt Nam, nơi mà chế độ chuyên chính vô học bằng độc đảng vô thức và toàn trị vô thuật dùng :

- Bộ luật an ninh mạng, nhưng thực chất là để ngăn chặn và đàn áp tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí.

- Bộ luật hình sự bảo vệ an ninh xã hội, nhưng thực chất là để trấn áp và hủy diệt sinh hoạt dân chủ và nhân quyền của xã hội dân sự.

- Bộ luật hình sự bảo vệ trật tự xã hội, nhưng thực chất là truy cùng diệt tận các cuộc đấu tranh vì công bằng và công lý.

Vì các cuộc đấu tranh vì tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí ; vì dân chủ, nhân quyền, xã hội dân sự ; vì công bằng và công lý đều dẫn tới đa nguyên trong đa đảng, nơi mà đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu được phát huy. Đây là nguyên nhân cốt lõi làm cho chuyên chính vô học ngày đêm mất ăn mất ngủ ; đây cũng là lý do gốc rễ làm cho tuyên truyền trị, ngu dân tri, vô học trị phải ngày đêm đứng ngồi không yên ; đây là nội chất nguồn cội làm cho độc đảng trị, công an trị, tham nhũng trị ngày đêm lo đứng lo ngồi ! Cái vô học luôn vô hậu vì nó sử dụng cái ngu để diệt cái khôn, nó vận dụng cái ngốc để diệt cái minh, nó tận dụng cái ác để diệt cái sáng.

Trong giáo lý, giáo luận, giáo dục được cụ thể hóa qua giáo khoa, giáo trình, giáo án từ tiểu học tới trung học sơ cấp, từ trung học phổ thông lên đại học, các học sinh và sinh viên trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền được giáo dục và giáo dưỡng là :

- Trong mô tả phải kèm theo phân tích (vừa biết phân giải, vừa biết phân loại).

- Trong phân tích phải kèm theo giải thích (vừa biết giải đề, vừa biết giải luận).

- Trong giải thích phải kèm theo lý luận (vừa biết định hướng, vừa biết lối đi).

- Trong lý luận phải kèm theo lập luận (vừa biết đường đi nẻo về, vừa biết xây nền đắp móng).

- Trong lập luận phải kèm theo diễn luận (vừa biết đo đạc, vừa biết so sánh).

- Trong diễn luận phải kèm theo phê bình (vừa biết sự thật, vừa biết lẽ phải).

Những phương pháp luận giáo dục này không hề có trong :

- Não trạng của các lãnh tụ trong Đảng cộng sản Việt Nam có cố đế của chuyên chính vô học.

- Tư duy của các lãnh đạo trong chính quyềncó thâm căn của vốn vô học.

- Toan tính của các lãnh đạo hệ thống giáo dục có mưu toan vô học hóa.

- Nhược điểm của các lãnh đạo được đào tạo bằng tuyên truyền trị.

- Khuyết tật của các lãnh đạo được thăng quan tiến chức bằng ngu dân trị.

Vô học rất dai nên vô hậu rất dài, các du học sinh Việt Nam tới từ hệ thống giáo dục của thảm nạn chuyên chính vô học, vô học trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị để học cử nhân, cao học, tiến sĩ tại các quốc gia phương Tây, cụ thể Tây Âu và Bắc Mỹ, đều không được học nên không được biết giáo khoa làm nên học thuật tại các châu lục này :

- Trong mô tả phải kèm theo phân tích (các du học sinh Việt Nam lại biến mô tả thành kể lể dài dòng, biến dữ kiện thành thông tin kiểu "ba phải").

- Trong phân tích phải kèm theo giải thích, (các du học sinh Việt Nam lại biến phân tích thành trả bài được thuộc lòng, biến chứng từ thành chuyện "vô thưởng vô phạt").

- Trong giải thích phải kèm theo lý luận (các du học sinh Việt Nam lại biến giải thích thành trích đoạn thuộc lòng các lý thuyết không liên can gì tới thực tiễn, biến linh hoạt của một sự thật thành loại mô thuyết xơ cứng).

