Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

28/05/2021

Giải luận 3 : Xã hội

Lê Hữu Khóa

Xã hội

xahoi1

Đi

Cầm nắm đất giữa ruộng có sỏi cứng cùng rễ máu, còn nghe vang ầm tiếng bạo quyền gào thét : "cải cách... ruộng đất... đấu tố... mang địa chủ ra... giết hết đi !". Lặn sâu vào lòng biển quê hương còn nghe vang vang tiếng đồng bào vượt biên ôm nhau nức nở, cùng tiếng đe nẹt công an biên phòng : "phản động... vượt biên... lột hết đồ chúng ra... rồi vất xác chúng xuống biển !". Đặt bàn tay lên lòng đường không người còn nghe vang động tiếng đồng bào phẫn hận : "không đặc khu... không đặc khu..". lẫn cùng tiếng nghiến răng của công an : " lực lượng thù địch... siết cổ chúng nó... không cho chúng nó gào... cứ đánh... cứ đập chúng chết hết đi". Nắm lấy tim mình thấy máu cuồng sôi, còn nghe vang cuồng tim, gan, thận, ruột... đang muốn trào thân, xuống đường ngay, cùng tiếng thì thầm của tổ tiên : "các con cứ lên đường đi !".

Thảm nhân

Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm nên thảm họa của Việt tộc là : Áp đặt bằng bạo quyền lên một Việt tộc đã cúi đầu. Đè nén bằng bạo lực lên một Việt tộc đã khom lưng. Còng siết bằng bạo hành lên một Việt tộc đã khoanh tay. Truy hảm bằng bạo động lên mộViệt tộc đã quỳ gối. Việt tộc hãy nhận lại nhân cách : đứng thẳng lên... duổi mạnh tay... gồng cứng lưng... ngẩng cao đầu... mà đi về hướng nhân phẩm !

xahoi2

Chân dung bất nhân

Muốn đi từ giải thích tới giải lý để giải luận về chân dung bất nhân được chế tác bằng chân dung quyền lực thì hãy trở lại gốc, rễ, cội, nguồn của lý lịch cá nhân để hiểu từng lộ trình của các cá nhân trước khi buôn dân bán nước thì số đông trong đám này chúng đã buôn bằng bán cấp. Nhất là đoạn cuối của đại học với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả đang đầy dẫy từ hệ thống giáo dục tới cơ chế xã hội. Hít thở bằng tà quyền để có phản xạ trong điếm lộ, bọn buôn bằng bán cấp đã có sẵn những toan tính buôn với ý đồ buôn chức bán quyền. Trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay của Việt Nam, thì lộ trình để tới điểm hẹn của chúng là địa đạo âm binh của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, tại nơi đây chúng sẽ diệt cho bằng được trí tuệ để dễ buôn-dễ bán với nhau.

Một cơ chế xã hội bất nhân !

Một chế độ chính trị mà con người phải chạy tới tối tăm mặt mũi, thì chế độ chính trị đó bất nhân ! Một cơ chế xã hội mà con người phải chạy tới đầu tắt mặt tối, thì cơ chế xã hội đó thất đức ! Trong thảm trạng của dân tộc hiện nay, thì ta thấy có nhiều cách chạy, trong đó có kiểu chạy thô bỉ nhất là chuẩn bị cao bay xa chạy ra nước ngoài, qua phương Tây của các quan chức sau khi vơ vét bao tiền bạc của dân tộc, sau khi nạo vét bao tài nguyên của đất nước. Các quan chức này vừa là tham quan để tham tiền, vừa là trọc phú trong các biệt thự, biệt dinh, biệt phủ nhưng đã có thẻ xanh của Mỹ, quốc tịch ngoại của Âu châu. Chúng phè phởn với các đặc ân cùng như đặc lợi bằng độc đảng toàn trị qua công an trị ; một chế độ độc quyền trong bạo trị dung túng cho tham nhũng trị, mà tất cả đều là âm binh trong tham tiền trị, luôn chạy để mua quyền, luôn chạy để bán chức. Nhưng khôn quá hóa dại, vì tránh vỏ dưa sẽ gặp vỏ dừa, vì các quốc gia mà chúng toan tính để mò mẫm tới mà dung thân, chính là quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, với công lý rất công minh, công pháp rất công tâm. Các quốc gia này sẽ nhận ra chân dung thối nát để có lý lịch thối tha của chúng, cùng lúc giúp Việt tộc kiểm nghiệm lại hai bài học của tổ tiên Việt để lại cho con cháu Việt : Chạy trời không khỏi nắng, nắng trời của hệ công (công lý, công minh, công pháp, công tâm) biết làm nên công luật ; cùng là nắng trời của sự thật, của lẽ phải. Chạy đằng trời,lưới trời lồng lộng, trong nhân luật của chân lý nhân quả, ăn ở bất nhân thất đức thì chạy đâu cho thoát !

Sự thông minh tức thời

Có hai hiện tượng luận cứ quấn nhau : hiện tượng luận lý trí và hiện tượng luận trực quan. Nơi mà cái thấy mở màn cho cái hiểu, cái hiểu sẽ đưa ta tới cái nghiệm, nếu cái nghiệm hoàn chỉnh thì cái thức sẽ tới, thức tới thì một loạt chuyện nhân trí sẽ được thông : kiến thức đủ nội lực sẽ thành tri thức, khi tri thức đủ nội công sẽ thành ý thức, nơi mà nhân trí (rất thức) để mời đạo lý hay, đẹp, tốt, lành vào sống chung với nhân tri nhân tình, nhân sinh... Đây là câu chuyện lõi của nhân kiếp nhờ kiến thức mà trở thành thức kiếp, nơi mà nhân tri luôn mở rộng, dang rộng, đào sâu, bước dài hơn kiếp trước trên con đường nhân phẩm. Khi ta đang đi trên đường, không quên một người nào, nhưng khi ta được người lạ chào hỏi, thì thái độ của ta từ ngạc nhiên thoắt qua chào hỏi là : sự thông minh tức thời, mà chính thông minh này là chất keo sơn của nhân loại chưa bao giờ thấy nhau, chưa bao giờ sống chung với nhau nhưng có cùng một nhân tính. Đây không phải là chuyện "trước lạ sau quen", nó sâu hơn nhiều, nó là "còn lạ mà đã quen", vì còn ngạc nhiên mà đã muốn thân quen, thân mến, thân thiện… muốn thành người thân trong khi cái lạ còn rành rành trước mắt, cái lạ không phải là cái kỳ quái, nên nó không còn là rào cản, kẽm gai, ngăn lòng, chắn cảm. Vì trong trực quan có người nhận ra người, thông minh nhận ra thông minh.

