Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

28/05/2021

Giải luận 1 : Dân tộc

Lê Hữu Khóa

Dân tộc

giailuan01

Đồng điệu để đồng hành

Đồng bào, không chỉ là biểu tượng của huyền sử Việt, đã thành hằng sử Việt, mà là một quá trình linh diệu tự sinh con tới nuôi con, để con biết yêu nước thương nòi, để con biết công cha nghĩa mẹ. Đó là câu chuyện "Lên non mới biết non cao. Nuôi con mới biết công lao mẫu từ", trường khúc nuôi con của trường ca mẫu từ, đây chính là chuyện luân lý của gia phong làm nên giáo dục gia đình, vì đây là một giá trị tâm linh, với chiều cao đạo lý của nó. Hãy bắt đầu bằng chữ cao, cao như non, cao như tầm vóc của người mẹ không những chỉ là mẹ của các con, mà còn là một chủ thể của sự hy sinh, đại diện cho nhân loại có trăm con, nhưng luôn biết dấn thân để cáng đáng từng đứa con. Mẹ là nhân phẩm được tạo ra bởi nhân từ, mẹ là nhân nghĩa được tạo ra bởi nhân tâm. Chính giá trị tâm linh này là chỗ dựa cho luân lý trong giáo dục gia đình, có giáo khoa đồng bào cho xã hội, lập nên giáo trình đồng tộc cho cả một văn hóa, luôn có chỗ dựa là giáo án đồng tông. Mẹ cha khi đưa các đứa con vào đời nơi mà tâm linh và giáo dục là một. Giáo dục và tâm linh song hành và nhập nội vào nhau dễ dàng, vì đồng điệu để đồng hành trong đạo lý Việt tộc, quyện vào nhau như đồng đôi, đồng lứa, vì cùng đồng tâm trong đạo đức biết hy sinh cho các thế hệ mới, non, trẻ, mai, hậu...

Quyết đoán số phận

Để hiểu tại sao con người luôn muốn làm chủ số kiếp của chính mình, không cần đạo giáo để quyết định số phận mình, không cần đảng phái để quyết đoán số phần mình. Làm chủ hành động cá nhân mình để bảo đảm quyền tự do của mình, hành động qua tập thể để bảo vệ công bằng, hành động vào xã hội để bảo trì bác ái để sống có nhân phẩm với đồng loại. Các chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng, làm bọn lãnh đạo các chế độ này rất "cực thân", vì chúng phải rình rập để đàn áp, phải đe dọa để áp chế, phải tuyên truyền để lừa đảo, phải làm khổ xã hội để đày tha nhân, chúng tốn nhiều thì giờ và năng lượng vào những chuyện công an, quân đội, nhà tù… vu oan giá họa cho chúng sinh nên chúng không thể thông minh, vì chúng thời gian đâu để cải cách, để cải tổ, để sáng chế, để sáng tạo, để khai thác tiềm năng và tiềm lực của tha nhân và của xã hội. Hãy giải thích bằng sử học là bọn cầm quyền dùng các chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng bằng các trò mỵ dân qua chủ nghĩa cộng đồng, đạo đức giả qua chủ nghĩa tập thể, mà cộng đồng không sao tới được cộng sản, vì tất cả các chủ nghĩa cộng này đều thất bại, đều bị nhân sử gạt bỏ, vất đi.

Nhân học dân chủ

Nếu con người muốn làm chủ qua dân chủ, thì không những đã có sẵn lý thuyết, có sẵn sử học, có sẵn tư tưởng, có sẵn kinh nghiệm về dân chủ, thì trong nhân tính của nhân loại chắc chắn có sẵn nhân học dân chủ, loại nhân học thông minh hàng đầu, vì nó trao kiếp người lại cho người, không để tôn giáo hoặc dị đoan, đảng phái hoặc bè nhóm nào quản lý kiếp người này. Cho nên kiếp chủ kiếp là vậy. Chính chủ thuyết tự do cá nhân để bảo vệ quyền lợi cá nhân làm tăng trưởng các thỏa hiệp đa nguyên, thỏa thuận đa dạng, thỏa ước đa dụng, lấy đa tài làm ra đa trí, chống lại cái một chiều của độc tài, cái một khung của độc quyền, cái một lò của độc đảng làm ra cái một nhà tù chống lại cái muôn hình, muôn vẻ của nhân sinh. Gauchet tin vào chữ đa của thiên hạ, không muốn độc thoại, và sống rất trọn với đa nguyên, với dân chủ, có lần tôi định nghĩa : "Dân chủ là biết người biết ta để sống chung", thầy thêm ý kiến của thầy : "Dân chủ là nghe người để biết người, để biết ta, để sống chung, và để không bỏ rơi nhau !".

Kho tàng của sự cách biệt

Sự cách biệt làm nên khoảng cách giữa các dân tộc là kho tàng của học thuật, khoảng cách càng xa nhân tri càng rộng, khác biệt càng nhiều nhân trí càng sâu, chính cái đa dạng của khác biệt làm nên cái phong phú của nhân sinh, khác nhau để học nhau, để hỗ tương cho nhau, cách xa nhiều thì học được nhiều, cách biệt nhiều thì thu được nhiều. Từ đó, ta sẽ nhận ra các định kiến dựa vào cái bên trong của ta, ta thì văn minh, cái bên ngoài của thiên hạ là man di, thì định kiến này giờ đã thành tà kiến. Kho tàng của sự khác biệt giữa các văn hóa, giữa các kiến thức, giữa các thái cực… không những giúp ta tránh quá khích, xa thủ cựu, bỏ kỳ thị, lánh tà kiến, mà còn giúp ta thấy mọi chiều, hiểu mọi nơi, thấu mọi bề, làm ra cái thông minh sâu, dài, rộng, lớn. Sự thông minh biết người biết ta tạo cái thông minh của tự do, đó là tự do đi lại thoải mái giữa các nền văn hiến khác nhau, đây mới đúng là thông minh của thông minh.

Tự do giết tự do

Trong không gian lãnh đạo chính trị dựa trên đa nguyên của dân chủ thì tự do là nơi mà các quy luật khách quan phải tuân theo các quy phạm cần thiết để quản lý tự do trong chính trị bằng tri thức đúng về quyền lực, tức là phải tôn trọng công bằng, phải tôn vinh công lý. Trong không gian chính trị này, ta phải phân biệt có nhiều không gian của tự do, các tự do này rất bất bình đẳng trong sinh hoạt xã hội, thí dụ như trong các quốc gia dân chủ giàu mạnh, nhưng trên thực tế không gian của một tỷ phú luôn rộng hơn không gian của một công dân đang thất nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay, ta thấy rõ qua bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn đất thì tự do của một tên đầu nậu đất đai đã chia chát với các nhóm lợi ích trong chính quyền thì hoàn toàn rộng lớn và chúng "có tự do để giết tự do của dân chúng", để biến dân chúng thành dân oan.

Phương tiện của quyền lực

Tự do phải được nhận định và định nghĩa qua không gian cụ thể, nơi mà bọn bạo quyền, tham quan, ma đất dùng các phương tiện của quyền lực sẵn có trong tay chúng để hủy, diệt, loại, bỏ tự do của dân oan, vừa không có quen biết trong quyền lực, vừa không có các phương tiện pháp quyền để tự bảo vệ tự do của chính mình. Tự do của một con cáo đang lộng hành giết chóc các con cừu trong chuồng mà các nạn nhân không có lối thoát, thì đây không phải là tự do mà là sát hại ! Tự do của liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền trọc phú khi chúng tự do dùng phương châm ma đạo của chúng là : "có tiền mua tiên cũng được", thì đây không phải là tự do trong liêm sỉ mà là hành động âm binh sát hại đồng bào.

Biến con dân Việt thành lao nô, nô tỳ !

Hãy tỉnh táo để có sáng suốt khi đi tìm định nghĩa về tự do, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa… khi ta đặt tự do trong quyền lực chính trị, của chính quyền độc đảng trong thực trạng tự do cạnh tranh qua bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ta sẽ thấy, họ sẽ dùng tự do chính trị để tạo ra các bất công mới, mà ý đồ là để duy trì chế độ độc đảng. Thí dụ quá trình hội nhập vào kinh tế thị trường khi cho phép các doanh nghiệp ngoại quốc vào đầu tư tại Việt Nam với lực lượng lao động Việt dồi dào nhưng lương bổng thấp, bảo hiểm xã hội tồi, an sinh xã hội kém, luôn đi cùng với các chính sách xuất khẩu lao động, biến con dân Việt thành lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.

giailuan04

 Lao động Việt Nam trước giờ đi xuất khẩu lao động giúp việc nhà tại Ả Rập Saudi

Chủ thuyết nạn nhân oan

Trạng thái tâm thần của những kẻ có quyền lực nhưng lại không có sự tín cẩn, lòng khâm phục của kẻ bị trị, nên bịnh tâm thần của kẻ cầm quyền xử những bản án thật nặng với các đứa con tin yêu của Việt tộc, chỉ dùng dân chủ để đòi nhân quyền mà phải nhận những bản án nhiều năm trong lao lý. Những bản án nặng để làm gương, để ra uy, để làm kẻ khác sợ mà không dám đấu tranh, cách giải luận này chưa đủ, còn thiếu sót, mà phải đưa vào giải thích của chúng ta chủ thuyết nạn nhân oan, để thấy rõ sự hận thù quá mức, sự oán giận quá đổi của kẻ cầm quyền, đang bất lực trước các trào lưu đấu tranh của xã hội dân sự mà họ không sao dẹp được. Nạn nhân oan luôn phải nhận những đòn thù, những án oan, những trừng phạt kiểu bị truy diệt để kẻ có quyền thỏa giận, thỏa tức, để thoát được chuyện "mất ăn mất ngủ" vì tha nhân đã nhìn ra sự bất chính của bạo quyền, sự bất lương của tà quyền.

Công an sát nhân

Sự thật Việt của số phận Việt hiện nay, đang diễn ra hằng ngày trước mắt chúng ta : một vài công an có thể đưa một người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử, và không một tên công an sát nhân nào, bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án. Một xã hội cho phép "đòn thù" để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác để che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa. Một vài côn đồ, du đảng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình, mà bọn xã hội đen lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả tiền, thì dân chúng trong xã hội đó có thể đi thẳng từ vị thế dân oan tới nạn nhân oan, vô tội mà trở thành tử tội.

Tham nhũng lũng đoạn xã hội

Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ thấp nhất trong nhóm để xả mọi dồn nén và bất chấp pháp luật hiện hành. Nên xã hội bạo động hiện nay là xã hội dùng nạn nhân oan để loạn hóa bộ máy công lý muốn dùng luật pháp để kềm chế tội phạm. Sự thật xuất hiện ngay trong cái bạo động xã hội, mà muốn định nghĩa sự bạo động, thì phải qua đường đi nẻo về của nó là sự xâm phạm từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nghiên cứu về sự bạo động, thì ta nghĩ là ta không phải là thủ phạm mà kẻ khác là thủ phạm.

giailuan05

Việc "ban" án tử cho Hồ Duy Hải không khác gì "góp phần" rút ngắn tuổi thọ của chế độ.

Ý thức đi tìm lý trí

Ý thức đi tìm lý trí khi đã từng là nạn nhân của bạo quyền độc đảng vô minh. Từ đây, có tâm thức đi tìm nhân tri khi đã từng gánh chịu bất công của tà quyền độc trị vô lương ; để có nhận thức phải đi tìm công bằng khi đã từng cam chịu bao bất đẳng tới từ sự phân biệt đối xử do ma quyền độc trị tham đặc lợi, thèm đặc ân sinh ra chỉ cho riêng chúng.Tự chủ này được triết học chính trị nhận diện qua quá trình sau đây : phải vượt thoát hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành) ; rồi vượt khỏi hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc đảng), để vượt thắng hệ tham (tham quyền, tham nhũng, tham ô, tam tiền). Tự chủ vì nhân trí còn được xã hội học đàm phán nhận diện qua : khả năng thay đổi hành vi khi biết chuyển hóa hành động trước bạo quyền ; tiềm năng thay đổi hiện tại để chuyển hóa tương lai theo hướng tích cực ; chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng mà thắng bạo quyền độc đảng toàn trị.

Lý trí tự kiểm soát hành vi

Quá trình tự chủ vì nhân trí có lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý. Tự chủ vì nhân trí có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm. Tự chủ vì nhân trí có sự sáng suốt tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm. Tự chủ vì nhân trí của tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác. Tự chủ vì nhân trí của nhân quyền biết tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, là nguyên nhân của bất công, là nguồn gốc của khổ đau.

Tự chủ của tự sáng tạo để tự hành động

Tự chủ trong quá trình khai thác ý tưởng bên trong não bộ để biến tự do bên trong thành hành động bên ngoài xã hội. Đó là ý thức đi tìm hạnh phúc khi đã từng chịu đựng khổ đau tới từ bạo quyền ; ý muốn sống trong công bằng vì đã là nạn nhân của bất công ; ý định biến hiện tại xấu thành tương lai tốt ; ý lực đưa hành động tự do của mình vào ngay đời sống xã hội. Tự chủ trong quá trình tự sáng tạo để tự hành động : biết chống lại bạo quyền đang đe dọa, khống chế, đàn áp tự do bằng bạo lực, chuyển hóa não trạng ngay trong chính tri thức của tự do, không nhất thiết phải dùng bạo động để giành tự do, mà có thể xua đuổi, xóa bỏ các bạo lực chống lại tự do qua phương trình thông minh của đối thoại-đối chất-đối luận-đối trọng-đối kháng.

Hành tác tự chủ vì nhân phẩm

Biết chống lại bạo quyền phi nhân tính, vừa tha hóa, vừa đồi trụy, lại vừa vô luân, bằng hành tác tự chủ vì nhân phẩm : bằng tiếng nói, bằng trần tình, bằng biểu tình, bằng đề đạt, bằng đàm phán… để xác nhận nhân quyền, đó là quyền làm người với nhân tính, với nhân đạo. Biết chống lại bạo quyền bằng lý thuần chất của nhân phẩm, vừa dựa trên nhân lý, vừa dựa trên nhân trí, làm nên phương trình hợp lý-chỉnh lý-thuần lý để tự do sánh đôi với công bằng, để tự do bảo đảm được bác ái, trong một nhân tính không bao giờ chấp nhận bạo quyền, tà quyền, độc quyền, tham quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền.

Tự chủ đến từ nhân lý

Chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý trí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tôc. Chống lại bạo quyền bằng tự chủ đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả chung chung của hoàn cảnh. Vì tự chủ đến từ tư duy của con người biết dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý và đạo đức của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.

Tự chủ biết nội lực của luân lý

Tự chủ trong một không gian đạo đức của chung sống trong công bằng và bác ái trong đó tự chủ biết nội lực của luân lý chính là ý thức về trách nhiệm và bổn phận ; sung lực của đạo lý chính là ý thức về các hành tác hay, đẹp, tốt, lành ; hùng lực của đạo đức chính là ý thức về nhân phẩm để bảo vệ nhân tính. Hãy bắt đầu bằng trực quan của tri thức, tức là bằng thấy-hiểu-thấu-nhận, với tự chủ hiểu cái tốt để làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, đồng loại. Với tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận hệ luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận). Với tự chủ phải tiếp thâu cái lý để đón tiếp hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức).

Tự do vì nhân phẩm

Tự do vì nhân phẩm rất cụ thể vì tự do này biết đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các nạn nhân của bất công, của độc tài, của tham nhũng... đứng về phía đồng bào và đồng loại đang khổ đau trong một chế độ lấy bạo quyền, dùng bạo lực để hằng ngày bạo hành đồng bào mình. Từ đây chuyển biến não bộ để chuyển hóa não trạng bằng cách nhận ra tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phụ lão, các trẻ thơ, các người tàn tật, các phụ nữ… hằng ngày là nạn nhân của một chế độ bỏ quên không những an sinh xã hội mà cả an toàn xã hội để bảo vệ kẻ yếu thế, kẻ mang tàn tật… Tự do đứng cạnh tất cả các phong trào đấu tranh liêm chính vì dân chủ, vì nhân quyền để bảo vệ cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, ít nhất là bắt buộc bạo quyền phải tôn trọng các quyền đã được ghi trong hiến pháp.

Nhân cách bất khuất của dân tộc

Tự do đứng cạnh các tù nhân lương tâm hoàn toàn vô tội đang trong vòng lao lý vừa vô nhân đạo, vừa vô nhân tính của bạo quyền vừa đang vùi dập nhân cách bất khuất của dân tộc, đang tha hóa phẩm chất của Việt tộc. Phải khẳng định tự do vì nhân quyền bằng não bộ trong sáng, bằng não trạng tích cực để đứng cạnh tất cả dân đen trong cảnh đầu đường xó chợdân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, mất đất, mất nhà nạn nhân của các lãnh đạo ma đất đã cấu kết với bạn các nhà thầu ma xây cất, đang khổ nhục hóa các nạn nhân này ngay trên mảnh đất của họ.

Tự do vì nhân quyền

Tự do đứng cạnh các phong trào yêu nước đang đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, từ biển đảo tới đất liền, từ môi trường tới môi sinh, đang bị tiêu hủy hằng ngày bởi Tàu họa, thông đồng với các lãnh đạo đang bán nước. Tự do vì nhân quyền để đứng cạnh cho đa nguyên mở cửa cho đa tài, đa năng, đa hiệu, để chống độc tài, độc trị, độc quyền qua độc đảng, từ đó tạo dựng lên khối đại đòan kết trong đa dạng tư duy, đa thể lý luận, có đa lực tiếp nhận văn minh của nhân loại. Tự do vì nhân quyền để cận kề với quyết tâm giải phóng chính mình qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức,ý thức,nhận thức) cùng lúc giải phóng gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, dân tộc mình ra khỏi nhà tù ngu dân của độc đảng.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức

Tự do đẩy cửa, đạp tường, phá rào, đập tan nhà tù của một chế độ sống nhờ công an trị, đã cai trị rồi vùi dập lương tri của Việt tộc chỉ muốn sống là một dân tộc tốt. Tự do vì nhân quyền chính là tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực trạng của độc đảng sinh ra độc quyền, để tham quyền đẻ ra tham nhũng trong toàn bộ lãnh đạo chối từ đối thoại để đối luận với trí thức là chúng ta thấy Nhân luận của chính chúng ta bị thiêu hủy. Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến bi kịch của cả dân tộc đang bị bần cùng hóa, cả một xã hội đang bị đồi trụy hóa, cả một đất nước đang bị đe dọa xâm lược bởi Tàu tặc là chúng ta thấy nhân quyền của chính chúng ta bị bức tử.

giailuan06

Ông Trần Ngọc Chinh, 1 trong 3 người chịu án oan giết người suốt gần 40 năm qua - Ảnh Trần Cường

Nội chất của nhân cách, bản chất của nhân vị

Một dân tộc muốn thành công thì phải có sáng kiến thường nhật, sáng tác thường xuyên, sáng tạo thường trực, thì phải biết thu ngắn thời gian nhậu nhẹt, tán gẫu, la cà trong các tiệm ăn tới các quán cà phê. Vì đây cũng là câu chuyện hiệu quả làm ra từ hiệu năng, tạo nên hiệu xuất tại các quốc gia có khoa học kỹ thuật tiên tiến đã làm nền cho văn minh dân chủ, cho văn hiến nhân quyền. Nếu bữa ăn trưa ê a quá dài, bữa ăn tối ú ớ không dứt, nếu trà dư tửu hậu triền miên dẫn tới ăn tục nói phét bất tận thì đừng nên nói về sáng kiến thường nhật, sáng tác thường xuyên, sáng tạo thường trực. Đừng la cà để tán gẫu là : "người Việt giỏi", "người Việt thông minh", "người Việt thành công"… Đừng nói liều để phải mang tiếng là nói dóc, nói xạo, nói điêu, nói ngoa… Vì không có người giỏi nếu người đó không biết "thức khuya dậy sớm", không có người thông minh nếu người đó không biết "dãi nắng dầm mưa", không có người người thành công nếu người đó không biết "một nắng hai sương". Một công hai việc, phải nói rõ hơn nữa là bọn tham quan để tham ô, bọn trọc phú nhờ tham nhũng, hai bọn này hoàn toàn không chỗ đứng, ghế ngồi cạnh các chủ thể biết "thức khuya dậy sớm", "dãi nắng dầm mưa", "một nắng hai sương" ! sáng kiến thường nhật, sáng tác thường xuyên, sáng tạo thường trực trong câu chuyện hiệu quả làm ra từ hiệu năng, tạo nên hiệu suất là câu chuyện vừa mang nội chất của nhân cách, vừa mang bản chất của nhân vị.

Tiến bộ trường kỳ nhân sinh

Khi quan sát các châu lục có kinh nghiệm dân chủ, khi so sánh giữa các quốc gia có thực thể dân chủ, thì các chuyên gia nhận ra một thành phần sống nhờ khai thác các trợ cấp xã hội, mà các chuyên gia gọi họ là "sống để xin", biến phản xạ "ngửa tay xin tiền" thành phản ứng thường trực là "cúi đầu đi xin". Khi các chủ thể dân chủ có chính quyền mới, có chính phủ mới với quyết sách mới tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh thì phải có một giáo dục cấp tiến, trong một giáo khoa dấn thân có giáo trình đạo đức với giáo án chỉnh lý mà giáo huấn rồi giáo dưỡng đám người "sống để xin", "ngửa tay xin tiền", "cúi đầu đi xin" ra khỏi nhân kiếp "ăn bám" của chính họ.

Sự chuyển hóa tự nhiên

Sự chuyển hóa tự nhiên, nơi mà tất cả sinh vật, đều được hoặc chịu sự chuyển hóa tự nhiên, hàng ngày, tất cả đều phải chịu sự chuyển hóa qua thời gian và không gian. Chân lý của định đề sinh, lão, bịnh, tử khi được hiểu đúng rồi, thì mỗi chủ thể phải thấy cho thấu là cuộc đời của mình rất ngắn ngủi, và ta phải làm gì cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, để có một nhân sinh đầy giá trị. Một câu hỏi được thi sĩ Vũ Hoàng Chương mô hình hóa bằng thi luận : "Ta làm chi đời ta ?", đây là thượng nguồn của quy trình sáng tác, sáng chế, sáng lập, cụ thể là đang sinh sống tức là đang sáng chế, tức là đang chủ động chuyển hóa.

Sự phản chuyển hóa của quá khứ

Sự phản chuyển hóa của quá khứ, không ai thay đổi được quá khứ, ký ức, lịch sử, vì ta không thể thay đổi những gì đã xẩy ra : bạo quyền công an trị đã giết người, tà quyền tham nhũng trị đã cướp của, ma quyền tham tiền trị đã phá nhà, cướp đất… biến dân chúng, dân lành thành dân đen, dân oan… Chúng ta không thay đổi được quá khứ của chế độ vô học trị đã ngu dân hóa dân tộc, của ý thức hệ bạo lực trị đã gây bao lầm than cho Việt tộc. Nhưng chúng ta phải học bài học của lịch sử để tái tạo lịch sử tương lai bằng cách nhân tính hóa lịch sử, là làm ngược lại, cụ thể thay bạo quyền bằng nhân quyền, thay ngu dân trị bằng tri thức trị.

Sự chuyển hóa tất yếu

Sự chuyển hóa tất yếu, khi mà chúng ta phải bắt buộc thay đổi để tồn tại, bó buộc chuyển đổi để sinh tồn trong thử thách bịnh tật, thiên tai, trong thăng trầm của nghèo đói, lạc hậu. Trước tất yếu bịnh tật, thiên tai, nghèo đói, lạc hậu, khoa học lẫn kỹ thuật vẫn cung cấp cho nhân sinh một cuộc sống ngày càng nhiều tiện nghi, y khoa vẫn bảo vệ ngày càng tốt hơn sức khỏe của nhân sinh, liên tục làm tăng tuổi thọ của nhân loại

Sự chuyển hóa tích cực

Sự chuyển hóa tích cực, khi con người nhận ra nếu không chuyển hóa tức thì sẽ bị tai ương hủy diệt, nếu không chuyển biến tức khắc thì sẽ bị bất công nuốt chửng. Lấy sáng kiến để tạo sáng tác, sáng chế, sáng lập chống lại tai ương của dịch bịnh, chống lại bạo hành của bạo quyền. Sự chuyển hóa tích cực chống lại loại triền dốc đi xuống của nhân sinh, đang lao vào vực thẳm, nếu không tỉnh thức thì chắc chắn là thiệt mạng. Sự chuyển hóa tích cực đóng dấu hay, đẹp, tốt, lành cho nhân sinh, mang dấu ấn cao, sâu, xa, rộng cho nhân quyền. Nó hoàn toàn ngược lại với sự chuyển hóa tiêu cực đã xấu, tồi, tục, dở rồi, giờ lại lao mình như con thiêu thân để thành quỷ, ma, tà trong thâm, độc, ác, hiểm. Và trong bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay, Việt tộc đang trên triền dốc đi xuống của xấu, tồi, tục, dở, và đang lao thân vào vực thẳm của thâm, độc, ác, hiểm của loại tà quyền buôn dân bán nước.

Sự chuyển hóa cùng tha nhân

Sự chuyển hóa cùng tha nhân, nếu chuyển hóa chỉ một thân thì không sao xoay chuyển được tình hình, nếu chuyển hóa chỉ một mình thì không sao xoay dời được thời cuộc. Khi cùng chuyển hóa với tha nhân thì chính sự hợp tác với tha nhân làm nên cái chung trong đồng cam cộng khổ và cái chung này sẽ là cái chia trong đồng hội đồng thuyền với tha nhân, nơi mà đoàn kết và tương trợ sẽ tạo được thành công.

Sự chuyển hóa được tuyển chọn

Sự chuyển hóa được tuyển chọn, nếu chuyển hóa là tự nhiên, là tất yếu, là hiển nhiên, thì khi cá nhân định vị mình như chủ thể đang làm chủ cuộc đời của chính mình. Chủ thể này phải chọn lựa những quyết định, phải tuyển chọn những hành động, phải tuyển dụng những hành tác hợp với sự thật, chân lý, lẽ phải bằng nhân bản, nhân tri và nhân quyền. Từ đó, chuẩn bị một tương lai ít xấu, tồi, tục, dở, và luôn mong cầu được tiếp cận với nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành. Mà nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành đã có ở thượng nguồn, đó chính là lý tưởng, là hoài bão, là dự phóng về một nhân vị cao, sâu, xa, rộng.

Sự chuyển hóa sâu rộng vì nhân sinh

Sự chuyển hóa sâu rộng vì nhân sinh, nơi mà các chủ thể đại diện cho văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền luôn có mặt trong các lĩnh vực khác nhau từ khoa học tới kỹ thuật, từ chính trị tới kinh tế, từ văn hóa tới giáo dục. Đó là những chủ thể nhìn xa trông rộng, dám nghĩ và dám làm vì mục đích cao cả là phục vụ nhân quyền vì nhân phẩm. Các chủ thể này tổng hợp được công việc chuyên môn của mình để chế tác ra những nhân sinh quan, để chế tạo ra những thế giới quan, để hành tác bằng những vũ trụ quan đứng đắn biết bảo vệ từ môi trường tới môi sinh. Không những biết tự thay đổi cuộc đời của họ mình mà chuyển hóa cả nhân loại theo hướng chuyển hóa sâu rộng qua nhiều thế hệ, qua nhiều thế kỷ.

Sự chuyển hóa để tìm ra chính mình

Sự chuyển hóa để tìm ra chính mình, khi vào quyết tâm chuyển hóa não bộ, khi vào quyết đoán thay đổi não trạng, trên nhân lộ đi tìm văn minh vì nhân phẩm, thì các chủ thể sẽ tự nhận ra mình. Nhận ra chính mình với ý nguyện sống sao cho có ý nghĩa, làm nên ý lực sống sao cho có trí lực, để đưa cuộc đời của chính mình cùng với tha nhân để vào nhân lộ văn minh. Một nhân lộ có đồng bào, đồng loại cùng với mình, tất cả nhận ra nội công của nhân quyền, bản lĩnh của nhân bản, tầm vóc của nhân vị.

giailuan07

Công an Hà Nội đàn áp biểu tình – Linh mục, giáo dân bị đánh trọng thương

Sự chuyển hóa biết giữ gìn tiền đồ

Sự chuyển hóa biết giữ gìn tiền đồ, trong đó có vốn liếng của dân tộc, có di sản của tổ tiên, có tài nguyên của đất nước không những phải được bảo trì mà phải vận dụng sự chuyển hóa tích cực để bảo quản cho bằng được những gì mình đã có, đang có. Từ đó cái mình sẽ có sẽ bồi đắp, bồi bổ, bồi dưỡng cho những gì mình đã có, đang có. Một chính quyền tới từ sự thông minh của đa nguyên, tới từ sự thông thạo của dân chủ, tới từ sự thông thái của nhân quyền là một tập hợp của các chủ thể biết tiến tới tương lai, biết đi tới chân trời, cùng lúc biết cõng, bống, bế, ẵm một cách nâng niu và trân quý cơ ngơi của tổ tiên, dân tộc, đất nước.

Sự chuyển hóa cùng các giá trị phổ quát và vĩnh hằng

Sự chuyển hóa cùng các giá trị phổ quát và vĩnh hằng, qua nhân sinh quan cùng thế giới quan của những chủ thể biết tôn trọng các giá trị thiêng liêng của nhân loại, các giá trị tâm linh của dân tộc các giá trị đạo đức của nhân phẩm, mà ta phải giữ cho bằng được các giá trị này trong suốt quá trình chuyển hóa dù phải qua bao thử thách, bao thăng trầm, bao trầm luân. Hãy hiểu tới cùng các cuộc biến thiên, làm thay trời đổi đất, để thấy cho thấu là qua vật đổi sao dời các giá trị nhân bản làm nên nhân vị vẫn luôn tồn tại và được vun đắp ngày càng phong phú hơn.

Sự chuyển hóa theo ước nguyện ban đầu

Sự chuyển hóa theo ước nguyện ban đầu, với thủa ban đầu của một hoài bão đẹp, một lý tưởng cao, một mong cầu đất nước thanh bình với một dân tộc được sống trong một nhân loại thái hòa. Ước nguyện thủa ban đầu là ước nguyện triền miên của một nhân sinh quan không ích kỷ đóng cửa để thụ lợi, không vị kỷ đóng kín để tư lợi, mà hành động vì đồng bào, hành tác vì đồng loại. Biết hợp tác với tha nhân để làm rộng nhân thế, làm cao nhân bản, làm sâu nhân tâm. Sinh và sống với não bộ luôn ở tuổi thanh niên dù hiện nay đã qua tuổi thanh niên, đã quá tuổi thanh xuân nhưng luôn trẻ trung từ tư duy tới hành động bằng những dự phóng cho tương lai, bằng những dự án cho các thế hệ mai hệ. Trẻ trong não bộ để không già trong não trạng, đây là thử thách thông minh cho một chính quyền sáng tạo, mong muốn có một chính thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền với não bộ của sáng tác, sáng chế, sáng lập.

Một nhân bản có chỗ đứng trong sự thật

Một chính quyền mới với các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền phải tuyệt đối xa lánh để loại bỏ các thể loại tư duy man trá, ngôn ngữ gian xảo, để tự bảo vệ nhân bản của mình, một nhân bản có chỗ đứng trong sự thật, có chỗ ngồi trong chân lý, có chỗ dựa chính là lẽ phải. Một chính quyền mới quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền với các chủ thể lãnh đạo là những đứa con tin yêu của Việt tộc biết nhìn xa trông rộng của người thông minh :

"Người khôn chưa đắn đã đo

Chưa ra tới biển đã dò nông sâu"

thấy các biến động lớn đang tới với đồng bào, đồng loại, nhận ra các tai biến lớn sẽ tới với dân tộc, với nhân loại. Cụ thể là nợ công đang chồng chất lên lưng, lên vai, lên đầu của các dân Việt, gây ra bởi một bạo quyền độc đảng toàn trị, độc tài nhưng bất tài trong quá trình phát triển đất nước, độc trị nhưng không biết quản trị các giai đoạn tiến bộ của nhân loại.

Người

Người là người ta trong cái người của mẫu số chung là nhân, nhân của nhân lý trong nhân tính, nhân tình trong nhân tâm, nhân ái trong nhân từ. Biết người biết ta trong nhân tri, nhưng cũng biết đi thêm bước nữa là thương người như thể thương thân của nhân trí, biết ăn đời ở kiếp với nhân đạo, biết trao thân gởi phận với nhân phẩm trong nhân loại có chung để chia, có chia vì biết chung. Hiểu được tha nhân, nên thương được tha nhân, biết suy bụng ta ra bụng người thì cũng phải biết hiểu ngược lại để khôn ra là suy bụng người để hiểu người, thông cảm với người, để yêu thương người hơn. Vì không sống với người thì sống với ai, nên từ chối giết, truy, diệt, hủy, người như để bảo vệ nhân phẩm của chính mình.

Chung

Chung, không phải là tặng trong mù quáng, trao trong vô điều kiện, biếu trong phản xạ một chiều, mà chung trong chia, biết chia tiếp tục được sống trong chung. Để mọi bên đều sống, được hưởng, lao động trong hợp tác, sản xuất trong tinh thần tập thể có đồng đội, cùng đồng lòng vì tương lai. Cái chung tạo nên đội, nên đoàn, nên tổng lực của một nhân loại biết hợp tác để hợp sức, không cạnh tranh trong thô thiển, không tranh giành trong hoạn lộ, không so sánh lực lượng để đe nẹt nhau, mà biết cùng nhau nhìn về một chân trời, để cùng nhận ra mọi ánh sáng hay, đẹp, tốt, lành cho nhân quyền, mọi hào quang cao, sâu, xa, rộng cho nhân phẩm.

Chia

Chia, mà không ngừng ở chia ăn chia uống, hoặc chia lời chia lợi, mà chia theo chiều cao của tri thức, mà cụ thể là chia kiến thức để cùng nhau có chung một ý thức, có cùng nhau một sức mạnh của nhận thức trước các thăng trầm của nhân sinh. Chia tri thức rồi chia kiến thức, chia ý thức rồi chia nhận thức, để cùng nhau chia giáo dục, chia văn minh. Trẻ học già, nhưng già cũng phải học trẻ, nhất là về các kiến thức mới về tin tức, về truyền thông, về vi tính, về các khoa học và kỹ thuật mới ra đời. Đây là quá trình cùng giáo dục nhau, với tên gọi là giáo dục song đôi, có hai chiều, có xuyên thế hệ, để không ai bỏ ai, không có chuyện thế hệ này loại ra thế hệ kia.

Đạo

Đạo của đạo lý trong nhân bản hay, nhân vị đẹp, nhân tâm tốt, nhân đạo lành, chớ không phải đạo của đạo giáo, mà đạo ở đây là đạo đức, của nhân đức làm nên nhân từ để chế tác ra nhân tâm. Khi nhân sinh biết ăn hiền ở lành, khi nhân gian biết ăn ở có hậu, thì đạo lý sẽ là chủ trì trong chủ đạo mà làm nên luân lý, nơi mà cá nhân biết mình còn là công dân có bổn phận với đồng bào, đồng loại, có trách nhiệm với đất nước, với trái đất từ môi trường tới môi sinh. Từ đây, công dân sẽ trở thành chủ thể làm việc với sáng chế, hợp tác với sáng kiến và hành động với sáng tạo để thăng hoa nhân sinh, nhân loại.