- Trong lý luận phải kèm theo lập luận (các du học sinh Việt Nam lại trống kiến thức của lý lẽ, vắng tri thức của lý giải, rỗng trí thức của đa thức).

- Trong lập luận phải kèm theo diễn luận (các du học sinh Việt Nam không biết phân định các quá trình lập luận để sắp xếp có lớp lang thứ tự các diễn biến của một lập luận !).

- Trong diễn luận phải kèm theo phê bình (các du học sinh Việt Nam lại không biết là sự thật tới từ khám phá khách quan chớ không tới từ tuyên truyền trị, họ không biết là chân lý tới từ minh chứng khoa học chớ không hề tới ngu dân trị, họ không biết là lẽ phải tới từ giáo lý có chỗ dựa là đạo lý, luân lý, đạo đức chớ không hề tới từ độc đảng trị !).

Học thuộc lòng các mô thức, mà chỉ biết mô thức đó thôi, thì tự biến mô thức đó thành mô hình, mà mọi mô hình đều là khung hình, một loạt khuôn hình kiểu nhà tù, độc thuyết trong độc thức biến tri thức thành ngục tù trên độc lộ tuyên truyền của độc đạo ngu dân. Vô cùng độc hại vì độc thức sẽ sinh ra cực đoan của độc tri, làm nên độc tài của ý thức hệ, sản sinh ra độc quyền chuyên chính vô tri, có gốc là độc tôn làm nên chuyên chính vô học, vì nó loại, bỏ, khử, trừ các đa thức, đa thuyết, đa luận, đa tri, đa lý…

voluan7

Vô học rất đậm nên vô hậu rất thâm, các du học sinh Việt Nam là nạn nhân của hệ thống giáo dục của thảm nạn chuyên chính vô học qua vô học trị, tuyên truyền trị, ngu dân trị để học cử nhân, cao học, tiến sĩ tại các quốc gia phương Tây, từ giáo sư trách nhiệm công trình tới các hội đồng giám khảo đều có chung những nhận định :

- Các du học sinh Việt Nam mô tả dữ kiện, nhưng không biết phân tích sự kiện, và giải thích sự cố.

- Các du học sinh Việt Nam kể lể sự tình, nhưng không biết phân giải nhân tình để lý luận trên nhân thế bằng nhân lý.

- Các du học sinh Việt Nam học thuộc lòng mô thức lý thuyết, nhưng không biết đào sâu, leo cao, khơi rộng, đi xa ngay trên đa thức của lý thuyết.

- Các du học sinh Việt Nam trả bài để chứng tỏ là thuộc bài trên các mô hình kiến thức, nhưng không biết nhận định bằng lập luận để phê bình bằng diễn luận về quá trình khách quan khám phá ra sự thật. Nơi mà lịch sử của nhân loại đã rất rành mạch, nơi mà bạo quyền vô học bắt bớ các nhà khoa học, nơi mà tà quyền vô tri bỏ tù các tư tưởng gia tiến bộ, nơi mà ma quyền ngu dân tra tấn bằng nhục hình các chủ thể đấu tranh vì văn minh cho nhân loại.

- Các du học sinh Việt Nam mô tả, kể lể, học thuộc lòng, trả bài để chứng tỏ là thuộc bài, mà quên đi lý trí phê bình, trí tuệ phê phán, tuệ giác phê phẩm mới làm cho khoa học tiến bộ, mới làm cho tri thức thăng hoa, để văn hóa thành văn minh của dân chủ, để văn minh thành văn hiến của nhân quyền.

voluan02

Vô học-vô hậu : vô thông-vô tạo

Hãy phân tích các thực tế phản giáo dục, nghịch giáo lý, trái giáo luận hiện nay trong chế độ độc đảng trị sử dụng công an trị, vận dụng tham nhũng trị, tận dụng tham tiền trị, để thấy sự tha hóa đến cùng cực của hệ thống giáo dục hiện này của Đảng cộng sản Việt Nam :

- Học để vinh thân phì gia bằng hệ tham (tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền), cụ thể là vào đại học của Bộ Công an thì điểm phải rất cao, so với điểm vào đại học Sư phạm thì chỉ cần loại điểm rất thấp. Vì vào đại học của Bộ Công an thì "mau giàu", "dễ giàu","mau ra tiền", "dễ kiếm tiền". Một loại tư duy đốn mạt phản giáo dục, một loại tư tưởng khốn kiếp phản giáo lý, mượn bằng cấp để phì mập bằng vật chất, đây không phải là vô học thì còn là gì nữa ?