Cá nhân luận của chủ thể

Cá nhân luận là nơi nhận diện các trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa cũng như trong quyết định trước khi hành động. Hãy nhận ra cá nhân luận là tiền đề của xã hội dân chủ, vì nó biết chống lại các thái độ độc tài, các hành vi độc đoán, các hành động độc tôn. Cách hành xử cả vú lấp miệng em không có chỗ đứng, ghế ngồi trong cá nhân luận, cho nên các chế độ độc đảng-toàn trị đứng ngồi không yên rồi mất ăn mất ngủ với cá nhân luận. Vì nó biết cổ súy tính đa nguyên của các cá nhân, vì nó biết cổ vũ tính sáng tạo qua sáng kiến trong phương pháp giải quyết của cá nhân luận để chống lại các quy luật độc trị được độc tài phổ biến qua tuyên truyền. Cá nhân luận còn đi xa hơn khi nó phân tích quá trình thành lập các phong trào xã hội, tới từ các công đoàn tôn vinh dân chủ, các nghiệp đoàn tôn trọng nhân quyền để tạo ra các so sánh lực lượng mới, làm tiền đề cho cải cách thực sự đưa dân tộc thăng hoa. Cá nhân luận định nghĩa cá nhân không chỉ là một cá thể mà là một chủ thể có sáng kiến để có sáng tạo làm nên lực đẩy, dàn phóng cho chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng tích cực. Cá nhân luận làm ra chủ thể có ý thức, không bao giờ vô cảm trước bổn phận với dân tộc, không bao giờ vô tâm trước trách nhiệm với đất nước.

Sự vận hành chuyển hóa thành phong trào

Văn học sẽ giúp triết học vận hành chuyển kiếp, trong việc khởi hành chuyển thay ngôn ngữ, giúp luôn tốc hành qua sáng tác, để thấy ở đây văn học có thần lực vạn năng làm thay, đổi, biến hóa ngôn ngữ mạnh dạn nhất. Sung lực của văn học qua sáng tác làm rõ tính đa diện của chủ thể, với nội lực của văn học làm rõ tính da dạng của sự thật. Nếu triết học và văn học phải dùng ngôn ngữ để thể hiện, để minh chứng, nhưng triết học và văn học, mỗi nơi nói lên chân lý, lẽ phải theo cách riêng của mình, thì cả hai phải cận nhau, vì cần nhau. Phản lại sự thông minh luôn muốn chuyển hóa ngôn ngữ là các chế độ độc (độc tài, độc đoán, độc quyền, độc trị, độc đảng) vì nó chỉ dùng tuyên truyền bằng ngôn ngữ một chiều nên không bao giờ muốn thay đổi ngôn ngữ, vì nó chỉ dụng nhồi sọ nên nó cần lập đi, lập lại, nên rất dị ứng với chuyện thay, đổi, chuyển, biến trong ngôn ngữ, làm mới ngôn ngữ. Như vậy nhân trí phải rút ra một kết luận cho nhân sinh là các chế độ độc tài các chế độ toàn trị, hai loại chế độ này không sợ các phạm trù của đạo đức (trung thành, chung thủy, can đảm…) mà chúng chỉ sợ và "mất ăn mất ngủ" vì sự vận hành chuyển hóa thành phong trào. Và mỗi lần có vận hành hình thành ra phong trào là có đổi, thay, hóa, chuyển kiếp người !

Cá nhân tốt – xã hội tốt - cơ chế tốt – quan hệ xã hội tốt

Cái tôi chỉ là một cái của thiên hạ, là cái ta chỉ là trong một phần tử của chúng sinh, mọi cái tôi khôn đều tới từ nhân tính, kiếp một người cũng là kiếp của mọi người. Nhưng, cái tôi khôn, cái ta ngoan thì phải thêm bốn chuyện nữa để sống chung với mọi người : biết ân cần với mọi người để biết tự tôn trọng mình, biết tìm xã hội tốt để sống nhưng cùng lúc phải đấu tranh để làm tốt các cơ chế của xã hội đó. Trong cuộc sống, hãy phân tích rõ nếu bạo quyền dùng bạo lực, thì tham vọng của quyền lực không sao kiểm soát nổi các bạo hành tới từ bạo lực, tóm tắt là không bạo quyền, bạo lực nào "nắm dao đằng chuôi" cả ! "Sống nay, chết mai" mà thôi ! Vì bạo quyền, bạo lực, bạo hành leo thang trong mù quáng, không kềm chế nổi tham vọng của chúng. Từ đây, hãy thấy cho thấu bốn hệ vấn đề khi nhân tính đòi hỏi nhân sinh phải nhân đạo : một cá nhân tốt được quyền đòi hỏi mình sống trong một xã hội tốt, trong những cơ chế tốt qua các quan hệ xã hội tốt. Như vậy, cá nhân muốn tốt phải có cấu trúc xã hội tốt, hệ thống xã hội tốt, và sinh hoạt xã hội tốt.

Bọn khống chế thao túng người

Nếu nhân tính thật là "cạn tàu ráo máng" với nhau, nhân sinh không có nhân tình vì "người với người coi nhau như sói" rồi ! Thậm chí còn tệ hơn sói, vì nhân thế là thực trạng "cá lớn nuốt cá bé", thì sao có nhân nghĩa được ! Trong một xã hội có ngàn nghề nghiệp, có trăm thành phần, nhưng chỉ có hai loại người, loại thứ nhất là loại khống chế kẻ khác, loại thứ hai là loại bị khống chế. Kẻ khống chế có quyền lực để bồi đắp quyền lợi chúng, kẻ bị khống chế là nạn nhân trực tiếp qua bóc lột, gián tiếp qua các định chế của kẻ khống chế. Chủ thuyết vốn xã hội là một mê hồn trận được chế tác ra bởi bọn khống chế để thao túng người, dùng vốn kinh tế để có vốn chính trị, dùng vốn chính trị để có vốn văn hóa, dùng vốn văn hóa để có vốn giáo dục, dùng vốn giáo dục để có vốn nghệ thuật... Ông bà ta rủa chúng là loại : "ăn tham, chết thối", ta phải hiểu ngược lại để nhìn thấu tâm địa của bọn khống chế này : "ăn tham, sống sướng". Chuyện này đang rất đúng trong chế độ độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị vì độc đảng trên quê hương Việt Nam !

xahoi3

Bảo vệ lý trí của sự thật

Niềm tin luôn tác động vào kiến thức nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, để định vị sự thật, cụ thể chúng ta không muốn tin những sự thật mới tới để làm phiền rồi lật đổ các niềm tin đã có trong ta. Nên sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng trong những gì mà ta không muốn hiểu, và sự thật có thể không nằm trong những gì mà ta muốn biết. Đây là chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực, như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế. Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, để tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà bảo vệ trước hết là phải bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho mọi lẽ phải.

Sự thật với sự thành thật học để hiểu

Nếu ta có niềm tin sâu sắc về thượng đế đã chế tác ra muôn loài, thì ta cũng cso thể đề nghị là không có niềm tin nào vô điều kiện cả, ta hãy đến với sự thật với sự thành thật học để hiểu, có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để hiểu và để nhận ra sự thật. Khi ta biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, thì từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật, vì sự thật sẻ được mở ra cho ta nhận ra sự thật, sự thật dâng tới cuộc sống qua sự xuất hiện của sự vật.

Kẻ thống trị nắm quyền lực để thao túng tri thức

Chính sự xuất hiện của sự thật sẽ nói rõ sự xung đột đã có và sẽ tiếp diễn ngay trong sinh hoạt xã hội, nó đe dọa và nó thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết để cung nhau liên minh chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác. Và để sự thật được ngời sáng lên, được thấy rõ qua đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, nhất là quan hệ xã hội, khi chúng ta đi tìm sự thật trong một xã hội, đừng quên là trong xã hội đó luôn có hai loại người kẻ thống trịkẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức, bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, mà mục đích là kéo đài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị.