Chủ-thể-làm-chủ

Phải hành động đúng vì nhân vị, để được tha nhân có cư xử đúng mà tôn trọng chúng ta. Các quốc gia láng giềng lại cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, họ đào tạo những chủ-thể-làm-chủ từ khoa học tới kinh tế, từ ngoại giao tới thương mại, nên họ không hề bị khinh, coi rẻ như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã biến Việt tộc thành tôi đòi cho thiên hạ, tự điếm nhục hóa dân tộc mình chỉ vì tham quyền trong vô học, nên vô hậu trong vô tri.

Đi tới vì nhân vị

Các chủ thể lãnh đạo tương lai vì Việt tộc, biết quản lý đất nước, biết bảo vệ dòng nòi trong tiến bộ đa nguyên, trong văn minh dân chủ, trong văn hiến nhân quyền, phải chuyển hóa não bộ ngay bây giờ, phải chuyển biến não trạng ngay tức khắc tất cả vì Việt tộc. Cụ thể là bỏ não trạng cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối trong kiếp bị trị, mà phải mở sáng mắt, rồi đứng thẳng lên, mà đi tới để nhận một não bộ mới, não bộ của một minh tộc, não trạng của một dũng tộc ! Sống không cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối, cho tới khi lìa đời, nhìn quan tài, nhận mộ phần mà biết thẳng đầu-thẳng lưng-thẳng tay- thẳng gối, luôn đi tới vì nhân vị, để bảo vệ nhân phẩm !

giailuan08

Vụ công an Phú Yên đánh chết người : "Dù có phải đối mặt với đe dọa thường xuyên thì tôi không sợ, vì tôi đang đấu tranh bảo vệ cho công lý". Luật sư Võ An Đôn 

Thay đổi não bộ để tìm được dân tộc

Ta sẽ không thay đổi được dân tộc, dòng nòi, đất nước, nếu ta không tự thay đổi chính não bộ của ta bằng nhân lộ văn minh vì nhân phẩm, luôn tìm cách đi về hướng chân trời hay, đẹp, tốt, lành, có sự thật làm nền cho lẽ phải. Loại bỏ ý thức hệ, rũ bỏ tuyên truyền, và chỉ đi theo ánh sáng văn minh của nhân loại vì nhân quyền. Ta sẽ không thay đổi được tha nhân, đồng loại, thế giới, nếu ta không tự chuyển biến chính não bộ của ta bằng nhân lộ văn minh vì nhân tri vì tiến bộ nhân sinh, vì phát triển nhân trí. Nhận hành trình cao, sâu, xa, rộng của kiến thức để luôn tỉnh thức học người mà vì ta, với ý nguyện của công bằng cùng ý lực của tự do, để loại bỏ bất bình đẳng, khử bỏ bất công. Ta sẽ không thay đổi được gia đình, cộng đồng, tập thể, nếu ta không tự chuyển biến chính não bộ của ta bằng cách trừ hoạn bịnh chế độ độc tôn kiểu "con quan thì được làm quan" để bứng ra khỏi não trạng tồi tệ trong tăm tối của loại phản xạ quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ ; đã tận diệt bao trí tuệ của dân tộc.

Chuyên chính vô học

Từ ý đồ độc quyền làm nên con tính độc lợi chế tác ra quá trình tư lợi, tiểu luận đề nghị giải luận quá trình này vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả tới từ một quá trình chưa bao giờ được phân giải tới nơi tới chốn, đó là vốn vô học của một tập đoàn lãnh đạo từ ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930, tới ngày cướp được chính quyền 1945, qua giai đoạn 1954 sử dụng chuyên chính vô sản với bản chất của chuyên chính vô học, bất chấp thảm họa nội chiến của hàng triệu triệu sinh linh trong huynh đệ tương tàn, cho tới ngày cướp trọn được chính quyền trên cả nước 1975. Chiến thắng tới từ vốn vô học của loài cố đấm ăn xôi, thuộc loại vua thua thằng liều, được sự hỗ trợ của hai cường quốc chuyên chính vô sản là Liên Sô và Trung Cộng, có cùng bản chất chuyên chính vô học-vô hậu của loại trộm, cắp, cướp, giật bằng con tính bất nhân mạnh được yếu thua, với con toán thất đức sự thật chỉ mặt qua nòng súng, kiểu Mao Trạch Đông.

Vô học hóa cả một dân tộc

Vô học hóa cả một dân tộc dựa trên vốn vô học của lãnh đạo từ tuyên truyền ngu dân tới tới giáo dục ngu dân ; vô học hóa từ định chế làm nên luật pháp tới cơ chế trong sự vận hành của một xã hội. Nơi mà quần chúng liêm chính, dân chúng liêm khiết, nhân sĩ liêm minh hoàn toàn không có chỗ đứng ghế ngồi, nơi mà hiền tài là nguyên khí của quốc gia đã bị đào tận gốc bới tận rễ, để nhường chỗ cho hằng số vô học-vô hậu : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, hằng số này có chủ thầu là vô minh, có đầu nậu là vô tri, có đầu cơ là vô trí để truy, hủy, diệt, triệt trí tuệ.

Tuyên truyền ngu dân

Khi tuyên truyền ngu dân từ tận dụng tới lạm dụng một hệ thống giáo dục quốc gia để lập nên một quá trình giáo lý, giáo luận, giáo khoa của đánh lận con đen, để tạo ra một quy trình giáo khoa, giáo trình, giáo án thay trắng đổi đen, tuyên truyền ngu dân bằng tuyên giáo độc ngôn, khi nó muốn thay thế giáo lý của đạo đức thì tuyên truyền trị, ngu dân trị, vô học trị phải "dở trò" : cả vú lấp miệng em, cụ thể là nó chống lại các tri thức phản biện bằng lý trí, trong khi đó chúng ta biết là các học sinh từ tiểu học tới trung học tại các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền được học kỹ lưỡng và rõ ràng về tri thức phản biện, cần thiết để công dân phải biết tự bảo vệ công bằng và công lý trước bạo quyền và bạo lực.

Đa trí hơn độc trí

Muốn tuyên truyền ngu dân thì phải cố đấm ăn xôi, cụ thể là nó chống lại tri thức phê bình bằng trí tuệ, trong khi đó chúng ta biết là các học sinh từ tiểu học tới trung học tại các quốc gia có phát triển giáo dục, có tiến bộ khoa học được học rành mạch và minh bạch về tri thức phê bình, cần thiết để công dân phải biết tự bảo đảm công luật và công pháp trước lạm quyền và lộng quyền. Não trạng của tuyên truyền trị là vụng chèo khéo chống, cụ thể là nó chống lại tri thức đa nguyên bằng tuệ giác, cụ thể là đa tài hơn độc tài, đa trí hơn độc trí, đa lực hơn độc lực, đa năng hơn độc năng, đa hiệu hơn độc hiệu. Đa là dụng cái này để bổ sung, bổ túc cho cái kia, vì đa lực làm nên tổng lực, vì đa trí chắc chắn là khôn hơn độc tôn ! Nên đa đảng năng động trong thông minh, chủ động trong thông thái hơn độc đảng.

Vô giác

Hãy bắt đầu từ định vị tới định nghĩa về vô giác từ vô tri giác tới vô cảm giác luôn mang theo khuyết tật vô tự giác của nó. Một kẻ vô giác thì không những vô minh từ lý trí tới trí tuệ, mà còn vô tri từ cảm xúc tới cảm động ; vô giác là thượng nguồn của vô tình, vô tâm với tha nhân, với đồng loại. Nơi mà sự thông cảm để chia sẻ nỗi khổ niềm đau với đồng bào, đồng loại hoàn toàn vắng mặt từ tư duy tới hành vi. Vô giác biệt dạng trong tâm khảm, vì nó đã biệt tăm trong tâm trí. Khi vô giác xuất hiện trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, tổ chức xã hội thì nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ không hề có chỗ đứng ghế ngồi gì trong não trạng của kẻ vô giác. Câu chuyện vô tự giác có cha sinh mẹ đẻ là vô tri giácvô cảm giác, là câu chuyện sinh cùng năm đẻ cùng tháng với hệ lụy vô học-vô hậu, mà vô học không phải là chuyện đi học để lấy bằng cấp, mà là chuyện được giáo dục tử tế và được giáo dưỡng đàng hoàng bằng giáo lý. Cụ thể là kẻ thoát được vô học thì chọn khôn không chọn ngu (Kẻ ngu cởi truồng, người khôn mất mặt) ; cụ thể là kẻ thoát được vô học thì chọn thanh không chọn hèn

(Thân em như giếng giữa đàng

Người thanh rửa mặt, kẻ hèn rửa chân).

Như vậy câu chuyện vô học-vô hậu không hề là chuyện học vị hay học hàm, mà là chuyện học lực qua giáo dục của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, vì biết dựa trên giáo lý khôn-để-thanh, vì chỉ có ngu mới hèn, mới thô, mới tục mà thôi.

Vô cảm

Hãy nhận rõ vô cảm, cảm xúc biệt tăm, cảm động biệt tích trước bi cảnh của tha nhân, trước thảm cảnh của đồng loại, với thái độ thờ ơ trước các bất công, với hành vi hững hờ trước các hậu quả do bạo quyền, tà quyền, ma quyền gây ra ngay trong đạo lý tổ tiên, ngay trong luân lý dân tộc, ngay trong giáo lý của đạo đức. Nếu vô cảm tới từ vô minh, nó sẽ truy diệt nhân tri, nhân trí ; nếu vô cảm tới từ vô tri, nó sẽ thủ tiêu nhân tính, nhân lý ; nếu vô cảm tới từ vô giác nó sẽ thanh trừng nhân bản, nhân văn, mà không quên thanh toán luôn nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ. Vô cảm đang tràn lan trong xã hội hiện nay, với sự thờ ơ trước bạo quyền độc đảng công an trị, sự hững hờ trước tà quyền tham nhũng trị, sự dửng dung trước ma quyền tham tiền trị. Nơi mà sự ích kỷ luôn đi tìm tư lợi trong ma lộ ai chết mặc ai ; nơi mà tư lợi đã thành khuyết tật chỉ biết vụ lợi của điếm tật bây chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi. Tại đây, đã tạo ra một tâm nạn tập thể gây ra bao họa nạn cho toàn một xã hội ; nơi mà dân tộc của xã hội đó đang tự "ghẻ lạnh hóa" từ nhân vị, nhân đạo tới nhân nghĩa, nhân tâm của chính mình.

Người yếu vía

Loại người yếu vía không phải là loại người xấu, họ chỉ là loại người mau sợ dễ lo, họ không những run sợ trước bạo quyền, tà quyền, ma quyền, mà họ còn lo sợ cho kẻ đang đấu tranh chống bất công. Nhưng khi họ giải thích tại sao họ sợ, thì ta thấy họ không mấy liêm chính, đối với bạo quyền, tà quyền, ma quyền thì họ chọn cách sống cho qua ngày bằng cách tự an ủi : "Tránh voi chẳng xấu mặt nào", và họ càng thiếu liêm sỉ khi nhìn các chủ thể đấu tranh chống với bạo quyền, tà quyền, ma quyền bằng một cách nhìn phiến diện : Vua thua thằng liều. Họ nhìn sai lạc kẻ dấn thân rồi họ tự giải thích là : "chơi liều vì muốn chơi nổi". Đây là cách nói ngày càng phổ biến trong một xã hội Việt hiện nay, từ vô cảm tới vô trách nhiệm với đồng bào, với đất nước, với tổ tiên, họ thiếu liêm sỉ mà họ không biết, nhìn và buông lời bất lương : "chơi liều vì muốn chơi nổi" khi họ nhắc tới các chủ thể đấu tranh vì dân chủ, đa nguyên, nhân quyền, các tù nhân lương tâm, những đứa con tin yêu của Việt tộc đang trong vòng lao lý.

Đồng mệnh

Chữ đồng (đồng bào, đồng hương, đồng hội, đồng thuyền, đồng tộc, đồng cam) sinh đôi cùng chữ đồng kia (đồng tộc, đồng kiếp, đồng nguồn, đồng cội, đồng hành), kết quả làm nên kết luận của đồng sinh làm nên từ trong thử thách và thăng trầm của đồng thăng, đồng thụt. Nơi có hiệu quả cùng hậu quả của đồng sinh, đồng tử. Nơi có hệ quả cùng hệ lụy của đồng hơi, đồng sức. Một chữ đồng sinh ra hai chữ đồng, giờ hai lại sinh ra ba chữ đồng : đồng thăng, đồng thụt, đồng sinh, đồng tử, đồng hơi, đồng sức chế tác ra thêm một đồng (sự) nghiệp, vì đồng hệ vì cùng đồng (sinh) mệnh !

Tôi đứng về phía nước mắt !

Tôi đứng về phía nước mắt ! Đây là chất liệu làm nên nhân cách. Trong nước mắt các nạn nhân của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, tôi thấy có nước mắt của cả nhân loại, tôi thấy có nước mắt của cả nhân sinh với ngày cười đêm khóc, tôi thấy có nước mắt của cả nhân gian thường xuyên dở khóc, dở cười trước bao bất công đang trùm phủ lên nhân kiếp của Việt tộc. Trong nước mắt các nạn nhân là dân lành, dân đen, dân oan đã có nước mắt của tôi, khi tôi nhìn một thương phế binh lê lết bán vé số dưới nắng trưa, các bà mẹ đầu tắt mặt tối luôn hoảng hốt ngay trong não trạng ăn bữa sáng lo bữa tối cho cả gia đình…

giailuan09

Chuyện khóc

Chuyện khóc không những là chuyện buồn của nhân thế, mà còn là chuyện nhân kiếp của nhân loại, mà chuyện khóc lẻ loi một mình, là khóc trong cô đơn, nước mắt của cô lẻ là nhân phận cô độc tới cùng cực trước bất công, mà không có ai để tâm sự, không kẻ đối diện để tâm đầu. Một nhân loại mà nhiều cá thể phải khóc lẻ loi một mình, thì nhân loại đó chẳng có gì để hãnh diện. Một Việt tộc có quá nhiều đồng bào phải khóc lẻ loi một mình, thì bạo quyền độc đảng toàn trị, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền thì chẳng có gì để tự hào. Một chế độ đáng tự hào khi nó có : thể chế, định chế, cơ chế biết tự trọng bằng nhân nghĩa của nó, mà tự hào về nhân văn luôn song hành với tự do vì nhân quyền, tự chủ vì nhân bản, tự tin vì nhân tâm, tự quyết bằng nhân phẩm. Hệ tự (tự hào, tự do, tự chủ, tự tin, tự trọng, tự quyết) không hề rời hệ nhân (nhân quyền, nhân bản, nhân văn, nhân tâm, nhân phẩm, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân từ, nhân tri, nhân trí, nhân tính, nhân lý). Chỉ với hai hệ này, chúng ta đã có đầy đủ lý do và chứng cớ để loại mọi bạo quyền toàn trị, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền ra khỏi nhân loại của chúng ta.

Nước mắt của những nạn nhân

Không hãnh diện suông, không tự hào rởm, mà hãy nhìn kỹ vào nước mắt của các nạn nhân đang gặp hoạn nạn vì bất công để nhận ra nhân tính, câu chuyện nhân kiếp luôn có lõi của nhân tính, nếu đánh mất nhân tính thì sẽ mất từ nhân cách tới nhân dạng. Nên sư tổ Rousseau cứ căn dặn : "Con người ơi hãy giữ nhân tính". Câu chuyện từ nhân cách tới nhân dạng làm nên phong cách, làm nên chỗ đứng ghế ngồi cho tư cách, nên tôi tin rằng bạo quyền, tà quyền, ma quyền khi chúng không có từ nhân cách tới nhân dạng, thì làm sao chúng có được phong cách làm nên tư cách của chúng. Khi tôi chọn : Tôi đứng về phía nước mắt ! là tôi đang đi tìm từ nhân cách tới nhân dạng, để bảo vệ từ phong cách tới tư cách của tôi.

giailuan10

Không hãnh diện suông, không tự hào rởm, mà hãy nhìn kỹ vào nước mắt của các nạn nhân đang gặp hoạn nạn vì bất công để nhận ra nhân tính, câu chuyện nhân kiếp luôn có lõi của nhân tính.

Đồng bổn phận, đồng trách nhiệm

Nghị lực của hệ đồng (đồng thai, đồng nòi, đồng tổ, đồng tông), vì đồng quá khứ nên dễ đồng tương lai, làm nên nguồn lực của đồng tâm, sẽ chế tác ra chủ lực của chủ thể Việt biết đồng lực nhận bổn phận đồng bào, lãnh trách nhiệm đồng tổ, biết đồng (sáng) tạo để có đồng (quyết) sách mà vùi nội xâm để dẹp ngoại xâm. Câu chuyện đồng bào giờ đây đã thành câu chuyện đồng bổn phận, đồng trách nhiệm, đồng sáng tạo mà chuyện hay, đẹp, tốt, lành nhất là đồng lực để có đồng chủ thể để đồng thực hiện câu chuyện bảo vệ dòng nòi, bảo quản quê hương, bảo trì dân tộc, "bảo hành đồng bào". Dựng nghị lực-xây nguồn lực-tạo chủ lực rồi biến thành thực lực đồng thai để dũng quyết cho hệ đồng bào.

Sử tích làm nên sử luận

Đồng bào : thượng nguồn sâu xa của Việt tộc, nơi mà mọi con dân Việt ra đời cùng một bào thai của Mẹ Việt, nó mang ý nghĩa làm nên chính nghĩa của một dòng nòi biết giữ đất nơi mình sinh ra, biết giữ nước để thấu cho tới tận xương tủy là uống nước thì phải nhớ nguồn. Huyền thoại làm nên huyền tích, nhưng câu chuyện sinh ra trong cùng một bào thai lại cũng là câu chuyện sử tích làm nên sử luận, trong đó sử kiện mang dấu ấn của một dòng nòi biết lấy lý luận đồng thai để lập luận đồng nòi, biết thấu giải luận đồng tổ để diễn luận đồng tông.

Đạo lý dòng nòi

Đồng bào, như cùng một mẹ nguồn mà những đứa con là dòng nước trong, không vẩn đục, luân lưu chảy xuống hạ nguồn như để lớn khôn, trưởng thành rồi thành tiên tổ cho bao thế hệ sau, khi đó suối nguồn đã thành sông lớn. Khi con cháu sống trong nhân sinh với nhiều dòng chảy khác, có khi gặp các dòng nước đen đục, rồi bị đen bẩn, bị hoen ố, như bị nạn xâm lăng, như bị họa xâm lược ngay trên chính dòng chảy của mình. Nước trong trên thượng nguồn giờ lại bị hoen nhục dưới hạ nguồn bởi nhiễm ô ngoại giới, đạo lý của dòng nòi bị loãng, đạo đức của tiên tổ bị đục, luân lý của cha ông bị bùn hóa, thì chỉ có sự hy sinh trong ý nguyện trong sạch hóa dòng nước trong thượng nguồn thủa nào. Đúng ! chỉ có sự hy sinh biết rửa bẩn thành trong, đục ngầu thành thanh khiết, một sự hy sinh tự trong sạch hóa, vừa biết đường đi nẻo về thượng nguồn, vừa biết đi tới, chảy tiếp trong dòng luân lưu của lương tri trong suốt, vượt thắng đục nội xâm, vượt thoát bẩn ngoại xâm.

Hệ vong

Đồng bào là một hệ chỉnh và chuẩn của đồng huyết, đồng nòi, đồng tông, đồng tộc, đồng tích… nó đối nghịch để đối kháng với hệ vong chính là thảm họa cho Việt tộc : vong quốc thì sẽ vong thân, mà vong thân thì sẽ vong hồn, mà thân phận vong hồn chính là số kiếp của oan hồn. Việt tộc không để mất nước, mất đất, mất biển, mất đảo chính là đang vong hồn tiếp tục nuôi dưỡng rễ đồng bào, gốc đồng nòi, cội đồng tông, nguồn đồng nòi. Rễ, gốc, cội, nguồn này chỉ sinh ra cây đẹp, trái ngon, vì quen nước, quen cái, quen tự biển, rừng, núi, đồi tới quen nết, quen tục, quen quê, quen duyên : thắm tông ta biết tích mình nơi đây !

Vượt thắng thăng trầm

Đồng bào sẽ cùng nhau đồng hành xuyên qua lịch sử, vượt thử thách của thời gian để khẳng định một không gian ngay trên quê cha, đất mẹ, khẳng định là quyết đoán vượt thoát thử thách để vượt thắng thăng trầm. Quyết đoán trong quyết tâm để đồng bào không là huyền tích của một huyền thoại mà là sử lý của sử luận Việt tộc cùng mẹ, cùng cha, cùng bào thai. Hãy vượt qua khó khăn bằng bước vững mạnh của tỉnh táo biết giữ đất ; hãy vượt qua gian nan bằng bước chắc nịch của sáng suốt biết giữ biển. Quyết đoán trong quyết tâm để quyết định xóa nội xâm của bạo quyền độc đảng chìm trong độc hại, của tà quyền tham quan đắm trong tham ô, của ma quyền tham tiền đuối trong tham nhũng. Quyết đoán, quyết tâm, để quyết liệt trong quyết luận không lùi, cũng không rơi bẫy của Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu nạn, Tàu hoạn đang đe dọa đạo-nghĩa-sinh-tồn-đồng-bào của chúng ta.

Ý thức đồng bào

Đồng bào, như lãnh thổ bất diệt của ký ức, một ký ức đã khắc tâm ghi cốt trong sử luận của Việt tộc, ký ức này không chỉ là trí nhớ mà nó đã trở thành và đã trưởng thành như ý thức tập thể, ý thức cộng đồng, ý thức quốc gia, tên của nó là : ý thức đồng bào ! Một ý thức đồng bào có mặt thường xuyên để xuất hiện thường trực trong thực thể của Việt tộc, vì ký ức này vừa được khách quan hóa qua lịch sử, văn hóa, giáo lý… của Việt tộc, vừa được chủ quan hóa trong mọi hành động yêu nước của tôi, mọi hành tác thương nòi của tôi. Chính ký ức đồng bào dầy sung lực ý thức đồng bào đã giúp mọi công dân Việt, đã giúp tôi thành chủ thể luôn chủ động trong mọi hành động bảo vệ bờ cõi của tổ tiên, luôn chủ quyết trong mọi hành tác vạch mặt chỉ tên bọn phản dân hại nước. Lột mặt nạ bọn buôn dân bán nước, đây là thượng nguồn của hành trì ý thức đồng bào, mà phương trình ký ức-ý thức-đồng bào đã được vận hành để trở thành chủ thể-chủ quyết-chủ động là phải bảo vệ dòng nòi trong hạ nguồn nơi mà mọi con dân Việt đều có chung một dòng sinh mệnh, với nội dung : đồng mệnh !

Nhận thức đồng bào

Đồng bào, nếu hai từ này có giá trị của một tâm thức đã làm nên đạo lý đồng chốn trong đồng hội đồng thuyền, thì từ đạo lý sâu lắng của tư duy mỗi con dân Việt là sự có mặt của một nhận thức đồng bào. Từ đây xuất hiện một phép mầu nhận thức đồng bào luôn có thể vận dụng để sử dụng tức thì trong tức khắc là chúng ta phải luôn dùng : ái ngữ, hoà ngôn với mọi đồng bào của mình. Tại sao tôi lại "dám" đặt tên là : phép mầu nhận thức đồng bào, vì đây là chính là thái độ văn minh đã song đôi cùng lứa với hành tác thông minh, để hiểu và sống theo đạo lý Việt : "Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". Gần gũi nhau qua ái ngữ, hoà ngôn đã hội tụ đạo lý Việt, luân lý Việt, đạo đức Việt vào chung một chân trời thông minh của văn minh đồng bào. Từ đây, mọi người Việt sống với nhận thức đồng bào, nhận thức này không hề ở sau lưng chúng ta, nó ở trước mặt chúng ta, nó chính là chân trời đồng bào cho mọi chúng ta đi tới.

Nội thức đồng bào

Đồng bào là kết quả của phương trình ký ức-lý trí-niềm tin, nơi mà ký ức là không gian của sử luận, lý trí là không gian của tri thức, và niềm tin là phải tin để hiểu. Ký ức không còn phải là trí nhớ mà là sự vận hành của tâm linh nơi Việt tộc đã sốngđã tinđã có về nội thức đồng bào. Chính nội thức đồng bào của Việt tộc đã được dân tộc hóa không ngưng nghỉ, để ký ức đồng bào thành hằng số của lập quốc, để giữ dòng nòi, giữ đất nước. Phương trình ký ức-lý trí-niềm tin, là tổng thể mà cũng là thuần thể của một không gian mà ta không thể tách, không thể chia, không thể bẻ, không thể xé, không thể lột ký ức ra khỏi lý trí, để phân lý trí ra khỏi niềm tin. Bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, tà quyền tham nhũng buôn dân bán nước, ma quyền tham tiền buôn thần bán thánh, chính là bọn âm binh lòn lách trong thực thể đồng bào, nhưng chính chúng đã đánh mất từ lâu rồi nội thức đồng bào của phương trình ký ức-lý trí-niềm tin.

giailuan11

Cái đẹp sơ nguyên

Đồng bào, chính là cái đẹp sơ nguyên làm nên mọi cái đẹp hiện hữu của đồng tổ, đồng đất, đồng nước, đồng quê. Từ đây, liên đới giữa đồng dòng, đồng nòi, đồng tông, đồng tộc đồng tổ, đồng đất, đồng nước, đồng quê sẽ làm nên sức mạnh xóa tan mọi thăng trầm, cho người Việt bớt khổ, cho đời Việt bớt buồn, mở lối cho thăng trầm phải qua đi, cho trầm luân không còn ám kiếp Việt nữa. Đồng bào đích thị là định luận của các giá trị tâm linh Việt, có mặt như một hùng lực để xóa đi nỗi khổ niềm đau của nhân kiếp Việt. Tiếng thương đồng bào trong từ miệng chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến một đồng lộ để từ đó tiếng thương đồng bào sẽ là tiếng thương muôn loài, tiếng thương yêu người, có tiếng thương người như thương thân… thương người như thương mình…

Nhân dạng đồng bào

Đồng bào, hai chữ mà một nghĩa trợ duyên để trợ lực Việt tộc thoát khổ nạn trong ngục tù của bạo quyền, qua ý thức đồng bào giờ đã thành trí tuệ vì nhân lý, giờ đã là nhận thức của tuệ giác vì nhân tính, đây là chuyện hằng ngày hiện nay của lương tâm Việt tộc, đang trong vòng lao lý bất nhân của liên minh âm binh giữa bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tài, ma quyền độc tôn. Mỗi khi thực thể đồng bào bị vật vã, khi sinh mệnh Việt tộc rơi trong cuồng quyền, thì sự xuất hiện của huyền lực đồng bào vực dậy chiều cao của nhân phẩm, để đánh thức chiều sâu của nhân tâm, để khơi ra chiều rộng của nhân từ, và nối theo chiều dài của nhân đạo để Việt tộc nhận ra nhân dạng đồng bào. Sức mạnh tâm linh trong đồng chuỗi làm nên động lực của đồng bào : vực dậy-đánh thức-khơi ra-nối theo để tái tạo sức sống cho Việt tộc.

Tơ duyên đồng thai – Trần duyên đồng nghén

Đồng bào, có thượng nguồn là đồng duyên : "Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây". Một câu vừa ngạn ngữ, vừa dân ca của Việt tộc, mang sung lực biến cái tôi thành cái ta để ra cái mình (quê mình). Hai chữ đầu : nhờ duyên đã tạo ra cả một vũ trụ mới, được mở ra khi mọi điều kiện tốt lành đã có để tụ duyên trước khi thành đồng bào của nhau, có quê mẹ đất cha để khởi duyên, để một duyên-hai nợ-ba tình được khơi mào. Không cảm nhận hết hai chữ đồng duyên, thì sẽ không đứng bền trên không gian văn hóa Việt được, không sống dài trong thời gian văn minh Việt được, nhất là không ra vào thảnh thơi được trong cõi tâm linh văn hiến Việt được. Có duyên thì có mọi chuyện, từ đồng cha tới đồng mẹ, còn duyên thì không có gì cả, thậm chí còn bị coi là vô phúc nữa : vô phúc vì thiếu tơ duyên đồng thai, vô phúc vì vắng trần duyên đồng nghén. Riêng từ : nhờ, vừa là chỗ dựa cho hội duyên đồng lứa, vừa là sức bật cho xướng duyên đồng nòi, vì nhờ đây là kết quả của hợp duyên đồng tông ; nơi mà mọi điều kiện thuận lợi đã có để đồng tích, nơi mà tam cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, tâm cảnh) đã nhập làm một để thành : thuận duyên đồng bào

Tâm lực đồng nòi – Trí lực đồng tông – Thể lực đồng tộc

Đồng bào, làm nên định nghĩa đồng thai mang tâm linh có tầm vóc của nhân từ cha, có nội công của nhân nghĩa mẹ làm nên nhân đạo con, để các thế hệ mai sau nhận ra nhân văn trong luân lý đồng bào, với nhân bản trong giáo lý đồng tông, cùng nhân vị trong đạo đức đồng tộc và cứ thế làm người với chiều cao tâm linh đồng nòi. Từ chối sống bằng bản năng "đói ăn, khát uống" của ma lực ; chối từ sống bằng thú tính "ăn tươi, nuốt sống" của bạo lực, để chống được tà tính vong thân mang tà lực vong quốc. Giáo lý đồng bào, trước khi con dân Việt tiếp nhận giáo dục trong học đường và kiến thức ngoài xã hội, đó là các giá trị tâm linh của hệ đồng : đồng mẹ, đồng cha, đồng nghén, đồng thai, đồng nòi, đồng tông, đồng tích… Các giá trị này không hiển hiện ra hằng ngày trước mắt ta, mà là một nội công của tâm lực đồng nòi làm nên trí lực đồng tông, vực dậy thể lực đồng tộc để cứu nước, để giữ nước.

Huyền sử tâm linh, hằng sử đạo lý

Hai chữ Đồng bào, mang một sức mạnh luôn cao hơn một thực thể mà ta va, chạm, rờ, mó được. Đồng bào có một sức mạnh vừa huyền sử vừa tâm linh, vừa hằng sử vừa đạo lý, vì hai chữ đồng bào là tầm nhìn của một dòng nòi làm nên tầm vóc của dân tộc. Tầm nhìn cao làm tầm vóc lớn theo, tầm nhìn càng xa tạo tầm vóc càng rộng, tầm nhìn càng sâu dựng tầm vóc càng hướng thượng : đồng thượng là đồng nhìn về một hướng cao, sâu, xa, rộng, để làm đẹp cho nhân dạng của mình, cho nhân dạng của đồng loại đang đồng tộc, đồng tông với mình. Tầm nhìn cao làm nên đời sống cao, tầm nhìn cao này hoàn toàn nghịch lý với các tầm nhìn ích kỷ, vị kỷ, ai chết mặc ai… Tầm nhìn cao này lại càng nghịch lý và nghịch luận với các tầm nhìn của tà quyền phản dân hại nước của loại cõng rắn cắn gà nhà ; của ma quyền buôn dân bán nước của loài mang voi về dày mả tổ… Đồng thượng trị vì bằng tầm nhìn cao với đời sống cao, nó nghịch chiều nghịch hướng với tầm nhìn tà với đời sống ma.

Dân tộc và nhân quyền

Khi nghiên cứu tính đa văn hóa, đa văn minh, đa văn hiến giữa các sắc tộc, các dân tộc, các châu lục… tôi nhận ra các kinh nghiệm khác nhau, đưa tới các định đề rất khác nhau, rồi từ đó có những định luận khác biệt nhau, nên xin đề nghị các giải luận sau : tính phổ quát nhân quyền bằng tổng thể, tại đây nhân quyền là một phạm trù có sức mạnh tổng hợp được mọi sức mạnh khác nhau như tự do, công bằng, bác ái công nhận, vượt lên sự khác biệt văn hóa, văn minh, văn hiến giữa các sắc tộc, các dân tộc, các châu lục. Muốn quản trị được một tổng thể thì bản thân nhân quyền phải có tổng lực, với vị thế ở trên cao với sức hút của nó vừa tạo được hội tụ cho mọi khác biệt, vừa nâng cao mức độ nhận thức về nhân phẩm, chính là điểm đến của nhân quyền. Tính phổ quát nhân quyền bằng tiến bộ, trong đó nhân loại không chỉ hưởng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, mà còn có các tiến bộ về tư tưởng, triết học cùng các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Ta cũng không quên các tiến bộ của văn minh trong đó mỗi lần có sự hoàn thiện hóa về đạo lý, mỗi lần có sự hoàn chỉnh hóa về đạo đức, là mỗi lần giá trị nhân quyền được thăng hoa thêm.

Nhân quyền và đấu tranh

Tính phổ quát nhân quyền bằng đấu tranh, nơi mà tiến bộ của nhân quyền là kết quả tích cực qua đấu tranh giữa các quyền lợi đối kháng nhau trong xã hội, và sự xuất hiện của các lập luận về nhân quyền luôn là sự hiện diện để bảo vệ không những của tự do, công bằng, bác ái, mà cả về dân chủ và đa nguyên. Mỗi lần nhân loại tiếp nhận được kết quả tích cực qua đấu tranh trên nền tảng của công lý, thì công luật cùng công pháp sẽ ra đời để pháp luật hóa công lý mới được mọi người công nhận. Tính phổ quát nhân quyền bằng hội nhập, nơi mà hội là cơ sở của hòa, có hòa hợp để hòa giải, mà không qua xung đột, đấu tranh, ngược lại dựa trên các thỏa ước xã hội biết dung hòa để điều chế sự khác biệt về quyền lợi giữa các giai tầng khác nhau trong xã hội, tính riêng biệt về tư lợi của mỗi cá nhân, mà không có kình chống, không có đàn áp, không có sát phạt, khi mọi thành phần xã hội, mọi cá thể đều là công dân cùng nhau công nhận các công lý chung để bảo vệ nhân quyền.

Sáng tạo sạch tách quan hệ đỏ

Sự khác biệt có ngay trong vai trò chủ thể của tư bản phương Tây biết chủ đoán để chủ động trong đầu tư. Sự thành công của tư bản phương Tây dựa trên kinh tế tri thức để có công nghiệp sáng tạo, rồi biến công nghệ truyền thông thành công cụ và phương tiện cho toàn cầu hóa từ trao đổi dịch vụ tới trao đổi thông tin. Họ thăng hoa để vinh danh cùng lúc với kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thông tin… biến câu chuyện thứ nhất có tự do rồi thành câu chuyện thứ nhì rất thông minh vì rất sáng tạo là ngày ngày phải có tự do hơn. Nên họ thấy tư bản gia đình, tư bản thân hữu, tư bản tham nhũng dựa vào độc đảng nắm độc quyền kiểu Việt Nam hiện nay chỉ thành công trên bất động sản, bằng chính quyền cướp ngày là quan sinh đẻ ra ma quyền bất động sản trộm, cắp, cướp, giật đất đai của nhân dân. Một sớm một chiều giầu có, nhưng cũng một sớm một chiều biến dân lành của dân tộc mình thành dân oan, nên đồng nghề tư bản, nhưng không hề đồng thuyền trong đồng đầu tư, không hề đồng hội trong thành quả lao động. Vì vậy tư bản phương Tây xem tư bản đỏ của Việt Nam hiện nay chỉ là loại man rợ buôn gian bán lận. Thành công vì đồng lõa với bạo quyền độc đảng, thành tựu nhờ đồng mưu với tà quyền tham quan, thành tiền nhờ đồng môn qua ma quyền tham nhũng. Bọn tư bản đỏ này không hề thành tài nhờ chính tri thức sáng tạo của chúng như các lực lượng tư bản của kinh tế tri thức của công nghiệp sáng tạo.