- Du học để tái sản xuất hệ con ông cháu cha, với hệ quả "con quan thì được làm quan", nhưng trong thực tế giáo dục của các quốc gia phương Tây có nội công của học thật, có nội lực của học lực, vì mang nội hàm của của học thuật. Nên đa số loại con ông cháu cha không thành công trong đại học ; không thành đạt trong sinh hoạt trí thức, không thành tựu trong đại học hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) trong nghề, nghệ, nghiệp bằng tiêu chuẩn và tiêu chí của các quốc gia phương Tây.

Thức khuya mới biết đêm dài là đây ! So ra mới biết ngắn dài là đây ! Lửa thử vàng, gian nan thử sức là đây ! Vì tại các quốc gia phương Tây thì vàng thau phân biệt, không hề lẫn lộn, tráo trá được :

- Cụ thể là học thật thì phải học cho tới nơi tới chốn ; học lực chăm chỉ bằng văn ôn võ luyện ; học thuật thì kỹ lưỡng từ tôn sư trọng đạo tới tầm sư học đạo, thấy cho thấu điều hay lẽ phải từ giáo dục khoa học tới giáo lý đạo đức, tới giáo luận đạo lý.

- Phương trình học thật-học lực-học thuật không sao chấp nhận đội trời chung với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Người kiên nhẫn trong kiên cường vì biết kết quả tích cực của câu chuyện có công mài sắt có ngày nên kim.

- Thực hư trong khoa học cũng như trong học thật-học lực-học thuật không hề chấp nhận loại cá mè một lứa với kẻ ăn khôn ngồi rồi ; với đứa chờ sung rụng ; với đám ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau ; với phường dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ; với lũ nhớt thây dầy cốt !

voluan6

Chuyện gì đã xảy ra cho đại đa số con ông cháu cha đã và đang du học tại các quốc gia có văn minh khoa học, có văn hóa dân chủ, có văn hiến nhân quyền, mà khi còn ở Việt Nam đám này đã quen thói ăn trên ngồi trốc trong chế độ độc đảng trị song lứa với vô học trị, song cặp với ngu dân trị, song hành cùng tham nhũng trị, để khi phải va đầu chạm trán với có học thật-học lực-học thuật của phướng Tây thì :

- Họ khám ra là họ học không kịp giáo trình, theo không kịp giáo án, bám không kịp giáo lý, đeo không kịp giáo luận, vì họ không hề có căn bản giáo dục từ ngay trung học phổ thông. Họ không hề có kiến thức về các khám phá khoa học căn bản, về các tư tưởng công bằng và tự do làm nên dân chủ và nhân quyền trong tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục…

- Họ khám phá ra là họ không có kiến thức phổ thông về các định chế văn minh được điều khiển và điều hành bằng tam quyền phân lập ; họ không có kiến thức phổ quát về các cơ chế từ tự do bầu cử tới tự do ứng cử trong đa đảng được bảo đảm bởi đa nguyên mang nội chất của đa tài, mang nội hàm của đa trí, mang nội lực của đa hiệu, đa năng

- Họ khám phá ra là muốn giỏi ngoại ngữ, muốn nắm quốc ngữ nơi quốc gia mà họ đang du học, thì họ phải đầu tư trí lực, tâm lực, lý lực, luận lực để thấy văn hóa, thấu văn minh, hiểu văn hiến xứ người. Không có trí lực, tâm lực, lý lực, luận lực, nơi mà biếng nhát không quyết tâm làm nên biếng lười không quyết chí, nên họ dễ bỏ học, dễ bỏ cuộc, dễ làm ngơ và dễ viện cớ này, cớ nọ để không học tới nơi, thấu tới chốn, hiểu cho tới gốc, rễ, cội, nguồn của học thuật.