Kẻ thống trị là ký sinh trùng

Có kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẩm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua siêu cao thuế nặng, đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lợi dụng mọi phía, vừa bóc lột tới cùng kẻ bị trị. Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay lương bổng thấp ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, và ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc.

Sự thật xã hội ngoài văn bản

Đưa sự thật cho quần chúng trong xã hội, là để mọi người được sống đúng, không là nạn nhân của bất công, trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân. Trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống hơn, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức. Ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng khi ta đi tìm sự thật. Thí dụ khi ta đi tìm sự thật về giáo dục, chúng ta thường rơi vào các văn bản của Bộ Giáo dục, mỵ dân trên văn bản không phải thực tế hiện nay là hoàn tòan phản giáo dục với các bi nạn : bạo động, dâm loạn, hối lộ, tham nhũng… đây là sự thật của một bộ máy giáo dục bị lũng đoạn toàn bộ, nó ngược lại với văn bản đạo đức giả của Bộ Giáo dục.

Không gian kiến thức biết tự phòng vệ

Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán vì tà quyền không thể chính trị hóa toán học được ; nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn ; và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị tà quyền này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, khoa học xã hội nhân văn là những không gian kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộng ngôn của ma quyền truyền thông, âm binh muốn thống trị người hiền luôn có mặt trong cuộc sống vừa để tuyền truyền, vừa để đánh lạc hướng quần chúng và xã hội.

xahoi4

Lấy cái giết để dựng cái bạo qua cái diệt

Sự thật dưới bạo lực, như vụ án Đồng Tâm phải được giải thích như hiện tượng bạo động kiểu giết người có trong xã hội là buộc tội oan chỉ một người, bị quy chụp những tội mà họ không gây ra. Mang ba ngàn công an cùng cảnh sát để sát hại rồi mổ bụng phanh thây một cụ già hơn 80 tuổi, cụ Lê Đình Kình, rồi tuyên án tử hình hai người con trai của cụ, vừa để trả thù, vừa để trừng phạt, vừa để răn đe, vừa để lộ diện trước thanh thiên bạch nhật các ác của bạo quyền độc đảng toàn trị. Biến một lỗi nhỏ của một người, một nhóm thành tội đồ to để hành quyết nạn nhân, có thể là một người, có thể là một nhóm để làm vật tế thần, khi một bạo quyền dùng nạn oan, không có tội nhưng bị buộc tội oan, để lấy cái ác làm cái uy bằng cái giết. Chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để chết oan đây là khi ạo quyền đã mất phương hướng. Xã hội Việt đang lâm nặng vào quá trình nạn nhân oan, tại đây kẻ nghiên cứu không thấy được gì thêm về nạn nhân, mà nên quan sát kỹ vào hành dộng của một bạo quyền độc đngr toàn trị lấy cái giết để dựng cái bạo qua cái diệt.

Cái độc, cái ác, cái thâm, cái hiểm sợ sự thật

Cái độc là nền để làm động cơ hành động cho cái ác, chính sự hiện diện của lý trí báo thức cho ý thức biết là cái lành có trong cái nhân, để duy trì cuộc sống trong xây dựng, chống lại sự tàn phá của cái độc. Cái thâm là con tính của cái độc, để biến cái ác thành cái thực trong cuộc sống, tại đây ý thức hợp lực với lý trí để chế tác ra niềm tin để bảo vệ cho bằng được cuộc sống bằng cái hay mang tầm vóc của cái tốt, mang bản lĩnh của cái lành để tiếp tục bảo hành cuộc sống. Cái hiểm, là thủ đoạn của cái thâm, là gốc rễ của cái độc, là cội nguồn của thâm, nó luồn lách qua tà quyền, nó chui rúc để bám bạo quyền, nó thích bóng tối hơn ánh sáng, vì nó sợ sự thật, nó lo bị lột mặt nạ, nên bóng tối là nơi ẩn nấp của cái hiểm để nó thực hiện tội ác của nó.

Tội ác, tội trạng, tội phạm, tội nhân trốn ánh sáng của sự thật

Tội ác, không những mượn bóng tối để ẩn nấp, mà còn để che dấu tội trạng, để khỏa lấp tội phạm, dấu diếm tội nhân, mà còn để lẩn trốn ánh sáng của sự thật, chính sự thật sẽ đưa tội phạm ra trước ánh sáng : công lý ! Tội trạng, sẽ được xử bằng công lý, có cái lý của công bằng, có cái luận của công luật, có cái quyết của công pháp, nơi đây pháp luật thực thi cái luật, có cái nền của công tâm. Tội phạm, khi bị lên cán cân, một bên là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) và một bên là luật pháp (công bằng, công lý, công pháp, công tâm), thì nguyên nhân, động cơ, hành động, hậu quả của tội ác, tội trạng, tội phạm sẽ vạch mặt, chỉ tên tội nhân. Tội nhân, bị vạch trần lý lịch qua bằng chứng của tội ác, qua tang chứng của tội trạng, qua minh chứng của tội phạm, nên luật pháp có đầy đủ luận chứng để luận tộikết tội thủ phạm của tội ác ; dù đó là một đảng, một chính quyền, một chính phủ, một bọn tham quan, một tập đoàn tội phạm, một nhóm sát nhân… dù chúng có sự hỗ trợ của một cường đảng như Tàu tặc, Tàu phỉ hiện nay.

Ý thức bằng nhân lý vì nhân phẩm

Tự chủ nhận kiến thức để gầy dựng tri thức, chế tác ý thức bằng nhân vì nhân phẩm, đó là tự chủ của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống với chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nề vì các lãnh đạo bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện để chống lại ngu dân chính là sự tự chủ của tri thức. Tất cả chỉ vì dân tộc bị lãnh đạo bởi một Đảng cộng sản Việt Nam rất sợ, rất ngại loại não trạng tự chủ vì nhân trí, với tự do chân chính của nó dựa trên thế kiềng ba chân : sự thực của nhân tri, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo, mà không sao ngu dân được qua tuyên truyền sống sượng. Tất cả cái giả tạo sẽ tạo ra một xã hội bị âm binh hóa, vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo bất tài nên bất tín, sẵn sàng bất chính ngay trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị của nó.

Tâm thức của trách nhiệm hai chiều

Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, nếu tới từ phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trình của tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động. Tự do vì nhân quyền có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm hai chiều : có hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội, và có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể của tự do sẽ rất chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi : Tự do vì nhân quyền biết tự hỏi : tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ? Biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia ! Hiểu phương trình dấn thân-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.

Dòng chảy của nhân tính

Tự do vì nhân quyền có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội có nhân quyền và dân chủ, để đi ngược lại các sinh hoạt chính trị luôn là đoản kỳ trong nhiệm kỳ. Tự do có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội không có nhân quyền và không có dân chủ, để đi ngược lại các ý định của bạo quyền, ý muốn của độc tài, ý đồ của tham nhũng.Tự do sống trong di động để chủ động, chống lại bị động vì thụ động của cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trong khuất phục, trong tủi nhục, trong cam chịu ; vì tự do trước hết là tự do đi lại ; đi lại để được sống trong dòng chảy của nhân tính, trong trào lưu của nhân phẩm, trong phong trào của nhân đạo.