Giáo dục dân chủ

Ngay trên thường nguồn của dân chủ từ khi các lý thuyết gia đã phạm trù hóa định chế của nó để sinh hoạt dân chủ được vinh danh và thăng hoa trong xã hội, thì ta đã thấy vai trò của giáo dục. Chính giáo dục giúp cá nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra công ích tập thể. Giáo dục giúp cá thể yêu nước thương dân qua yêu quý lợi ích tập thể. Giáo dục giúp công nhân cởi bỏ được ích kỷ vụ lợi để nhận ra lợi ích chính trị là bảo đảm, bảo trì công ích tập thể. Giáo dục giúp công nhân làm rõ hoài bảo của nhân sinh muốn bảo vệ nhân phẩm của mình trong không gian chung của tập thể mà không quên không gian riêng của cá thể. Giáo dục giúp công nhân yêu nước thương dân bằng yêu luật trọng pháp trong đó công bằng là nền của công lý, công lý là mái nóc của công pháp.

giailuan12

Có những người không may hằng đêm phải lấy vỉa hè làm chỗ ngả lưng

Quyền lợi nhập vào quyền lực để thí đi đạo lý của công bằng

Giáo dục về dân chủ phải đa dạng như sinh hoạt của nhân sinh, tại đây giáo dục về thể chế dân chủ qua định chế và qua cơ chế khác với giáo dục về sinh hoạt dân chủ qua đời sống kinh tế và quan hệ thương mại. Khi tách biệt được hai nội chất rất khác nhau của chúng, các chuyên gia về sinh hoạt dân chủ yêu cầu các chính quyền dân cử phải bảo vệ dân chủ, mà đạo lý đầu tiên là không để quyền lợi nhập vào quyền lực. Cụ thể các chính quyền này không thể để những chủ nhân giàu đã nắm sức mạnh kinh tế, giờ lại nắm chính quyền. Những chủ thầu giàu trong thương mại, giờ lại nắm chính quyền. Những chủ đầu tư trong tài chính, giờ lại lại nắm chính quyền. Vì khi quyền lợi đã nhập nội vào quyền lực, thì nó thí đi đạo lý của công bằng, thải đi đạo đức của giáo dục, có hai tư tưởng gia về sinh hoạt dân chủ đã phân tích sâu vào quá trình giáo dục về dân chủ.

Cái giáo của dân chủ

Cẩn trọng với cái giàu, và cái nhiều vì khi nó có mặt nó sẽ hủy cái tốt, diệt cái lành, cụ thể là xóa cái đức của dân chủ. Rồi phải cẩn trọng trước các lợi ích của cá thể bất chấp công ích xã hội, vì có sự xung đột giữa những cái ít, và cái nhỏ làm nên cái xấu, tạo ra cái tồi, để rồi diệt đi cái giáo của dân chủ. Khi công nhận là có lòng tham không đáy của kẻ giàu, cùng lúc cũng thừa nhận là có cái tham không lường được của kẻ nghèo, thì giáo dục về dân chủ đi thêm một bước nữa để làm sáng tỏ một sức mạnh kinh tế có trong sinh hoạt dân chủ, đó là tự do thương mại : nếu tự do thương mại là tự do trao đổi hàng hóa giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, giữa các vùng miền, giữa các châu lục… thì động cơ của tự do thương mại rất tốt lành cho quan hệ quốc nội và quốc ngoại, cho quan hệ quốc tế, cho quan hệ liên vùng, liên châu lục. Nhưng nếu tự do thương mại là tự do mua gian bán lậu, lại dựa trên sự bóc lột của kẻ giàu là chủ trên lưng, trên đầu kẻ nghèo là thợ với điều kiện lao động tồi, với lương bổng tục, thì phải kết án và đặc biệt cảnh giác về loại thương mại này, vì chính nó sẽ lén lút diệt dân chủ bằng bóng đêm bất công của nó.

Chủ thể vì công bằng

Nếu định nghĩa chủ thể là cá thế có chủ quyết về tự do của mình, có chủ định về số phận của mình, bằng sự chủ động có nhận thức về bổn phận và trách nhiệm của mình trước cộng đồng, tập thể, dân tộc, nhân loại, tôn trọng môi trường, trân trọng môi sinh ; thì chủ thể vì công bằng là loại chủ thể nào ? Đó là chủ thể trên ít nhất ba nhận thức : chủ thể kinh tế, có tự trọng trước lao động ; chủ thể chính trị, có tự chủ trước thể chế ; chủ thể pháp lý,tự tin trước công lý. Khi nhận ra được định nghĩa cùng định luận của chủ thể, ta sẽ nhận rõ được hành động và hành tác của chủ thể trước công bằng, mà công bằng căn bản và phổ quát là công bằng xã hội, nơi mà chủ thể biết sống chung trong quan hệ xã hội với tha nhân mà không là nạn nhân hay thủ phạm của bất bình đẳng gây ra bất công trong quan hệ này. Chủ thể biết sống cùng trong đời sống xã hội với tha nhân mà không là nạn nhân hay thủ phạm của bóc lột gây ra tha hóa trong đời sống này. Chủ thể biết sống với sinh hoạt xã hội với tha nhân mà không là nạn nhân hay thủ phạm của bất nhân gây ra thất đức trong sinh hoạt này. Như vậy, sẽ không có công bằng xã hội thực sự nếu không có các công dân chính là chủ thể của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) trên nền tảng của cộng hòa với tự do, công bằng, bác ái và dân chủ với đa nguyênnhân quyền.

Chủ thể văn minh vì nhân quyền

Khi phạm trù nhân quyền dùng luật pháp để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, mà chính cá nhân này chỉ thấy tư lợi trong đời sống của nó, mà không thấy quyền làm người, tức là nhân quyền luôn cao, sâu, xa, rộng hơn tự lợi của cá nhân. Từ đây, cá nhân trong quá trình nhân trọng phải trở thành chủ thể đôi chủ thể luật pháp vì nhân quyền, nơi mà xã hội tôn trọng nhân quyền bằng công pháp có thể xử và phạt cá nhân khi tư lợi của cá nhân này đe dọa và gây thiệt hại cho xã hội. Và chủ thể văn minh vì nhân quyền, đưa cá nhân vào quỹ đạo biết tôn trọng luật pháp, cùng lúc vượt lên phạm trù thuần túy của luật pháp, ngay trong quan hệ xã hội, mà không cần sự hiện diện của luật pháp, trong đó cách đối nhân tử tế trong xử thế đàng hoàng, với sự thông minh đứng đắn biết tôn trọng lẫn nhau. Sự hình thành chủ thể đôi này (chủ thể của luật pháp, chủ thể của văn minh) chính là sung lực của nhân quyền không chỉ biết dựa trên luật pháp, mà còn vận dụng thường xuyên cách hành xử văn minh trong thông minh vì biết tôn trọng lẫn nhau trong cuộc sống chung.

Chủ thể và ý thức

Khi nhân quyền đưa cá nhân có bản lĩnh của chủ thể, thì chủ thể này có chủ quyết trong hành tác bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách tiếp cận không những qua lao động mà còn qua kinh tế, trong đó cá nhân công nhận sự có mặt của thị trường, mà cũng là nơi mà tự do cạnh tranh hiện hữu. Có chủ động trong hành tác bảo vệ quyền lợi của nhân quyền, khi nhân quyền bảo vệ chủ quyền theo nghĩa chính đáng vì cá nhân, mà cũng theo nghĩa rộng mở nhất vì tập thể, vì cộng đồng, vì nhân loại. Chủ thể có trợ lực của nhân quyền là chủ thể của ý thức vì chủ thể là thành viên của xã hội với đầy đủ điều kiện của kiến thức tri thức, về chế độ chính trị mà chủ thể đó hằng ngày sinh sống để chủ động từ nhận thức tới tỉnh thức trước bất bình đẳng, bất công mà mình và đồng loại phải gánh chịu. Chủ thể là thành viên của xã hội nhưng không công nhận thân phận nạn nhân trong xã hội đó, cụ thể là không chấp nhận bị xiềng xích bởi chế độ chính trị, ngày ngày vùi lấp quyền làm người của mình, không những bằng bạo quyền công an trị, mà cả bằng tà quyền tham nhũng trị, có đồng minh là ma quyền tham tiền trị.

Nhân chủ là giá trị của nhân quyền

Nhân quyền với chủ thể chính là công dân sống trong cùng một xã hội, nơi mà nhân quyền không thể chỉ định nghĩa bằng tự do cá nhân, mà phải bằng một phạm trù rộng hơn : sống chung vì muốn chung sống, tại đây chúng ta có đề nghị sống chung chỉ thực hiện được với những thành viên được tham khảo, được phát biểu, được quyết định chung với nhau về cách chung sống, nơi mà mọi thành viên này có cùng một ý thức thượng nguồn là ý thức có chung một công bằng, như nhau. Sống chung qua thời gian nơi mà hiện tại được hưởng những tài sản của tổ tiên để lại để làm vững mạnh hơn hiện tại của một cộng đồng, khi mọi thành viên cùng nhau chia sẻ chung một số phận ; tại đây chủ thể quản lý tài sản của quá khứ vì muốn sống chung đã trở thành chủ thể quản lý số phận chung trong tương lai. Nhân chủ là giá trị của nhân quyền được hiểu theo nghĩa chung (sống chung để chung sống) không hề tùy thuộc vào nghĩa riêng (sống riêng để riêng sống).

Chủ thể dân chủ đấu tranh vì nhân quyền

Câu chuyện về nhân quyền là tự truyện về mức độ làm nên trình độ : khi ta có bác ái với lòng trắc ẩn chia ngọt sẻ bùi với tha nhân, chia sẻ niềm đau nỗi khổ với đồng bào, với đồng loại thì chữ nhân của nhân loại sẽ có được tầm vóc cao, kích thước rộng, nội công mạnh, bản lĩnh lớn hơn hẳn ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu… Vì kẻ chỉ biết ích kỷ, vị kỷ, tư lợi, tư hữu thì có thể làm người nhưng chưa chắc đã được làm nhân, nhân đây có gốc rễ, cội, nguồn của nhân tâm, nhân từ, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản làm nên sung lực trong lý luận rồi hùng lực ngay trong đấu tranh vì nhân quyền. Tại đây, nhân quyền vừa là hành động của hiện tại, vừa là hoài bão của tương lai ; vừa là quy trình đấu tranh hằng ngày, vừa là chân trời trước mắt, nhân quyền là động lực để đấu tranh, mà nhân quyền cũng là tuệ giác ngay trong lao lý khi họ bị độc tài phản dân quyền tù đày, tra tấn, hành hạ. Bạo quyền khi sợ không lùi bước trước luân lý của nhân quyền, nhưng nó luôn tránh né phải trực diện để đối thoại về tuệ giác của nhân quyền, vì nhân quyền vừa là trí tuệ của nhân trí, vừa là giác ngộ của nhân bản. Nhân quyền chưa là một sự thật mà chúng ta đã cầm trong tay, nhưng nhân quyền là tri thức để ta nhìn ra chân trời của nhân phẩm, cùng lúc nhân quyền là dàn phóng đưa ta tới chân trời đó, một chân trời vừa đúng cho nhân bản, vừa đẹp cho nhân văn. Bạo quyền không sợ đạo đức của nhân quyền, nhưng nó sẽ biết ngượng trước cái đúng cho nhân bản, biết nhục trước cái vừa đẹp cho nhân văn.

Vượt thắng đục nội xâm, vượt thoát bẩn ngoại xâm

Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta, chân lý nhân sinh để nhận diện ra sự phản bội mà cũng là trí khôn Việt tộc để nhận ra sự phản trắc của một lực lượng chính trị, mượn xương máu đồng bào để cướp chính quyền rồi lộng quyền-lạm quyền-tham quyền, để bội phản chống dòng nòi, để bội bạc với tổ tiên. Mỗi chọn lựa nhân vị có cái giá của nó, mỗi chọn lọc nhân cách có cái hy sinh của nó. Đúng ! chỉ có sự hy sinh biết rửa bẩn thành trong, đục ngầu thành thanh khiết, một sự hy sinh tự trong sạch hóa, vừa biết đường đi nẻo về của đạo lý Việt, vừa biết đi tới, chảy tiếp trong dòng luân lưu của lương tri Việt tộc trong suốt, vượt thắng đục nội xâm, vượt thoát bẩn ngoại xâm [1]. Và ngay trên thượng nguồn, khi nội xâm đang vơ vét tiền bạc của dân tộc, đang nạo vét tài nguyên của đất nước, thì mọi con dân Việt có lương tri phải tự biết đặt cho mình các câu hỏi sau đây : Cuộc sống hiện nay của Việt tộc mà chúng ta đang sống đây có phải là cuộc sống thật hay không ? Sự thật ở đâu khi chế độ độc đảng có độc quyền bưng bít, đánh tráo sự thật ? Chân lý ở đâu khi chế độ độc trị đang quản trị dân tộc bằng tuyên truyền mang trá ? Lẽ phải ở đâu khi cả xã hội Việt đang sống bằng sự giả dối nơi mà mọi giá trị đạo lý đều bị truy diệt ?

Những ai phải "bụi đời"

Thân phận không phải là số phận, thân phận mang không gian của hiện tại, số phận phải đèo số kiếp dài theo thời gian ; nhưng thân phận hiện tại nói lên số phận tương lai ; vì thân phận là chỉ báo (vì là điềm báo) cho số phận, vì cả hai vừa là nhân và vừa là quả, gắn liền với nhau trong nhân kiếp. Thân phận bụi đời không nhất thiết là thân phận mồ côi, vì có kẻ có cha mẹ có nhà nhưng thành bụi đời, có người mồ côi nhưng suốt kiếp không thành bụi đời ; nhưng mồ côi cha lẫn mẹ, rồi không người bao bọc, chở che, và hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa rất dễ rơi vào bi nạn bụi đời. Thân phận bụi đời làm nên số phận bụi đời, không phải là một đường thẳng từ đầu tới cuối kiếp người, mà thân phận bụi đời là những đoạn đường rất khác nhau, tùy cá nhân, tùy hoàn cảnh, nhất là tùy thuộc vào các chính sách an sinh xã hội, trong đó chính quyền phải chịu trách nhiệm, chính phủ phải nhận trọng trách trước thực trạng xã hội này. Thân phận bụi đời có thể bắt đầu rất sớm từ lúc còn là thiếu nhi, đây là trung tâm nghiên cứu và ngã tư khảo sát của tiểu luận này, có khi kéo dài cả đời, rồi để lại rơi vào chuyện tái sản xuất hiện trạng thân bụi, mà xã hội học gia đình và giáo dục gọi tên là : tái sản xuất xuyên thế hệ.

Thân phận bụi đời : thảm kịch của bất công

Thân phận bụi đời cũng có thể là những đoạn đường của một cá nhân, một gia đình, phải chịu nhiều lần thảm cảnh thân bụi ; đã thoát ra được họa cảnh bụi đời, nhưng họ luôn là con mồi trước mọi áp bức, bất công, bạo lực… đẩy đưa họ lại con đường cũ : bụi đời. Đây là hệ lụy của các nạn nhân ngắn cổ bé họng, trong một hệ thống hàng dọc của bạo quyền lảnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất vì tham tiền, biến dân lành thành dân oan, rồi thành dân bụi, mà không có một cơ chế công lý nào bảo vệ các nạn nhận này. Thân phận bụi đời nói lên thảm kịch của bất công trong xã hội, tại đây các nạn nhân bụi đời bị xem như sống ngoài lề của đời sống xã hội hiện tại, bị loại ra khỏi trong sinh hoạt xã hội hằng ngày, bị bứng gốc khỏi quan hệ xã hội bình thường. Họ vô hình trong cách tính của chính quyền, họ vô dạng trong thống kê của chính phủ. Nhưng họ là kết quả tất yếu làm ra hậu quả tức thời tới từ bạo quyền lãnh đạo vô luân, tà quyền tham quan vô cảm, ma quyền tham tiền vô giác. Chính ba cấu trúc : đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội là nội công của xã hội học nạn nhân hóa, làm nên nội lực cho nhân học nhận thức về các nạn nhân trong một xã hội, trong một dân tộc, trong một đất nước.

Bụi kiếp trong loạn kiếp

Lọan kiếp là không có được nghĩ ngơi trong bình thường của trong ấm ngoài êm, trong thực cảnh không nơi nương náu. Nhưng nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã… về trẻ mồ côi của Việt Nam có không gian đặc thù của nó, có thời gian đặc biệt của nó, có thời điểm mang đặc tính của nó. Nó không dòng như tác phẩm văn chương hiện thực Những kẻ khốn cùng (les Misérables) của V.Hugo, thực trạng của các trẻ bụi đời Việt hiện nay mang cường độ và mức độ bạo động tới từ bạo quyền của một chế dộ công an trị. Bạo lực lãnh đạo sinh ra bạo động trong một xã hội Việt đã mất phương hướng về giáo dục và đạo đức, với một chính quyền độc đảng chọn độc tài nhưng bất tài trong quản lý, chọn độc trị nhưng lại không biết quản trị, chọn độc tôn nhưng không tôn vinh được một đạo lý nào cho dân tộc, một luân lý nào cho đồng bào. Lọan kiếp là không có mái ấm gia đình, mất đi mọi quy luật từ cha mẹ sinh thành tới tổ ấm có gia phong, trong đời sống bình thường có gia giáo : con cái ở đâu, ông bà ở đó. Hiện trạng trẻ bụi đời tại Việt Nam có dây dưa rễ má của một đất nước bị loạn tâm bởi chiến tranh trong thế kỷ qua, bị loạn thần qua nghèo đói, lại vô phúc song hành cùng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, với túi tham không đáy, tạo ra vô cảm "ai chết mặc ai", làm ra vô nhân "bây chết mặc bây".

giailuan13

"Người dưng nước lã" ?

Loạn kiếp có ngay trong văn hóa thân tộc, nơi mà thống tộc trong quy luật "cùng máu mủ", khinh kẻ ngoại nhà, ngoại họ : "người dưng nước lã", rồi đặt tên ác để vinh danh bạo quy luật khép kín này : khác máu tanh lòng. Chính vòng kín này đã loại đi các cơ may, các cơ duyên để kẻ lạ được chấp nhận vào nhà, vào xóm, vào làng… Tại Việt Nam, hiện nay có các nhà, các xóm, có khi có cả làng chọn : ăn xin, ăn mày… như một nghề, dính tới một nghiệp, đã có từ bao đời. Nhưng chính các kẻ cùng nhà, cùng xóm, cùng làng này làm nghề này, họ không hề tự xem họ là : bụi đời ; vì họ có nhà, có họ, có thân tộc… và họ vẫn hãnh diện về họ hàng của họ : chim có tổ, người có tông, nhưng họ không hề có tình tương trợ, cụ thể là nơi nương tựa của những nạn nhân bụi đời mà không có quan hệ thân tộc với họ.

"Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy" ?

Văn hóa của cộng đồng song hành cùng giáo dục của gia phong, Việt tộc vinh danh lòng đoàn kết, thăng hoa tình tương trợ : máu chảy ruột mềm, lại cùng lúc xiết kín lối vào cửa ra của các cá nhân cùng thân tộc : trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy. Đây là thực tế của văn hóa, nó như con dao hai lưỡi, nó biết củng cố quan hệ gia đình họ hàng, nhưng lại đóng cửa với : người dưng nước lã ; rất tương trợ trong thân quyến, nhưng hững hờ, lạnh nhạt với đồng loại. Thậm chí họ lại dễ dàng dùng luân lý gia tộc để buộc tội tha nhân trong hoạn nạn : đem con bỏ chợ. Hãy xem lại để xét lại văn hóa cộng đồng, giáo dục gia tộc : có thực mới vực được đạo, tại đây phương pháp luận thực nghiệm nhận diện ngữ văn : thực, phải làm nên hai ngữ pháp : thực (phẩm)(sự) thực, dùng điền dã, điều tra, khảo sát, nghiên cứu hiện tượng bụi đời với thượng nguồn là hệ : thực (phẩm), tại đây trẻ bụi đời thiếu ăn, thiếu uống, tức là thiếu thực (phẩm), không có cơm ăn, áo mặc tức là không có các điều kiện vật chất bình thường. (sự) thực qua các chặng đường của các nạn nhân bụi đời trước bạo quyền tham nhũng, trước tà quyền tham quan, trước ma quyền tham tiền, nguồn gốc của bất bình đẳng, có cha sinh mẹ đẻ là bất công.

"Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn" ?

Hai hệ : thực (phẩm)(sự) thực, đã nhập một để giải luận rõ là bất công luôn trá hình dưới ngữ thuật : bất hạnh để chỉ kẻ bụi đời, môt kẻ đã mất tất cả. Mất gia đình lẫn họ hàng, vì đã mất trọn (chú như cha, dì như mẹ). Mất thân quyến lẫn thân tộc, vì đã mất trắng (sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì). Mất đạo lý lẫn luân lý lẫn thân tộc, vì đã mất luôn gia giáo (Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mẹ có cha không thờ). Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng đẩy xuống hạng thấp nhất người dưng, rồi đạp xuống tận cùng kẻ mồ côi cha lẫn mẹ, đã rơi vào họa bụi đời : sống bờ chết bụi, với cách xếp hạng để xếp loại : cháu mười đời hơn còn hơn người dưng ; không cho kẻ gặp nạn mồ côi có cơ may : ngẩng cổ ngóc đầu. Khoa học luận phản chứng dùng phản biện để lập ra phản diện, bằng xác chứng là : ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn chỉ dùng những ai có cha mẹ, gia đình, mái ấm có đủ tâm lực, trí lực, lý lực để thực thi được đạo đức : một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, trong khung khép kín giữa với ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu trong cùng gia đình ; kiểu tứ đại đồng đường ; hay có thể dùng rộng hơn vì có đủ ý nguyện, ý chí, ý lực phá vỡ khung khép kín của gia tộc, để thực hiện trí khoan dung, tâm dung thứ, lòng vị tha với đồng bào, đồng loại hay không ?

"Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng"

Nhất con nhì cháu thứ sáu người dưng, làm người dưng có khi không được làm : hạng thấp, hàng kém, mà còn là hạng cuối, hạng bét trong một văn hóa thân tộc khép kín, người dưng thì không có lối ra cổng vào như người nhà, trong loại giáo dưỡng này thì người dưng không những là người lạ, mà còn là người "không đáng quan tâm" theo kiểu nói vô cảm hiện nay. Nên từ văn hóa tới giáo dục, người ta xem người dưng như người mà ta nên phải : lạnh lùng, mà không nên có xúc cảm gì, thế nên mới có câu : người dưng nước lã ; đã là người dưng thì khó trông mong gì vị tha, đừng mong cầu gì về rộng lượng, chớ mong chờ gì về chuyện "rộng lòng", trong cõi này thì không sao một đứa trẻ mồ côi bụi đời có thể được chấp nhận, có thể "lọt vào" được. Cháu mười đời hơn còn hơn người dưng, cái quan hệ thân tộc thành quan hệ thống tộc, nó bền bỉ, nó dài lâu, cháu mười đời mà sao còn rất dai dẳng ; nhưng tại sao lại khép rào đóng cửa với người dưng ? Tại sao chuyện thân tộc bền vững là chuyện hay, chuyện đẹp, sao không làm cho nó cao hơn, sâu hơn, nhất là sao không làm cho nó xa hơn để tiếp người dưng ? Để mở-lòng-rồi-mở-cửa mà đón người dưng, đón trẻ bụi đời (đưa bụi vào đời để hiểu đời) ! Đây đâu phải là chuyện vô bổ, nó là chuyện nhân tâm làm nên nhân tính mà !

Con quan thì được làm quan ?

Con nhà tông không dòng lông cũng dòng cánh, đây là chuyện tái tạo gia đình mà xã hội học đặt tên là : tái sản xuất xuyên thế hệ, đây là ý nguyện của ông bà, cha mẹ muốn thấy con cháu dòng mình từ nhân diện tới nhân dạng, đây là lẽ thường vì là chuyện có thể hiểu được quan hệ máu mủ. Nhưng con vua thì được làm vua, con sãi nhà chùa thì quét lá đa, thì đây là loại tái sản xuất xuyên thế hệ dựa trên bất công, loại này có trong xã hội chỉ làm ta lợm dòng, vì nó lấy bất bình đẳng để tạo ra bất công. Trong thảm kịch của Việt tộc hiện nay con quan thì được làm quan trong một chế độ độc tài với cha làm quan nhưng rất bất tài, sinh ra các đứa con trong một hệ thống giáo dục học giả-thi giả-bằng giả với mua điểm bán thi, để mua bằng bán cấp, và sau đó cha cùng con sẽ cùng nhau thực hiện mua chức bán quyền, rồi lần mò đến buôn dân bán nước cho Tàu tặc. Trong một chế độ độc đảng để độc trị nhưng vô minh trong quản trị. Điếm lộ trong gian kiếp ! Vậy sao không thấy cái hay, cái đẹp, cái lành, cái tốt của người dưng ? Vì nhân thế muôn màu, nhân sinh muôn vẻ, nhân tình muôn dạng trong nhân loại mà ! Có đa nguyên là có đa trí, đa tài, đa lực, đa hiệu, đa năng ; cũng như có người dưng là có đa diện, đa dạng, đa sắc…

nhân tính biết dựa trên nhân từ biết giúp kẻ bơ vơ, vì nhân đạo biết dựa vào nhân tâm biết cứu người lạc lõng, bụi đời, để tạo nên nhân nghĩa biết làm nền cho nhân hậu (ăn ở có hậu). Vì không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời mà ! Vì sông có khúc, người có lúc mà !

Khác máu tanh lòng ?

Khác máu thì là chuyện hiểu được vì không cùng huyết thống, nhưng sao lại phải tanh lòng với người dưng, với người lạ, nhất là với kẻ đang bơ vơ trong mồ côi, đang bụi đời trong cõi người ? Một câu mới đọc tưởng là xuôi nghĩa, nhưng khi đọc kỹ để giải luận thì thấy nhân tâm ta bất ổn, ngẫm thật kỹ thì nhận ra nhân tính ta bất an. Khác nhau vì khác máu, khác người vì không cùng gia đình, thân tộc, chớ có gì đâu mà phải : tanh lòng với kẻ lạ, người ngoài ? Cụm từ tanh lòng rùng rợn quá ! Tanh lòng là nguội lòng, mà nguội tới độ tanh, tức là không ngửi được, không chấp nhận được, không sống chung được… có cái gì bất ổn trong cụm từ tanh lòng này, tự đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành tới đạo đức giữa người với người khi sống phải chấp nhận nhau, có chấp nhận nhau mới tôn trọng lẫn nhau được. Cái bất ổn có ngay trong câu nói của kẻ thốt lên câu này, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về câu chữ, về ngôn ngữ, về khẩu nghiệp của họ ! Chớ chẳng có ai khác vào đây tha lỗi hay nhận tội cho họ cả. Họ gạt người lạ, họ vất người dưng ra đường, họ ruồng rẫy trẻ mồ côi, họ xua đuổi trẻ bụi đời khi thốt ra câu : khác máu tanh lòng, thì chính người nghe thấy sự bất ổn trong tri thức của họ, thấy được sự bất an trong nhận thức của họ. Người nghe câu này thấy nhân sinh quan chật hẹp, thiếu vị tha ngay trong nhân tính không rộng lượng của họ ; người nghe câu này thấy thế gian quan chật chội, thiếu khoan dung ngay trong nhân vị không khoan hồng của họ ; người nghe câu này thấy vũ trụ quan bé xíu thiếu từ bi ngay trong nhân đạo không nhân dạng của họ.

Máu nào thắm thịt nấy ?

Những kẻ sống ở cõi người mà mắt họ hí như mắt lương, tim họ bé như hạt cát, nên miệng họ khép như con rít ! Họ sống mà không mở cửa, mở lòng, vì họ không cho phép kẻ khác, người lạ vào cõi của họ ; vậy thì làm sao họ lớn, cao, sâu, rộng lên được ngay trong chính nhân từ của họ, vậy thì làm sao họ hay, đẹp, tốt, lành được ngay trong chính nhân phẩm của họ. Chỉ mong muốn là khi họ đứng trước trẻ mồ côi, ngồi trước trẻ bụi đời, họ đừng nói thêm những câu này : anh em hạt máu sẻ làm đôi, họ đừng khoe khoang anh em họ, mà làm đau lòng trẻ mồ côi, trẻ bụi đời. Rồi máu nào thắm thịt nấy, họ đừng ca ngợi gia đình họ, mà làm bầm gan trẻ mồ côi, trẻ bụi đời. Rồi ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn, họ đừng tôn vinh thân tộc họ, mà làm đứt ruột trẻ mồ côi, trẻ bụi đời. Rồi máu chảy ruột mềm, họ đừng thăng hoa thân quyến họ, mà làm lộn não trẻ mồ côi, trẻ bụi đời. Cái ích kỷ thống tộc lộ ra trong Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy, họ đừng tự kiêu thống tộc họ mà làm tím mật trẻ mồ côi, trẻ bụi đời. Chỉ mong sao là khi họ đứng trước trẻ mồ côi, ngồi trước trẻ bụi đời, họ đừng nói những thành ngữ, ca dao… loại này, và nếu họ không giúp gì được trẻ mồ côi, trẻ bụi đời, thì họ không được quyền chưởi bới, lăng mạ, sỉ nhục chúng !

Đêm đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con

Đêm đêm mỗi thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con,

những ai có cha có mẹ ; rồi sau đó bị mất cha, mất mẹ, nghe câu này thì bầm ruột tím gan ; những ai còn cha, còn mẹ, lo-đứng-lo-ngồi là một ngày kia, cha mình, mẹ mình phải rời cõi đời này, thì hãy thương cha mẹ hơn đi. Ý thức còn cha mẹ tạo nên nhận thức một ngày kia phải mất cha, mất mẹ, cả hai ý thức và nhận thức dựng lên tri thức của mỗi chúng ta về hai đấng sinh thành, hai giá trị thiêng liêng loại hàng đầu trong đạo lý làm người, trong luân lý muốn nên người. Nhưng những trẻ mồ côi rất sớm, những trẻ bụi đời còn ít tuổi, mất cả cha lẫn mẹ, hay bị cha mẹ bỏ đi, bỏ rơi thì chúng không có ý thức, nhận thức, tri thức này, đây là một thiệt thòi, biến khuyết điểm chuyện không cha, vắng mẹ thành khuyết tật mà chúng phải mang cả đời, mang đến trọn kiếp.

Lên non mới biết non cao

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ,

câu này đẹp vô cùng với những ai còn mẹ, nhận ra sự hy sinh của mẹ, sau đó làm mẹ và sẽ có nhận thức là mình cũng đã sẵn sàng làm mẹ, mình cũng sẽ biết hy sinh như mẹ. Nhưng câu này trở nên khó hiểu với với một đứa trẻ bụi đời, bị vất ra đường thuở nào, mà nó không sao hình dung nổi về sự hy sinh của một người mẹ, vì nó nghĩ nếu mẹ nó hy sinh đúng nghĩa thì nó đâu có thành : bụi đời ! Nên câu này cũng rất tối nghĩa cho những đứa trẻ mồ côi, nó không thấy mẹ, hoặc thấy quá ít thì làm sao lại bắt nó phải hình dung ra sự hy sinh như non, như núi của mẹ nó.

Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu ?

Ngôn từ thông thường của chúng ta là ngôn ngữ của những kẻ có cha, có mẹ, có nhà, có gia đình… nên hẳn nhiên là có : máu chảy tới đâu ruột đau tới đó. Những ngữ văn, ngữ pháp đối với chúng ta rất rõ nghĩa, rất sáng ý : tay đứt ruột xót, trở nên lạ lẫm tới lạnh lùng, nó tối chữ nên mờ nghĩa đối với trẻ mồ côi, với trẻ bụi đời. Ngôn ngữ thật bình thường làm nên đạo đức làm con như :

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu ;

nó trở nên kỳ quặc, có khi quái lạ đối với trẻ mồ côi, với trẻ bụi đời. Vì khi thành bụi đời là bị mất đạo đức làm con ; chưa hết những đứa trẻ này còn mất luôn tình cảm nhớ thương các đấng sinh thành đã qua đời :

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Nhưng trong đám trẻ này, có đứa khi xưa, thuở nọ, có biết, có sống chung một thời gian với cha mẹ, thì chúng thấm thía vô cùng các loại câu này :

Chiều chiều xách giỏ hái rau

Ngó lên mả mẹ, ruột đau chín chiều…

Chúng hát cho điếng lòng, cho bầm gan, cho tím ruột câu này :

Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi

ngó không thấy mẹ, ngùi ngùi nhớ thương.

Các bạn đọc kỹ nhé : ngó ngược ngó xuôi là kiếp bụi đời, ngó (mà) không thấy mẹ là kiếp : bụi biết đau !

Đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng ?

Đắng cay cũng thể ruột rà

Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng,

thật rõ nhưng cũng thật lạ : đắng cayruột rà thì được, thì nhận, thì cán đáng, thì kham luôn ; còn ngược lại ngọt ngào cho lắm, tức là đã thật ngọt ngào mà đã là người dưng thì không được, thì không nhận, thì gạt đi à ? Sao lạ vậy ? Sao cùng trong một nhân thế mà lãnh thổ phân khắt chia khe vậy ? Sao cùng một nhân sinh mà biên giới lại khắc nghiệt vậy ? Sao cùng một nhân kiếp mà đối xử với nhau nguội lạnh như vậy ? Lá rụng về cội, thì giành cho những ai biết, những ai có quê cha đất tổ, nên mới được biết, mới được có nơi : chôn nhau cắt rún. Còn mà đã mồ côi, đã thành bụi đời thì phải biết ngược lại : sống nay chết mai, vì mang kiếp chết gởi sống nhờ, vì đã là bụi thì phải : sống bờ chết bụi ! Đời cha trồng cây đời con ăn quả là giành cho những ai có cha, có mẹ, có anh chị em, có gia đình, có nhà cửa…

Đới cha ăn mặn đời con khát nước ?

Đã mồ côi, đã thành bụi đời thì có khi phải biết câu ngược lại : Đời cha ăn mặn đời con khát nước, cha hoặc mẹ đã lỡ ăn mặn thì kiếp bụi đời là kiếp chết khát ! Khát nhân từ, khát nhân tâm, khát nhân nghĩa ; khát luôn nhân vị, nhân phẩm, nhân đạoCon đâu cha mẹ đấy là hạnh phúc của gia đình, của cha mẹ, của con cái, chưa hết còn có luôn đạo thờ ông bà trong mọi gia đình của Việt tộc : con cái ở đâu ông bà ở đấy. Cả hai làm nên một đường thẳng xuyên thế hệ mỗi cá thể trong gia đình, không ai lẻ loi, không ai lạc đàn, vì không ai bỏ rơi ai, không ai để ai phải chịu cảnh bụi đời cả. Còn tình đoàn kết, chí tương trợ giữa anh em kiểu Việt thì khỏi lo ra : anh em khinh trước, làng nước khinh sau, vì ai cũng biết đi việc làng giữ lấy họ, đi việc họ lấy anh em. Nên : đường thẳng xuyên thế hệ này chính là đường thẳng liên kết gia tộc, có tên rất đẹp và có hậu : con liền với ruột, nên thật dễ hiểu câu : chim có tổ, người có tông. Có kẻ còn muốn nói cho thật rõ : người nhận họ, chó nhận hơi. Còn đã là mồ côi, đã thành bụi đời thì không sao nói được các loại câu chữ này, vì nói ra chỉ đau lòng cõi bụi ! Vì sống bụi thì phải chuẩn bị kiếp : sớm nở tối tàn ! Vì kiếp bụi đời là kiếp đàn đứt dây rồi !

Chim xa bầy thương cây nhớ bạn, người xa người tội lắm người ơi !