họcchăm bằng chí, là hành bằng lực, mà lười thì làm sao có lực, mà lực ở đây là trí lực, tâm lực, thể lực trong nhân tri của thức khuya mới biết đêm dài của nhân trí.Vô trương bất tín, không thấy không tin, thấy rồi mới tin, chúng ta hãy vào những kinh nghiệm cụ thể :

- Các sinh viên du học tới từ Việt Nam, khi tìm các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ cho họ, mà các giáo sư này đại diện cho văn minh khoa học, văn hóa dân chủ, văn hiến nhân quyền, thì sau đó không lâu chính các giáo sư này tự khám phá ra là sinh viên du học tới từ Việt Nam không có kiến thức căn bản, không có tri thức lý luận, không có trí thức phân loại để phân giải nên không có lý trí phê bình để trí tuệ được thăng hoa.

- Các sinh viên du học tới từ Việt Nam, khi tìm các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ cho họ, gốc người Việt trong ý đồ tư lợi "giữa đồng bào với nhau phải giúp đỡ nhau chốn xứ lạ quê người" ; bằng toan tính vụ lợi là "giữa đồng bào với nhau nên dễ nhờ vả". Dễ nhờ vả cụ thể là dễ lợi dụng, là dễ giật dây, là dễ dối trá để đánh lận con đen, đây là loại hoạn kịch giữa sinh viên du học tới từ Việt Nam gốc con ông cháu cha với các giáo sư gốc Việt được đào tạo tự đầu tới cuối nơi xứ Tây !

Tại đây, có hai trường hợp, có hai khả năng, có hai cách giải quyết :

- Sự thật mất lòng, là xác nhận của các các giáo sư trách nhiệm công trình nghiên cứu hay các giáo sư chấp nhận hướng dẫn luận án tiến sĩ gốc phương Tây, là sinh viên du học tới từ Việt Nam không có kiến thức căn bản, không có tri thức lý luận, thức phân loại để phân giải, lý trí phê bình để biết khám phá thêm trên con đường trí tuệ.

- "Hy sinh vì dân tộc", tức là giúp đỡ sinh viên du học tới từ Việt Nam, ngay thượng nguồn giúp họ "ghi danh" mà họ gọi là "đăng ký" vào trường tiến sĩ cùng lúc đưa họ vào một viện nghiên cứu để họ biết thế nào dây mơ rễ má của học thuật bằng nghiên cứu. Cho tới trung nguồn của mọi việc hiểu giáo trình, thấu giáo án, nhất là nhận thức rõ phương pháp giáo khoa, kể cả hạ nguồn là chỉ cách họ học để thi, nghiên cứu bằng khảo sát, điều tra bằng điền dã cấp tiến sĩ.

Nếu một giáo sư gốc Việt mà chọn phương án hai tức là "hy sinh vì dân tộc", thì cụ thể là họ phải hy sinh thời gian giảng dạy thêm, chỉ bảo thêm cho các sinh viên du học tới từ Việt Nam ; hy sinh trí lực cụ thể là giảng dạy lại, chỉ bảo lại các kiến thức căn bản của học sinh phương Tây cấp trung học phổ thông để họ biết căn cơ của đại học có vốn liếng thời trung học.