Tự do lột mặt nạ độc tài

Tự do vì nhân quyền biết vượt khó khăn trong cuộc sống như vượt thắng chính mình, từ đó tự tin của tư duy làm sáng ra ba quá trình của tự do là phải trực diện để đấu tranh vì tự do. Tự do cần tự tin để đấu tranh, nhưng tự do cũng giúp tự tin phải tự giải phóng mình trước khi hành động vì tha nhân, vì đồng loại. Tự do đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi là : ta đang có hay ta không có tự do ? Tự do lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý. Tự do vì nhân quyền tạo nên một quá trình chuyển biến não bộ tiên tiến, chuyển hóa não trạng cấp tiến, thay đời đổi kiếp bằng cách vật sụp bạo quyền độc đảng toàn trị là đây !

Từ ý thức tự do tới hành động tự do

Tự do vì nhân quyền đi từ không đến có, khi con người tiếp nhận một chân lý bình đẳng qua quan niệm về bình đẳng với mọi người, để có công bằng trong xã hội, để yêu cầu công lý dùng pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng bằng pháp luật vừa công minh, vừa liêm chính. Tự do trực diện đấu tranh với mọi bạo quyền, mọi tà quyền, mọi cường quyền bằng chính liêm sỉ của mình, đây là định nghĩa nguồn của nhân cách. Đó là các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do. Trong cuộc sống hằng ngày, tự do vì nhân quyền là sự hình thành một ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền với tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công, đồng hành cùng tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng.

Công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế

Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, và bổn phận trong hiện tại và trước tương lai, như vậy tự do luôn mang ba quá trình chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng trước tương lai với tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế. Tự do vì nhân quyền biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công, vì tự do vì nhân quyền là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lực của bạo quyền.

Chữ tâm, chữ nhân

Những đồng bào buôn thúng bán bưng là ai ? Là những đồng bào "thức khuya dậy sớm", là những người "đội nắng dầm mưa", là những đồng loại "một nắng hai sương", vậy mà vẫn "đầu tắt mặt tối". Chính những đồng bào này đang là dân lành, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành dân đen, và thảm họa là một sớm một chiều, bị phá nhà cướp đất, và trở thành dân oan, trong "màn trời chiếu đất", trong "đầu đường xó chợ". Còn bọn quan tham mới là ký sinh trùng, bọn lãnh đạo độc tài mới là ký sinh vật, bọn cầm quyền độc trị mới là ký sinh thể, chúng "ăn trên ngồi trốc", với nhân diện điếm đàng của Mã Giám Sinh : "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao", với nhân dạng điếm chủ của Tú Bà : "đưa người cửa trước, đón người cửa sau", với nhân cách điếm hèn của Sở Khanh : "nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Chúng là bọn ký sinh trùng âm binh trong âm giới địa đạo ma bùn của chúng, chúng tham quyền để tham nhũng, tham ô để tham tiền, và khi bị ra tòa để nhận tội thì chúng mới lộ bản chất ký sinh trùng của chúng. Từ tướng trong quân đội tới tướng công an, từ bộ trưởng này tới ủy viên Trung ương kia, lạy van đảng trưởng của chúng là hãy tha tội cho chúng. Loại ký sinh này không biết tự trọng, vì không có được giáo dục với chữ tâm, không hề được giáo dưỡng về chữ nhân.

Đồng bạo, đồng tà, động ma

Đồng bào, như một sự thật có sâu trong tâm tưởng làm nền cho tâm trí Việt biết xuất lực về phía đồng sinh, nơi có đất nước trọn vẹn, nơi có dân tộc độc lập, nơi có văn hóa làm nên nhân văn Việt, có văn minh làm nên nhân trí Việt, có văn hiến làm nên nhân đạo Việt. Nhân Việt này được tôi luyện từ đồng bào tới đồng hương, từ đồng hội tới đồng thuyềnNhân Việt này của người Việt hiện nay rất ngỡ ngàng trước bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, trước tà quyền tham nhũng buôn dân bán nước, trước ma quyền tham tiền buôn tông bán tổ. Chúng lẩn khuất trong liên minh âm binh của chúng để vơ vét tiền bạc của đồng bào, bòn rút tài nguyên của đất nước. Chúng lại vênh mặt trước đồng bào khi chúng khoe biệt dinh, biệt phủ của chúng với thẻ xanh, quốc tịch ngoại, sẵn sàng cao bay xa chạy khi đồng bào bị ngoại xâm tha hóa để đồng hóa. Bọn này không phải là đồng bào của chúng ta, chúng chỉ đồng bạo, đồng tà, đồng ma với nhau để đồng bẩn trong trộm, cắp, cướp, giật… Vì chúng đã đồng liệt, đồng bại ngay trong nhân cách Việt của chúng !

Gốc cộng hòa và nền dân chủ

Khi mong muốn đa nguyên thì mọi người thường nghĩ ngay tới đa đảng, nhưng đa đảng trong hỗn loạn định chế, trong bất an xã hội, thì đa đảng không triệu tập được sung lực của đa nguyên là tổng hợp được : đa tài, đa trí, đa dũng, đa năng, đa hiệu… Và khi xem xét lại các định chế tồn tại được với thời gian trong đa nguyên với kinh nghiệm của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì kinh nghiệm đa đảng chỉ là sự vận hành cụ thể của một đa nguyên bảo đảm được nhân bản (căn bản của nhân lý, nhân tri, nhân tính), luôn được bảo trì từ đạo lý tới luật pháp. Tại đây, đa nguyên nhân bản có gốc của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và nền của dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền).

Thị trường đe dọa dân chủ

Không gian của thế kỷ XXI này, thì ta sẽ nhận ra uy quyền của thị trường, vì lợi nhuận, vì quyền lợi, có thể đe dọa dân chủ, lũng đoạn nhân quyền. Và thị trường có thể ở "thế thượng phong" khi thị trường được "hà hơi tiếp sức" bởi tự do cá nhân, với động cơ ích kỷ để biến quyền lợi thành tư lợi. Từ đây, các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền phải luôn tỉnh táo để sáng suốt trong lý luận là hai mệnh đề văn minh nhất của nhân loại hiện nay là cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái)dân chủ (đa nguyên, đa đảng, nhân quyền) luôn mong manh, luôn bị đe dọa, như nhân phẩm luôn bị truy hiếp bởi bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền.

Tà quyền thì ăn nằm với xã hội đen

Xã hội đen, sinh sôi nẩy nở với bạo quyền độc đảng toàn trị, đã ăn cướp chia phần với một hệ thống công an trị, cùng lúc cặp kè với tà quyền tham nhũng trị, nơi mà bọn tham quan vì tham quyền và tham lam đã dựa vào côn đồ, du đảng để trộm, cắp, cướp, giựt đất đai, của cải của dân lành. Xã hội đen là loại ký sinh dựa trên bạo lực, nơi mà côn đồ, du đảng chỉ biết luật rừng của bạo động, chọn bạo hành làm phản xạ, dùng bạo lực để phản hồi. Nhưng đám âm binh này được nuôi dưỡng và giáo dưỡng trong một hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị, mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vừa làm "ô dù", lại vừa "chống lưng" cho xã hội đen. Mà ngay trong bản chất các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ là những thành phần bạo-quyết-trong-vô-tri, chỉ biết phản xạ bằng hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành). Khi bọn cầm quyền có phản xạ bạo lực, lại ăn nằm với xã hội đen là bọn có phản ứng bằng bạo hành, thì xã hội dân sự phải lập cho bằng được liên hiệp giữa luật pháp, đạo lý, giáo dục cùng song hành với văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền. Và không quên công pháp quốc tế với các kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến đã trị được tham nhũng và xã hội đen bằng kiến thức rộng, tri thức sâu, nhận thức rộng của rất nhiều chuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn.