Khi bạn hát bên võng, bên nôi để ru con của bạn ngủ :

"Chim xa bầy, thương cây nhớ bạn

Người xa người tội lắm người ơi !",

bạn hát nhẹ nhàng, thoái mái, rồi bạn thấy con bạn dần vào giấc ngủ, ngủ thảnh thơi, giấc ngủ ngoan hiền. Nhưng có lần tôi thấy một người lớn trong một trại mồ côi, ru một đứa trẻ mới năm sáu tuổi đã bụi đời, cũng câu này :

"Chim xa bầy, thương cây nhớ bạn

Người xa người tội lắm người ơi !",

tôi thấy đứa trẻ từ từ rơi nước mắt, chỉ vài phút sau là nó khóc dàn dụa ! Nó khóc, nó làm tôi "mít ướt" theo, nhớ lại hôm đó tôi cũng khóc như : con nít ! Không khóc sao được ! Bộ chỉ có con nít mà phải là mồ côi, rồi bụi đời, mới được quyền khóc thôi sao, khi "được" hay "bị" ru câu này ; người lớn và "già đầu" như tôi cũng được quyền khóc khi nghe câu này. Bạn ơi, đừng bao giờ "xấu hổ", đừng bao giờ "mắc cỡ", đừng bao giờ "hổ thẹn" khi nghe lời ru buồn, lời ru làm ta đau, thì bạn cứ khóc bạn à ! Có gì "nhục nhã" đâu ! Có gì "đáng cười" đâu khi thấy người khác khóc. Tại đây, để giải thích chuyện khóc là chuyện : thương tâm làm nên nhân tâm ! Mà tổ tiên Việt dặn con cháu Việt rất đúng là khi người ta nói : "trúng tim đen" của mình, mà mình muốn khóc : thì cứ khóc ! Câu chuyện bụi đời không xa lạ đâu ! Nó gần gũi, nó "ruột rà" lắm với thân phận của tất cả con dân Việt : làm bụi trong chiến tranh, giờ thì làm bụi dưới bạo quyền… Số kiếp bụi đời luôn mồ côi như : chim lạc đàn… suốt đời làm kiếp : chim tìm đàn !

Cha đời cái áo rách này, mất chúng mất bạn cũng mày áo ơi

Cha đời cái áo rách này

Mất chúng mất bạn cũng mày áo ơi,

người ta nhận ra ngay kẻ bụi đời với quần áo rách rưới, còn trẻ bụi đời thì nhiều lúc không có quần áo gì cả, còn tệ hơn người rừng. Bạn ơi, nhân dạng qua nhân ảnh khi được quần áo bao bọc, thì quần áo đã làm được chuyện bảo vệ bề ngoài cho nhân cách, có ít nhiều dính dáng tới nhân phẩm, vì để bụi vào đời của mình thì nhân vị xem như đã thành bụi ! Đói cho sạch rách cho thơm, là chuyện thường ngày cha mẹ dặn chúng ta khi ra đường, khi phải đối nhân xử thế, thì thơmsạch vừa là nhân dạng, vừa là nhân cách của mỗi chúng ta. Vậy mà khi một đứa trẻ rơi vào cõi bụi đời, thì thơmsạch là ước muốn mỗi ngày, là ước mơ cả đời của chúng ; nên ai đang còn cha, còn mẹ, còn nhà… thì đừng chê, mắng, rủa, chửi trẻ bụi đời là không thơm và không sạch, là rách rưới và bẩn thỉu… nên hãy cẩn trọng ! Vì kẻ nhục mạ người khác là không thơm và không sạch, thì miệng của kẻ đó đã không lành, và lưỡi của kẻ đó đã không sạch. Giấy rách phải giữ lấy lề, là đạo lý của gia giáo, mà cũng là luân lý trong xã hội giành cho những ai có cha, có mẹ, có gia đình, vừa được giáo dục vừa hưởng giáo dưỡng… cùng chỉ bảo cho nhau là phải tìm mọi cách giữ nhân phẩm bằng cách bảo vệ nhân vị ; còn ngược lại nếu đã rơi vào cảnh bụi đời thì nhiều khi có áo rách để che thân mà không phải trần truồng đã là một cơ may.

Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm ?

Còn chuyện giữ lấy lề, là giữ nhân cách để nhân dạng không bị vùi dập, nên chuyện giữ lấy lề thật là khó, vì đã là bụi rồi, tức là đã rách tả tơi, đã nát tơi bời, đã tan thành bụi rồi, thì còn đâu lề, còn đâu lễ để mà giữ ! Có những thành ngữ cứ tưởng nó mang giá trị vĩnh hằng để muôn đời cứ lấy ra xài (và xài lúc nào cũng được), thì đây là chuyện không đúng, có khi là không đàng hoàng, không tử tế trong họa cảnh của trẻ bụi đời Khéo ăn thì no khéo co thì ấm, câu này giúp ta vượt thoát khó khăn, vượt thắng trầm luân, vì nó mang nhân trí để ứng xử với nhân thế, nó tương đối hóa cái tuyệt đối của chuyện đói, chuyện lạnh là hai thử thách kinh hoàng của kiếp người, vậy mà nó nửa đúng, nửa sai trong kiếp bụi đời. Vì kiếp này là ngày đói-đêm lạnh, cho nên các khó khăn, các thăng trầm, các thử thách đều được "bình thường hóa" bởi trẻ bụi đời, chúng biến thành cái tuyệt đối của đóilạnh, rồi chúng biến thành bình thường luôn cả cái thuở nào phải ra sức, phải gắng sức, phải cố sức lắm mới tương đối hóa được. Vì sống-sót-rồi-sống-còn trong kiếp bụi đời là đã "bình thường hóa"được địa ngục trần gian rồi !

Hơn nhau tấm áo mảnh quần, thả ra mình trần ai cũng như ai !

Hơn nhau tấm áo mảnh quần

Thả ra mình trần, ai cũng như ai,

đây là câu chuyện tiền của, vật chất, tài chính… luôn là câu chuyện trầm trọng của kiếp người, vì không cơ sở kinh tế thì xem như trắng tay, mà kẻ trắng tay sẽ dễ mang kiếp bụi, vì rất dễ thành bụi đời ! Mà đã thành bụi đời rồi thì các hiểm họa khác sẽ tới, đầu đường xó chợ không chốn nương thân ; rồi dầm mưa dãi nắng trong tứ cố vô thân !

Nghèo hèn giữa chợ ai chơi

Giàu trong hang núi nhiều người hỏi thăm ;

đây là thói đời bình thường, nơi đây tư cách làm thấp đi nhân cách của những ai xem trọng tiền của, vật chất, tài chính… cùng lúc nó làm mất đi luôn phong cách trong phương cách đối nhân xử thế của họ. Câu chuyện : nhân cách, tư cách, phong cách thật lạ, không có phong cách thay đời hành thiện, thì đừng mong có tư cách cứu nhân độ thế ; và không có phong cách lại không có tư cách, thì xem như đã bị mất đi phần lớn nhân cách rồi ! Trong xã hội Việt hiện nay, mà tỷ phú đô la là trọc phú giữa đời lại tự xưng tên đại gia, qua khoe của, khoe tiền, làm trò phung phí trong vương giả (rất giả). Loài trưởng giả học làm sang (để quên đi là mình vô học) này nhìn mà không thấy, có khi thấy lại làm lơ trước bi cảnh lầm than của dân chúng, trước họa cảnh nheo nhóc của đồng bào, giữa cực cảnh của trẻ bụi đời thì nhân cách của loại tỷ phútrọc phú thích trác vàng lên thân để làm đại gia, thì chúng còn thấp hơn bụi đời, chúng là bụi bẩn, bụi nhơ : trọc kiếp trong điếm lộ !

"Ở đời ở kiếp chi đây, xem nhau như bát nước đầy thì hơn"

Ở đời ở kiếp chi đây

Xem nhau như bát nước đầy thì hơn,

đây là câu chuyện thật hay, giúp kẻ trắng tay, người trắng kiếp, cụ thể là giúp trẻ bụi đời qua cơn hoạn nạn ; và đạo lý của Việt tộc không những là chính đạo mà còn là minh đạo, trong cái liêm chính làm nên cái liêm sỉ đã có cái thông minh làm nên cái thông thái, đó là : xem nhau như bát nước đầy. Bạn ơi, bát nước đầy là bát nước chưa bị đổ, chưa bị rơi xuống đất, mà rơi xuống đất rồi thì không ai uống được nữa ; bát nước đầy còn là bát nước chưa vơi, nên chúng ta có thể chia nhau mà uống, để cùng nhau sống còn trong nhân sinh đầy thử thách, trong nhân thế đầy thăng trầm, trong nhân tình đầy trắc trở này. Khi gặp trẻ mồ côi đang lạc lõng giữa phố thị, khi nhìn thấy trẻ bụi đời đang quỵ gục trên đường phố, vỉa hè, bạn nhớ lại câu này nhé, nhân phẩm của bạn sẽ được thăng hoa.

Thức khuya mới biết đêm dài

Sống lâu mới biết con người có nhân,

đây là câu chuyện thật sâu, vì tâm từ bi, lòng vị tha, tính rộng lượng làm nên tình thương là nội chất làm nên nhân phẩm sâu và cao, rộng và xa trong nhân kiếp, phải sống lâu mới thấy, mới hiểu, mới nhận ra để bảo vệ nhân vị của ta, mà cũng để phục hồi nhân cách kẻ đang chịu cảnh bụi đời. Không chỉ có kẻ bụi đời mới chịu cảnh sống bờ chết bụi, mà tất cả chúng ta đều chịu quy luật sống nay chết mai ; nên tổ tiên Việt rất sáng suốt khi khuyên con cháu : bền người hơn bền của, nên ông bà ta rất tỉnh táo khi khuyên con cái : vì tình vì nghĩa, ai vì dĩa xôi đầy. Bụi đời cần người, cần tình, cần nghĩa để thoát kiếp bụi !

Kẻ khó được vàng, người sang cất lấy !

Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan,

đây là bi nạn của dân oan, họa cảnh của trẻ bụi đời, chính là tai họa của Việt tộc hiện nay, với lãnh đạo độc đảng sinh ra độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không biết quản trị, dùng độc quyền để lạm quyền. Chúng chung chia với tà quyền tham quan bòn rút dân tộc qua tham nhũng, lại chống lưng cho ma quyền tham đất vì tham tiền biến dân chúng một sớm một chiều thành dân oan, có bao trẻ bụi đời hiện nay là nạn nhân của ba lực lượng quỷ ám trong trộm, cắp, cướp, giựt giữa ban ngày này : tà nghiệp trong điếm lộ !

Trống chùa ai đánh thùng thùng

Của chung ai khéo vẫy vùng làm riêng,

đây là lý lịch, diện mạo (chân dung quyền lực) của bọn lãnh đạo độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất. Chúng lòn lách như âm binh để tránh luật, né luật, khi không thoát luật, thì chính chúng sẽ xé luật, xóa luật, vì bản chất của chúng chính là phản xạ của chúng, mà ông bà ta đã dặn con cháu phải thận trọng : kẻ khó được vàng người sang cướp lấy, người sang đây là có kẻ có quyền để lạm quyền. Chúng sống nhờ hành vi bẩm sinh của chúng là trộm, cắp, cướp, giựt mà chúng hay tráo đổi khái niệm, cướp chúng gọi là cất (kẻ khó được vàng người sang cất lấy) nên tổ tiên Việt dặn dò con cháu phải nhận diện ra chúng :

Ăn no rồi lại nằm khì

Mặc cho dân xiết, khốn nguy nhọc nhằn.

Người sao kẻ quạt người hầu

Người sao nắng dãi mưa dầu long đong,

đây là hình ảnh của bất bình đẳng, trong xã hội Việt hiện nay.

Ăn một miếng tiếng một đời

Nhân ảnh của bất công với bọn cướp có kẻ quạt người hầu, với dân đen trong nắng dãi mưa dầu, với dân oan long đong, có trẻ bụi đời trong địa ngục hiện tiền bị tạo ra bởi bọn trộm, cắp, cướp, giựt này ! Trong quy luật bụi đời thì tha phương cầu thực, tức tha phương từng ngày và cầu thực từng giờ ; trong khi đó thì bọn âm binh lãnh đạo độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất thì đã để của cải bòn rút của dân lành bên phương Tây rồi. Nhưng ông bà ta cũng dặn chúng ta : không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, vì đời người là nắng sớm chiều mưa, nhất là luật nhân quả là có thật, vì nhân nào quả nấy, đây không phải là chuyện mê tín, mà là chân lý của cuộc sống. Tổ tiên Việt đã giáo dưỡng cho dân tộc Việt về hành vi bất lương, hành động bất chính : ăn một miếng tiếng một đời, đây chính là nhân học đạo lý làm nên nền móng cho triết học đạo đức. Vì trộm, cắp, cướp, giựt tiền bạc của chính đồng bào mình thì : khó nuốt trôi lắm !

Nhân kết Việt

Nhân kết vừa là tổng kết, vừa là hùng lực của Nhân vị tin vào nhân lý, biết dựa vào nhân tri, được nâng cao bởi nhân trí. Nhân bản có nền là nhân văn, có gốc là nhân phẩm, mang rễ của nhân từ. Nhân nghĩa biết trợ lực cho nhân thế, biết trợ duyên cho nhân tình, để nhân loại biết "ăn ở có hậu" ở mãi với nhân duyên. Nhân kết Việt là thuật ngữ tới từ ít nhất là ba lập luận của Việt tộc : dòng nòi Việt, gọi nhau là đồng bào vì cùng bào thai, vì cùng huyết thống. Dân tộc Việt, vì vậy có cùng một dòng sinh mệnh, sinh tử có nhau. Quê hương Việt, là mái nhà Việt để bảo vệ mọi công dân Việt. Nhân kết Việt, được tạo dựng qua ít nhất là ba lý luận của Việt tộc : kết thân, vì có cùng một dòng máu, "máu cháy ruột mềm". Kết gia, vì cùng là đồng bào, "anh em một nhà". Kết kiếp, vì là thân phận Việt biết, "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ". Dân oan là con dân Việt, là đồng bào Việt, là dân tộc Việt, là dòng nòi Việt, chia sẻ với chúng ta cùng một nhân kiếp Việt : Việt tộc không thể bỏ rơi dân oan !

giailuan14

Dân oan là nạn nhân của tham nhũng

Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, tác giả là bọn tham quan tạo ra tham ôvì tham tiền, nên hiện tượng luận nhân vị phải có lý luận để lột mặt nạ chúng, với hình ảnh như dữ kiện, như chứng từ ; từ đó phân tích và giải thích để lý luận về bản chất bất nhân của hệ tham (tham nhũng, tham quan, tham ô, tham tiền).  Một hiện tượng luận nhân vị chỉnh lý phải lý luận rành mạch về nội chất và nội dung của hệ tham này. Dân oan là nạn nhân của tham nhũng, nó là con đẻ của độc đảng lấy độc tài để xây dựng độc quyền, lấy độc trị để độc tôn, qua thủ thuật của bạo quyền, qua ma thuật của tà quyền, lấy âm binh công an trị để khổ sai hóa xã hội, lấy tuyên truyền một chiều để ngu dân hóa quần chúng, để rồi tha hóa mọi giá trị đạo đức của tổ tiên. Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng, biến quyền lực thành quyền lợi, rồi biến quyền lợi thành tư lợi, nên chúng chính là tà quyền, là âm binh đang biến chất nhân phẩm Việt, bản sắc Việt, lương tâm Việt. Chúng là bọn cướp công ích của dân tộc, cướp công tài của đất nước, cướp công bằng xã hội, và chúng nhẫn tâm cướp luôn công lý của dân oan, vì chúng bất nhân, thất đức ; nên một hiện tượng luận nhân vị phải có minh lý để thông suốt nhân vị của dân oan là một thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý).

Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng trong tư lợi và tà quyền

Dân oan là nạn nhân của tham nhũng độc đảng trong tư lợi của tà quyền ; dân oan đấu tranh đòi lại đất của họ, để đòi lại hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý),  bằng thái độ liêm chính, bằng hành động liêm sỉ, họ liêm khiết tự lời nói tới quyết tâm. Một hiện tượng luận nhân vị phải có trực lý để diễn luận rõ ràng dân oan đại diện cho hệ liêm ( liêm chính liêm sỉ liêm khiết) , họ chính là đại biểu cho sự thật xã hội, chân lý quần chúng, lẽ phải dân tộc. Dân oan là thực thể đại diện cho hệ công (công ích, công tài, công bằng, công lý) cảcho hệ liêm ( liêm chính liêm sỉ liêm khiết) , dân oan không thể bị bỏ rơi, dân oan không thể đơn độc trong cuộc đấu tranh vì nhân phẩm Việt, được xây dựng trên nhân vị của nhân bản, nhân văn bằng nhân nghĩa, nhân từ của Việt tộc. Chúng ta chung lưng đấu cật, song hành và gắn bó với tiếng gào, tiếng hét, tiếng thét của dân oan, họ đang lâm cảnh màn trời chiếu đất , họ chính là nhân nghĩa Việt phải có trong mỗi công dân Việt.

Nước mắt dân oan

Nước mắt dân oan, có mang theo tiếng gào, tiếng hét chống bất công, chống luôn tất cả bất bình đẳng con đẻ của bạo quyền phản công lý ; mọi bạo quyền đều là tà quyền, vì chúng phản nhân quyền, chúng sẵn sàng bạo hành dân oan để trộm, cắp, cướp, giật đất của họ. Nước mắt dân oan chống tà quyền, chống luôn tất cả các âm binh tham nhũng tới bọn ma đất tham tiền, tất cả chúng là ma xó bòn rút đất, chúng là ma bùn bôi đen nhân quyền, vì chúng được bảo kê bởi ma quyềnđộc đảng, nuôi nấng âm binh công an luôn cặp kè cùng côn đồ, du đảng, xã hội đen để hành hung dân oan để phá nhà, đoạt đất. Nước mắt dân oan chảy vào lương tâm của Việt tộc, làm nóng lương tri của nhân phẩm Việt, đánh thức nhân nghĩa Việt : dậy mà đi cùng dân oan dẹp bạo quyền-tà quyền-ma quyền đang tha hóa nhân tính Việt.

Tiếng hét, tiếng gào và dân oan

Tiếng hét dân oan đòi công bằng để đòi nhân quyền. Tiếng hét dân oan đòi công lý để đòi nhân lý. Tiếng hét dân oan đòi công luật để đòi nhân bản. Tiếng hét dân oan đòi công luận để đòi nhân tri. Tiếng hét dân oan chống bạo quyền để đòi nhân phẩm. Tiếng hét dân oan chống tà quyền để đòi nhân cách. Tiếng hét dân oan chống tham nhũng để đòi nhân nghĩa. Dân oan phải tiếp tục hét lên nhân tri, nhân trínhân thế, vì nhân loại ! Tiếng gào dân oan là tiếng của người lương thiện chống tà quyền. Tiếng gào dân oan là tiếng của lương tâm chống cường quyền. Tiếng gào dân oan là tiếng của người liêm chính chống bạo quyền. Tiếng gào dân oan là tiếng của người liêm sỉ chống ma quyền. Tiếng gào dân oan là tiếng của chính tâm chống tà tâm. Tiếng gào dân oan là tiếng của chính khí chống âm khí của bọn âm binh ! Dân oan thét lên bằng dữ kiện của sự thật ; Dân oan thét lên bằng chứng từ của chân lý. Dân oan thét lên bằng đạo lý của lẽ phải. Tiếng thét dân oan chọn sự thật để chống bạo quyền. Tiếng thét dân oan chọn chân lý để chống tà quyền. Tiếng thét dân oan chọn lẽ phải để chống tham ô. Dân oan phải tiếp tục thét đến long trời, lở đất vì sự thật-chân lý-lẽ phải !

Tiếng lòng dân oan

Tiếng lòng dân oan tới từ nhân tâm đang bị âm binh hóa. Tiếng lòng dân oan tới từ nhân phẩm đang bị khổ sai hóa. Tiếng lòng dân oan tới từ nhân cách đang bị nhục hình hóa. Tiếng lòng dân oan tới từ lòng đất biết gốc, rễ, cội, nguồn của đất.Tiếng lòng dân oan tới từ lòng người biết cao, sâu, xa, rộng nhân lý. Tiếng lòng dân oan biết "sống lâu mới biết lòng người có nhân". Tiếng lòng dân oan cũng biết luôn là bọn tham quan, tham đất, tham tiền : chúng nó bất nhân, thất đức, chúng nó ăn ở không có hậu ! Dân oan dõng dạc vang trời, nói bằng địa hình, địa thế, địa tâm biết để đòi công lý. Dân oan quang minh chính đại bằng dữ kiện, bằng chứng từ, bằng liêm sỉ quyết giữ đất. Dân oan đường đường, chính chính nói lên sự thật của đất, của người, của địa sử. Dân oan danh chính ngôn thuận, để vạch mặt bọn tham quan, chỉ mặt bọn tham đất, để lột mặt nạ bọn tham tiền. Dân oan thẳng lưng để thẳng lời, thẳng thân để thẳng mắt, đòi công bằng mà công luật đang rất đớn hèn, lủi nhủi, lòn lách, chui rúc để bảo kê bọn tham quan, bọn tham đất, bọn tham tiền.

Dân oan mồ côi

Dân oan đòi đất cho họ vì đất là của họ. Dân oan đòi đất cho gia đình họ để bảo vệ gia đình họ. Dân oan đòi đất cho tổ tiên họ để tiếp tục thờ cúng tổ tiên họ. Dân oan đòi đất cho các thế hệ của họ sau để bảo vệ tương lai con cháu họ. "Đất của tôi ! Đất của gia đình tôi ! Đất của cha mẹ tôi !". "Trên mảnh đất này không những chỉ có tôi, mà có cả tổ tiên và con cháu tôi". "Trên mảnh đất này…". Có cuộc sống biết trao truyền cuộc sống. Có cuộc đời biết gởi gấm cuộc đời. Có con người biết tiếp nối con người. Dân oan khóc trước nhà của mình, gào trên đất của mình. Dân oan khóc gào trước nhà, trên đất của mình như lâm cảnh mồ côi. Dân oan mồ côi gia đình đoàn tụ, xóm giềng đầy đủ. Dân oan mồ côi công lý biết chống lại bọn tham quan độc đảng. Dân oan mồ côi công luật biết chống lại bọn buôn đất bán trời. Dân oan mồ côi công luận của đồng bào không biết bảo vệ dân oan !

Dân oan đổ máu oán

Tâm niệm dân oan với đất là giữ đất ! Tâm niệm dân oan với trời là giữ trời ! Tâm niệm dân oan có tâm lực vì công lý ! Tâm niệm dân oan có tri lực vì công bằng ! Tâm niệm dân oan có trí lực vì công luật ! Tâm niệm dân oan có nhân lý vì nhân tri ! Tâm niệm dân oan có nhân văn vì nhân bản ! Tâm niệm dân oan có nhân vị vì nhân phẩm ! Mặt đấu mặt với bọn tham quan, buôn chức bán quyền. Mặt đấu mặt với bọn tham đất, buôn đất bán nhà. Mặt đấu mặt với bạo quyền, buôn dân bán nước. Mặt đấu mặt với tà quyền, buôn thần bán thánh. Mặt đấu mặt với ma quyền, cạp đất gạt dân. Dân oan đổ máu oán để giữ đất, giữ ruộng của mình. Dân oan đổ máu oán để báo tin cho đồng bào là tham quan cướp đất giết dân. Dân oan đổ máu oán để báo tin cho dân tộc là dân oan mồ côi đất, mồ côi ruộng. Dân oan khóc ngày khóc đêm đòi công bằng, công lý, công luật. Dân oan gào thâu đêm suốt sáng đòi pháp luật, pháp quyền, pháp chế. Dân oan hét cùng trời cuối đất đòi lương tâm, lương thiện, lương tri.

Dân oan chống lại tội ác

Đất là của dân, không phải của bọn tham quan, tham đất, tham tiền. Dân oan chống lại tội ác của bọn tội đồ tham quan, tham ô, tham nhũng. Dân oan chống lại bọn tội đồ con đẻ của bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tài. Đất là của dân, không phải của chính quyền bất tín qua trộm, cắp. Đất là của dân không phải của chính phủ bất trung qua cướp, giật. Đất là của dân không phải của độc đảng qua độc hại của độc trị. Bọn tham quan bán đất của dân oan cho bọn tham đất. Cả hai chỉ là bọn tham tiền. Cả hai chỉ là bọn : trộm, cắp, cướp, giựt ! Cả hai lợi dụng tà quyền độc đảng. Cả hai bọn này lạm dụng thú tính của công an để đàn áp, đánh đập, hành hạ, khủng bố dân oan. Tất cả bọn tham quan, bọn tham đất, bọn tham tiền, tà quyền độc đảng, bạo quyền dã thú công an : tất cả đều là âm binh ! Dân oan gào, thét đòi công lý trước ánh sáng của công bằng. Bọn âm binh này lủi nhủi, chui rúc, lẩy nhẩy trong bóng tối ma quyền ! Chúng nó thua xa súc vật !

Tung hoành trong không gian của tội

Tà quyền dối trên lừa dưới, đó là bản chất của chúng. Bạo quyền phá nhà, cướp đất ngoài quy hoạch, đó là thực chất của chúng. Lợi ích nhóm là nơi tụ họp của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng, ma quyền buôn đất, chúng là bọn sâu dân, mọt nước ! Lợi ích nhóm là một tập đoàn tội phạm, không trộm được thì cướp, không cắp được thì giựt ! Chúng đã vượt qua ranh giới của lỗi, chúng đang tung hoành trong không gian của tội. Chúng không có lương tri về lỗi lầm, chúng không có lương tâm trước chính tội ác của chúng. Chỉ có tổng lực của công luật trong công tâm, lương thiện trong lương tri, đạo lý trong luân lý để truất phế chúng, và ánh sáng của công lý sẽ đến để xua đi bạo quyền độc tài, tà quyền tham nhũng, ma quyền buôn đất ! Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác của bạo quyền độc tài, tà quyền tham nhũng, ma quyền buôn đất ! Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, trời không dung, đất không tha, vì công lý không dung, vì lương tri không tha. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, trời sẽ đánh, đất sẽ vùi, vì công pháp sẽ đánh, vì đạo lý sẽ vùi tà nghiệp của chúng vào địa nghiệp để cộng nghiệp với bọn ma trơi, ma xó, ma bùn !

Dân oan nhân cách toàn diện

Dân oan nhân cách toàn diện, không những đấu tranh để đòi lại đất của mình, mà còn đấu tranh rộng hơn chống chính quyền dùng bạo lực đàn áp, khủng bố nguời dân. Dân oan nhân cách toàn diện, không những đấu tranh để đòi lại đất của mình, mà còn đấu tranh xa hơn bắt buộc chính quyền phải trả tự do cho các dân oan vô tội đang bị giam cầm. Dân oan nhân cách toàn diện, không những đấu tranh để đòi lại đất của mình, mà còn đấu tranh cao hơn là vạch mặt chỉ tên bọn tham quan, trực diện với chúng để lột trần một cơ chế tham nhũng. Dân oan nhân cách toàn diện, không những đấu tranh để đòi lại đất của mình, mà còn đấu tranh sâu hơn là bắt buộc bạo quyền, tà quyền, ma quyền là dân oan không bao giờ chấp nhận án oan ! Dân oan có nhân lý nên dân oan biết đối thoại để sát cánh bên nhau. Dân oan có nhân tri nên dân oan biết đối kháng chống bạo quyền độc tài. Dân oan có nhân trí nên dân oan biết đối lập chống tà quyền tham quan. Dân oan có nhân bản nên dân oan biết đối chọi chống ma quyền buôn đất. Dân oan có nhân văn nên dân oan biết lý luận trước công lý. Dân oan có nhân bản nên dân oan biết lập luận trước công luận. Dân oan có nhân tính nên dân oan biết giải luận trước công pháp. Dân oan có nhân tâm nên dân oan biết diễn luận trước công luật.

Dân oan đòi nhân địa

Bọn cướp đất của dân oan là bọn bạo quyền phản dân, hại nước. Bọn cướp đất của dân oan là bọn tà quyền cướp ngày là quan. Bọn cướp đất của dân oan là bọn ma quyền buôn đất, bán nhà. Bọn cướp đất của dân oan là bọn buôn đất bán trời, và trời không dung, đất không tha chúng. Bọn cướp đất của dân oan là bọn buôn chức bán quyền, và trời sẽ tru, đất sẽ diệt tất cả khốn nghiệp của chúng. Bọn cướp đất của dân oan là bọn buôn nhân bán đức, và nhân loại sẽ lấy lại nhân cách của chúng, nhân lý sẽ lấy lại nhân tính của chúng ! Dân oan đòi nhân địa của mình, vì có chứng từ địa đồ tiên tổ của mình. Dân oan đòi nhân địa của mình, vì có chứng cớ địa dư gia cang của mình. Dân oan đòi nhân địa của mình, vì không muốn dương địa của nhà mình biến thành âm địa của âm binh. Dân oan đòi nhân địa của mình, vì không muốn bạo quyền độc tài thô tục hoá nhân địa của mình. Dân oan đòi nhân địa của mình, vì không muốn tà quyền tham quan thổ bỉ hoá nhân địa của mình. Dân oan đòi nhân địa của mình, vì không muốn ma quyền buôn đất thổ âm hoá nhân địa của mình. Nhân địa của dân oan đủ sung lực vạch mặt chỉ tên bọn tham quan, lột mặt nạ ma quyền tham đất vì tiền.

Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ

Dân oan ngồi trên chính mảnh đất của mình như ngồi trên chủ quyền của mình. Dân oan ngồi trên chính mảnh đất của mình như ngồi trên lưng cường quyền. Dân oan ngồi trên chính mảnh đất của mình như ngồi trên vai bạo quyền. Dân oan ngồi trên chính mảnh đất của mình như ngồi trên đầu tà quyền. Chủ quyền dân oan ngồi trên lưng, ngồi trên vai, ngồi trên đầu bọn trộm, cắp, cướp, giật. Nhân vị của dân oan có trong nhân lý : cái oan luôn thẳng lưng ngồi trên cái tham để cái tham sẽ phải lơ láo, trân tráo trước cái nhân ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, trên mảnh đất muôn đời là của thân phận mình ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, trên mảnh đất muôn kiếp là của ông bà mình ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, trên mảnh đất muôn thuở là của con cháu mình ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, không để bị sang đoạt bởi bạo quyền độc tài ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, không để bị tước đoạt bởi tà quyền tham quan ! Dân oan sống chết với quê cha đất mẹ, không để bị cướp đoạt bởi ma quyền buôn đất !

Dân oan đánh thức công tâm

Dân oan xuống đường để đòi lại đất, để vạch mặt bọn tham quan vơ vét qua tham nhũng, chúng chỉ là ma xó giựt đất vì tham tiền. Dân oan xuống đường để đòi lại công lý, để lột trần thân bọn tham đấttham tiền, chúng chỉ là ma bùn cướp đất để buôn nhà. Dân oan xuống đường để đánh thức công tâm, để dựng lại công bằng, để đưa ra ánh sáng công luật bọn âm binh tham quan, buôn đất. Vì bọn ma xó, ma bùn này không bao giờ dám xuống đường, không bao giờ lộ mặt qua ánh sáng của công lý, vì kiếp của chúng là âm binh ! Dân oan ngồi chờ công lý xử bọn tham quan cướp đất. Dân oan ngồi chờ công bằng để vạch mặt bọn cướp bởi bọn giựt. Dân oan ngồi chờ công luật biết tôn trọng sự thật của đất. Dân oan ngồi chờ công pháp biết tôn vinh chân lý của người. Dân oan ngồi chờ công quyền biết thượng tôn lẽ phải của nhân phẩm.

Trả lại đất cho dân oan

Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có bà con, làng xóm, láng giềng. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có tổ tiên, gia đình, con cháu. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có đồng bào, quần chúng, xã hội. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có chính nghĩa, có đường lối, có phong trào. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có nhân phẩm, nhân nghĩa, nhân tính. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có nhân lý, nhân tri, nhân trí. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan có nhân bản, nhân văn, nhân vị. Dân oan đấu tranh không đơn độc, vì dân oan đấu tranh vì nhân thế, nhân loại. Trong nguyện vọng đấu tranh vì công lý, hơi thở dân oan bàng bạc, trùm phủ mọi công tâm. Trả lại đất cho dân oan, trả lại nhà, trả lại ruộng, trả lại vườn… Trả lại đất cho dân oan, trả lại bàn thờ tổ tiên, trả lại nơi ngủ cho cha mẹ, trả lại nơi học cho con cái. Trả lại đất cho dân oan, trả lại không khí gia đình, trả lại hạnh phúc hằng ngày, trả lại dòng nói, tiếng cười. Trả lại đất cho dân oan, trả lại bàn ghế, tủ giường, để bát đũa, quần áo được yên… để lòng người được an ! Trả lại đất cho dân oan, trả lại "an cư lạc nghiệp". Trả lại đất cho dân oan, trả lại "trong ấm, ngoài êm". Trả lại đất cho dân oan, trả lại : đất ở đâu, người ở đấy !

Bạo quyền độc đảng đã dùng công an để cưỡng chế dân oan

Dân oan tố cáo bọn tham quan, tham quyền vì tham đất, tham tiền. Dân oan tố cáo bọn Ủy Ban Nhân Dân tổ chức cướp ngày. Dân oan tố cáo bọn đảng ủy, thành ủy, tỉnh ủy, huyện ủy cướp ngày, cướp đêm. Dân oan tố cáo bạo quyền độc đảng đã dùng công an để cưỡng chế dân oan. Dân oan tố cáo tà quyền độc trị đã dùng côn đồ để khủng bố dân oan. Dân oan tố cáo ma quyền độc tôn đã dùng âm binh để truy diệt dân oan. Dân oan đòi hỏi minh luật, minh quyền, để trừng trị âm binh độc tôn ! Dân oan tố cáo với chính phủ : bọn quan lại địa phương cướp đất ! Nhưng chính phủ thì còn tội nặng hơn, đã ăn chia, ăn trên, ăn đầy, ăn ngập với bọn âm binh địa phương rồi ! Dân oan tố cáo với trung ương đảng : cường quyền địa phương cướp đất ! Nhưng trung ương thì còn tội nặng hơn, đã để Tàu phỉ cướp nước, cướp biên giới ! Dân oan tố cáo với tổng bí thư : tà quyền địa phương mượn ma luật quy hoạch để cướp đất ! Nhưng tổng bí thư thì còn tội nặng hơn, đã để Tàu tặc cướp biển, cướp đảo ! Dân oan muốn giữ đất hãy lật đổ bạo quyền ! Dân oan muốn giữ nhà hãy đạp đổ tà quyền ! Dân oan muốn giữ nhân phẩm hãy đánh đổ độc quyền !

Dân oan "đầu đường, xó chợ"

Dân oan "đầu đường, xó chợ","độc lập" của độc quyền-độc đảng. Dân oan "đầu đường, xó chợ","tự do" của tham quan-tham nhũng. Dân oan "đầu đường, xó chợ","độc lập","tự do" của tà quyền. Dân oan "đầu đường, xó chợ","độc lập","tự do" của âm binh. Dân oan "đầu đường, xó chợ", phải nằm co vệ đường vì chính quyền trộm, cắp, cướp, giật đất của dân oan ! Tất cả dân oan xuống đường vì nhân cách, không chịu khuất phục trước bạo quyền độc tài. Tất cả dân oan xuống đường vì nhân vị, không chịu oan nhục vì tà quyền tham quan. Tất cả dân oan xuống đường vì nhân bản, không chịu sỉ nhục bởi ma quyền buôn đất. Tất cả dân oan xuống đường vì nhân tri, không chịu nhận oan khiên trước một chế độ độc quyền trong bất tín. Tất cả dân oan xuống đường vì nhân lý, không chịu nhận oan nghiệp trước một cơ chế bất lương trong bất trung. Tất cả dân oan xuống đường vì nhân phẩm, không chịu nhận oan nạn trước một bạo quyền bất công quá bất nhân.