Hy sinh thời gian và hy sinh trí lực của chính mình mà còn phải hy sinh quan hệ đồng nghiệp, cụ thể là nhờ các đồng nghiệp gốc Tây giảng dạy thêm, chỉ bảo thêm, nếu cần thì ôn lại, nhắc lại, chỉ lại các kiến thức căn bản cấp trung học phổ thông. Chưa hết, còn phải hy sinh sinh hoạt giáo dục, cụ thể là yêu cầu các sinh viên gốc phương Tây có căn bản trung học, có tri thức đại học giúp chép bài, gởi bài tới cho các các sinh viên du học gốc Việt, không đủ ngoại ngữ để nghe, ghi, nhận, hiểu, thấu các giáo án hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng học kỳ…

voluan03

Vô học-vô hậu : vô ân-vô nghĩa

Nếu một giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ mà phải hy sinh : hy sinh thời gian, hy sinh trí lực, hy sinh quan hệ đồng nghiệp, hy sinh sinh hoạt giáo dục, thì trong xã hội học giáo dục đặc biệt nghiên cứu về sự thiệt thòi của cá nhân ngay trong đời sống giáo dục không còn gọi đó là hy sinh mà đặt tên nó là : thí mạng ! Mà đây là chuyện thí mạng thật, từ 1996 tới 2020, tôi đã nhận thí mạng cho nhiều sinh viên du học gốc Việt, khi họ tìm tới tôi để yêu cầu tôi nhận đào tào họ thành tiến sĩ. Từ thượng nguồn giáo khoa tới hạ nguồn giáo án tôi thực sự phải thí mạng trong các công đoạn sau đây :

- Phương án nghiên cứu có cơ sở của phạm trù nghiên cứu, với lý thuyết luận tri thức, với phương pháp luận nghiên cứu, với khoa học luận khảo sát và điều tra, song hành cùng tổng kết sơ khởi kiến thức thư mục qua các tác phẩm và tác giả về chủ đề và chuyên đề nghiên cứu, tại đây tôi phải viết các phương án nghiên cứu này thay cho họ, từ nội dung đến hình thức.

- Tổng kết thư mục qua tác phẩm và tác giả, để nhận ra đa thuyết trong đa thuật của học thuật, từ đó chọn lọc các tác phẩm chủ đạo, các tác giả cần thiết, sử dụng mô thức lý thuyết để tìm ra phương hướng khảo sát, phương pháp điều tra, phương án điền dã, tại đây tôi cũng phải giảng từ đầu đến cuối, thậm chí viết trọn cho họ.

- Phương pháp luận về điều tra thực địa, trong liên minh giữa định lượng (toán học, thống kê…) và định chất (quan sát, bảng câu hỏi, phỏng vấn, thảo luận, hồi ký…) từ điền dã thực địa tới tổng kết nghiên cứu qua phân loại, phân định, phân giải... tôi giảng, tôi bày binh bố trận cho họ, nhiều khi không đủ, thế là tôi phải phân tích, giải thích, bình phẩm thay họ.

- Khoa học luận từ giải thích tới giải luận, có phân tích song hành cùng giải thích, có diễn luận thăng hoa cho giải luận, mà không quên lý trí của lý luận, trí tuệ của lập luận làm nên tuệ giác của phê bình. Mà phê bình không hề là chuyện khen chê theo chủ quan của tuyên truyền trị sinh ra quái thai là ngu dân trị, mà đây là chuyện so ra mới biết ngắn dài của mức độ của kiến thức, mật độ của tri thức, cường độ của ý thức làm nên trình độ của nhận thức. Tại đây thì tôi thí mạng không những vài ngày, vài tuần, vài tháng mà trong nhiều năm ròng chỉ cho các thí sinh học tiến sĩ gốc Việt.

- Ngữ luận của luận án, của ngôn ngữ tiến sĩ bằng khoa học ngôn ngữ theo tiêu chuẩn hàn lâm, được chứng thực bằng ngữ vựng chính xác, với ngữ văn chỉnh lý, qua ngữ pháp khách quan, rành mạch để minh bạch. Tại đây, tôi mất nhiều thời gian để giải thích với họ là một câu văn xuôi cấp tiến sĩ không phải là loại câu điện tín thẳng thừng kiểu phổi bò ruột ngựa, cũng không hề câu nói vô thưởng vô phạt của loại người ba phải, không suy trước nghĩ sau. Một câu văn xuôi cẩn trọng trong thuật ngữ không những biết rào trước đón sau, mà còn là của thuật luận có lý luận khi phân tích, có lập luận khi phân loại.