xahoi5

Mua bằng bán cấp – mua quyền bán chức

Một thực tế xã hội của Việt Nam hiện nay bị điếm nhục hóa bởi bạo quyền độc đảng toàn trị đã trở thành tà quyền tham nhũng công an trị, thì học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả đã biến tri thức thật thành thiểu số trước trí thức giả, và chính loại trí thức giả này sẽ tạo ra kiến thức giả-tri thức giả-ý thức giả-nhận thức giả. Rồi bọn trí thức giả này sẽ đi tìm đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của Đảng cộng sản Việt Nam từ bổng lộc tới tư lợi được ban phát và rơi rớt chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng quen thói mua quyền bán chức được tổ chức bởi hệ thống tà quyền độc đảng toàn trị, qua quá trình học vấn giả của mua bằng bán cấp tới mọi lứa tuổi trong xã hội, nơi mà tham nhũng để trục lợi là phản ứng tự nhiên đã biến thành phản xạ của toàn xã hội.

Không thể sống chung với bất công !

Những khám phá từ chân lý cây ngay không sợ chết đứng tới lẽ phải sống lâu mới biết lòng người có nhân là sự khám phá về một mãnh lực : nhân sinh không chấp nhận bất công, vì nhân tính công bằng làm nên nhân lý công tâm ! Thấy bất công thì phải đấu tranh, mà ngay bước đầu tiên của bất nhẫn là nói rõ để hét to, nói lớn để gào lên là : Không thế chấp nhận bất công ! Không thế sống chung với bất công ! Không thế nhượng bộ bất công ! Số người ủng hộ và bảo vệ tôi chống lại bạo quyền mờ-tà quyền nhăn-ma quyền cống phải được phân tích cho thật rõ và sâu chừng nào hay chừng ấy. Tại đây, tôi nhận ra có một nội lực trong mỗi con người của chúng ta để chống bất công, hãy biến nội lực này thành sung lực có sẵn, nằm chờ để khi bối cảnh thuận lợi thì nó sẽ thành hùng lực lật đổ bạo quyền, vùi dập tà quyền, chôn lấp ma quyền, để cuối cùng xuất hiện như mãnh lực để xây dựng lại nhân tâm cho nhân sinh, nhân từ cho nhân thế, nhân nghĩa cho nhân loại.

Nhân Việt

Cứ suy nghĩ mãi nhiều năm về hệ lực (nội lực, sung lực, hùng lực, mãnh lực) và vài năm gần đây tôi đã đưa nó vào hệ thống lý luận của tôi để giải thích và xử lý chuyện đời, chuyện người. Số là trong xã hội học chính trị khi song hành cùng xã hội học dân chủ xã hội học quyền lực thì chúng tôi khám phá ra là chỉ cần 5% dân số đứng lên chống bất công thì một xã hội có thể làm thay đổi một thể chế. Và chỉ cần 10% dân số đứng lên chống bạo quyền thì một quần chúng có thể làm thay đổi cả một chế độ độc tài toàn trị, một sớm một chiều biến nó thành mây khói. Hãy tin tưởng vào ngày Việt tộc đứng lên mà vùi bất công lẫn bạo quyền của công an trị, của tham nhũng trị, của tham tiền trị hiện nay, tôi thầm nghĩ ngày đó không xa ! Hãy vất bỏ các loại phân biệt tiêu cực là "nhân trí Việt thấp", các loại phân tích dễ dãi là "nhân tri Việt tồi", các loại phân định chớp nhoáng là "nhân bản Việt hèn", các loại phân giải cực đoan là "nhân tâm Việt tệ". Chỉ vì trong quá khứ, qua Việt sử : Việt tộc vừa là một minh tộc, vừa là một dũng tộc, biết lấy thông minh của chính mình để thắng mọi bạo quyền, biết lấy sự dũng cảm của chính mình để thắng mọi tà quyền, dù nó là nội xâm hay ngoại xâm !

Kiên nhẫn, kiên định, kiên trì, kiên cường

Trong công cuộc đấu tranh chống bất công, hãy nhận ra sự bất nhẫn của tập thể, của cộng đồng, của xã hội là một hùng lực, mà chớp nhoáng nó sẽ thành mãnh lực đập vỡ được thành lũy của bạo quyền, phủ lấp mọi chiến hào của tà quyền, cuốn trôi luôn mọi cống rãnh của ma quyền. Chuyện chính là phải biết chuyển hóa bất nhẫn thành kiên nhẫn để kiên định trong đấu tranh dài lâu với bạo quyền, với tà quyền, với ma quyền, mà tránh biến bất nhẫn thành phẫn nộ không kiềm chế được, cơn giận không quản lý được. Hệ kiên (kiên nhẫn, kiên định, kiên trì, kiên cường) vừa là nội công, vừa là bản lĩnh ; cụ thể vừa là gân cốt, vừa là tầm vóc của người đấu tranh chống bất công, bằng đường trường, bằng trường kỳ, bằng cuộc sống lẫn cuộc đời.

Bất chính trong sinh hoạt xã hội

Chạy, là động từ kể-để-tả sự vận dụng thể lực để làm nhanh theo một yêu cầu bức bách gì đó, chạy thì nhanh hơn đi, nên chạy là để xử lý tức khắc một việc mà ta muốn có kết quả nhanh. Chạy nhanh, có khi để rượt đuổi, có khi bị rượt đuổi. Chạy trong sáng suốt ngược chiều, nghịch lý với chạy trong hoảng sợ, với tâm trí rối loạn, với tâm thần bị thất thần. Chạy để ôm người thương, người yêu đối nghĩa, nghịch luận với chạy loạn, chạy giặc xa cái chết, để chạy về cõi sống. Nếu là chạy bộ như môn thể thao thường nhật, thì ta chạy trong thoải mái, vui vẻ, với chủ đích là tăng thể lực để trợ lực cho trí lực, trợ duyên cho tâm lực, nên ta chạy thong dong trong thư thái, thư thả để thong thả… Nhưng động từ chạy có một nội dung hoàn toàn khác, có khi bất chính trong sinh hoạt xã hội đầy tham nhũng, của một tổ chức xã hội dựa trên tham ô, với quan hệ xã hội của tham quyền như xã hội Việt hiện nay, đã bị trùm phủ bởi tham tiền trị. Đây là đứa con đích tôn của độc đảng toàn trị, từ đây động từ chạy mang một nội hàm mới, bất bình thường trong ngữ nghĩa như bị ép uổng để được "bình thường hóa" trong một xã hội đã bị lắm ung thư ngay trong nội tạng của nó, bởi lót tay, bôi trơn, bao bì, sân sau, ô dù, chống lưng… Động từ chạy giờ đây trong giao tế xã hội đã chuyển tải không những các thói hư tật xấu của đời sống xã hội, mà nó còn thiêu hủy tận gốc rễ đạo đức một tập thể, đạo lý một cộng đồng, luân lý một dân tộc. Động từ chạy cho ta thấy rõ quan hệ giữa người với người đã bị tha hóa, đã bị thối tha hóa.