Cướp đất là cướp mạng sống của người !

Cướp đất là cướp nhà, cướp gia đình, cướp bàn thờ tổ tiên của dân oan. Cướp đất là cướp nhân vị, cướp nhân tính trên đất, cướp nhân tình có trong đất. Cướp đất là cướp nhân quyền, cướp nhân thế sống trên đất, thao tác với đất. Cướp đất là cướp nhân lý, cướp nhân loại biết ơn đất, vì đất biết giữ chân người. Lách trước nhân tính, tà quyền tham quan chui nhủi trước nhân phẩm, ma quyền buôn đất rút trốn trước nhân nghĩa, vì chúng ngày mất ăn đêm mất ngủ trước nhân quả của nhân quyền. Ngay thượng nguồn của nhân quyền này bằng lương tri kiên cường của mình, bằng lương tâm quả cảm của mình, nói được trọn vẹn lòng lương thiện của dân oan đang bị cướp trắng bởi đám âm binh này. Dân oan "ăn chực, nằm chờ" đến bao giờ ? Dân oan "ăn chực, nằm chờ" vô hạn định trước bạo quyền ! Dân oan "ăn chực, nằm chờ" vô thời hạn trước tà quyền ! Dân oan "ăn chực, nằm chờ" cho tới gục, vì bọn tham quan bất lương. Dân oan "ăn chực, nằm chờ" cho tới quỳ, vì bọn chính phủ bất tín. Dân oan "ăn chực, nằm chờ" cho tới chết, vì bọn chính quyền bất trung. Dân oan "ăn chực, nằm chờ" để gào công lý, thét công luật, hét công luận ! Dân oan "ăn chực, nằm chờ" để chờ trời cao đất dày xử tội bọn bất lương, bất tín, bất trung !

Dân oan kêu oan trước công lý

Dân oan sống còn để kêu oan trước công lý. Dân oan sống sót để gào oan trước công luật. Dân oan sống cực để hét oan trước công luận. Dân oan sống còn, sống sót, sống cực để vạch mặt bạo quyền tham quan. Dân oan sống còn, sống sót, sống cực để chỉ tên tà quyền tham nhũng. Dân oan sống còn, sống sót, sống cực để lôi ra ánh sáng bọn âm binh tham ô. Dân oan phải sống còn, sống sót, sống cực vì công tâm, công bằng, công lý. Dân oan phải sống còn, sống sót, sống cực vì lương thiện, lương tâm, lương tri. Dân oan phải sống còn, sống sót, sống cực vì nhân phẩm, nhân cách, nhân vị. Công an bắt dân oan vô tội để cứơp đất là một tội ác : một tội ác không thể chấp nhận được ! Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, bạo quyền độc tài là một tội ác. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, tà quyền tham quan là một tội ác. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, ma quyền buôn đất là một tội ác. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, bạo quyền độc tài-tà quyền tham quan-ma quyền buôn đất là một tập đoàn gieo tội ác trên số kiếp của dân tộc. Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác, bạo quyền độc tài-tà quyền tham quan-ma quyền buôn đất là một tập đoàn tội phạm buôn tiền đồ, bán vận mệnh của Việt tộc.

Liên kết với số phận dân oan, kết nối với thảm cảnh dân oan

Liên kết với số phận dân oan, kết nối với thảm cảnh dân oan là chuyện có thật trong tôi, vì mỗi lần tôi thấy cảnh màn trời chiếu đất của dân oan là tôi đang thấy cảnh màn trời chiếu đất ngay trong nhân phẩm của tôi, vì bất cứ lúc nào một bạo quyền độc tài đều có thể biến mọi người vào cảnh màn trời chiếu đất này. Liên can với số phận dân oan, kết đôi với thảm cảnh dân oan là chuyện hàng ngày trong não bộ của tôi, vì mỗi lần tôi thấy cảnh đầu đường xó chợ của dân oan là tôi đang thấy cảnh đầu đường xó chợ ngay trong nhân cách của tôi, vì bất cứ lúc nào một tà quyền tham quan đều có thể biến mọi con dân Việt vào cảnh đầu đường xó chợ này. Liên đới với số phận dân oan, kết dính với thảm cảnh dân oan là chuyện cuộc sống trong hành vi của tôi, vì mỗi lần tôi thấy cảnh bụi đời của dân oan là tôi đang thấy cảnh bụi đời ngay trong nhân vị của tôi, vì bất cứ lúc nào một ma quyền buôn đất đều có thể biến mọi người dân vào cảnh bụi đời này.

giailuan17

Đi tìm chủ thể dân tộc

Chủ thể biết lấy bổn phận, trách nhiệm để song hành cùng sáng kiến, sáng tạo, thì công dân Việt sẽ khai phá ra chủ thể Việt như một tác nhân chủ động khám phá ra là mình có tiềm năng thay đổi cuộc sống, có khả năng thăng hoa cuộc đời. Từ đó, chủ thể sẽ khám phá ra sung lực của tư duy, hùng lực của hành động, tức là khám phá ra là mình có thể làm được những việc, những chuyện mà mình không ngờ nổi để thăng hoa cuộc sống của mình, của đồng loại. Tại đây, chủ thể dùng tự do của mình để sáng tạo, dùng tự chủ để hành động, dùng tự tin để bảo vệ nhân quyền, dùng tự trọng để bảo trì nhân cách. Chủ thể sống trúng để có cuộc sống đúng làm công dân có suy nghĩ đúng về đạo lý cao, sâu, xa, rộng, để loại ra cái ích kỷ trong nhà tù của tư lợi, có hành động đúng hay, đẹp, tốt, lành cho mình và cho tha nhân, cho đồng bào và cho đồng loại. Chủ thể gạt vị kỷ để đón vị tha, xóa cái tôi ở trên đẩy thiên hạ ở dưới, để được đồng hành cùng đồng loại, khử bất công chọn công bằng để nâng nui nhân phẩm ; khi chủ thể tự hỏi : Tôi là ai ? có thể làm được gì ? Mà câu trả lời là tôi sống không chỉ vì tôi mà tôi biết sống vì người. Và, câu trả lời đúng nhất vẫn là câu trả lời : có một cuộc sống đúng là cuộc sống có tôi và tha nhân, mà tôi biết song hành cùng người khác tôi. Chủ thể xây dựng không gian sống vững, thời gian sống bền.

Chủ thể dân tộc của sáng tạo

Chủ thể xây dựng cuộc sống từ đàng hoàng tới tử tế, hơn thế nữa chủ thể đi từ khả thi của tự do tới xóa đi cái gọi là bất khả thi qua tuyên truyền của bạo quyền độc tài, mọi dòng điệu bất khả thi đều tới từ độc tài lại bất tài, để che lấp sự bất tài của nó cùng lúc vô hiệu hóa các sáng tạo của đa tài, đa trí biết phục vụ đồng bào bằng đa lực, biết công hiến cho đất nước bằng đa năng qua đa nguyên. Bạo quyền độc tài lại bất tài luôn sự dụng luận điệu "lực bất tòng tâm" trong loại lưỡi gỗ "cái khó bó cái khôn", nên câu chuyện bất khả thi trong tuyên truyền một chiều của nó không những giới hạn sự sáng tạo tới từ tự do của chủ thể, mà nó chóng chầy sẽ bào chữa cho bất bình đẳng để biện minh cho bất công do chính nó gây ra. Chưa hết, nó dùng tà quyền của tham quan để hợp thức hóa tham nhũng, nó chính thức hóa tham ô để nuôi nấng ma quyền hối lộ của nó ; chủ thể Việt sẽ xuất hiện với hai quyết tâm trong tư duy làm nên hai quyết đoán trong hành động là : dẹp hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn), để xóa luôn hệ tham (tham quan, tham nhũng, tham ô, tham tiền). Độc đảng tạo độc tài nhưng lại bất tài sinh ra ung thư độc trị mà không biết quản trị, vì thế chủ thể Việt phải là chủ thể của hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) đây chính là cơ sở của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) làm nên bản chất của chủ thể.

giailuan18

Chủ thể dân tộc của nhân quyền

Chủ thể Việt tìm mọi cách để nới rộng không gian sống đúng, trực tiếp đẩy lùi để loại, gạt, xóa, bỏ các vùng cấm của bạo quyền với dòng điệu của nó là bất khả thi, chủ thể biết chế tác ra một không gian tự do cao, sâu, xa, rộng, từ đó xem, xét, phán, xử các đặc quyền, đặc lợi, đặc khu của bạo quyền độc tài, mà bản chất là tà quyền lãnh đạo biến dân tộc thành công cụ, biến đất nước thành tài sản riêng để phục vụ tư lợi của nó. Trở thành chủ thể Việt là thực hiện quyền công dân không những trong cộng hòa (công bằng, tự do, bác ái) ; không những trong dân chủnhân quyền, mà còn trong sáng tạo không ngừng, để khi có tự do rồi thì phải có tự do hơn, để khi có công bằng rồi thì phải có công bằng hơn, để khi có bác ái rồi thì phải có bác ái hơn. Chỉ có cách này chủ thể Việt mới bảo vệ được văn hóa quốc gia, văn hiến của tổ tiên, văn minh trong tiến bộ, chỉ có cách này chủ thể Việt mới tự giải phóng mình và dân tộc mình từ chính trị tới kinh tế, từ văn hóa tới giáo dục, từ an ninh tới quốc phòng… Hãy ngừng trông, chờ, mong, cậy vào độc tài lại bất tài, độc trị lại dốt quản trị. Hãy đi tới với hùng lực của chủ thể có nội lực của hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức), có sung lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để đưa Việt tộc ra khỏi cảnh nheo nhóc trong lạc hậu, để đưa đất nước Việt ra khỏi cảnh nhem nhuốt trong tàn tạ hiện nay.

Chủ thể Việt trưởng thành qua đấu tranh

Chủ thể Việt trưởng thành qua đấu tranh khi song hành cùng xã hội dân sự, trải nghiệm với các kiến thức hàng ngày, hàng giờ được trao truyền qua mạng xã hội, quốc nội và quốc ngoại, trong bối cảnh toàn cầu hóa của tin tức trực quan, dữ kiện trực diện, chứng từ trực tuyến. Chủ thể này sống để đón nhận các kinh nghiệm hay, đẹp, tốt, lành của nhân loại, dựa trên hệ nhân : nhân tri, nhân trí hướng dẩn nhân sinh, nhân thế ; có nhân tính, nhân đạo làm nền nhân bản, nhân văn, biết dựa trên nhân từ, nhân nghĩa để xây dựng nhân vị vững để bền. Chủ thể đi tìm và phải tìm cho ra các điều kiện thuận lợi để thực hiện các ước vọng của mình lấy vị tha để đẩy lùi vị kỷ ; lấy điều kiện thuận duyên để hành tác với các hy vọng của mình là lấy tự do để xây dựng công bằng, đây là một trong các định nghĩa đúng thế nào để hiểu thế nào là một cuộc sống đúng. Nếu định nghĩa chính trị là sinh hoạt tranh giành quyền lực, dùng chính quyền để thể hiện quyền lực, thì chủ thể là lực đối trọng với quyền lực để bảo vệ tự do, đối trọng với chính quyền để thực hiện công bằng ; đối trọng bằng trực diện qua công luật vì công lý, đối trọng bằng trực lý qua công pháp dựa trên pháp quyền. Như vậy, chủ thể là công dân trọn vẹn của dân chủ, khi ta định nghĩa dân chủ là quyền lực của dân, dân làm chủ tức là dân chọn chính quyền để thể hiện quyền lực của dân, để thực hiện cộng hòa (công bằng, tự do, bác ái) và dân chủ để bảo vệ nhân quyền.

Chủ thể dân tộc của dân chủ

Dân chủ không cần đầu môi chót lưỡi : "đảng và chính phủ là đầy tớ của dân", nhưng thực chất là đánh lận con đen với một tập đoàn lãnh đạo trong tội phạm dùng công an trị để trừng trị, bóc lột, tù đày dân chúng, nơi mà dân tộc khám phá ra mình là dân tớ chớ không hề là dân chủ.

Cụ thể chủ thể Việt không chấp nhận : một bộ trưởng bộ giáo dục không biết gì về giáo dục ngày ngày lủng đoạn để tha hóa hệ thống giáo dục ; không chấp nhận một bộ trưởng bộ y tế thông đồng với ma quyền buôn mạng người bằng cách bán thuốc ung thư giả ; không chấp nhận một bộ trưởng bộ giao thông vận tải nơi mà các lộ trình đều có thể trở thành tử lộ với con số tử vong của một quốc gia đang có chiến tranh, cùng lúc lập ra các trạm thâu phí để biển thủ cùng bọn ma quyền buôn đường qua thâu phí trái phép ; không chấp nhận một bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư để bọn Tàu tặc xâm lược đất nước ta qua đường đầu độc môi trường, hủy diệt môi sinh.... Tựu trung chủ thể Việt không chấp nhận một chính phủ vỗ ngực là "kiến tạo" mà không có một tư tưởng kiến tạo, một công trình kiến tạo, một tác phẩm kiến tạo cụ thể nào cả ! Với một thủ tướng không có bản lĩnh nhân tri, không có tầm vóc nhân văn, không có nội công nhân bản, song hành cùng một tổng bí thư kim chủ tịch nước mê sảng trong mê lộ của chuyên chính bằng bạo quyền, bất chấp nhân tâm của dòng nòi trước Tàu họa, bất tuân nhân bản trước tiền đồ của tổ tiên, và hoàn toàn bất ngôn trước nhân nghĩa với đồng bào của mình.

Chủ thể Việt vì cuộc sống thật, vì cuộc sống đúng

Chủ thể Việt quyết đoán để quyết định rồi quyết tâm trong hành động năm việc sau : loại hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn), để xóa hệ tham (tham quan, tham nhũng, tham ô, tham tiền) vừa là tiền nạn, vừa là hậu nạn của phản dân hại nước. Khử bạo quyền độc tài để bứng tà quyền tham quan, phải đi cùng với hành tác trừ ma quyền buôn bằng bán chức, là thượng nguồn của mua chức bán quyền, mà hạ nguồn của chúng là buôn dân bán nước. Loại, xóa, khử, trừ mọi đặc quyền, đặc lợi, đặc ân chỉ có trong chuyên chính, chỉ tồn tại trong độc quyền của độc đảng, vào đảng để thăng quan tiến chức, để nhận bổng lộc cùng lúc vơ vét tiền của đồng bào, tài nguyên đất nước, và khi có biến loạn thì cao bay xa chạy với tiền tài của nhân dân. Chấm dứt tuyên truyền mà thâm ý là duy trì ngu dân, chấm dứt xảo ngôn để nâng nịnh đảng, chấm dứt loạn ngôn để mỵ dân trong hoang tưởng về một chủ nghĩa hư ảo ; tự đó lấy cuộc sống thật của dân tộc làm nền để xây dựng cuộc sống đúng cho mọi công dân Việt. Không tập trung quyền lực của chính quyền bằng chính phủ, mà tìm mọi cách để quyền lực được thực sự lan tỏa tới xã hội dân sự, tới tập thể, tới cộng đồng, để chuyện công thực sự là chuyện công, chớ không để số phận Việt tộc bị giam trong lao tù tư hữu đảng theo kiểu mật nghị Thành Đô mà Đảng cộng sản Việt Nam đã ký với Đảng cộng sản Trung Quốc.

Chủ thể Việt của bản thiện

Chủ thể Việt phải dứt khoát từ tư duy tới hành động để loại năm hiểm họa này ra khỏi số kiếp của Việt tộc, chỉ vì năm tai biến này, năm hoạn nạn này, năm bi kịch này không thể chấp nhận được nữa ! Con người tự nhiên với bản thiện, cái tốt là lỏi của con người ; có tư lợi nhưng cũng có bản lĩnh lấy tư lợi để phục vụ tha nhân ; Jung đề nghị xem con người như sinh thể phiến diện (nhìn gần, quên xa) nhưng sống động từ tư duy tới hành động vì biết dùng tư lợi để phục vụ cho thân thuộc, vì cộng đồng. Từ đây chúng ta có thể tìm ra một luận điểm là con người có thể rời cái ích kỷ của tư lợi để khởi xướng, để thăng hoa trong quá trình sống cùngsống chung với nhân sinh. Nên khi định nghĩa thế nào là chủ thể, chúng ta không quên hai chỉ báo : khởi xướng trong tự do, thăng hoa vì tha nhân, tại đây không những sẽ không có kỳ thị giai cấp, không có phân biệt đối xử, mà hơn thế nữa chủ thể luôn đứng về phía nạn nhân để chống bất công, trực diện để đối kháng với bạo quyền để chống áp bức. Chủ thể đứng về phía nước mắt ! Khi dân oan khóc chủ thể thấm thấu được nước mắt của họ ; khi dân đen lầm than trong đói khổ chủ thể thấy chính nhân phẩm mình bị xúc phạm ; khi dân chúng nheo nhóc trong cùng cực, chủ thể thấy nhân vị mình đang bị xói mòn. Chủ thể thấy, hiểu, nhận, thấu nỗi khổ niềm đau của đồng bào, vì chủ thể thấm đậm vận nước, kiếp dân.

Chủ thể Việt của cộng hòa

Chủ thể biết rõ thế nào là công bằng để xây dựng hạnh phúc trong cuộc sống đúng, chủ thể sẽ không đơn độc, mà luôn hành động với ba nhân tố vĩ mô của một dân tộc, của một quốc gia. Chủ thể hành tác cùng phong trào quần chúng có mục tiêu của cộng hòa (công bằng, tự do, bác ái), có mục đích của dân chủ vì nhân quyền. Chủ thể tác động qua cơ chế pháp quyền để kiểm tra ngay trong quyền lực của chính quyền, vì có chủ thể biết rõ là kẻ có quyền luôn có khuynh hướng lạm quyền. Chủ thể hành động cùng xã hội dân sự đấu tranh chống áp bức tới từ bạo quyền lãnh đạo, từ tà quyền tham quan, từ ma quyền buôn đất bán người, nguyên nhân của mọi bất công. Như vậy, chủ thể không chờ đợi có một thể chế dân chủ mới có chủ thể, mà chính chủ thể tạo ra dân chủ, chính chủ thể chế tác ra cộng hòa, chính chủ thể hành động bằng lương tâm của mình trước họa xâm lược. Chính nghĩa làm nên chủ thể, chủ thể làm nên chính thể cộng hòa trong dân chủ, nơi mà chủ thể vận động phong trào quần chúng, cơ chế pháp quyền, xã hội dân sự, để cấm đoán mọi bạo quyền gây ra nội chiến huynh đệ tương tàn, mà ngược lại phải có chính trị với chính quyền tập hợp được toàn dân trong hòa hợp và hòa giải để xóa đi mọi tị hiềm, mọi mê chấp. Cấm đoán mọi tà quyền tạo ra đặc quyền, đặc lợi cùng lúc vơ vét tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc, mượn vô sản để trực lợi, mượn cộng sản để tư lợi. Cấm đoán mọi ma quyền với tư bản đỏ chung chia cùng bạo quyền và tà quyền để bòn rút mọi sinh lực của đồng bào, mọi sinh khí của xã hội.

Chủ thể Việt vì tiền đồ dân tộc

Chủ thể Việt, tạo ra từ tổng thể của nhân trínhân tri dựa trên nhân tínhnhân bản ; đến từ nhân quyềnnhân vị có đường đi nẻo về của nhân đạonhân nghĩa, của "sống lâu mới biết lòng người có nhân", biết sống đúngsống trúng vì hiểu chữ nhân ! Chính chủ thể sẽ cụ thể yêu cầu, đấu tranh qua công pháp bằng phương pháp dân chủ hóa hiến pháp Đảng cộng sản Việt Nam- Đảng cộng sản Việt Nam, không thể nào vĩnh viễn là lượng lực độc nhất lãnh đạo dân tộc Việt. Tất cả công dân hiện nay không đồng ý với Đảng cộng sản Việt Nam đều được sống yên, sống đúng trên lãnh thổ Việt. Tất cả dân tộc Việt được quyền yêu cầu đa nguyên để phát huy đa tài, đa trí, đa lực, đa năng, đa hiệu để đưa xã hội vào tiến bộ, đưa dân tộc vào văn minh. Chủ thể Việt đã có mặt và đã hành động ngay trong xã hội Việt vì tiền đồ dân tộc, có đồng bào miền Bắc đã tưởng niệm các chiến sĩ của Việt Nam Cộng Hòa đã tử thủ vì Hoàng Sa năm 1974. Có đồng bào miền Nam đã tưởng niệm các chiến sĩ đã tử thủ vì Gạc Ma năm 1988. Có các chiến sĩ của hai miền, có đồng bào hải ngoại đang viết-đúng-để-viết-rõ Việt sử là bạo quyền độc đảng khi đàn áp các cuộc tưởng niệm nầy chỉ là một chính quyền gián tiếp hay trực tiếp đóng vai trò Hán nô.

Chủ thể Việt : thương đồng bào, quý đồng loại, trọng tha nhân

Chủ thể thương đồng bào, quý đồng loại, trọng tha nhân, vì chủ thể chấp nhận kẻ khác có mặt trong cuộc đời chung với mình, để cùng nhau xây dựng cuộc sống đúng. Chủ thể chấp nhận thử thách tự có trong sự khác biệt giữ cái tôi và tha nhân, chủ thể chấp nhận luôn sự thăng trầm trong kiếp người để chuyển hóa kiếp người, để tìm ra một định nghĩa thông minh về số kiếp của một người chính là : tự do của người đó ; tự do trong nhân quyền có nền là nhân phẩm. Chủ thể xây dựng cuộc sống đúng trong sự thăng hoa nhân tính, dựa vào nhân lýnhân tri để bảo vệ nhân vị, để tạo dựng một nhân loại biết sống trúng vì cuộc sống đúng. Từ đó, chủ thể trực diện để đối kháng chống bất bình đẳng để trực luận chống bất công ; chủ thể đối kháng trong không gian bạo quyền để đối diện với tà quyền theo chiều dài của thời gian, bất luận thời hạn. Chủ thể đứng về phía ánh sáng để soi sâu vào bóng đêm của tà quyền, nơi chui rúc những âm binh phản dân, hại nước, đứng về phía ánh sáng để vừa bảo vệ sự thật, vừa bảo vệ chân lý, vừa bảo vệ lẽ phải. Chính phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là phương châm của bốn công đoạn để hình thành chủ thể : đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động đây chính là bản chất của dân chủ ; ngược hẳn với độc tài trong độc đảng là chuyên chính-bạo quyết-áp đặt-khống chế.

Chủ thể Việt của lương tri

Chủ thể luôn là nỗi lo của bạo quyền độc tài, nỗi sợ của tà quyền tham quan, nỗi "mất ăn, mất ngủ" của ma quyền buôn dân bán nước, chính vì vậy chúng ta rất dễ nhận ra các chủ thể, từng cá nhân một với lý lịch, diện mạo, danh tánh, đó chính là : các tù nhân lương tâm, đang chịu vào lao lý của một cơ chế âm binh. Khi chúng ta nhận ra các tù nhân lương tâm chính là các chủ thể thì chúng ta đã thấy được lương tâm chúng ta, đã có lương tri ngay trong chủ thể Việt. Kẻ nắm chính quyền hay ngủ mê ngay trong chính cơ chế của quyền lực mà họ tạo ta, để dần dà quên đi là xã hội bên ngoài đã chọn lối đi riêng, để có tổ chức riêng, rồi đứng lên để lật đổ chính cơ chế mà kẻ nắm quyền lực sẽ tự thấy mình bất-lực-vì-đã-bất-tài, khi lìa xa và bỏ rơi xã hội dân sự. Hãy phân tích rõ hiện tượng bạo quyền để nắm quyền lực, nhưng khi có quyền lực thì quên dân tộc, thì kẻ cầm quyền như đang bị bịnh chậm não : thấy chậm, nghe lãng, nói bừa, hiểu sai… để chính thực tế chính trị vật ngã bạo quyền bằng các hùng lực của xã hội, như những đợt sóng ngầm giờ đây đã thành bão táp.

Chủ thể Việt của giáo lý công dân

Chủ thể dân chủ có gốc, rễ, cội, nguồn trong chủ thể công dân, đây là thử thách tức khắc và lâu dài cho Việt tộc, vì người ta không sinh ra là đã thành công dân, mà muốn thành công dân phải qua giáo dục, trong đó giáo lý công dân chính là các điều hay lẽ phải của công bằng-tự do-bác ái. Và, Việt tộc đừng trông chờ gì ở Đảng cộng sản Việt Nam để có chủ thể dân chủ, vì nó đã và đang áp đặt một cách toàn diện và tuyệt đối một quy trình phản dân chủ, để diệt chủ thể công dân bằng hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn) bằng cái độc hại của hệ quyền do nó chế tác ra : bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Trong giáo dục công dân, tư lợi của công dân song hành cùng công lợi của xã hội, trong đó quyền lợi của dân tộc và vận mệnh của quốc gia là ưu tiên hằng đầu của một chính quyền có quyền lực để bảo đảm và bảo trì tư lợi lẫn công lợi. Ngay khi trao quyền lực cho chính quyền, chủ thể dân chủ không nhắm mắt buông xuôi để chính quyền đó muốn làm gì thì làm, mà vừa kiểm tra, vừa tham gia qua ba sinh hoạt dân chủ : dân chủ đầu phiếu, qua bầu cử có định kỳ, trực tiếp thay thế chính quyền bất tài bằng chính quyền hữu dụng. Dân chủ trực tiếp, bằng đề nghị tự tuyên bố trực tiếp tới đấu tranh trực diện tới từ các phong trào xã hội. Dân chủ tham chính, tham gia vào các quá trình xây dựng công luật cho xã hội, tham dự vào các công trình từ vi mô tới vĩ mô để bảo vệ an sinh xã hội, bảo đảm một nhà nước pháp quyền, có một xã hội dân sự thật sự tham chính qua sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội.

giailuan19

Người vô gia cư tại Nhật Bản. Ảnh minh họa : AP

Chủ thể Việt của lẽ phải dân chủ

Dân chủ đầu phiếu sẽ là cuộc đấu tranh thường xuyên, hằng ngày như để bảo vệ nhân vị công dân trong một cơ chế độc đảng chỉ muốn độc trị với tất cả các hậu quả độc hại của nó, mà hiện nay nó đang đi vào con đường độc hiểm trong mê lộ phản dân hại nước, chỉ để giữ độc quyền cho nó, ngày ngày tiến dần tới ma lộ buôn dân bán nước trước bi kịch Tàu tặc-Tàu họa-Tàu hoạn-Tàu nạn. Nhưng dân chủ trực tiếp đã xuất hiện với các phong trào chống các BOT, các trạm thu phí trái phép, tự cho phép ma quyền từ gian lận tới biển lận tiền của dân chúng. Và, dân chủ tham chính đã có mặt dù còn ít ỏi qua sự hình thành xã hội dân sự, với các đóng góp lớn của các nhà đấu tranh vì dân chủ, luôn thường xuyên bị đe dọa, khủng bố, vu cáo, bắp bớ, tù đày… Nhưng dân chủ luôn là chuyện lạ và hay, vì bạo quyền không hề dập tắt được các cuộc đấu tranh dân chủ, vì lẽ phải dân chủ luôn là ánh sáng làm nên lửa để đốt rụi mọi hành động của bạo quyền độc đoán. Đây là quy luật của cuộc sống luôn đi tìm công bằng trong văn minh để tồn tại, chính tại đây ba chủ thể mới đã ra đời và sẽ song hành cùng nhau trong những ngày tháng tới để có một chân trời chung vì một cuộc sống đúng. Các nhà đấu tranh vì dân chủ để bảo vệ nhân quyền, đã chấp nhận vòng lao lý khi họ đã trở thành các tù nhân lương tâm của bạo quyền độc đảng, chính họ đã chứng minh Việt tộc là một minh tộc, đủ thông minh để thoát kiếp làm nạn nhân cho tà quyền.

Chủ thể Việt của thay đời đổi kiếp

Hàng triệu dân oan là nạn nhận trực tiếp của chuyện một cổ ba tròng : bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, giờ đã chịu cảnh màn trời chiếu đất rồi đầu đường xó chợ, đã có nhận thức để trở thành chủ thể dân chủ ; vì đây là độc đạo để tự cứu mình. Hàng triệu triệu dân đen ngày ngày lao động trong túng quẩn, ăn ở trong thiếu thốn, gia đình nheo nhóc, với hoàn cảnh xã hội là thực phẩm độc hại với ô nhiễm môi sinh ; thường trực đe dọa trực tiếp mạng sống của họ và tương lai con cái của họ, chỉ còn độc lộ làm chủ thể dân chủ, để đấu tranh vì dân chủ sẽ là lối thoát cho nhân kiếp của họ. Các lực lượng này sẽ gặp gỡ để cùng hội tụ với nhiều thành phần xã hội khác còn giữ được lương tâm của công dân, lương tri của tổ tiên, cùng đi về một chân trời mới, nơi đó dân chủ của đa nguyên đa trí, đa tài, đa lực, đa năng, đa hiệu, đủ hùng lực để xóa bỏ và vất đi độc tài mà bất tài như hiện nay. Nơi chân trời đó, nhân quyền với trọn vẹn nhân lý trong nhân đạo, sẽ dọn dẹp sạch sẽ bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Cũng ngay chân trời đó, ba lực lượng này cùng nhiều thành phần xã hội khác sẽ làm được chuyện góp gió thành bão để thực hiện cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa dân tộc, vinh danh đất nước, để minh chứng rằng Việt tộc từ bao đời nay là một dũng tộc !

Chủ thể Việt dân chủ lập hiến

Chủ thể dân chủ chính là chủ thể lập hiến, nơi mà hiến pháp phải tuyệt đối bảo vệ chủ thể, bằng luật pháp bảo vệ cá nhân, bằng công pháp bảo vệ công dân, nơi mà hiến pháp bảo vệ chủ thể bằng quyền tra xét, phê bình và kiện cáo của chủ thể trước bất cứ một chính quyền nào, khi chính quyền đó trộm, cắp, cướp, giật tư lợi của mình (hãy nhớ kỹ những bất công mà dân oan đang gánh chịu hiện nay tại Việt Nam). Từ chủ thể lập hiến nơi mà mỗi công dân mang một giá trị lập hiến để cử ra lập pháp, để có hành pháptư pháp, thì chủ thể lập hiến này luôn có mặt trong không gian và thời gian trong cả cuộc sống dài của một công dân ; trong khi đó thì các chính phủ chỉ có định kỳ, chính quyền phải bị định hạn, và quyền lực thì hạn hẹp qua định kỳ và định hạn này. Hằng ngày trong mong cầu cuộc sống đúng để được sống trúng với ý nguyện của mình, thì hiến pháp phải bảo vệ nhiều quyền lực của chủ thể : tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do kiến nghị tham chính, tự do quyết định tương lai, tự do chọn lựa chính quyền... Chủ thể dân chủ khi được xác chứng như chủ thể lập hiến với trọn vẹn giá trị lập hiến, thì lập hiến đã nhập nội vào khu vực của công pháp nơi mà pháp quyền phải bảo vệ cho bằng được nhân quyền. Từ đây, chủ thể dân chủ không còn là một cá nhân riêng rẽ, mà đã trở thành một công dân phổ quát với tất cả các giá trị lập hiến phổ biến.

Chủ thể Việt "trọn duyên" với nhân quyền

Khi chủ thể dân chủ được bảo chứng như chủ thể lập hiến, thì đây là một quá trinh tiến hóa của nhân loại đã đi qua bốn đoạn đường của nhân quyền trong quỹ đạo của văn minh : đoạn đường chính trị, của chính khách liêm chính trong chính giới liêm sỉ biết đặt công bằng làm trung tâm cho tự do, nơi vừa có tư lợi vừa có công ích. Đoạn đường lịch sử, nơi mà các tiến bộ chính trị luôn song hành cùng các tiến bộ xã hội, có cá nhân không quên tập thể, có cộng đồng không bỏ dân tộc, có nhân phẩm riêng từng người làm rỏ, làm giàu cho nhân vị của nhân loại. Đoạn đường công pháp, pháp luật bảo vệ cá nhân sánh đôi cùng công luật bảo vệ dân tộc và quốc gia, cả hai cùng tuân thủ công pháp quốc tế về nhân quyền như một giá trị vĩnh hằng và phổ quát cho nhân loại. Đoạn đường xã hội, tại đây nhân quyền vừa là gốc, rễ, cội, nguồn của đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, nhất là quan hệ xã hội trong đó không ai là nạn nhân của ai ; và tất cả từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng địa phương tới toàn dân của một quốc gia, cùng có chung một thỏa thuận : một cuộc sống đúng (đúng nghĩa vì có ý nghĩa). Khi đi trọn được bốn đoạn đường này, xem như là dân chủ đã "trọn duyên" với nhân quyền, và thành công về nhân quyền là cuộc cách mạng cao, sâu, xa, rộng vào loại hàng đầu của nhân loại.

Chủ thể Việt vẫn chưa "dứt duyên" với nhân quyền

Hãy phân tích thêm là dân chủ vẫn chưa "dứt duyên" với nhân quyền, chỉ vì lý tưởng nhân quyền không ở sau lưng chúng ta, mà luôn ở trước mắt chúng ta, vì bạo quyền vẫn hằng ngày đe dọa, khủng bố, truy hiếp nhân quyền, trên các quốc gia chưa có dân chủ… như Việt Nam hiện nay. Chủ thể Việt có nhận thức là chủ thể nắm vững hệ thức : biết lấy kiến thức để xây dựng tri thức, biết nhận ý thức để định vị nhận thức, không ngây thơ trong xã hội để không ngây ngô trong chính trị, vì chủ thể nhận thức biết phân biệt xảo ngôn tuyên truyền để phân loại xảo thuật chính trị. Chủ thể nhận thức cẩn trọng trước mọi cấu trúc trộn lẫn để hòa đồng, thí dụ như xảo ngữ "ý đảng lòng dân", mọi ý đồ trộn lẫn đều mang thâm ý khống chế, nơi đó có kẻ chính "làm cha" người phụ, kẻ trên đi trên lưng, trên vai, trên đầu người dưới ; tại đây không hề có công bằng, mà chỉ có lợi dụng để lạm dụng ; loại xảo ngôn này thì "ý đảng" lãnh đạo nên làm chủ, còn "lòng dân" đóng vai tớ chịu sự lãnh đạo. Ngược lại, khi chủ thể thực sự dân chủ, vì không muốn làm nạn nhân tôi tớ cho độc tài thì cứ đổi lại "ý dân" làm chủ, để được dân chủ bó buộc "lòng đảng" là phải tận tâm, tận lòng phục dịch cho "ý dân".