- Thuật ngữ của tri thức, tránh mô tả dài dòng, tránh kể lể lan man, mà phải mô tả bằng dữ kiện gãy gọn, kể lể bằng chứng từ nghiêm túc, có phân tích hợp lý, có giải thích chỉnh lý, và sức thuyết phục bằng hợp lý, chỉnh lý tạo dựng lên học thuật luôn đi tìm sự toàn lý. Mô tả dài dòng, kể lể lan man không làm cho khoa học thăng tiến về lý trí trong lý luận, không làm cho học thuật thăng hoa về trí tuệ trong lập luận. Tôi đầu tư nhiều thời gian, rồi hao tổn bao trí lực trong giáo khoa luận làm nên tri thức luận này, hiệu quả thật mong manh, lắm khi tôi phải viết thay cho họ.

Purple flower growing on crack street, soft focus, blank text

Tại đây thì quá trình thí mạng thì nhiều nhưng kết quả thì không được bao nhiêu, nên thí mạng "đâm ra" thành liều mạng, cụ thể là tôi phải làm thay, viết thế cho họ. Rồi tự dặn lòng bằng cách tự an ủi là "không nên cầu toàn" về chuyện họ không được giáo dục đàng hoàng, giáo dưỡng tử tế. Vì họ là nạn nhân trực tiếp của ngu dân trị, vô học trị tới từ tuyên truyền trị, độc đảng trị, độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong giáo dục. Vậy nên giúp họ hoàn tất luận án tiến sĩ và chỉ mong sao khi về lại quê hương thì họ truyền đạt được giáo dục, giáo lý, giáo luận ; truyền thông được giáo khoa, giáo trình, giáo án của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hóa nhân quyền, mong cầu sao quy trình có học-có hậu sẽ dần dà đẩy lùi, rồi xua đi bóng tối âm loạn của vô học trị làm ra từ bóng đêm âm binh của vốn vô học. Tự an ủi để tránh cầu toàn, nên tôi đề nghị các phản biện viên là các giáo sư đồng nghiệp nên biết thông cảm với khuyết điểm của một hệ thống giáo dục ngu dân trị ; các giáo sư thành viên của hội đồng giám khảo bảo vệ luận án nên biết thông thấu về khuyết tật của của một hệ thống giáo lý tuyên truyền trị.

Cụ thể là cho phép bảo vệ luận án, nhưng quá trình hoàn thành luận án tới thời điểm bảo vệ luận án là một quy trình đấu tranh cực lực của có học để có hậu chống lại vô học nên vô hậu. Thấy khuyết điểm của ngu dân trị, thấu khuyết tật của tuyên truyền trị, từ đó các đồng nghiệp và tôi tìm mọi cách giúp đỡ các sinh viên du học cấp tiến sĩ gốc Việt, tránh để khuyết điểm, khuyết tật biến thành khuyết não. Tại đây, sinh viên du học cấp tiến sĩ gốc Việt phải nhận trách nhiệm với thế hệ đàn em, phải nhận bổn phận với thế hệ đàn con từ giáo dục, giáo lý, giáo luận tới giáo khoa, giáo trình, giáo án, là tạo điều kiện thuận lợi để thăng hoa ngay tại nơi mà họ có chức năng tri thức, nơi mà họ có vai trò trí thức.Trong hội đồng giám khảo luận án tiến sĩ cho các sinh viên du học gốc Việt, chúng tôi dặn dò nhau bằng một loại kết luận về tính mạng của học thuật :

- Nếu chúng tôi thành công trong việc chống khuyết não, thì từ thí mạng chúng tôi đã thuận duyên với học thuật để tiếp tục giữ mạng cho học thuật.

- Nếu chúng tôi thất bại trong việc chống khuyết não, thì từ thí mạng chúng tôi đã nghịch duyên với học thuật để bị mất mạng ngay trong học thuật.