Tà nạn

Ít ai ngờ là bất công có anh em cùng mẹ khác cha, hay cùng cha khác mẹ với lòng ganh tị, nơi mà tâm địa tỵ hiềm lẳng lặng gieo tẩm những toan tính thâm, độc, ác, hiểm để làm ra những hậu quả xấu, tồi, tục, dở trong quan hệ xã hội. Đây là loại tâm địa bùn, nơi ẩn náo của loại chó cắn trộm, thường là bọn âm binh chuyên nghề chém sau lưng, theo mô thức của các nạn nhân thời Nhân văn Giai phẩm để vạch mặt bọn bút nô, ký nô, văn nô đã hãm hại họ. Loại chuyên nghề chém sau lưng này bây giờ mọc như nấm độc trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay tại Việt Nam. Vì chúng được lảnh lương, nhận bổng lộc của Đảng cộng sản Việt Nam, mà "trăm này sinh ra trăm kia" để "ngàn này sinh ra ngàn kia", chúng là hàng trăm ngàn ; từ bút nô, ký nô, văn nô tới dư luận viên, với lương tháng tới từ tiền thuế của dân do "đảng ta, chính phủ ta" quản lý và phân phát lại cho chúng. Khi loài quái thai thâm, độc, ác, hiểm sinh đôi cùng xấu, tồi, tục, dở đồng xuất hiện như âm binh giữa nhân sinh thì sinh hoạt xã hội sẽ rơi vào họa nạn, quan hệ xã hội sẽ đi vào hoạn nạn, và đời sống xã hội lâm rơi vào tà nạn nhiệt lực của sự thực, hỏa lực của chân lý, thần lực của lẽ phải đã tạo ra quá trình "bùng cháy" có lớp lang thứ tự, chớ không hề là một cuộc "cháy rừng", hỗn loạn, vô trật tự, mà "bùng cháy" này.

xahoi6

Văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền tránh tà

Độc đảng thì tục thân trong bẩn dạng, chính là hoạn kiếp của kẻ gây bất công, vì ngay trong hình thể của nó chúng ta thấy lộ cái tục của bất nhân, cái thô của thất đức. Nhưng chứng nào tật nấy, vì tà quyền thì luôn vận dụng cái thối tha của tham nhũng quốc nội qua cái thối nát của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay tại Việt Nam để giải thích lòng lương thiện của nhân quyền, tính liêm khiết của dân chủ, qua luật chơi sòng phẳng của tam quyền phân lập tại phương Tây. Họ mang một tâm bịnh khá nặng là lấy độc đảng thì độc tài nhưng bất tài để giải thích thực thể đa nguyên, mà không bao giờ họ giải thích được tại sao bản chất của đa nguyên là đa tài nên không muốn độc tài, vì văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền tại phương Tây, sợ đám âm binh sinh đôi độc tài-bất tài còn hơn sợ tà !

An sinh xã hội

Không có kiến thức xã hội sẽ không thể hiện được ý thức xã hội. Chính bộ ba bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội là tiền đề và là gốc rễ của mọi quan niệm và tri thức về an sinh xã hội. Không có an sinh xã hội thì sẽ không có nền móng để xây dựng một xã hội văn minh, một thể chế vì nhân quyền. Không có nhận thức an sinh xã hội chỉ vì không được giáo dục bằng giáo lý tập thể, bằng đạo lý cộng đồng của tổ tiên Việt có nền là tương thân tương trợ trong nhân lý nhìn xa trông rộng của ăn ở có hậu trong đối nhân xử thế. Đây chính là luân lý xã hội làm nền cho tổ chức xã hội, trợ lực cho bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội có chỗ đứng trung tâm trong các cơ chế xã hội văn minh. Nhưng chính h độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) khi mở cửa cho hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) thì sinh hoạt xã hội bị "bôi trơn hóa" ; quan hệ xã hội bị "sân sau hóa" ; đời sống xã hội bị "chống lưng hóa". Đây là thực tế xã hội hằng ngày bị thống trị bởi liên minh bạo quyền độc đảng công an trị-tà quyền tham quan trị-ma quyền tham tiền trị. Chính liên minh này đã tha hóa mọi chính sách, mọi tiến bộ tới từ an sinh xã hội, mọi văn minh tới từ bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội. Độc trị mà không biết quản trị chỉ là hiện thân của độc tài nhưng bất tài, đã lạc vào quỷ lộ của bất nhân thất đức, ngày ngày trôi dạt xa bờ văn minh của dân chủ, xa bến văn hiến của nhân quyền.

Xã hội dân sự

Xã hội dân sự, có hùng lực của dân chủ để bảo hành bộ ba bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội, có sung lực của nhân quyền để trợ lực cho an sinh xã hội, đó là định nghĩa của xã hội dân sự, bằng định chế của công bằng làm nên các cơ chế của công lý. Còn có cả định đề làm nên định luận của xã hội dân sự là công dân thực sự là chủ thể trong chính tư tưởng của họ để có chủ quyết khi bỏ phiếu cho các chính sách xã hội được đại diện bởi các đảng phái, các công đoàn, các hội đoàn, để chủ động qua đa nguyên chính là nơi hẹn của đa trí, đa tài, đa dũng, đa năng, đa hiệu… Hệ chủ (chủ thể, chủ quyết, chủ động) dựa trên tự do biết song hành cùng công bằng để chế tác bác ái chính là nội công làm nên bản lĩnh của xã hội dân sự. xã hội dân sự được vận hành và được củng cố bằng chính các thử thách trong khủng hoảng kinh tế, bằng chính các thăng trầm trong lạm phát tài chính, trong đó thiên tai và nhân tai đều được phân tích và giải quyết bằng công pháp dựa trên công lý. Cụ thể là bảo hiểm xã hội sẽ được bảo hiểm bởi chính quyền và chính phủ khi gặp các biến cố bất thường xảy ra ngay trong đời sống xã hội. Dịch vụ công cộng được bảo đảm ở mức nhất định trước các sự cố dị thường đang xảy ra ngay trong sinh hoạt xã hội. Luật xã hội được bảo hành trong quan hệ xã hội và được tuân thủ như là hằng số của luật pháp.

Bất tín rồi bất nhân trước xã hội

Khi Đảng cộng sản Việt Nam độc đảng trong độc quyền, độc trị trong độc tôn, luôn tìm cách hủy hại để huy diệt xã hội dân sự, mà cụ thể là tha hóa bộ ba : bảo hiểm xã hội-dịch vụ công cộng-luật xã hội để duy trì chế độ độc đảng toàn trị mà tha hồ vận dụng trong lạm phát rồi phạm pháp bằng tham quyền-lạm quyền-lộng quyền. Chính đây là thất bại xã hội không chối cãi được của Đảng cộng sản Việt Nam đã không có kiến thức lẫn nhận thức về giá trị của bảo hiểm xã hội, đạo lý của dịch vụ công cộng, công pháp của luật xã hội. Chính trên những giá trị, đạo lý, công pháp này đã làm nên văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền, tại đây mọi chính sách xã hội tới từ một độc đảng trong độc quyền cai trị mà không có lá phiếu của dân chủ, không có sự đồng thuận với dân tộc trên nền của nhân quyền đều mang lỗi bất tín, và một sớm một chiều trở thành bất nhân nếu nó không tận tâm phục vụ cho bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội tức là cho sự thăng hoa của an sinh xã hội.