Chủ thể Việt + dân chủ Việt

Chủ thể Việt làm nên dân chủ Việt nơi mà "ý dân" được thực hiện qua bốn giai đoạn dân chủ : ý muốn của dân có công bằng xã hội song hành cùng tự do cá nhân ; ý định của dân là khử độc tài để xây dựng có dân chủ trong nhân quyền, ý nguyện của dân có tiến bộ xã hội trong văn minh của tiến hóa, ý chí của dân trong độc lập dân tộc với toàn vẹn lãnh thổ. Khi phương trình Việt đã có đáp số này rồi :

Chủ thể Việt + dân chủ Việt = dân chủ + tự do + công bằng + bác ái, thì không một bạo quyền độc tài nào có thể làm mất nhân phẩm Việt, thì không một tà quyền tham quan nào có thể làm mất nhân vị Việt, thì không một ma quyền tham tiền nào có thể làm mất nhân cách Việt được cả ! Cái đẹp của yêu nước, cái cao của thương nòi nhiều khi hiện diện rất bình thường trong cái bị xem là quê mùa, đừng ngại bị chê là quê mùa, bị chọc là nhà quê, bạn à. Nếu cái quê là quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn của mình thì nơi đó có cái trong của bản sắc Việt, có cái sáng của văn hóa Việt làm nên cái đẹp của tâm hồn Việt, tạo nên cái cao của tình cảm Việt.

giailuan20

Con đường sự thật của đất nước

Con đường giúp ta tới với sự thật của đất nước, để đến với chân lý của dân tộc, giúp ta gặp và giữ được lẽ phải của tình cảm yêu nước thương nòi. Khi bạn quý trọng đất nước Việt, khi ta kính yêu đồng bào Việt, thì sự thật của đất nước, chân lý của dân tộc, lẽ phải của tình cảm yêu nước thương nòi có sức liên kết vô song làm nên mãnh lực cứu nước để giữ nước mà không một bạo quyền độc tài nào, một tà quyền tham quan nào, một ma quyền xâm lược nào có thể bóp chết lòng yêu nước thương nòi của bạn. Cái đẹp của yêu nước, cái cao của thương nòi giúp chúng ta nhìn ra được đất nước, kề cận được quê cha đất mẹ để cảm nhận được những thăng trầm của một đất nước luôn phải gánh chịu những cuộc chiến. Trên mảnh đất này, đồng bào mình phải trả những cái giá khốc liệt nhất, chính đây là vốn Việt sử làm nên cái vốn cho tình cảm yêu nước thương nòi, khách quan và rõ ràng, ở đây chúng ta như chạm vào được sự thật của quê hương trong chiều sâu của nó. Hậu quả chiến tranh là một sự thật làm nên tâm hồn Việt của một dân tộc biết yêu quý hòa bình luôn muốn bảo vệ cho bằng được sự sống. Chính sự có mặt của nỗi buồn qua các mất mát do chiến tranh gây nên làm chúng luôn nhận thức là nỗi buồn nầy chính là nỗi niềm của dân tộc, hãy đặt tên cho nó là cái vốn của sự thật yêu nước thương nòi, luôn là những nỗi lo của mọi người Việt muốn thở cùng một nhịp thở với dân tộc, với đất nước.

Sự thật yêu nước thương nòi

Sự thật yêu nước thương nòi có gốc, rễ, cội, nguồn trong nội kết của nỗi buồn quá khứ-nỗi niệm hiện tại-nỗi lo cho tương lai chính là sự thật của mọi sự thật về lòng yêu nước trong mỗi người Việt, đây là chỉ báo chính xác nhất nhận ra nhân phẩm Việt. Lòng trằn trọc vì dân tộc, vì quê hương trước các hiểm họa diệt vong tới từ các tập đoàn buôn dân bán nước đang mở cửa cho bọn xâm lăng Tàu tặc, chúng đã tràn lan trên đất Việt : xâm chiếm đất, đảo, biển ; xâm lăng kinh tế, thương mại ; xâm lược chính trị, cơ chế… Các trạng từ giờ được chúng ta thêm vào : vô cùng, vô hạn, chính là nội công của ý lực của câu chuyện yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn, các trạng từ này không hề là sáo ngữ, không hề là loạn ngôn, nó là quyết tâm làm nên quyết đoán để dẫn tới quyết định chung của tất cả chúng ta là không để bị : mất nước ! Và không làm kiếp nô lệ ! Mang tâm cảm yêu nước vô cùng, có thâm cảm thương nòi vô hạn thì không bị giới hạn nào, tức là không lo sợ một bạo quyền độc tài nào muốn truy hiếp chúng ta ; không lùi bước trước một tà quyền phản dân hại nước nào sát hại chúng ta ; không cúi đầu trước bất cứ ma quyền xâm lược nào muốn đô hộ chúng ta. Yêu nước vô cùng là chuẩn bị chấp nhận những hy sinh vô biên, không rào cản ; thương nòi vô hạn sẽ loại bỏ đi các con tính hữu hạn của ích kỷ trong mỗi cá nhân.

Yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn

Chúng ta ngày càng xa lạ với loại hoạn kịch của ai chết mặc ai, rồi bây chết mặc bây, đã làm nên cái vô cảm đang tràn lan trong xã hội Việt hiện nay, dưới sự lãnh đạo của một đảng độc tài trong bất tài về đạo lý, không có đề nghị được một đề nghị luân lý nào từ khi nó cướp được chính quyền, để có thể làm nên một giáo lý quốc gia mà đưa dân tộc tới văn minh. Tình cảm yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn là một sự thật có trong đời sống hằng ngày của chúng ta, dù bận bất cứ sinh hoạt nghề nghiệp nào, dù bị lôi cuốn vào bất cứ động cơ vật chất, tài chính, kinh tế nào, thì chúng ta luôn có thì giờ nhớ về quê hương, gởi tình thương của ta về đồng bào mình. Khi đó thâm tình yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn trỗi dậy như những đợt sóng, có khi những đợt sóng này tới lúc giữa khuya, có khi bắt đầu một ngày của phút đầu tiên một buổi sáng còn tinh sương. Những đợt sóng dạt dào này, lúc thì chỉ vài phút, lúc chúng ở lại với ta hằng giờ, có khi chúng ngự trị giữa nhân sinh quan của ta cả ngày, cả tuần, cả tháng, cả năm một cách vừa hồn nhiên, vừa mãnh liệt. Những đợt sóng này trỗi lên giúp ta nhìn cuộc sống chung quanh bằng hùng lực của yêu vô cùng, thương vô hạn ; đây là sự thật mà bạo quyền bán nước, tà quyền buôn dân, ma quyền xâm lược không sao hiểu thấu tới nơi tới chốn được tình cảm này.

Yêu trái đất vô cùng, thương muôn loài vô hạn

Yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn lẳng lặng bồi đắp một công trình mà bạn sẽ từ từ khám ra, một công trình tuyệt diệu ! Cụ thể là tình cảm này đang xây dựng một thế giới quan mới, đang chế tác ra một vũ trụ quan mới, để dâng hiến cho những ai yêu nước thương nòi. Những đợt sóng chung thủy này làm cho nhân phẩm của ta ngày càng cao, làm cho nhân nghĩa của ta ngày càng lớn. Đó là thế giới quan hiểu để thương tất cả các dân tộc biết yêu đất nước của họ, tức là vừa sống vừa bảo vệ quê hương họ, dân tộc họ. Đó là vũ trụ quan thấu để quý tất cả các dân tộc biết yêu và biết bảo vệ môi sinh của họ ; cùng lúc biết tôn trọng tất cả môi trường trong và ngoài quốc gia của mình trên trái đất này ; nơi mà muôn loài có cùng một dòng sinh mệnh.Từ đây, cụm từ lực yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn sẽ song hành cùng một bạn nối khố mới của mình là yêu trái đất vô cùng, thương muôn loài vô hạn, cả hai sẽ đi về cùng đi về một chân trời, nơi đó người ta sống để sống đẹp trong sống vui, chớ không phải sống để "bán đứng" nhau. Yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn không chỉ là một tình cảm chủ quan, mà nó là một tư tưởng có lý luận qua thực tế của xã hội, có lập luận qua thực cảnh của dân tộc, có giải luận qua thực trạng của đồng bào mình. Cụ thể hơn nữa tư tưởng này giúp tất cả con dân yêu nước nhận ra sự thật tương lai của chính số phận của mình bằng phương pháp diễn luận của vô trương bất tín (thấy mới tin, không thấy không tin).

giailuan21

Người vô gia cư ở Nhật Bản hầu hết là người già, họ tập trung ở những nơi đã bỏ hoang chứ không la liệt ở đường phố. Ảnh minh họa 

Dựng nước – giữ nước – cứu nước

Hãy thấy một cách rất sáng suốt là phản dân hại nước sẽ đưa tới buôn dân bán nước, khi tà quyền đi đêm với Tàu tặc qua các mật nghị mà dân tộc không biết, nhân dân không được quyền xem thì sự bất minh đã thành bất chính. Thí dụ rõ nhất là mật nghị Thành Đô, và hiện nay là những thỏa hiệp được giữ tuyệt mật của hai đảng, Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam, được ký và kết bởi hai lãnh tụ Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng. Tại sao lại giấu ? Người ta giấu vì người ta có tư lợi trong chuyện giấu diếm này, đây là bài học đầu tiên trong xã hội học quyền lực. Tại sao lại giấu ? Người ta giấu vì người ta mà đưa ra cho nhân dân xem thì chính nhân dân cũng "không thể tin" vào con mắt của mình, vì sự thật bán nước ở ngoài mọi tưởng tượng của những người yêu nước vô cùng, thương nòi vô hạn, đây là bài học căn bản vỡ lòng của tâm lý học truyền thông. Chuyện thay đời, đổi kiếpý muốn tạo ra ý định dựng nên ý nguyện muốn thay một cuộc sống xấu thành một cuộc đời tốt ; muốn đổi một kiếp tồi thành một kiếp tốt, từ đây ý nguyện sẽ thành ý lực làm nên hành động cụ thể, để chống tà quyền bán nước, chống ma quyền xâm lược. Mà không cần phải qua bạo động sắc máu, không cần phải qua bạo lực sinh ra hệ lụy ; mà bằng chính các vốn thông minh mà ta đang có từ khi ta biết yêu nước thương nòi : vốn tổ tiên biết dựng nước-giữ nước-cứu nước.

Biểu tượng thông thái của một

Đồng tâm làm nên cái đồng điệu của một. Chữ : đồng đây chính là biểu tượng thông thái của một, nhờ có đồng tâm, đồng điệu nên họ làm được chuyện đồng lòng, đó chính là nhất trí ! Trong một ý chí duy nhất là giữ nước cứu dânyêu nước thương nòi. Tổng thể của một là hùng lực của phương trình đồng tâm-đồng điệu-đồng lòng làm nên nhất trí, một sự đoàn kết tuyệt đối của một, của nhất, của đồng : một sức mạnh vô song. Sức mạnh này sáng như hải đăng trong Việt sử của một dũng tộc, tên gọi là Việt tộc, đã thắng hơn 20 lần các cuộc xâm lược tới từ phương bắc, một dũng tộc mà cũng là một minh tộc, có đủ thông minh để hiểu rõ gốc, rễ, cội, nguồn của một, của nhất, của đồng. Mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đúc kết thành định đề : rễ sâu, gốc chắc ! để dặn dò vua Trần Anh Tông là không lo, không sợ quân Nguyên trở lại, nếu chúng trở lại, thì ta lại sử dụng rễ sâu, gốc chắc ! của lòng đoàn kết tuyệt đối của một, của nhất, của đồng để làm nên một sức mạnh vô song mà dẹp chúng. Vậy mà, vừa qua ngày 17 tháng 2 năm 2019 này, tà quyền độc đảng đã lén lút dời lư hương trước tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mà Việt tộc kính yêu như Đức Thánh, chỉ vì chúng lo sợ là các con dân yêu nước thương nòi sẽ ra thắp hương, cúi đầu để tưởng niệm 40 năm, ngày các chiến sĩ và đồng bào đã tử vong sau ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Tàu tặc xua hơn sáu mươi vạn quân gây ra bao chiến họa trên sáu tỉnh biên giới.

Tổng thể của một, của nhất, của đồng làm nên chủ thể

Tổng thể của một, của nhất, của đồng làm nên chủ thể yêu nước thương nòi, chủ thể không còn là những cá nhân đơn lẻ, cũng không còn là các công dân đơn độc, mà là chủ thể của toàn vẹn lãnh thổ, của độc lập dân tộc làm nên nhân phẩm Việt, bất khuất giữ nước-cứu nước cho bằng được. Hãy định nghĩa rõ ràng thế nào là chủ thể yêu nước thương nòi ? Một chủ thể biết trách nhiệm, hiểu bổn phận công dân, và nhất là biết sử dụng các kinh nghiệm thắng giặc của tổ tiên ; mà cũng biết tránh được các thất bại của cha ông trong lịch sử, để sáng tạo ra các chiến lược mới, các sách lược mới mà thắng kẻ xâm lược đang đứng trước mắt ta là Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc đang mượn "con đường cộng sản anh em" để thao túng, để giật dây, để gài bẫy Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam, để thực hiện hệ xâm : xâm lấn rồi xâm chiếm, xâm lược rồi xâm lăng Việt Nam. Câu chuyện chủ thể yêu nước thương nòi mang tầm tiên quyết trong quyết tâm cứu nước của mỗi chúng ta, vì chỉ chủ thể yêu nước thương nòi mới thật sự là chủ thể với đạo lý của trách nhiệm giữ nước, với luân lý của bổn phận cứu nước, vì bọn tà quyền phản dân hại nước không phải là chủ thể, vì bọn ma quyền buôn dân bán nước không phải là chủ thể, chúng chỉ là tiểu nhân, chúng đã mất nhân vị Việt vì chính vị kỷ của chúng ! Chủ thể yêu nước thương nòi chính là chủ thể của toàn thể đất nước, vì chủ thể yêu nước thương nòi chỉ chấp nhận toàn vẹn lãnh thổ.

Toán học Việt : một duyên, hai nợ, ba tình

Chính lương tri của chủ thể yêu nước thương nòi làm rễ sâu, gốc chắc cho nhân phẩm Việt, để bảo đảm bản sắc Việt, để bảo trì văn hóa Việt, nơi mà nhân phẩm Việt của toàn vẹn lãnh thổ gạt ra được các tiểu nhân ích kỷ, lùa xa được các cá nhân vô cảm, xua đi được các bè phải vô luân chỉ muốn đi lại con đường bán nước của Lê Chiêu Thống. Yêu nước thương nòi thực sự là một là một cơ duyên tạo nên thâm tình của một người Việt khắng khít với quê hương và đồng bào của mình quy luật toán học Việt : một duyên, hai nợ, ba tình, nơi mà chữ duyên là kết quả mầu nhiệm làm nên hạnh ngộ, nó không phải bị bắt buộc phải yêu nước, bị bó buộc phải thương nòi. Nơi mà người Việt yêu nước thương nòi sẽ có một hạnh phúc lớn khi đã có hạnh ngộ với đồng bào, với đất nước của mình. Cái duyên làm nên cái nợ muốn "trao thân gởi phận" nơi đất Việt, để được "ăn đời ở kiếp" nơi chốn Việt, vì "nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây", tự bao giờ đã làm nên cái tình của "tình sâu nghĩa nặng". Người yêu nước thương nòi có tâm hồn luôn đẹp hơn kẻ vô tâm "ai chết mặc ai", hơn kẻ vô cảm "bây chết mặc bây" ; một tâm hồn đẹp vì biết kham đất nước, dân tộc, biết chia sẻ, tức là biết bồng, cõng, gánh, đội những thăng trầm mà đất nước đang phải chịu, những trầm luân mà đồng bào phải nhận. Động từ kham không hề là khổ luỵ, không phải là nhục hình, mà chỉ là chấp nhận có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với tổ quốc. Kham để chia sẻ tới nơi tới chốn nỗi khổ của quê hương, niềm đau của dân tộc.

Tâm hồn Việt đẹp vì nhân nghĩa Việt sâu

Tâm hồn đẹp của người yêu nước thương nòi, tới từ nhân nghĩa Việt sâu trong "tình làng nghĩa nước", tới từ nhân từ Việt rộng trong "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ", tới từ nhân tâm Việt cao "bầu ơi thương lấy bí cùng". Tất cả tạo nên giá trị hay, đẹp, tốt, lành của tâm hồn Việt luôn yêu nước thương nòi, luôn có hai phẩm chất : chungchia, mà các cá thể của tà quyền bán nước, ma quyền buôn dân không sao có được. Biết bảo vệ các tài sản chung của tổ tiên để lại, biết bảo quản môi sinh chung, nâng niu môi trường chung vì đó là đất Mẹ. Bọn cầm quyền buôn dân, bọn lãnh đạo bán nước rồi thì chỉ có chạy theo chủ Tàu tặc xâm lược, hoặc cúi đầu trong lủi nhủi chạy qua phương Tây, với tiền của đã vơ vét của đồng bào, chúng không hề tính chuyện sống chung với đồng bào thì làm sao chúng biết chia với đồng loại. Ngược lại, tâm hồn Việt đẹp yêu nước thương nòi, vì nhân nghĩa Việt sâu, sâu vì biết chung, biết chia.

Hàng triệu người vô gia cư

Nếu một dân tộc 100 triệu dân, mà có hàng triệu người vô gia cư, thì dân tộc đó đã phải nhận một phần lớn số phận màn trời chiếu đất. Nếu một dòng nòi có 100 triệu con dân, mà có hằng triệu người vô gia cư, thì dòng nòi đó đã phải nhận một phần lớn nhân kiếp đầu đường xó chợ. Nếu ra đường, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình không có mái ấm che thân, khi công dân này sẽ nhận ra nhân phẩm của các đồng bào vô gia cư đã mất rồi ! Thì chính lúc đó công dân đang có mái ấm che thân phải nhận ra luôn là chính nhân phẩm của mình đang bị xúc phạm. Nếu ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình mất đất mất nhà, công dân này sẽ nhận ra nhân vị của các đồng bào vô gia cư không còn nữa ! Thì chính lúc đó công dân này đang đất có nhà cũng phải nhận ra luôn là chính nhân vị của mình cũng đang bị mất, và sẽ bị mất bất cứ lúc nào bởi bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Nếu trên đường ngoài phố, một công dân Việt đã thấy nhiều đồng bào của mình đang bụi thân trong bùn kiếp, mà trước đó họ là dân lành, dân đen đã bị bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền biến thành dân oan, dân bụi ; họ đã bị cướp nhân quyền rồi ! Thì chính công dân đó phải nhận ra là chính nhân quyền của mình cũng sẽ bị cướp. Vì khi một dân tộc để bạo quyền độc tài, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền chỉ biết trộm, cắp, cướp, giật, rồi quyết định nhân kiếp của mình thì dân tộc đó phải nhận kiếp nạn nhân : không nhân phẩm, không nhân vị, không nhân quyền…

Bạo quyền cùng tà quyền vô gia cư hóa dân tộc

Những đồng bào hiện nay đang vô gia cư, sống đầu đường xó chợ, ngủ với màn trời chiếu đất, họ đang lưu vong trong nhục hình ngay trên quê hương họ, họ mang thân du mục tủi nhục ngay trên đất nước họ, họ mang kiếp nô lệ với những tên chủ vô hình đã loại bỏ họ ra khỏi cuộc sống bình thường, đã gạt phăng họ ra hẳn nhân sinh bình an. Những tên chủ tưởng là vô hình không trừu tượng, không lý thuyết, không viễn vông, nhưng chúng thực sự có mặt, có quyền lực để bảo vệ quyền lợi của chúng, bằng đặc quyền, đặc lợi, đặc ân do chúng chế ra. Đó là bạo quyền lãnh đạo, dùng bạo lực để bạo hành dân tộc, dòng nòi như một phản xạ của một chế độ công an trị, giờ phản xạ này đã là hằng số, nó nói lên bản chất của độc đảng trong độc quyền, độc tài để độc trị. Đó là tà quyền tham quan, dùng tham quyền để tham ô, vì tham tiền nên tham nhũng, bòn rút tài nguyên đất nước, rút tỉa sinh lực dân tộc, lấy chuyện cướp ngày là quan để lách luật, trốn luật, thậm chí xé luật, để chống lưng cho bọn sân sau của chúng trong bóng đêm qua mua chức bán quyền, đang sâu mọt hóa mọi đạo đức của Việt tộc. Ma quyền tham tiền, là bọn con buôn không có đạo lý vì không biết luân lý nên chẳng màng gì tới đạo đức, chúng chỉ biết tham-đất-vì-tham-tiền nên chúng không thấy cảnh đồng bào vô gia cư là cảnh rất thương tâm.

Nhân họa độc

Nếu nhân quyền chưa tới được bằng dân chủ trong số phận của Việt tộc hiện nay, thì các chính nhân đại diện cho chính giới phải là chính khách trong nhân vị của minh vương, trong nhân bản của minh chúa, trong nhân từ của minh chủ, trong minh trí của minh sư, mà Việt tộc đã không hề thiếu trong Việt sử của mình. hiện tượng xã hội vô gia cư, sinh ra các hệ quả xấu đang và sẽ làm nên nhân họa độc, nơi mà thực tế vô gia cư của bao đồng bào đã đưa ra những chỉ báo phân tích để giải thích bao hệ quả đang trùm bẫy Việt tộc. Kẻ quá giàu qua hệ tham (tham quan, tham quyền, tham ô, tham nhũng, tham tiền) chính là ký sinh trùng sống nhờ và phát triển trên ung thư của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc tôn, độc quyền). Chính hai hệ thamđộc san sinh ra hai hệ khác là : hệ bất (bất lương, bất tín, bất nhân) song đôi để song hành cùng hệ vô (vô tâm, vô giác, vô tri, vô cảm). Cả bốn hệ này : tham, độc, bất, vô tham quyền để cố vị và diệt cho bằng được hai hệ chính là hai vốn quý của xã hội là : hệ công (công bằng, công lý, công tâm) luôn biết dựa vào hệ đa (đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu) có chân dung diện mạo của đa đảng tận dụng dân chủ nhân quyền.

Dân tộc : nạn nhân trong nạn họa

Nếu kinh tế học là một chuyên ngành đặt lợi ích tập thể trên lợi ít cá nhân để bảo vệ an sinh xã hội, lấy kinh tế phục vụ cho công bằng, bằng công lý của công luật, thì kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay đang bơi ngược, đi ngược, chạy ngược với định nghĩa này. Một ý thức hệ với tên gọi là cộng sản chủ nghĩa, nơi mà công sản của Việt tộc hiện nay từ tài nguyên của đất nước tới nguyên khí của dân tộc đều đang nằm trong quỹ đạo của quá trình tư hữu hóa của một thiểu số đang nắm quyền lực. Mà những kẻ nắm quyền để có quyền sở hữu này chính là : bạo quyền lãnh đạo song lứa với tà quyền tham quan để song hành cùng ma quyền tham tiền. Một thiểu số sinh hoạt như những bè, nhóm, phái với hành tác của các tập đoàn tội phạm : không trộm được thì cướp, không cắp được thì giật ! Cộng sản thì làm sao lại tư hữu hóa công sản ? Tại đây, định nghĩa kinh tế học là gì phải đi đôi, đi cùng với định đề để định luận sinh hoạt kinh tế, đời sống kinh tế, tổ chức kinh tế. Nếu một xã hội mà thảm trạng tư hữu từ tài nguyên, nguyên liệu, thiên nhiên tới lao động, bất động sản là quyền tự do qua đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của một thiểu số khai thác, thao túng một độc đảng là Đảng cộng sản Việt Nam trong tham quyền để lộng quyền, thì xã hội này không có tự do cho đa số đồng bào, dân tộc : xã hội Việt Nam hiện nay không phải là xã hội của tự do !

Dân lành giờ đã trở thành dân đen, dân oan

Nếu một xã hội mà thảm trạng tư hữu từ tài nguyên, nguyên liệu, thiên nhiên tới lao động, bất động sản đều dựa trên quy luật âm binh của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, để tha hồ cả lớn nuốt cá bé, để trắng trợn mạnh được yếu thua, tất cả đều được điều khiển bằng : chống lưng, sân sau… thì : xã hội Việt Nam hiện nay không phải là xã hội của công bằng ! Nếu một xã hội mà thảm trạng mà phân nửa này có mái ấm che thân, có nệm ấm chăn êm, mà phân nửa kia là dân lành giờ đã trở thành dân đen, dân oan trong cảnh đầu đường xó chợ, màn trời chiếu đất, với hoạt cảnh thường nhật là vô tâm nên vô giác, vô tri nên vô cảm… Hằng ngày nhìn hàng nghìn đồng bào không nhà, vô gia cư trong vô định mà không thấy thương tâm, nhìn mà không thấy tức là mù sâu trong trí tuệ : xã hội Việt Nam hiện nay không phải là xã hội của công bằng ! Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không phải là các chính nhân đại diện cho chính giới, không phải là chính khách trong nhân vị của minh vương, trong nhân bản của minh chúa, trong nhân từ của minh chủ, trong minh trí với các minh sư mà Việt tộc đã không hề thiếu trong Việt sử của mình. Muốn là lãnh đạo liêm chính thì phải truy để tra, kiểm để soát, để biết, để thu tất cả tiền bạc, của cải của bọn âm binh bạo, tà, ma đã tham nhũng. Phải thu để lấy lại của cải bất chính của chúng, để giải quyết tức khắc nơi ăn chốn ở cho các đồng bào vô gia cư hiện nay.

giailuan22

Giấc ngủ của những người vô gia cư trong đêm đông giá rét

Từ bất bình đẳng tới bất công

Trong một xã hội đang rạn nứt từ thượng tầng lãnh đạo độc quyền trong độc đảng tới hạ tầng sinh hoạt kinh tế, văn hóa, giáo dục… thì khủng hoảng xã hội chính là hàm số để hiểu về hiện tượng vô gia cư của hàng triệu đồng bào. Ở đây hàm số đã thành hằng số, tồn tại và tự tại từ gần nửa thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam. Phải đào sâu để phân tích rộng về những tai họa mà những kẻ ít hơi ngắn tiếng trong xã hội Việt dưới bạo lực công an trị đã phải mang số kiếp của con sâu cái kiến, một sớm một chiều từ dân lành biến thành dân oan, từ dân đen biến thành dân bụi, trong oan cảnh nghiệt ngã của kiếp : bụi đời ! Không nhà, không đất với tên gọi hành chính là : vô gia cư, trong thảm cảnh thường nhật của màn trời chiếu đất, với họa cảnh thường xuyên của đầu đường xó chợ.

Một dân tộc bị "mặc xác hóa"

Nới rộng để giải thích xa trong hiện cảnh của Việt tộc, nơi mà sinh hoạt xã hội hiện nay là sinh hoạt của nắm giữ quyền lực để nhai nuốt quyền lợi, tại nơi này thì mạnh được yếu thua, quen được quyền thì thắng, không quen quyền thì chắc chắn thua. Sinh hoạt xã hội loại bất nhân này được hà hơi tiếp sức bởi bạo quyền lãnh đạo của độc đảng cho phép cá lớn nuốt cá bé, mà cá bé bị nuốt vì không quyền, lại không phải là ký sinh trùng lu bu sống nhờ độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam thì chắc bẩm là bị nuốt : bị nuốt đất, bị nuốt nhà, bị nuốt thân, bị nuốt kiếp… bị nuốt nhân phẩm. Quan hệ xã hội, nơi mà sinh hoạt ma quyền của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ ngày ngày truy hủy trí tuệ, thì chính vật chất của tà quyền sẽ quyết định quan hệ trong nhân sinh, bất chấp nhân phẩm của mọi công dân. Quan hệ xã hội loại này thì chính hệ tham sẽ thô bỉ hóa nhân cách, tồi tục hóa nhân vị, nơi mà tham quyền để trở thành tham quan, để được tham ô rồi làm giàu nhờ tham nhũng với phản xạ tồi bại nhất là lấy tham tiền làm nhân sinh quan trong mọi quan hệ với tha nhân, với đồng loại với đồng bào của mình. Đời sống xã hội, nơi mà mọi cái đều giả được : học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả, bằng sinh hoạt mua bằng bán cấp với quan hệ mua quyền bán chức, được cổ vũ bởi bọn âm binh nắm quyền lực lẫn quyền lợi không ngần ngại phản dân hại nước, nên sẽ không chần chừ trong tà lộ của buôn dân bán nước, mặc dầu (hay mặc xác !) tất cả những người vô gia cư chính là đồng bào của chúng !

Nạn nhân của bất nhân

Đặt câu hỏi về nhân sinh để tìm ra chỗ đứng ghế ngồi cho nhân vị, để trực diện với nhân thế, để giải thích nhân tình bằng nhân tri, và không chấp nhận bạo quyền độc đảng cùng tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả nấp trong bóng tối âm binh của bạo lực công an trị để bạo hành dân lành biến họ thành dân oan. Đối diện với bạo quyền, đối đầu với tà quyền, đối mặt với ma quyền, để đối luận bằng tranh luận, lấy trực luận để trao luận, lấy sự thật để thấu chân lý, lấy lẽ phải để soi rọi công bằng mà tìm cho ra công lý. Nhận nghiệp vụ học ngay trên nhân nạn, nhân họa, kể cả nhân bại khi nhân phẩm, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân vị, nhân tính, nhân bản, nhân văn bị đánh văng ra đường, bị vứt ra khỏi cuộc sống, bị gục nơi đầu đường xó chợ trong bại cảnh màn trời chiếu đất. Hãy luôn bắt đầu bằng chữ nhân : lấy nhân tri, nhân trí để phục vụ nhân sinh, nhân thế ; nhận nhân tính, nhân lý để cống hiến cho nhân gian, nhân loại, nơi mà nhân vị phải là nhân phẩm để xác chứng đạo đức của tổ tiên Việt : sống lâu mới biết lòng người có nhân ! Mà có nhân là có nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa làm nên nhân bản, nhân văn, nhân tính. Theo chu trình của nhân tri để nhận ra nhân trí bằng nhân đức của lẽ phải có trong sự tuần hoàn của nhân gian, nơi mà thất bại hay thành công, thảm bại hay chiến thắng đều là tạm thời, muốn thành công trong bền vững thì phải theo tổ tiên Việt là biết : ăn ở có hậu, tức là có tương lai trong lẽ phải, có mai hậu trong đạo đức.

Bị lôi sâu xuống đáy nhân sinh, bị đưa ra ngoài nhân thế, bị gạt ra khỏi nhân gian

Ăn ở có hậu không phải là câu chuyện của phía sau, của quá khứ, của dĩ vãng ; mà nó là câu chuyện của phía trước, của tương lai trong những chân trời gần nhất và xa nhất. Nên nhưng kẻ dựa dẫm vào bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền thì nên bắt đầu phóng tầm nhìn vào ngày mai, phóng tầm ngắm thật xa để phải cứu giúp ngay các đồng bào vô gia cư đang sống trong nhân bại như đang sống giữa địa ngục trần gian. Hãy đi từ đáy vực sâu của các đồng bào vô gia cư để leo trèo ngược lên phía ánh sáng để nhận ra và liên kết hai thực trạng của nhân sinh là : lên voi xuống chó, vì không ai giàu ba họ không ai khó ba đời để nhận ra phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải của câu chuyện ăn ở có hậu, có gốc rễ, cội, nguồn của đạo đức của thương người như thể thương thân. Những đồng bào của chúng ta đang sống nhưng đã bị đánh văng ra khỏi cuộc sống… Bị lôi sâu xuống đáy nhân sinh, bị đưa ra ngoài nhân thế, bị gạt ra khỏi nhân gian, những đồng bào này trước mắt chúng ta, mà nhiều người trong chúng ta xem như họ không có, những người này nhìn-mà-không-thấy. Những người thờ ơ, lãnh đạm, quay mặt, làm ngơ… những người này đã bị hệ nhập nội vào tâm lực và trí lực, nơi mà vô cảm đã làm ra vô giác, để vô tri biến họ thành vô minh ngay trên điều kiện làm người của họ.

Cái bất nhân từ thượng tầng lãnh đạo

Những đồng bào vô gia cư đang sống nhưng như đã bị loại ra khỏi cuộc sống, phần lớn lỗi không phải từ các nạn nhân này, mà nguyên nhân chính là lỗi (đã trở thành tội) của một chế độ độc tài đã ung thư cùng tham nhũng, bi nạn của Việt tộc hiện nay là bọn độc tài này lại bất tài, một không gian vô định của khổ luận cho cả Việt tộc, bao giờ chúng ta mới quyết định lối ra ngay trên nhân kiếp của chúng ta ? Đây cũng là hậu quả tồi tệ của một độc đảng tham quyền để độc trị nhưng không hề biết quản trị đất nước để đồng bào sống trong điều kiện có khi còn thua, thấp, kém, tồi hơn thú vật. Chính cái bất nhân từ thượng tầng lãnh đạo đã gieo trồng cái vô tâm trong xã hội, chính cái thất nhân từ nội bộ cầm quyền tranh quyền bằng thanh trừng và khi có quyền thì độc quyền vơ vét đã rải tràng mầm mống của thất đức. Cái bất nhân trong bất tín ung thư cùng cái thất nhân vì thất đức đã tạo ra cái vô giác giữa lòng xã hội, nơi mà tâm lý xã hội mạnh ai nấy sống, đã cho sản sinh ra tâm lý tập thể ai chết mặc ai, chỉ vì bọn bề trên đã đối xử với đồng bào với nhẫn tâm : bay chết mặc bay !

Nhân kiếp nghiệt ngã đang quy gục ngay trên chính quê hương của mình

Câu chuyện còn lại là số phận hẩm hiu của Việt tộc đã được nhận qua lăng kính của các đồng bào vô gia cư với nhân kiếp nghiệt ngã là đang quỵ gục ngay trên chính quê hương của mình. Không biết bao giờ họ tự vực họ đứng lên, ngẩng đầu, thẳng lưng, đi tới lật ngược thế cờ để lật đổ bạo quyền độc đảng, tà uyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả bọn âm binh này đều tham tiền không những đã cướp đi nơi ăn chốn ở của họ, mà cướp luôn nhân phẩm của họ. Vấn đề phải phân tích tiếp theo : cũng là đồng bào với nhau, tại sao kẻ có nơi ăn chốn ở lại thờ ơ trong vô cảm, lại lãnh đạm trong vô giác, lại làm ngơ trong vô tri, để vô tình nhận lãnh một loại tâm lý vô tâm trước nỗi khổ của đồng bào, trước niềm đau của đồng loại. Nếu người không cứu người thì ai sẽ cứu người ? Nếu ta không cứu người thì khi ta gặp hoạn nạn ai sẽ cứu ta ? Đây là hai câu hỏi về giác ngộ trước nhân kiếp làm nên tuệ giác trước nhân sinh, trả lời hai câu hỏi này giúp chúng ta tạo dựng nên một tâm lý học tỉnh táo trong sáng suốt ngay trên nhân vị của mỗi con dân Việt, mà tổ tiên Việt đã từng để lại một bài học cho con cháu Việt : Rồng nằm bể cạn phơi râu/ Sa cơ rồng cũng như giun khác gì !

Nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan chỉ là một

Nhân sinh quan của cá nhân trong sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể, nơi mà cá nhân đó có thể là chủ thể khi nhận mệnh đề tự do-công bằng-bác ái để đấu tranh cho dân chủ vì nhân quyền, hay cá nhân này chỉ là cá thể khi chỉ thấy quyền lợi bằng tư lợi, tự lợi qua sự ích kỷ trong tính toán thiệt hơn chỉ cho cá nhân mình. Nên trong cùng một nhân sinh nhưng có nhân sinh quan này cao, sâu, xa, rộng hơn nhân sinh quan kia, tại nơi đây hoài bão của chủ thể đã đi trên lưng, trên vai, trên đầu mọi con tính ích kỷ của cá thể. Thế giới quan của cá nhân trong quan hệ xã hội, cộng đồng, tập thể, nơi mà cá nhân đó có thể nhận ra các quan hệ này không hề cá biệt, bằng con tính xuẩn loạn của được làm vua, thua làm giặc. Cá thể ích kỷ đẻ ra cá nhân vị kỷ, kỷ tới độ cuộc sống chỉ có nội dung của tư lợi. Cá thể ích kỷ không biết giá trị của nhân phẩm làm nên nhân vị hay, đẹp, tốt, lành hơn những con tính thủ cho mình mà quên đồng loại kể cả tha nhân chính là đồng bào của mình. Vũ trụ quan của cá nhân trong đời sống xã hội, cộng đồng, tập thể, nơi mà cá nhân đó không những là công dân của công bằng đấu tranh vì công lý cho đồng bào của mình, mà còn là công dân của thế giới, của nhân loại, của vụ trụ biết bảo vệ nhân cách không những cho mình, cho đồng bào, cho đồng loại của mình nữa. Làm gì có một loại nhân cách đơn lẻ của cá nhân đó, nếu nhân cách đó không được xây dựng lên bằng nhân bản của cá nhân, được thăng hoa bằng nhân phẩm của đồng bào.