Tại đây, nếu có hai trường hợp, có hai khả năng, có hai cách giải quyết cho giáo sự hướng dẫn luận án, thì cùng có hai thành phần sinh viên du học gốc Việt với hai đạo lý trái ngược nhau :

- Thành phần thứ nhất, có lương thiện trong học lực, có liêm chính trong học thuật luôn hiểu, thấy, thấu công tâm người thầy, dù thất bại hay thành công trên chặn đường du học, thì khi họ gặp tôi họ vẫn giữ lương tri tầm sư học đạo, vẫn giữ liêm sỉ tôn sư trọng đạo.

- Thành phần thứ nhì, rỗng lương thiện trong học lực, trống liêm chính trong học thuật nên tà ngôn trong điếm ngữ thường kết tội giáo dục của phương Tây quá lý thuyết, hoặc tà nghiệp trong ma lộ là giáo dục của các xứ tư bản không phù hợp với họ.

voluan5

Xã hội học giáo dục luôn được trợ duyên bằng tri thức luận đạo đức, cụ thể là cũng từ hai thành phần rất khác nhau này, sinh ra hai loại người đối nghịch nhau sau khi được đào tạo cấp tiến sĩ, sau khi có học vị để được nhận học hàm tại Việt Nam hiện nay, khi gặp lại tôi thì thái độ, hành vi, cách đối nhân xử thế của họ ra sao ? Cũng từ hai thành phần rất nghịch nhau :

- Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy, đó là thành phần thứ nhất biết sự vận hành sáng suốt của giáo lý Việt: một duyên, hai nợ, ba tình, cụ thể là duyên hội ngộ trong học thuật làm nên nợ hạnh ngộ trong trí thức, tạo nên duyên tái ngộ trên đường đời, với giáo lý một ngày nên nghĩa, một chữ nên thầy. Có những sinh viên đúng Ngày nhà giáo Việt Nam là gởi thư khẳng định đạo lý Việt ơn sâu nghĩa nặng với thầy, họ chúc tết cũng bằng đạo đức Việt : mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy. Mỗi dịp được trở lại quê hương để nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về các chủ đề về Việt Nam học, các sinh viên cao học, tiến sĩ đón đưa tôi với nhân dạng của trò ngoan, với nhân diện của trò khôn, vì họ thông minh theo giáo lý sáng suốt biết người biết ta, vì họ biết kính trên nhường dưới.

- Vong ân bội nghĩa, đó là thành phần thứ nhì, khi có được bằng cấp, học vị, kiêu căng trong tự mãn, cùng lúc trống vắng giáo lý Việt là không thầy đố mày làm nên. Khi gặp lại tôi mặc dầu tôi chẳng có gì để tâm sự với họ, nhưng họ lo ngại trong sợ sệt bằng cách cố tình quên đi, cố ý lảng đi một đạo đức căn bản nhất về sự trung tín được làm ra từ sự trung kiên thủa còn đi học :

Nắng ba năm ta (thầy) không bỏ bạn (trò)

Mưa một ngày bạn (trò) đã bỏ ta (thầy).

Họ quên hẳn đi là từ phương án nghiên cứu tới phương pháp thực địa ; từ kỹ thuật điều tra tới kỹ năng bình giải, bình phẩm ; từ ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp tới thuật ngữ, thuật học, thuật luận ; từ giáo sự phản biện tới hội đồng giám khảo, nếu không có tha nhân phù hộ độ trì, thì cá thể của họ chỉ là bụi đời trong học thuật, oan hồn trong giáo dục.

Câu chuyện vô học-vô hậu chính là câu chuyện vô thông-vô tạo; vì đây không hề là câu chuyện của bằng cấp làm nên học vị, học hàm, mà là câu chuyện có học-có hậu để có thông minh có sáng tạo. Cụ thể là có học bằng công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy nên có hậu trong một duyên, hai nợ, ba tình. Ngược lại vô học vì quên không thầy đố mày làm nên, để sinh sản ra loại quái thai trong âm tướng vong ân bội nghĩa, chóng chày gì cũng dẫn tới quái não trong âm diện lừa thầy phản bạn đây không phải là vô hậu thì còn là gì nữa ?

Lê Hữu Khóa

(01/10/2020)

---------------------


lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 887 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)