Chính quyền và bất công, chính phủ của bất bình đẳng

Các khẩu hiệu tuyên truyền ngu dân hiện nay : "một chính quyền do dân và vì dân" của tà quyền đảng trị bằng ba trị : công an trị, tham nhũng trị, tham tiền trị chỉ là loại : "ăn không nói có" để tiếp tục "ăn tục nói phét". Tiêu chuẩn của một chính quyền do dân và vì dân rất rành mạch, vì rất minh bạch lấy quyết sách công bằng để diệt bất bình đẳng ; lấy quyết tâm công luật để khử bất công ; lấy chủ quyết công lý để bảo vệ luật pháp ; lấy chủ động luật pháp để bảo hành công bằng ; lấy chủ thể pháp quyền để bảo trị xã hội. Làm sao nhận diện được một chính quyền vì công bằng chống bất công ? Đó là một chính quyền luôn có ít nhất hai tri thức về hai kinh nghiệm bất công chính là khủng hoảng của bất bình đẳng, nhưng khủng hoảng này khó được nhận ra như khủng hoảng kinh tế tác động lên toàn xã hội. Ngược lại khủng hoảng từ bất công gây ra thì có số nhiều nghèo và số ít giàu, chính số ít này được sự ủng hộ qua các định chế của chính quyền dung thứ bất công. Chính quyền muốn dung thứ bất công luôn thì có ý đồ định chế hóa bằng luật lệ và hành chính sự bất bình đẳng trong xã hội, tại đây ngoài thù lao, lương bổng, thì chính quyền này còn cho phép giảm thuế hoặc miễn thuế qua đầu tư, sản suất, phân phối… nơi mà kẻ giầu luôn có những đặc lợi để tăng thêm lợi tức của mình mà vẫn tránh né được thuế.

Chính quyền có tri thức

Một chính quyền có tri thức và tránh được hai kinh nghiệm này, thì các chính sánh liêm chính chống bất công sẽ tới vận dụng thuế để tổ chức bảo hiểm xã hội, vận dụng thuế để tổ chức dịch vụ công cộng, vận dụng thuế để phục vụ an sinh xã hội. Sự kết hợp chặt chẽ giữa bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, an sinh xã hội được pháp lý hóa qua luật lao động, luật xã hội chính là sức mạnh của một chính quyền thực tâm chống bất công, vì chính quyền đó làm được các việc sau trợ cấp y tế khi người bị tai nạn lao động ; trợ cấp lợi tức khi người lao động bị sa thải ; trợ cấp xã hội khi người lao động về hưu… Chính quyền độc đảng hiện nay tại Việt Nam cũng dàn dựng những loại trợ cấp này nhưng"thực hiện dở chừng","quyết tâm dở hơi", với "kết quả dở mùa", cụ thể là trong thực tế thì bảo hiểm y tế tồi tệ, người dân vẫn phải hối lộ bịnh viện, bác sĩ, y tá để được phục vụ, không có tiền hoặc không biết hối lộ thì bị bỏ rơi. Người bị tai nạn lao động, bị tai nạn lao động mà tật nguyền thì thường bị bỏ rơi, gia đình phải thay thế xã hội để chăm lo Người bị xa thải, về hưu với trợ cấp tồi tệ không được định mức, định cấp theo chỉ số biến đổi tới từ lạm phát…

Chính quyền có tri thức đứng đắn về công bằng

Khi luật lao động, luật xã hội trực tiếp phục vụ cho bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, an sinh xã hội trong các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, thì ta sẽ nhận ra đây không chỉ là phạm trù của tài chính, của hành chính… mà là cội rễ của văn minh biết "đối nhân xử thế" nơi mà mọi người được tôn trọng như nhau trong bảo hiểm xã hội. Mọi người được phục vụ như nhau trong dịch vụ công cộng. Mọi người được đối xử như nhau trước an sinh xã hội. Khi một chính quyền có tri thức đứng đắn về công bằng thì sẽ có những quyết sách tử tế để ngăn chặn sự phát triển của bất công, chính quyền đó lo cho toàn thể dân tộc, cho toàn bộ xã hội, chớ không chỉ chăm lo một tầng lớp, một thiểu số giàu có tự lợi tức tới quyền lợi. Những chính quyền bất lương trước bất công, bất nhân trước bất bình đẳng luôn gặp những trở lực mà bản thân nó không lường được nếu nó liên tục bất tín trước toàn dân. Đó là thực trạng của chính quyền độc đảng hiện nay, nó hoàn toàn bất lực trước mức độ ô nhiễm trong các thành phố lớn rất nguy hại cho sức khỏe của mọi công dân, không phân biệt kẻ giàu người nghèo.

Bất công xã hội, phân cực dân tộc

Chân dung diện mạo của các chủ mưu lấy bất công để làm giầu, ta nhận ra ngay lý lịch bất chính của bọn di dạng bất lương của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, cực quyền độc trị, cuồng quyền độc tôn đang có mặt trong xã hội Việt hiện nay, chúng không quá 1% tức là không quá 1 triệu trong gần 100 triệu dân Việt, nhưng chúng có đặc cấp của bất công đặc quyền quyết định tài sản của dân tộc, tài nguyên của đất nước. Rồi đặc lợi để vơ vét từ tham ô tới tham nhũng, rồi đặc ân hưởng thụ tối đa tự quyền lực tới quyền lợi. Tổ tiên Việt đã nhận ra chúng đã mô thức hóa quỷ dạng trong tà kiếp của chúng : đặc quyền của cướp ngày là quan, đặc lợi của ngồi mát ăn bát vàng, đặc ân của ăn trên ngồi trốc Chúng lại mang những di tật đã vĩnh viễn làm nên khuyết tật của chúng, mà cụ Tiền Điền Nguyễn Du đã ghi nhận chân dung của chúng như Mã Giám Sinh : "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", như Sở Khanh : "Nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Gian dối trong đểu cáng, nên chúng chứa nhiều tà khí trong não trạng âm binh của chúng : "thừa nước đục thả câu", "thừa gió bẻ măng", chúng lại "nhớt thây dầy cốt" của loại "chờ sung rụng", theo kiểu "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau", lại thích moi xương uống máu của loài thích "cốc mò cò xơi" để bóc lột đồng bào, đồng loại. Có lúc chúng là ký sinh trùng loại "nuôi ong tay áo, nuôi cáo dòm nhà", có lúc chúng là thành siêu vi khuẩn "sâu dân mọt nước" như có thể gây nên những đại dịch không sao lường hết trên nhân kiếp Việt tộc.

xahoi7

Phân hóa dân tộc

Bọn cướp ngày là quan chính là chủ mưu bất nhân, là thủ phạm thất đức gây ra ung thư đại tràng hiện nay trong xã hội Việt. Khi phối hợp phân tích định lượng song hành cùng định chất, thì ta có thể nhận ra đưa ra một chân dung dị kỳ của bất công xã hội chính là nguyên nhân tạo ra phân hóa ngay trong dân tộc. Tầng lớp giàu và ngày càng giàu, đang rời không gian của đất nước và bỏ lại nhân kiếp chung của một dân tộc, khi với tiền của vơ vét được từ tham ô tới tham nhũng, bọn này đã có thẻ xanh, quốc tịch ngoại cùng lúc đã chuyển tiền ra ngoài và đã có bất động sản tại phương Tây. Tầng lớp nghèo ngày càng nghèo rơi xuống đáy vực, rồi tụ lại ở tận cùng dưới đáy, nơi dân đen "nằm gai nếm mật" chung kiếp với dân oan "ăn chực nằm chờ", cả hai chịu nhục phận "đầu tắt mặt tối" ngay trong nhân kiếp của một dân tộc nạn nhân của bạo quyền công an trị. Kẻ giàu bất lương, người nghèo lương thiện, có cùng một lịch sử, cùng một văn hóa, vì cùng một dân tộc, một giống nòi nhưng đã không nhận ra nhau, đây đúng là ung thư ngay trong nội tạng của dân tộc, để độc tố trọc phú của loài "bây chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi", cứ tiếp tục bòn rút trên mồ hôi, nước mắt của đại đa số dân tộc.