Treo thân trong vô gia cư

Treo thân vì không còn nhà để ngủ yên, không còn chốn riêng của mình để được yên thân. Trong cơn mệt lã, một tấm vải bố bần rách, một chiếc võng cũ mèm để treo thân mà ngủ, vì mệt lã đang chuyển dần qua mệt gục, mệt quỵ… Treo đời tức là bị treo thân hằng ngày, một loại án treo ở chốn vô phương, khi nơi này, mai nơi khác, hôm nay xóm nọ, ngày mai làng kia. Mà án treo của tòa án còn có hạn định, chớ treo đời kiếp vô gia cư không đất, không nhà thì vô phương song hành cùng vô định ! Không biết khi nào, thời khắc nào để mới dứt kiếp đầu đường xó chợ vì công bằng không còn, công lý không có, công luật của loài âm binh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền chỉ là trò hề, chúng tự điếm nhục hóa chúng, để ngày ngày nhơ đục hóa nhân sinh. Treo kiếp tức là bị treo thân hằng ngày, có khi bị treo đời cả đời ! Treo có khi tới cho tới dứt kiếp, cho tới khi loài âm binh của liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền bị "tính sổ" rồi bị "xóa sổ" vĩnh viễn.

Nhân quyền biết cõng, bồng, bế, nâng nhân đạo

Sự xuất hiện của nhân quyền biết cõng, bồng, bế, nâng tất cả hệ nhân nơi mà nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân phẩm, nhân vị, nhân bản, nhân văn, có mặt đầy đủ để Việt tộc chung lưng đấu cật với nhau mà minh định lại đạo lý của tổ tiên Việt : sống lâu mới biết lòng người có nhân ! Dân chủ biết mời, gọi, đón, chào hệ đa : đa nguyên mời đa tài, gọi đa trí, đón đa năng, chào đa hiệu, nơi mà đa phương của tất cả đồng bào biết máu chảy tới đâu ruột đau tới đó, sẽ cùng nhau kết lực trong đa lực chấm dứt kiếp vô gia cư. Khi Nhân quyền còn vắng mặt, khi Dân chủ còn vắng bóng, thì Việt tộc luôn tin vào sử luận của chính Việt sử là : minh quân, minh chủ, minh chúa sẽ xuất hiện để dẹp loài âm binh của liên minh bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền… Tất cả thời Ngô, Lê, Lý, Trần… đều xuất hiện các minh quân, minh chủ, minh chúa để đưa Việt tộc ra khỏi cảnh mất nước, nhà tan.

Phản xạ khuất phục, phản ứng khuất dạng ngay trong thân thể

Một chế độc độc đảng công an trị dùng bắt bớ, tra tấn, tù tội… súc vật hóa nhân sinh bằng những phản xạ phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền, bó buộc người dân phải mang những phản ứng tránh voi chẳng mất mặt nào là một chế độ đã lấy bạo quyền để bứng đi nhân cách. Thì bản chất của chế độ đó không hề đại diện cho nhân cách, vì nhân cách phải có hằng chục gốc, rễ, cội, nguồn của hệ nhân tới từ nhân đạo làm nên nhân tâm, có chỗ dựa là nhân từnhân nghĩa, tới từ nhân lý làm nên nhân tính, có chỗ dựa là nhân trinhân trí, tới từ nhân phẩm làm nên nhân vị, có chỗ dựa là nhân bảnnhân văn. Một đồng bào vô gia cư bị mất nhà, mất đất, mất nơi thờ cúng tổ tiên, mất luôn sự tự giáo dưỡng cho chính mình là cái có nhân chính là cái có hậu, khi họ phải chịu đựng những phản xạ phải cúi đầu-khoan tay-quỳ gối, thì bây giờ họ phải nhận lãnh thêm một phản xạ khác che mặt-khom lưng-rụt cổ. Những nạn nhân này mang nặng những phản xạ khuất nhục, những phản ứng khuất dạng ngay trong nhân thế của họ, đây không phải là lỗi của hằng triệu động bào vô gia cư hiện nay. Mà là lỗi đã biến thành tội của bạo quyền độc tài nhưng bất tài trước an sinh xã hội, của tà quyền tham quan làm chuyện cướp ngày là quan, của ma quyền tham đất làm chuyện trộm, cắp, cướp, giật vì tham tiền.

giailuan24

Đồng bào vô gia cư : mất trắng !

Sau phản xạ phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối, rồi thêm phản xạ khác che mặt-khom lưng-rụt cổ khi đã bị mất đất, mất nhà, thì phản ứng tiếp theo của hệ nhân (nhân cách của nhân đạo, nhân tâm, nhân từ ,nhân nghĩa, nhân lý, nhân tính, nhân tri,nhân trí, nhân phẩm, nhân vị, nhân bản, nhân văn) đứng lên-thẳng lưng-ngẩng mặt-đi tới để lật đổ liên minh âm binh của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền để sống còn trong nhân cách, để sống sót trong nhân vị, để sống vui trong nhân phẩm ! Màn trời chiếu đất là mất đất, mất nhà là mất từ thân tộc tới thống tộc, mất luôn đạo lý Việt ngày nào của bán bà con xa mua láng giềng gần, giờ đây một sớm một chiều tan biến trong nhân thế. Mất đất, mất nhà là mất từ xóm giềng tới làng nước, đạo lý Việt ngày nào của láng giềng tối lửa tắt đèn sớm tối có nhau, cũng chốc lát một nắng một mưa tiêu tan trong nhân kiếp. Thực cảnh vô gia cư là một thảm cảnh của nhân kiếp. Thảm cảnh vô gia cư là một họa cảnh của nhân sinh. Họa cảnh vô gia cư là một hoạn cảnh của nhân loại. Khi thực cảnh-thảm cảnh-họa cảnh-hoạn cảnh chỉ là một thì nhân kiếp đó đã mất nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân sinh đó đã trống nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân loại đó đã vắng nhân phẩm, nhân bản, nhân văn.

Hàng triệu đồng bào vô gia cư là một thảm họa không chấp nhận được !

Nhìn thì phải thấy, thấy thì phải thấu, để hiểu phương trình vô gia cư thực cảnh-thảm cảnh-họa cảnh-hoạn cảnhmàn trời thì không còn người, thảm cảnh của thất nhân sánh vai cùng thất đức. Chiếu đất thì không còn đời, họa cảnh của vô tâm đã đồng lứa với vô nhân. Chưa hết vì chưa xong : màn trời thì bị thinh không hút hết trí lực, chiếu đất thì bị hư vô hút hết tâm lực. Còn lại thể lực thì đã bị nạo rỗng bởi liên minh âm binh của bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền rồi. Mà muốn lấy lại trí lực-tâm lực-thể lực cùng lúc được định cư, yên kiếp để yên thân, dứt khoát rũ bỏ hẳn kiếp vô gia cư thì trước hết phải biết đường đi nẻo về của dân chủ đa nguyên mang tới đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, nơi mà đa phương của tất cả đồng bào biết một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, sẽ cùng nhau kết tụ bằng đa lực để thay đời đổi kiếp theo hướng an cư để lạc nghiệp ! Vì hàng triệu đồng bào vô gia cư là một thảm họa không chấp nhân được !

Bác ái : thương người

Hãy cẩn trọng, ta có thể tự đấu tranh cho cá nhân ta, cho tập thể ta, cho cộng động ta, cụ thể là dùng tự do để đòi hỏi công bằng qua công lý ; nhưng phạm trù bác ái là đấu tranh cho đồng loại, nhất là khi họ lại là đồng bào ta. Bác ái luôn vẫn là chuyện khó nhất trong nhân sinh, vì tự do và công bằng có thể biến và viết thành luật được, nên tự do và công bằng được vận dụng trong hiến pháp để điều hành pháp luật qua công lý của công luật, nhưng phạm trù của bác ái thì không sao luật hóa được ! Vì không có luật nào bắt một người phải "thương người", thương tha nhân, thương đồng loại, và mỗi người trong chúng ta đều biết "thương người", theo đạo lý của tổ tiên Việt là : "thương người như thể thương thân". Nên bác áiđạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) của nhân tri biết sống, biết chia vì biết chung nhân kiếp ngay trong nhân thế, nếu đạo lý không thể biến thành đạo luật được, thì cũng không sao ! Nếu đồng bào cùng đồng loại biết che chở, đùm bọc, biết thương, yêu, quý, trọng nhau, đây chính hệ lực (nội lực, sung lực, hùng lực) của nhân phẩm có trong nhân tính của mỗi chúng ta : "bầu ơi thương lấy bí cùng", "một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ"…

Câu chuyện bác ái

Ngay trên quê hương của khổ nạn của hàng triệu đồng bào vô gia cư bởi liên minh âm binh của bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền, ngay giữa thảm cảnh màn trời chiếu đất, ngay giữa họa cảnh đầu đường xó chợ, thì giữa khuya, giữa đêm, kẻ đi nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về những nạn nhân vô gia cư đã nhận ra : các hội đoàn từ thiện đã có mặt trao tận tay miếng ăn, thức uống cho những đồng bào đang thiếu ăn, thiếu uống. Các nghĩa cử nhân đạo tập thể đã đến tận nơi trao tận tay miếng khi đói cho những đồng bào đang đói, đang khát, hẹn cùng nhau sẽ có ngày gói khi no. Các cá nhân Việt đã trưởng thành để trở thành chủ thể Việt, mua một phần cơm cho mình và mua thêm vài phần cơm cho những kẻ vô gia cư đang bụi phận trong đói rã, hạt muối cắn làm đôi thì hạt cơm cùng chia làm hai được ! Câu chuyện bác ái không mơ hồ. Câu chuyện bác ái không lý thuyết, không trừu tượng, vì nó nằm ngay trong quy luật vô trương bất tín, không thấy không tin, thấy rồi mới tin. Nên câu chuyện bác ái trong nhân loại có trong câu chuyện tương trợ giữa đồng bào, mà tương trợ luôn đứa con tin yêu trong đoàn kết của một dòng nòi. Cụ thể là câu chuyên liên kết bác ái-tương trợ-đoàn kết luôn là câu chuyện thăng tiến trong nhân sinh để nhân phẩm được thăng hoa…

Vô gia cư : nội chất của bất công của mọi bất công

Nếu nhân loại không biết luật hóa được bác ái như đã luật hóa được tự docông bằng thì cũng không sao ! Vì đây là chuyện của nhân sinh, nhân thế, nhân kiếp luôn tùy thuộc vào hệ nhân (nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân lý, nhân tính, nhân tri, nhân trí, nhân phẩm, nhân vị, nhân bản, nhân văn) đã bao lần cứu rỗi nhân loại. Vì liên minh sáng bác ái-tương trợ-đoàn kết luôn biết đi trên lưng, trên vai, trên đầu liên minh tối ích kỷ-vị kỷ-tư kỷ, Việt tộc đã biết sống còn qua thăng trầm, thì Việt tộc sẽ chọn : liên minh sáng ! Ngữ pháp đầu đường xó chợ tả một thực cảnh cùng lúc như kết tội luôn các nạn nhân chịu hoạ cảnh này là những thành phần "đáng nghi ngờ" trong xã hội, đây là bất công của mọi bất công đang ngự trị giữa nhân sinh Việt. Nếu nạn nhân bị cướp đất, mất nhà phải chịu cảnh đầu đường xó chợ lại còn bị người đời khinh miệt trong thân cô phải sống trong , trong thế cô giữa chợ, thì chính những kẻ dễ mồm dẻo lưỡi nói ra câu này đối với các nạn nhân phải vô cùng cẩn trọng ! Cốt lõi của vấn đề khi là nạn nhân của trộm đất, cướp nhà lại còn bị sỉ nhục công khai bởi lời ra tiếng vào của xã hội chính là nội chất của bất công của mọi bất công, và mỗi lần bất công xuất hiện là công bằng mất tích, công lý biệt dạng, công pháp biệt tăm. Câu chuyện vô gia cư của hàng triệu con dân Việt tộc hiện nay vô cùng đau đớn và trầm trọng, vì nó đang thiêu rụi không những đạo lý giữa đồng bào Việt, mà nó còn hủy luôn mọi đạo đức mà thế hệ hiện nay phải xây dựng cho các thế hệ mai sau.

Sự tôn trọng tự do của nhau

Đạo đức có trong tự do-công bằng-bác ái của nhân loại đã được khẳng định bởi tiến bộ của dân chủ vì văn minh của nhân quyền. Tự do không phải muốn làm gì thì làm, không phải chuyện cá lớn nuốt cá bé của luật rừng man rợ mạnh được yếu thua, đang xảy ra ngay trên quê hương Việt là trộm cắp đất đai song hành cùng cướp giật nhà cửa của dân lành biến họ thành dân oan ; hoàn toàn không phải là áp sưu cao thuế nặng, cùng lúc bóc lột tận xương tủy dân đen biến họ thành dân bụi. Tự do chỉ tồn tại trong bền vững của đạo lý, khi đạo đức của nó được đặt để trên nền móng của công bằng, chính công bằng bảo đảm, bảo trợ, bảo hành cho tự do bằng công lý, để tự do lớn này không ngấu, nghiến, nhai, nuốt tự do bé kia. Tự do có luân lý trách nhiệm của nó, vì nó luôn biết dựa vào gốc, rễ, cội, nguồn của công bằng làm nên nhân lý có bổn phận của nó. Đừng định nghĩa tự do một cách ngô nghê đến man rợ : tự do là muốn làm gì thì làm ! Kể cả làm những chuyện vô nhân thất đức là cướp đất, phá nhà người khác. Việt tộc hãy giáo dục rồi giáo dưỡng nhau như các dân tộc văn minh khác đã thực hiện thành công khi họ biến ý thức về tự do thành nhận thức về công bằng : hành động về tự do của tôi sẽ ngừng ngay trước hành tác về tự do của tha nhân ! Đây là sự tôn trọng tự do của nhau, cho nhau, vì nhau, đây chính là giá trị của giá trị.

Đồng bào lang thang rồi quỵ gục trên vỉa hè, góc phố

Tự do hành động vì tư lợi của mình là một quyền hạn, tự do xây dựng tư lợi của mình có thể được xem như là một giá trị của dân chủ ; nhưng giá trị của giá trị là quy luật làm nên nhân luật về công bằng giữa các công dân, nơi mà công bằng phải ngăn chặn cho bằng được chuyện tư lợi này không giết hại tư lợi kia. Nhìn cảnh đầu đường xó chợ để thấy sự thật của nạn nhân, để nhận ra chân lý của công bằng làm nên lẽ phải của tự do là : mỗi lần chính bạn mắt thấy tai nghe thảm cảnh đầu đường xó chợ, thì bạn phải thấy các nạn nhận mất đất, mất nhà đã bị cướp đi công bằng, và có ngày chính bạn sẽ mất công bằng lẫn tự do. Thấy hiện tượng nhiều đồng bào lang thang rồi qụy gục trên vỉa hè, góc phố, thì ta cũng nên đi tìm hiểu nguyên nhân tại sao số lượng đồng bào vô gia cư lại nhiều như vậy ? Hãy nhận ra đây có thể là một trong hàng chục ngàn người đã bị cưỡng chế đất tại Thủ Thiêm từ hơn 20 năm qua ; đây cũng có thể là một trong hàng trăm người đã bị đập tan nhà cửa tại vườn rau Lộc Hưng, năm 2019… Chưa hết, đây có thể là một trong hàng chục ngàn người mới bị xua đuổi khỏi Campuchia, trở về lại quê hương với "biệt danh" : người Việt không căn cước, hàng chục ngàn đồng bào đang qụy gục tại Tây Ninh, lạc lõng tại Cồn Dầu… rồi lang thang, thất thểu, vật vờ tìm đường lên Thành Hồ để sống sót.

Quê hương của những kẻ vô gia cư ?

Vô gia cư không hề là hiện tượng xã hội của một người, một gia đình, một xóm, một làng đang chịu thảm cảnh vô gia cư, mà của hàng triệu đồng bào đang mất đất, mất nhà ngay trên quê hương Việt, tạo nên hình ảnh qua trực quan của thế giới bên ngoài là Việt Nam có phải là quê hương của những kẻ vô gia cư ? Nơi mà những nạn nhân mất đất, mất nhà đã cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối, bây giờ trong hoạn cảnh màn trời chiếu đất đang gục đầu-xuôi tay-quỵ gối, đang vừa mất nhân vị và nhân quyền, vừa mất nhân bản và nhân phẩm. Một thảm cảnh có nguồn gốc của một bi nạn tới từ một chế độ độc đảng bám độc tài nhưng bất tài mà cứ ngày ngày chồng chất bao bất công ; một cơ chế chỉ biết khư khư ôm ghì độc trị nhưng không biết quản trị gì về an sinh xã hội, mà chỉ biết bạo trị bằng công an trị qua trộm, cắp, cướp, giật đất nhà của nhân dân mình. Hệ luận của cộng hòa làm nên cho dân chủ là : Tự do, công bằng, bác ái phải được phân tích rành mạch và giải thích cặn kẽ trong thảm cảnh vô gia cư hiện nay của Việt tộc ; và chúng ta nên bắt đầu bằng cách tách ra ngay trên thượng nguồn sự khác nhau giữa công bằng bác ái. Công bằng, là nguyên tắc của pháp lý làm nên pháp luật, để công lý bảo vệ công dân bằng công luật ; mà nguyên tắc của pháp lý thì được bảo trợ từ hiến pháp tới luật pháp.

Bác ái, là tình cảm giữa đồng loại biết xây dựng nên đạo lý đoàn kết trong gian nan, biết chế tác ra đạo đức tương trợ biết nâng đỡ nhau trong thăng trầm của nhân thế.

Việt kiều phương xa

Cho tới nay các thể chế cộng hòa văn minh cũng chưa pháp luật hóa được bác ái, cụ thể là không ai có thể bắt ai phải bác ái với tha nhân, với đồng loại. Chính đây là thử thách của tiến bộ nơi mà bác ái biết biến nhân phẩm riêng của một cá thể thành nhân phẩm chung của nhân loại. Chính đây là thách đố của văn minh nơi mà bác ái biết biến nhân vị riêng của một công dân thành nhân bản chung của một dân tộc. Chính bác ái sẽ biết xóa đi cái riêng ích kỷ để đưa nó vào cái chung của nhân đạonhân nghĩa để con người nhận ra nhân đức : Chung để chiachia để chung, đây là tiền đề cho mọi vận dụng của các chính sách về công sản xã hội, và khi chúng ta biết tận dụng các quyết sách về công sản xã hội thì chính công sản xã hội sẽ xóa đi các tà sách của cộng sản tham nhũng ! Một chuyện thật lạ đã hiện lên : các mảnh đời Việt chân trời cửa bể lại tụ họp, quây quần, gần gũi, khăng khít bên nhau… bất chấp khoảng cách địa lý. Đó là trường hợp các Việt kiều phương xa về thăm quê hương, cứ tưởng là họ thăm gia đình xong thì họ đi du lịch ; cứ nghĩ là họ ăn mặc tha hồ, sắm sửa xa hoa, tiêu xài kênh kiệu. Không đâu ! Có Việt kiều lẳng lặng đi bộ một mình trên các vỉa hè, đi quanh phố… Sáng họ thấy người vô gia cư tàn tật này bán vé số bên ngã tư… Trưa thấy một mẹ già ăn xin giữa nắng cháy… Chiều thấy hai anh em lang thang dắt nhau đi bán bánh… Tối thấy cả một gia đình qụy gục giữa công viên mà "chưa ăn uống gì cả"… Và các Việt kiều phương xa này đã có mặt để nâng các đồng bào vô gia cư đứng dậy…

Mạng lưới tình thương

Đạo lý của ý thức đã đánh thức đạo đức của nhận thức, nơi mà xã hội học về quan hệ xã hội biến thành xã hội học về mạng lưới tương trợ (réseau d’entraide), nơi mà triết học luân lý về đoàn kết cộng đồng biến mạng lưới tình thương. Một chuyện không hề lý thuyết, các Việt kiều này tìm một trung gian địa phương rồi chuyển tiền giúp đỡ đồng bào vô gia cư. Một chuyện không hề mơ hồ trung gian địa phương làm cầu nối có kế toán, có sổ sách. Một chuyện không hề viễn vông, khi kẻ vô gia cư nhận tiền thì có chứng từ của biên lai, có chứng tích của vidéo. Một chuyện không hề xa vời mà rất cụ thể là kẻ vô gia cư nhận tiền và giải thích là mình sẽ sử dụng số tiền nhận để làm chuyện gì ? Đầu tư vào phương án nào ? Một gia đình bên Mỹ yêu cầu trung gian địa phương tặng 30 triệu đồng cho một bà mẹ có đứa con trai bị liệt não, dùng số tiền để chăm lo thuốc men cho nó cùng chăm lo sức khỏe cho chính bà. Một Việt kiều của Canada yêu cầu trung gian tặng 20 triệu đồng cho một bà cụ đã gần 80 tuổi lại phải nhặt bao nylon, thùng carton cả đêm… mà bán không được 50 ngàn đồng một ngày. Một Việt kiều tại Úc nhờ trung gian tặng 50 triệu đồng tới một ông cụ bán vé số, bị cụt cả hai chân, phải di chuyển bằng xe đẩy thấp sát đất… Còn bao Việt kiều nữa ? Không ít ! Còn bao người vô gia cư nữa cần được giúp đỡ ? Nhiều lắm !

giailuan15

Quê cha đất tổ đã thành đất chết

Một chính quyền không chăm lo được an sinh xã hội cho đồng bào mình mà biết được các câu chuyện này Đồng bào xa… Việt kiều gần này thì phải biết nhục ! Một chính quyền không chăm sóc được công ích xã hội cho dân tộc mình mà biết được các câu chuyện này Đồng bào xa… Việt kiều gần này thì phải thẹn ! Nếu không biết nhục, không biết thẹn, thì chắc là loài vô tri trước đạo lý này của tổ tiên Việt : Ở đời ở kiếp chi đây/ Coi nhau như bát nước đầy thì hơn ! Một nhóm người ngủ cùng một vỉa hè giữa phố thị, khi điều tra thực địa dùng phương pháp phỏng vấn đào sâu nguyên nhân về thảm họa không nhà, màn trời chiếu đất, thì mới biết được là họ chỉ mới quen biết nhau, họ không cùng quê quán, không cùng địa phương, nhưng họ cùng một nguyên nhân là họ phải rời quê cha đất tổ của họ giờ đã thành đất chết. Người đàn ông này đã hơn 50 tuổi, rời Hà Tĩnh sau thảm họa môi trường gây ra bởi Formosa, mới vào thành Hồ được một năm. Người đàn bà kia tới từ Hậu Giang, sau khi đất ruộng của gia đình bà đã chết vì ngập mặn, vào thành Hồ được ba năm. Gia đình này rời Quảng Ngãi sau khi "không còn gì để ăn", vào thành Hồ được sáu tháng. Mẹ con kia rời Long An sau khi "không còn gì để làm", vào thành Hồ mới ba tháng… Cha con nọ rời một làng quê miền Bắc nay gọi là "làng ung thư" cạnh nhà máy nhiệt điện, sau khi gia đình đã mất đi 2 người…

Oan khiên chất chồng

Trên một quê hương Việt xưa kia là : gấm vóc, nay có nhiều làng ung thư, ngày ngày thêm nhiều vùng là đất chết : Người chết, súc vật chết, cây cỏ chết, nguồn nước chết… Một quê hương mà tuyên truyền ngu dân tự xảo ngôn trong điếm luận là một quê hương : "Chưa bao giờ được như thế này !", mà giờ đây có Hà Nội, có thành Hồ là hai thành phố bị ô nhiễm hàng đầu trong thống kê của thế giới. Trên một quê hương mà đồng bào phải bỏ quê, bỏ nhà vì phải bỏ cõi chết, để phải nhận oan kiếp màn trời chiếu đất thì mọi tuyên truyền mị dân phải biết xấu hổ ! Trên một đất nước mà dân tộc đó phải bỏ đất, bỏ vườn như phải bỏ vực chết, để phải chịu tủi phận đầu đường xó chợ thì mọi tuyên giáo ngu dân phải biết độn thổ ! Oan khiên chất chồng lên các mảnh đời chung vỉa hè khi gục quỵ, chung góc phố khi mệt lã… Chung vỉa hè để chung kiếp vô cư ! Ai hãnh diện trước thảm trạng này ? Chỉ có bọn vô loài mới hãnh diện trên thảm cảnh của đồng loại ! Một đất nước với bao đứa con tin yêu đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái bằng dân chủ vì nhân quyền, một sớm một chiều bị bắt bớ, tù đầy, trở thành các tù nhân lương tâm, bị nhốt chung với các loại tù hình sự. Nơi mà chỉ một câu của Tô Thùy Yên đã tổng kết được oan khiên của Việt tộc hiện nay : "chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau".

Vô gia cư : đâu là quốc thể ?

Một chính quyền độc tài nhưng bất tài trong quản lý công ích xã hội, một chính phủ độc trị nhưng không biết quản trị an sinh xã hội đã : "Đem dân bỏ xó". Một tội mà tổ tiên Việt đã kết án một cách rành mạch nhất về loại vô loài : Đem con bỏ chợ ! Trên những nẻo đường điền dã thực địa, kẻ nghiên cứu và khảo sát về thảm nạn vô gia cư phải nghe những lời tới từ những kẻ có gia cư, những lời vô tri trong nhẫn tâm, vô minh trong thất đức, vô giác trong thất nhân, vô cảm trong… ớn lạnh tình người : "Mấy đứa đầu đường xó chợ kiểu này làm mất mặt người Việt, mất khách du lịch, mất sĩ diện dân tộc… làm mất quốc thể !". Câu trả lời cho loại lời buộc tội : "kẻ vô gia cư làm mất quốc thể" phải có chiều cao của nhân nghĩa, có chiều sâu của nhân từ, có chiều rộng của nhân đạo, có lõi của lý luận trả lời biết dựa vào nhân lý, có gốc của lập luận trả lời biết dựa vào nhân tính, có cội của giải luận trả lời biết dựa vào nhân tri, có rễ của diễn luận trả lời biết dựa vào nhân trí. Những đồng bào vô gia cư không hề làm nhục quốc thể, bọn làm nhục quốc thể chính là liên minh giữa bạo quyền lãnh đạo-tà quyền tham nhũng-ma quyền tham đất vì tham tiền đã và đang biến đất nước Việt thành một loại cường quốc vô quốc thể, một cường quốc có triệu triệu dân đen, dân oan, dân bụi, dân vô gia cư sống nay chết mai trên vỉa hè, ngoài đường phố…

Tà quyền bòn rút, nạo vét sinh lực của Việt tộc

Những đồng bào vô gia cư không hề làm nhục quốc thể, bọn làm nhục quốc thể chính là bọn tham quyền để trục lợi, tham quan để vơ vét, tham ô để trộm, cắp, cướp, giật của cải, tiền bạc, tài nguyên của đất nước từ thủ tướng tới bộ trưởng, từ Bộ Chính trị tới Trung ương đảng, từ đầu lãnh trung ương tới âm binh địa phương, chúng chấm mút, chúng bòn rút, chúng nạo vét sinh lực của Việt tộc, sinh khí của dòng nòi. Những đồng bào vô gia cư không hề làm nhục quốc thể, bọn làm nhục quốc thể chính là bọn tướng trong quân đội đã tổ chức cờ gian bạc lận hàng nghìn tỷ qua mạng internet để trục vào túi của chúng. Rồi khi ra tòa thì khóc lóc như loại ký sinh xin được tha tội với lời đầu thú là : Não bộ nhỏ nhưng tham vọng lớn. Quốc thể của chúng bị điếm hóa ngay tự trong tế bào não bộ của chúng, chúng xin xỏ tổng bí thư của chúng được tha tội, chúng không một lời xin lỗi nhân dân mới chính là nạn nhân của chúng. Những đồng bào vô gia cư không hề làm nhục quốc thể, bọn làm nhục quốc thể chính là các bộ trưởng từ tài nguyên môi trường tới thông tin truyền thông, từ giao thông vận tải tới văn hóa du lịch, y tế tới kinh tế… mà hội đồng bộ trưởng từ thủ tưởng tới thứ trưởng được xây dựng lên bằng mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền, và khi có chức, có quyền là có tức khắc phản xạ tham ô để vơ vét với sân sau của chúng là bọn tư bản đỏ, tư bản thân hữu, tư bản sâu dân mọt nước…

Đồng bào… đồng hội… đồng thuyền ?

Những chặng đường điền dã, điều tra, kháo sát thực địa về thảm trạng đầu đường xó chợ rồi màn trời chiếu đất, giúp kẻ nghiên cứu suy nghĩ thêm về hệ đồng, nơi mà Việt tộc biết gọi nhau là đồng bào, cùng một bào thai của mẹ Âu Cơ và vua Hùng, con Hồng cháu Lạc. Việt tộc này đã chứng minh qua lịch sử mình là một dũng tộc đã đuổi bạo ngoại xâm tới xâm lược đất Việt bằng sự dũng cảm của mình, và Việt tộc này cũng là một minh tộc, biết thắng mọi ngoại xâm với hùng trí thông minh, với hùng lực sáng tạo luôn biết thắng ngoại xâm. Mọi dũng lực làm nên một dũng tộc, mọi minh lực làm nên một minh tộc của một dòng nòi luôn dựa vào một nền chung làm nên gốc chắc cho bản lĩnh của dân tộc đó ; nơi mà đoàn kết và tương trợ chỉ là một ! Đồng cam cộng khổ vì biết sống chết có nhau ! Nhưng bây-giờ-và-ở-đây-ngay-trên-đất-nước-Việt, thì Việt tộc hiện nay ra sao ? Thể lực, tâm lực, trí lực của Việt tộc đang ở mức độ nào ? Cấp độ nào ? Trình độ nào ? Việt tộc đang sống trong một chế độ độc đảng bất nhân nào mà đồng cam cộng khổ để sống chết có nhau để giữ nước, giữ luôn tiền đồ của tổ tiên, đã và ngày bị thay thế bởi tà lực của vô cảm, vô giác tới từ ma lực của vô minh, vô tri. Tất cả đang chế tác ra một quái thai : vô nhân (nội hàm của vô đồng) ; mọi liên kết của đồng bào-đồng hội-đồng thuyền, sau gần một thế kỷ đã tiêu tan… tiêu tán…tiêu tàn !

Sống lâu mới biết lòng người (chẳng) có nhân ?

Câu chuyện hạt muối cắn làm đôi làm rễ cho cội đồng hội-đồng thuyền bây giờ xa lạ… lạ lẫm… nghe chướng trong lỗ tai của những kẻ vô cảm, tất cả trong bạo cảnh của bạo quyền độc đảng để độc tài đuổi dân lành ra khỏi nơi ăn chốn ở của họ. Bạo lực của bạo quyền độc trị bất chấp nhân quyền, hòa hợp tới lợm dòng với bạo hành của bạo động con cái đuổi cha mẹ ra khỏi nhà để cướp đất, chữ đồng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành làm nên luân lý đùm bọc, che chở giá quá thấp, thua cả giá đồng vụn hiện nay, trong một xã hội chỉ biết tiền. Sẵn sàng tiêu diệt nhau vì tiền, vì nhà, vì đất… Câu chuyện bầu ơi thương lấy bí cùng thì bây giờ đọc lên để nghe cho đừng bị loạn trí trước loạn cảnh thất nhân hiện nay thôi, chớ trong xã hội mà bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, và cả ba bọn âm binh này đều tham tiền, chúng đang cho sinh ra cùng lúc ba ung thư : tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng) ; bất (bất tài, bất lương, bất chính, bất nhân) ; vô (vô tri, vô minh, vô tâm, vô giác, vô cảm)… Và ba loại ung thư này, cùng nhiều loại ung thư nữa đang vĩnh viễn hủy hoại tâm lực của Việt tộc thủa nào đã biết : một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ… Định đề : "Sống lâu mới biết lòng người có nhân" nhưng thực tế thì bao nghìn, có khi là hàng triệu đồng bào đang đầu đường xó chợ… đang màn trời chiếu đất… trong bi cảnh ai chết mặc ai… Từ đây thì giả thuyết về định đề ngược lại sẽ thản nhiên tới trong lạnh lùng (nhưng không hề vô cảm) : "Sống lâu mới biết lòng người chẳng nhân" ?

Đồng bào… đồng cam… đồng hành ?

Trong Việt ngữ, hai chữ đồng bào có ngữ vị nằm ngoại mọi ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp bình thường, vì những người gọi nhau là đồng bào thì họ biết chắc bẩm một điều là họ cùng một dòng máu, vì cùng cha, cùng mẹ, trong đó thân tộc, thống tộc và dân tộc là một. Tôi vẫn chưa tìm ra có một dân tộc, bộ tộc nào khác nơi mà cùng một sắc tộc thì gọi nhau là đồng bào ; mà ai cũng biết sắc tộc thì định vị cho bản sắc, còn đồng bào thì sâu-đậm-chung-chia nhiều hơn bản sắc. Vì đồng bào là quan hệ gốc, rễ, cội, nguồn của mọi quan hệ, quan hệ ngay trên thượng nguồn là cùng một bào thai, có cùng một mẹ Việt Nam, cho tới tận hạ nguồn là mọi con dân Việt có cùng một dòng máu nên cùng một dòng sinh mệnh, sống thác có nhau, sống chết bên nhau. Quan hệ đồng bào trùm phủ, bao bọc mọi quan hệ khác giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội, quan hệ đồng bào là một quan hệ vừa sâu đậm, vừa tổng thể. Nơi đây, nhân sinh quan của một cá nhân Việt cũng là thế giới quan của dân tộc Việt, cả hai làm nên vũ trụ quan của dòng nòi Việt. Những con dân Việt không những biết đùm bọc, che chở nhau mà còn biết nhìn về cùng một phía trước chân trời của tương lai, rồi tìm mọi cách để thăng hoa cả dòng nòi đã từng có cùng một mẫu sơ chung là cùng một bào thai là Mẹ Việt Nam. Vì là đồng bào, nên đồng cam để cộng khổ, mà đồng là chung chia và cộng là không ai bỏ ai cả, vì không ai bỏ ai, không ai loại trừ ai, nên đồng cam cộng khổ để đồng hành trong đồng lộ, trong thành công có nhau, trong thất bại cũng có nhau.

Chỉ một chữ đồng

Chỉ một chữ đồng (đồng bào, đồng cam, đồng hành, đồng lộ, đồng hội, đồng thuyền) giờ đã thành một hệ của luân lý (có bổn phân và trách nhiệm với đồng bào của mình) ; giờ đã thành một hệ của đạo lý (hay ,đẹp, tốt, lành của một sắc tộc làm nên một dân tộc chung chia với nhau cùng một nguồn cội của một bào thai). Chính luân lý và đạo lý có cùng một ADN từ tinh thần tới tâm linh, nên đã có cùng một đạo đức tự tiên tổ tới bây giờ là : bầu ơi thương lấy bí cùng, một con ngựa đau cả tầu bỏ cỏ… Đây là một trong những thất bại lớn nhất của các con người cộng sản Việt khi trong thế kỷ hai mươi vừa qua họ xếp quốc tế vô sản cao hơn tình nghĩa đồng bào. Và thảm hại hơn là trong thế kỷ hai mươi mốt này cũng chính những kẻ vỗ ngực là lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đang cho phát triển tràn lan loại ung-thư-đồng-thể-vô tới từ sự vô cảm trước các thảm cảnh của đồng bào, vì vô tri, vô minh đã làm nên vô giác và vô nhân trước chữ đồng (đồng bào, đồng cam, đồng hành, đồng lộ, đồng hội, đồng thuyền)… trước họa cảnh vô gia cư. Những kẻ bội bạc trong cuộc sống đã từng quên đi các luân lý, các đạo lý, các đạo đức giữa đồng bào, tức là đã quên đi hệ đồng (đồng bào, đồng cam, đồng hành, đồng lộ, đồng hội, đồng thuyền), thường được nghe một câu "trách móc" nhẹ nhàng trong âm hưởng nhưng nội dung của câu này đánh thẳng vào não bộ của kẻ còn có lương tâm trung tín, có lương tri nhân tính, vì có lương thiện trong tâm trí : Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta

giailuan25

Tuổi trẻ : biết đặt câu hỏi cho chính mình

Các bạn trẻ trong các thành phần vừa được-hoặc-bị nhận diện như trên, biết đặt các câu hỏi cho cho chính mình : Tôi đang làm gì trong cuộc sống này ? Cuộc sống của tôi có ích gì, lợi gì cho gia dình, cho quyến thuộc, cho dân tộc, cho quê hương ? Tôi muốn làm gì trong cuộc sống này, muốn mang ý nghĩa gì cho cuộc đời tôi, cho đồng loại của tôi ? Nói gần nói xa không qua nói thật : Tôi có nên sống trong liêm sỉ, trong tự trọng, trong khiêm cẩn với đất nước này không ? Tuổi trẻ sáng suốt luôn đặt các câu hỏi vấn nạn về đồng loại, đồng bào của mình : hiện nay gia đình, quyến thuộc, dân tộc đang bị những nguy cơ gì ? Những hiểm họa nào đang trùm phủ trên đất nước, trên quê hương ta ? Tiền đồ của tổ tiên, rồi tương lai của các thế hệ sau ta sẽ phải gặp những nguy khốn gì ? Tuổi trẻ tỉnh táo luôn đặt các câu hỏi về tương lai cả mình, của người thân, của tập thể, của cộng đồng mà mình là thành viên : cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, họ đã làm chủ rồi tại sao Việt tộc lại cứ làm công cho họ, với lương bổng thấp, bị coi rẻ về số phận, bị coi thường về nhân cách, mang kiếp lao nô ? Tại sao ngay thế hệ của mình không tự lập để tự chủ, không có sáng kiến để có sáng tạo, làm chủ như họ ? Không có gan làm giầu, lại không chịu thức khuya dậy sớm ? Không một nắng hai sương, lại hay có phản xạ gà què ăn dựa cối xay, trông cầu vào viện trợ ?

Tuổi trẻ : tháo tròng vô nghĩa

Tại sao lại nhắm mắt cho các nhóm quyền lợi thao túng vận mệnh của dân tộc ? Để chúng mượn nợ mới để trả nợ cũ, rồi ai sẽ trả nợ mới khi các bọn tà quyền cao bay, xa chạy ra nước ngoài ? Tuổi trẻ thông minh luôn đặt các câu hỏi về thực tại của dân tộc, thực tế của thế giới, thực tiễn của thời cuộc : một thời cuộc đang diễn biến vừa sâu sắc, vừa gay gắt qua tên gọi : toàn cầu hóa, thế giới hóa, trong đó môi trường mới liên châu lục, liên văn hóa, thông tin của trực tiếp, truyền thông của trực diện, tạo ra các điều kiện mới vô cùng thuận lợi để tuổi trẻ Việt tự giải phóng tư duy của mình ! Tự khai thị để khai trí, thoát ly độc (độc tài, độc trị, độc quyền, độc đảng) để nhập nội với đa (đa tài, đa năng, đa trí, đa hiệu trong đa nguyên. Những kẻ bị xem là vô loài vì nhân tri, nhân trí không xếp hạng được họ trong các bậc thang của nhân đạo, nhân tính, nhân nghĩa, nhân văn... Chỉ có một cuộc sống, mà cuộc sống không vĩnh viễn, lại rất vô thường, thì tuổi trẻ chọn các cách sống có ý nghĩa để chống cái vô nghĩa ; từ mong sống tới muốn sống trong ý nghĩa, với các giá trị nhân bản, với tầm vóc của nhân văn, với bản lĩnh của nhân đạo. Tháo gỡ được cái vô nghĩa, là thoát cái bản năng : "đói ăn, khát uống", có khi phải sẵn sàng chụp giựt để tồn tại, có lúc phải sang đoạt để sống còn, rời nhân tính để vào lối của thú tính. Cái vô nghĩa kéo nhân tính xuống thấp hơn nhân sinh, mà Nguyễn Du đã mượn lời Từ Hải để loại cái vô nghĩa ra khỏi cái trọng nghĩa : "Những phường giá áo túi cơm sá gì !", sống chỉ vì chén cơm manh áo thì thật uổng cuộc sống ! Sống chỉ vì cơm áo gạo tiền thật phí cuộc đời !

Tuổi trẻ : chủ thể của ý nguyện sống vì đời vì người

Mỗi cá nhân tuổi trẻ phải là chủ thể của cuộc đời mình, của ý nguyện sống vì đời vì người, mà chủ thể là phải có trách nhiệm với tha nhân, có bổn phận với đồng loại, nên luôn có đồng cảm với đồng bào của mình. Muốn làm chủ thể tới nơi tới chốn thì tuổi trẻ phải biết tự hỏi rồi tự trả lời các câu hỏi sau đây : giá trị của nhân tính ở đâu ? Giá trị của nhân bản phải tìm ở đâu ? Ta muốn làm gì trong nhân thế ? Ta đủ sức làm gì cho nhân sinh ? Kẻ vô tình sống trong một hệ thống chính trị mà không hiểu bất công của hệ thống chính trị đó ; làm việc trong một cơ chế mà không thấu các bất bình đẳng do cơ chế đó tạo ra. Hít thở các ý đồ xấu, tồi, tục, dở của một ý thức hệ của bè nhóm thống trị (rất thiểu số) mà không thấy môi trường nhân tính của mình đang bị nhiễm ô. Ăn uống các mưu đồ thâm, độc, ác, hiểm của bè nhóm thống trị mà không thấy mình đang bị ngộ độc, sẽ dẫn dần tới ung thư tâm linh, què quặt tư duy mà không có được một nhận thức đứng đắn nào. Nếu một chính quyền được xây dựng trên tư lợi của bè đảng thống trị, thì luôn mang theo ba ý đồ : khống chế-đàn áp-bóc lột đám đông, quần chúng, dù đó là đống loại, đồng bào của chúng. Khống chế là tướt đoạt quyền làm người của dân chúng, rồi đưa xã hội dân sự vào khung tư tưởng tư lợi của bè nhóm thống trị ; đưa vào tù qua cơ chế (hộ khẩu, biên chế, kỷ luật nội bộ...) do bè nhóm thống trị này đặt ra.

Tuổi trẻ : chống khống chế, đàn áp, bóc lột

Bè nhóm thống trị này sẵn sàng luật hóa, hiến pháp hóa ý đồ của chúng, để áp đặt tư lợi của bè đảng thống trị trên quyền lợi của dân tộc, áp chế tư lợi của chúng trên cả tiền đồ của tổ tiên. Đàn áp là sử dụng các phương tiện, các công cụ, các kỹ thuật của bạo lực tự cho phép bè đảng thống trị bạo động trong xã hội, bạo hành trong dân chúng, bạo ngược trong luật pháp, bạo ác trong đạo lý. Bè đảng thống trị luôn nắm thật chặt công an để tổ chức công an trị trong xã hội, để trấn áp mọi phong trào đấu tranh vì công bằng, công lý. Bóc lột là cụ thể hóa tư lợi bằng con đường bất chính của bè đảng thống trị giờ đã thành bọn cướp ngày là quan, chúng là tham quan ăn tươi nuốt sống bằng tham nhũng, tham ô, chỉ vì chúng chỉ biết tham lợi. Chúng duy trì nghèo khổ trong dân tộc để nô lệ hóa dạ dày dân chúng, biến tiềm lực lao động của quần chúng thành lao nô cho ngoại quốc, ngoại ban mà chúng đã có chia chát qua chia lời. Bộ ba khống chế-đàn áp-bóc lột là thực chất của mọi thể chế độc (độc tài, độc tôn, độc trị, độc quyền, độc đảng) đánh lận con đen khi thay quyền lợi tập thể thành quyền lợi riêng của chúng. Chúng vừa bòn rút, vừa vơ vét, vừa tính chuyện bỏ chạy, khi công lý xuất hiện để xử tội chúng, nên khi cầm quyền chúng rất sợ cái lý của đa (đa tài, đa năng, đa hiệu, đa nguyên) cùng lúc lách luật, nếu cần xé luật, vì luật chơi, trò chơi, sân chơi của nhân loại mang tính phổ quát, muốn chơi chung thì phải liêm chính trong đạo đạo lý và công bằng qua công lý, cụ thể là phải tôn trọng nhân quyền và dân chủ.

Tuổi trẻ : tháo tròng vô tâm

Tuổi trẻ sẽ không vô tâm khi có tri thức để trao dồi kiến thức, có ý thức để củng cố nhận thức trước tương lai sắp tới của nhân loại, trước vấn nạn mai sau của đồng bào, trong bối cảnh bất bình đẳng trên toàn cầu ngày càng nhiều, càng cao, càng sâu. Không chấp nhận bất bình đẳng nhân sinh này ! Cũng như đừng nhắm mắt trước các bất công mà dân đen, dân oan đang phải gánh chịu trên quê hương Việt tộc ! Hãy đặt các câu hỏi trong bao tỷ người nghèo khổ kia, có biết nhiêu nhân tài, vì không có điều kiện thuận lợi mà tài năng của họ bị mai một ? Trong số người đó có bao nhiêu ngàn, bao nhiêu vạn thanh niên của Việt tộc đầy năng khiếu, tràn triển vọng để thành các nhân tài cho đồng bào mình mà không có đất dụng võ ? Hãy đẩy các câu hỏi đi xa hơn, đi sâu hơn để hiểu rõ nghiệp chướng mà Việt tộc đang gánh chịu trước bọn tham quan sống bằng tham nhũng, mỗi ngày bòn rút tài nguyên đất nước, bào mòn sinh lực dân tộc, đồi trụy hóa tuổi trẻ, để số phận Việt tộc như chỉ mành treo chuông hiện nay ! Kẻ vô tâm vì không vắt óc, vận não để hiểu nỗi khổ niềm đau của nhân thế, nên chóng chày sẽ vô cảm, không cảm thông hết nỗi niềm của dân tộc trước các nguy biến mới. Đừng vô tâm để đừng rơi vào bi kịch kẻ vô tri trước nhân thế, vô tình trước nhân sinh, rồi vô trách nhiệm trước nhân nghĩa với đồng bào, với đất nước.

Tuổi trẻ : lấy công tâm vực dậy công lý

Rời tuổi thơ, qua tuổi thiếu niên, vào tuổi trẻ để học làm người, tuổi trẻ chưa hề bị tham nhũng làm thối nát hóa cuộc đời mình, nhưng trong một đất nước đầy bất công, không phát triển được, chỉ vì tham những bòn rút hết sinh lực của đồng bảo mình, thì tuổi trẻ phải nhận diện để trực diện với tham nhũng. Tham nhũng xuất phát từ vị thế của tham quan, lấy tham quyền để tham lợi, tức là dùng quyền lực để tạo ra quyền lợi bất chính, lạm quyền để trục lợi, tư lợi rồi trụ lợi. Không lấy công làm lời mà lấy quyền để sinh lãi. Tham những lén lút trong cái bất chính của tham ô. Tham nhũng không liêm chính, vì đã bất chính ngay trên thượng nguồn, sẵn sàng mua quyền, bán chức để vơ vét, đổi trắng thay đen để lừa đảo, biến công quyền thành tư lợi, kể tham nhũng đẩy công quyền xuống thấp hơn tư lợi sẵn sàng lừa thầy, phản bạn, thì cũng sẽ tự ý cõng rắn cắn gà nhà, tự tiện đem voi dày mả tổ. Tuổi trẻ có hoài bão của công bằng, lấy công tâm vực dậy công lý : hãy vạch mặt chỉ tên bọn tham nhũng, tham ô, tham quan, tham lợi đang đưa đất nước xuống vực thẳm. Dấn thân là hình hài di động của tư tưởng khi tư tưởng đã trở thành lý tưởng !

Tuổi trẻ : hãy viết lịch sử về tham nhũng một cách thành thật

Hậu quả của tham nhũng là nó làm lũng đoạn xã hội, cùng lúc làm nhũng loạn luân thường của cộng đồng, làm nhiễu loạn đạo lý của dân tộc, đây là tội chớ không phải là lỗi, nên luật pháp mới đưa bọn tham quan vơ vét tiền của đất nước qua tham nhũng ra tòa hình sự ! Sự trong sáng của tuổi trẻ là sự trong sạch trước cuộc đời khi tham nhũng chưa tác hại vào cuộc sống của chính mình, nhưng từ trong sáng tới trong sạch thì cả đời của các bạn phải giữ sự trong suốt của mình để bảo vệ luân lýcông lý. Bọn tham ô -lập lờ hoặc trắng trợn- qua hối lộ rất tránh luân lý và rất sợ công lý. Tôi còn muốn nêu lên cho bạn biết một nỗi sợ khác của bọn tham quan sống nhờ tham nhũng là chúng cũng rất "mất ăn, mất ngủ" với lịch sử ! Lịch sửký ức của cộng đồng, là hồi ký của tập thể mà cũng là bộ nhớ của dân tộc, trong đó tri thức của quá khứ sẽ là trí thức của hiện tạinhận thức của tương lai. Miệng đời giờ đã thành bia đá ghi rõ : tội phạm của bọn tham nhũng là bòn rút sinh lực của Việt tộc, là chẻ đốn tận gốc rễ vốn liếng phát triển đất nước, là nhấn chìm tầm vóc của dòng nòi vì đã nhận chìm nội lực của đồng bào mình. Chúng trực tiếp đe dọa sự thăng hoa của tuổi trẻ. Hãy chỉ nhau viết lịch sử về tham nhũng, phân tích cái độc để phân giải cái hay, giải luận cái xấu để diễn luận ra cái đẹp. Viết lịch sử về tham nhũng một cách thành thật trong liêm chính như nhận một trách nhiệm trước tổ quốc. Viết lịch sử về tham nhũng một cách liêm sỉ như nhận một bổn phận trước đồng bào mình.

Tuổi trẻ : không để khuyết điểm trở thành khuyết tật !

Những dân tộc mà có tuổi trẻ suy ngẫm, đắn đo, dày vò về các vấn nạn của đất nước họ là những dân tộc có cơ may tự thấy nhược điểm của mình để vươn lên ; có sinh lực tự nhận khuyết điểm của mình để thẳng lưng đi tới tương lai. Không để khuyết điểm trở thành khuyết tật ! Hãy soi khuyết tật của bọn tham nhũng để làm sáng nhân cách trong sáng-trong sạch-trong suốt của tuổi trẻ ! Chống là chống gian cùng lúc phải chống ác, chống độc cùng lúc phải chống hoạn... Tránh hoạn nạn để tránh hoạn nghiệp, mà Việt tộc hiện nay đang bị đe dọa tới tận mọi gốc rễ trước họa Trung Quốc : Tàu họa ! Mà trước đó tà quyền đã mở mọi cánh cửa để Tàu họa dần dà thành tộc họa ! Chống -gian-ác-độc của Tàu họa là chống lại quỷ thuật da beo : mỗi mảng da beo là một chiến trường ngay trên quê hương của Việt tộc ! Chỉ Tây nguyên không thôi đã bao nhiêu ngàn đứa trẻ sinh ra với các kẻ làm cha vô hình gốc Hoa, cùng lúc biệt khu công nghiệp Hà Tĩnh mà người Việt không được bén mảng tới, cũng là nơi mà Formosa ngộ độc cả một vùng biển mênh mang của đất nước... Vốn Tàu tràn lan khắp mọi công trình quốc tế đi kèm với thầu Tàu trong mọi dự án vùng, miền, mọi cấp quốc nội. Vốn Tàu bao bọc thầu Tàu với chủ nợ Tàu trên con tính phân lời Tàu. Quần áo Tàu rẻ với thực phẩm Tàu độc, đường phố Tàu nguy hại tới hạ tầng kiến trúc. Tàu bao thầu trùm phủ là những bãi mìn da beo trải đầy trên quê hương Việt...

Tuổi trẻ : thấy xâm lược để thấu xâm lăng

àu tà xen vào nhân sự của Bộ Chính trị, của Trung ương đảng tới Tàu dắt đầu lãnh đạo đảng, với quỷ thuật da beo trong của một bộ máy chính quyền theo Tàu, sống khắng khít với các cơ chế của chính phủ sống nhờ Tàu trong bối cảnh biển đảo vừa bị chiếm, với ngư dân bị siết đến chết dần chết mòn, ngay trên thềm lục địa của đất nước, cho tới các lãnh đạo yêu nước qua độc lập quốc gia, qua tự chủ chính trị đều bị Tầu truy nã rồi truy diệt. Chống quỷ thuật da beo tà-gian-ác-độc Tàu họa là ý thức tỉnh táo và sáng suốt là chính quyền hiện nay đã bị ung thư, chính phủ hiện nay đã bị ngộ độc, lãnh tụ hiện nay đã bị xỏ mũi, lãnh đạo hiện nay đã bị trói tay... Trong xã hội, có sinh hoạt xã hội làm ra đời sống xã hội, trong đó bất bình đẳng có, bất công còn, và quyết tâm đấu tranh chống bất bình đẳng để loại bỏ bất công, được gọi là : ý thức xã hội, nếu xã hội đó bảo vệ nhân quyền, bảo trợ dân chủ, bảo hành công lý. Thượng nguồn phải công nhận cái lý của nhân phẩm không phải là cái lý để tổ chức xã hội, mà trong xã hội thì ta biết có kẻ làm chủ, người làm công ; trong quy trình lao động kẻ có của, người có công, thì kẻ có của đầu tư thì lợi tức cao hơn kẻ làm công, là chuyện bình thường, vì chính kẻ có của có thể một sớm một chiều mất trắng, cả lương lẫn vốn, mà kẻ làm công không chịu mất mát hết như vậy.

Tuổi trẻ : vận dụng bác ái để triển khai đoàn kết

Tuổi thanh niên đứng về phía các nạn nhân của quy trình khống chế-áp chế-cưỡng chế này ; cụ thể là đứng về phía dân đen, dân oan (đứng về phía nước mắt), câu trả lời liêm sỉ có trong cách định nghĩa nhân cách của của tuổi thanh niên trong nhân phẩm của cả kiếp người, tóm lại là : cứu người hay hại người ? Chọn lựa đứng vào hàng ngũ bọn khống chế quần chúng hay đấu tranh cho các nạn nhân bị không chế : chính đây là định nghĩa đạo lý của chủ thể, luôn là kẻ dùng tự do của mình để khẳng định ý thức xã hội của mình. Sinh hoạt xã hội mang tính tổng hợp tất cả các định chế xã hội, tất cả các không gian xã hội, như một tổng hợp và thống hợp này có một tổng lực vô song là tái sản xuất lại các định chế xã hội, các không gian xã hội qua các thế hệ, với cải cách, với cách mạng, với chuyển biến. Trong đó, giá trị biểu tượng của một xã hội (tự do, công bằng, bác ái...) còn là quyết tâm của xã hội, qua sự trợ lực của cộng đồng, của tập thể, cùng lúc mọi lực lượng xa hội này đủ sáng suốt để dung hòa các xung đột giữa các giá trị biểu tượng. Khi lấy tự do làm khẩu lệnh, thì phải chấp nhận tự do cạnh tranh, có kẻ thắng người bại, thậm chí còn có hiện trạng người bóc lột người, như vậy thì làm sao có công bằng ? Công bằng được vận hành qua lực cân bằng lại xã hội, cụ thể là vận dụng bác ái để triển khai đoàn kết, thăng hoa bác ái, dụng bác ái để cân bằng lại bất công, mà không hủy diệt tự do.

Tuổi trẻ : không chấp nhận chuyện tái sản xuất "con quan thì được làm quan"

Đời sống xã hội còn được thấy qua tổng thể kiến thức -và mê thức- của xã hội đó. Kiến thức tạo ra tri thức đủ sức bảo vệ văn hóa, nuôi dưỡng văn minh ; mê thức tức là chưa có kiến thức, thì không óc tri thức, văn hóa và văn minh bị mê tín, dị đoan vùi dập. Chế độ bảo vệ dân chủ, bảo hành nhân quyền luôn bảo đảm kiến thức. Chế độ độc tài qua độc đảng thì dùng tuyên truyền tạo hỏa mù để nuôi dưỡng ngu dân, để bồi dưỡng cực đoan, để phụng dưỡng mê thức. Thấy ta giữa các định chế xã hội, thì phải thấy luôn các bất bình đẳng trong xã hội, sinh ra bất công giữa xã hội, có kẻ dùng quyền và dùng tiền khống chế kẻ khác, còn kẻ không quyền và không tiền lại là nạn nhân của kẻ có quyền và có tiền, hệ khống chế-áp chế-cưỡng chế là sự thật trước mắt có ngay và có sẵn trong xã hội, mà thanh niên phải thấy, phải hiểu để đấu tranh, lập lại công bằng bằng cách chống bất công của quy trình khống chế-áp chế-cưỡng chế. Không thể chấp nhận tham quan-tham quyền-tham nhũng, để không chấp nhận chuyện tái sản xuất "con quan thì được làm quan" (thái tử đảng), không dám đấu tranh chống lại bất công này thì thật là một dấu chàm "thâm nhục" cho tuổi thanh xuân !

Tuổi trẻ : chống quyền lợi ngầm của quyền lực

Quyền lực, khác với quyền hành dựa trên chức năng được công nhận qua cơ chế, vì quyền lực luôn gắn chặt với quyền lợi, trong đó tư lợi của của quyền lực luôn được giữ kín, thường được che giấu, cũng có tiếp tục giấu kín quyền lực mới bảo vệ lâu dài được quyền lợi. Từ thượng nguồn tới hạ nguồn, quyền lực mang ít nhất là ba quyền ngay trong nội bộ của chính nó : quyền chọn lựa, quyền quyết định, và quyền hành động. Chính qua quy trình kín này mà quyền lực luôn song đôi, song hành với : tham quyền, lạm quyền, lộng quyền ! Chính sự xuất hiện của dân chủ qua đầu phiếu, qua bầu cử, mới kiểm tra, mới kiểm soát được phương trình ngầm tham quyền-lạm quyền-lộng quyền này. Quyền lực cho phép kẻ cầm quyền vừa là tác nhân, lại vừa là trọng tài, nắm hành pháp và nắm luôn tư pháp ; nghịch lý này chính là quyền lợi ngầm của quyền lực, vì chính nó quyết định trò chơi-sân chơi-luật chơi, cũng chính nó tự cho phép đổi trò chơi-thay sân chơi-xoay luật chơi. Quá trình này càng trắng trợn trong cái nước đang sống trong các chế độ độc (độc tài, độc quyền, độc, trị, độc đảng) trong đó có Việt Nam. Đây là nỗi bất hạnh hàng đầu của Việt tộc.

giailuan27

Mô hình hóa tương lai dân tộc để khuôn khổ hóa các chân trời của thanh niên

Bạo quyền giữ tài nguyên, tài sản, tài lực và giật dây tài sách để định hướng xã hội, thao túng tập thể, điều kiện hóa cơ chế, cùng lúc mô hình hóa tương lai của một dân tộc, khuôn khổ hóa các chân trời của thanh niên, từ giáo dục tới huấn nghiệp. Bi kịch của Việt tộc từ khi độc đảng nắm quyền lực, thì nó luôn "nắm dao đằng chuôi" bằng cách nắm từ công an tới quân đội, theo kiểu "vừa cầm gậy để răn đe, vừa cầm cà rốt để nhử mồi", bằng cách nắm kinh tế và quản lý nhân sự. Độc đảng hóa quyền lực qua độc tài hóa quyền hành để độc quyền hóa quyền lợi, chính vậy nên phương trình kín tham quyền-lạm quyền-lộng quyền và phương trình ngầm tham quan-tham ô-tham nhũng chỉ là một phương trình ! có cùng một ẩn số : bám quyền để ôm lợi. Như vậy phải kết luận dứt khoát : không bao giờ diệt được tham nhũng trong trong các chế độ độc (độc tài, độc quyền, độc, trị, độc đảng), mà chỉ có dân chủ với sung lực công pháp hóa để kiểm soát, kiểm tra, để giải độc ẩn số tham quyền vì tham lợi này. Là thanh niên mà không hiểu được sự thật này thì xem như chưa trưởng thành ! Bọn tham quyền để ôm lợi, tiêu diệt tài lực của dân tộc, hủy diệt tài nguyên của đất nước, qua độc quyền của độc đảng, chúng không hề liêm chính vì chúng sống để "buôn quyền, bán chức", chúng cũng không được làm người lương thiện vì chúng "mượn đầu heo nấu cháo", chúng cũng không được là người đứng đắn vì chúng chỉ là "gà què ăn tựa cối xay".

Tuổi trẻ : chống tham quyền, lạm quyền, lộng quyền

Tà quyền không hề dám ngẩng mặt-thẳng lưng để cạnh tranh, để thi đua, để tranh giải với các chính quyền liêm chính tôn trọng dân chủ, tôn vinh nhân quyền, như ông bà ta đã dạy con cháu "khôn ngoan đối đáp người ngoài" ; vì thực chất tất cả chế độ độc (độc tài, độc quyền, độc, trị, độc đảng) chỉ là bọn "khôn nhà, dại chợ". Ôm quyền để trục lợi, thì tham vọng chỉ là tư lợi, không thể nào là công lợi, mà tư lợi là bòn mút từ công lợi, chúng không có vốn, chỉ lấy lời đắp lợi, lấy lợi vung bồi cho lời, thì chúng rất ngại gặp các chính quyền ngoại quốc liêm chính vì công bằng, đàng hoàng vì tự do, tử tế vì bác ái. Mỗi lần chúng nhìn những lãnh đạo các quốc gia dân chủ biết "thức khuya, dậy sớm" lo cho dân tộc họ, thì chúng vừa thấy lạ, vừa cúi đầu, vì chúng không có năng lực như họ. Mỗi lần chúng thấy những lãnh tụ các quốc gia tiến bộ yêu nhân quyền biết "một nắng, hai sương" vì đồng bào họ, thì chúng vừa thấy dị, vừa lẩn tránh, vì chúng không có năng khiếu như họ. Tổ tiên Việt tộc ta đâu có lầm : "so ra mới biết ngắn dài". Trong phương trình ngầm tham quyền-lạm quyền-lộng quyền của chúng, không hề có luân lý của kẻ lao động với công tâm của mình : "lấy công làm lời", mà ngược lại khi dân đen, dân oan chỉ vào mặt chúng hét lên chúng chỉ là bọn "sâu dân, mọt nước", thì lúc đó chúng chuyển độc quyền thành bạo quyền ngay ! Vì chuyện "thương dân, xót nước" đâu phải là chuyện của chúng.

Tuổi trẻ : chống hứa hẹn để chống hoạn nạn

Với phương trình ngầm tham quyền-lạm quyền-lộng quyền để bám quyền cho tới chết, thì chuyện : chơi với ma, đi với quỷ, dạo với tà, là chuyện đã có : liên kết với xã hội đen, từ du đảng tới trộm cướp để hành hung các trí thức đòi dân chủ, các dân oan đòi giữ đất, các thanh niên đòi toàn vẹn lãnh thổ trước Tàu tặc. Làm thanh niên mà không nhận ra được thực tế này thì xem như chưa là thanh niên ! Hãy chống hứa hẹn để chống hoạn nạn ! Tại sao vậy ? Những hứa hẹn xưa : thiên đường cộng sản, để muốn gì có nấy, tiêu thụ theo nhu cầu, mà lao động chỉ còn là lạc thú ! Những lời hứa hão gây ra bao hoạn nghiệp ! Từ đấu tố tới chiến tranh, mà giờ đây từ thanh trừng tới thanh toán nhau hằng ngày vì quyền lợi qua quyền lực, mà hậu nạn là ta chỉ thấy tư lợi cá nhân trong tham quan để tham quyền, tham ô để tham nhũng. Chúng ta muốn mọi hứa hẹn cho tương lai, mọi hẹn hò với mai sau đều phải có cơ sở của lý luận, có nền tảng của lập luận, trong đó dữ kiện phải là chứng từ, chúng ta không muốn loại đấu tranh giai cấp mượn danh chống bất công, để sinh ra bao sinh ly tan nát trong gia đình, con đấu tố cha mẹ trong cải cách ruộng đất, giữa làng xóm mà một sớm một chiều láng giềng trở thành tử thù, sẵn sàng truy diệt nhau. Chúng ta không bao giờ lập lại sai lầm sắc máu trong đó cách mạng mệnh danh giải phóng dân tộc để đưa cả một dân tộc vào ma trận huynh đệ tương tàn. Bao nhiêu triệu sinh linh phải mất mạng, mất đời, mất tất cả trong một cuộc biển lừa (hứa hẹn thành hoạn nạn).

Chống tha hóa để bảo vệ thân, để bảo trì đời, để bảo hành kiếp

Những kẻ nắm quyền lực hiện nay chỉ lo vơ vét, sẵn túi chuẩn bị bỏ chạy với của cải của chúng, nếu tiền đồ dân tộc bị Tàu tặc xâm lấn ! Chúng ta được quyền ngờ vực mọi lời hứa của mọi ý thức hệ ; chúng ta đủ luật để vặn hỏi mọi hứa hẹn của mọi chính quyền, nếu chính những kẻ lãnh đạo không hề liêm chính, không hề minh bạch, không hề biết hy sinh, mà chỉ biết lấy đất nước ra để trục lợi, lấy dân tộc ra để bóc lột. Chúng đừng hứa gì cả, chúng làm trước để làm gương, chúng ta sẽ làm theo, với tỉnh táo, với sáng suốt, với trí khôn để chặn cho bằng được chuyện hứa để rồi hoạn ! Tuổi trẻ thật sự trưởng thành nếu tuổi trẻ nhận thức được sau lưng mọi hứa hẹn đều có đe dọa lẩn khuất trong : hứa-họa ! Chống tha hóa để bảo vệ thân, để bảo trì đời, để bảo hành kiếp, giữ nhân sinh trong nhân tính. Chống tha hóa ngay trong xã hội hằng ngày, chống tha hóa ngay trong văn hóa để bảo vệ tính thuần chất của văn hiến tổ tiên, vậy thì phải đấu tranh chống tha hóa ngay khi đọc lại sử, xem lại sử, để chất vấn sử, để soi hiện tại, để làm sáng tương lai. Tuổi trẻ xem lại sử của Việt tộc để phải thấy một ẩn số mà chính những sử gia cũng chưa làm rõ trong các công trình của họ : ẩn số của một dân tộc tính luôn bị sức đè, sức ép của sự tha hóa tới tự ngoại xâm. Việt tộc với một dân tộc tính sống với truyền kiếp chống sự tha hóa, luôn len lỏi, luôn luồn lách vào văn hóa tổ tiên, vào bản sắc dân tộc, luôn đe dọa các giá trị vĩnh hằng để Việt tộc luôn là Việt tộc.

Tuổi trẻ của lòng tốt – lòng thành – lòng tin

Sức đè, sức ép của sự tha hóa tới tự ngoại xâm : hết Tàu tới Tây, hết Tây tới Mỹ... một cổ mà bao nhiêu tròng, một nước bé so với Trung Quốc, với phương Tây nhưng không hề là nhược tiểu... Từ đại Hán qua tổ chức phong kiến quan lại qua các xảo thuật của vai Tàu tặc, tìm mọi cách đồng hóa Việt tộc với định kiến thô bỉ giao chỉ man di. Tới Tây tới đất Việt với chủ nghĩa ích kỷ chống lại truyền thống tương trợ cộng đồng qua con đường chính thống của chủ nghĩa cá nhân trung tâm. Tâm trạng của kẻ sống để chống lại tha hóa là sống với đám nước lũ cường quốc (Tàu, Tây), tạo nên được tâm lý chống ngoại xâm, kể cả bọn ngoại xâm dũng mãnh nhất một thời như Mông Cổ, đã phải ba lần quỵ sụp trên chiến trường của các minh quân, minh tướng đời Trần. Tâm trạngtâm lý tạo ra kiến thức-ý thức-nhận thức chế tác nên ý muốn-ý định-ý lực giữ vững cho bằng được tiền đồ của tổ tiên, giữ chắc tương lai cho các thế hệ mai sau, để dặn dò nhau phải sống trong nhân phẩm để cầm chắc nhân tính, phải sống trong nhân đạo để cầm vững nhân tri. Trước đe dọa của tha hóa mà không hề sợ bị tha hóa vùi dập, nhai nghiến, nuốt chửng mà vẫn thẳng lưng xác nhận nhân tính Việt bằng nhân nghĩa Việt. Tuổi trẻ của lòng tốt-lòng thành-lòng tin hiện nay hãy là tuổi trẻ của tin yêu vào quá khứ bất khuất của Việt tộc, hãy là tuổi trẻ của quả cảm soi sử hôm qua để làm sáng sử ngày mai : chống tha hóa, không lai căng, không mất gốc, không bị bứng rễ, không bị mất cội vì không quên nguồn, với ý nguyện ta vẫn là ta.

Tuổi trẻ chống nhục kiếp

Chủ thể sử dụng tự do của ý thức sẽ tạo phương trình "kiến thức-tri thức-nhận thức" để tuổi thanh niên luôn là tuổi trưởng thành không phải chỉ qua tuổi tác, mà qua "tỉnh thức" trước các nỗi khổ niềm đau của đồng loại, trước các khốn cùng-khốn khổ sinh ra khốn kiếp giữa kiếp người, của kẻ bị mất nhân quyền, bị tha hóa giữa cõi người ! Biết là có quy trình "khống chế-áp chế-cưỡng chế" ngay trong xã hội, nhưng sức thông minh của thanh niên là không chấp nhận quy trình này, không chấp nhận nó tức là không "quy phục-quy hàng" nó, mà phải giúp nó "cải tà quy chính" bằng kiến thức để tránh bạo lực, bằng tri thức để tránh bạo động, với ý thức trong cải cách không đổ vỡ, không tan nát. Không ít thanh niên hiện nay, tự cho là mình "khôn", tự xem là mình "lanh", đứng về phía kẻ có quyền, có tiền, để "khống chế-áp chế-cưỡng chế" đồng bào mình ; nhưng tổ tiên ta rất sáng suốt, dạy ta "khôn quá hóa dại". Các kẻ lấy kiến thức chuyên môn của mình để phục vụ cho bên thống trị, có phân tích rõ là các kẻ này luôn có : một phản xạ quy phục, một phản ứng quy hàng ngay trong cá tính, làm tiêu tán nhân cách của họ. Chỉ vì, các kẻ này phải đoán-phải dò-phải mò trước các ý định-ý muốn-ý đồ của kẻ thống trị để thỏa mãn-thỏa chí-thỏa lòng chúng ! Chúng ta có thể gọi nỗi nhục này là nỗi nhục nghẹn trong cô đơn, nỗi nhục nghẻn trong cô độc, nỗi nhục ngọng trong cô quạnh, không sao tâm sự với bất cứ ai nhục kiếp riêng của họ.

Lê Hữu Khóa

(12/03/2021)

---------------------

lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author:Lê Hữu Khóa
 
  • facebook sharing button Share
    twitter sharing button Tweet
    email sharing button Email
 

 


[1] HỌA LUẬN (l’argumentation contre le drame humain). Anthropol-Asie. Paris

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 1184 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)