Bất công tạo ra phân cực

Khi bất công tạo ra phân cực, thì liên minh của kinh tế học, chính trị học, triết học, xã hội học lại yêu cầu ta phải đi sâu vào sự phá hoại của bất công, nơi mà bọn chủ mưu bất nhân, là thủ phạm thất đức đang thủ tiêu công bằng xã hội cùng công ích xã hội ; công bằng xã hội cùng an sinh xã hội ; công bằng xã hội cùng bảo hiểm xã hội ; công bằng xã hội cùng dịch vụ xã hội ; công bằng xã hội cùng luật lao động và luật xã hội… Chính bất bình đẳng sinh ra bất công : bất bình đẳng về lợi tức sinh ra bất bình đẳng xã hội ; bất bình đẳng về thuế má sinh ra bất bình đẳng xã hội. Và một chính quyền có lương tâm vì dân, có lương tri vì xã hội thì chỉ cần hai chính sách : thu ngắn lại sự phân cực giàu nghèo để thu ngắn lại khoảng cách của bất bình đẳng. Và cân bằng lại tỷ số thuế má, nơi mà người giàu phải đóng thuế nhiều để chính phủ lo cho người nghèo là thượng nguồn của cuộc đấu tranh chống bất công.

Bảo hiểm xã hội – dịch vụ công cộng – luật xã hội

Từ thiếu vắng kiến thức về xã hội tới trống vắng kiến thức về chuyên môn, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp thu rất chậm chạp các quy luật về tự do cạnh tranh trong kinh tế thị trường của các quốc gia có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền vì họ có truyền thống văn hóa về luật pháp xã hội. Các quốc gia này có đầy đủ luật để khử ba loại tư bản man rợ đang làm tan nát mọi khả năng đi về phía tiến bộ của xã hội Việt hiện nay, đó là : tư bản gia đình, tư bản thân hữu, tư bản tham nhũng. Từ trống vắng kiến thức về chuyên môn tới hoang vắng ý thức về tiến bộ xã hội nên Đảng cộng sản Việt Nam đủ kiến thức để bất chấp về ba quy luật xã hội đảm bảo sự vận hành bình thường của một xã hội văn minh từ hai thế kỷ qua bảo hiểm xã hội (sécurité sociale), đã được sáng tạo và lưu hành tại Anh quốc ; dịch vụ công cộng (service public), đã được sáng lập và thịnh hành tại Pháp quốc ; luật xã hội (droit social), đã được hình thành và luật hóa tại Đức quốc. Cả ba (bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luật xã hội) mang đặc điểm của mỗi quốc gia, nhưng cả ba biết bổ sung cho nhau từ hợp tác quốc tế tới tư do cạnh tranh, luật pháp luôn có mặt để bảo vệ công bằng qua công lý bằng công pháp.

Công bằng - công lý - công pháp

Trong các quốc gia văn minh biết lấy ưu tiên xã hội làm kim chỉ nam cho mọi hành tác lao động và kinh tế. Chính liên minh giữa công bằng-công lý-công pháp là khuyết điểm đã làm nên khuyết tật không sao chữa được của các thể chế toàn trị độc đảng. Thất bại đã làm nên thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam, vì không nó đủ kiến thức để nhận ra là quản lý công bằng-công lý-công pháp chính là tiền đề mà cũng là động cơ để làm nên liên minh thịnh vượng-tiến bộ-văn minh. Những nhận định kèm theo những phân tích về tình hình xã hội, mà tình hình xã hội thì không bao giờ tuyệt đối khách quan, vì nó luôn bị chính quyền, nhất là chính quyền của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) chi phối, thao túng, giật dây. Vậy thực chất của tình hình xã hội Việt Nam hiện nay, bị tác động, bị phân hóa rồi bị hủ hóa bằng ba độc tố gây nên mọi độc hại trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội : độc đảng có độc quyền bằng công an trị ; độc tài có độc trị bằng tham nhũng trị ; độc tôn chỉ có độc lộ của tham tiền trị.

Tạo thuận lợi tối đa cho công bằng

Trong tổ chức hiện đại của các xã hội có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, các quốc gia phương Tây, người ta tìm nhiều cách để tạo ra các công ích xã hội : tạo thuận lợi tối đa cho công bằng ngay thượng nguồn với các điều kiện tốt lành cho thành công trong học đường, thành tài trong nghề nghiệp, thành đạt trong kinh tế để tạo ra thành tựu trong xã hội. Khi tạo điều kiện để thực hiện hệ thành (thành công, thành tài, thành đạt, thành tựu) thì kết quả cụ thể vẫn ở trong tay của cá nhân với đạo lý học tập chăm chỉ, đạo đức nghề nghiệp chuyên cần, chính cá nhân phải có trách nhiệm khôn nhờ dại chịu. Tạo thuận lợi tối đa cho công bằng để tạo cơ hội dựng nghiệp qua hệ thành (thành công, thành tài, thành đạt, thành tựu) đòi hỏi cá nhân phải tiếp nhận đầy đủ và nhuần nhuyễn ba giáo dục : giáo dục gia đình, giáo dục học đường, giáo dục xã hội để tạo ra hiệu quả học tập, hiệu năng lao động, cũng tại đây quá trình cá nhân hóa sẽ cho xuất hiện ít nhất hai loại người làm nên sự khác biệt sâu xa. Loại người thứ nhất biết thức khuya dậy sớm, lại biết một nắng hai sương, còn nhìn xa trông rộng một cách rất thực tiễn là ăn bữa sáng lo bữa tối, thì hoàn toàn khác với loại người thứ nhì chờ sung rụng, lại nhớt thây dầy cốt, trong ích kỷ ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.

Hệ lụy bất công

Khi phân tích bất công để lập nên các chuyên luận mà giải thích công bằng, thì sự thật đầu tiên xuất hiện là phát triển kinh tế của một quốc gia không giải quyết vấn đề bất công, mà có khi còn ngược lại là tạo những bất công ngày càng nhiều, ngày càng sâu trong dân tộc. Chuyện này thì đã rất rõ trong hai thái cực đang phân hóa xã hội Việt đến cùng cực là tư bản đỏ, tư bản thân hữu, mang biệt danh là trọc phú, dựa vào quan hệ-tiền tệ-hậu duệ tha hồ trộm, cắp, cướp, giựt của dân lành, biến đại đa số của Việt tộc hiện nay là dân đen, với dân oan bị cướp đất đã lên hàng triệu ; nơi mà các chuyên gia đặt biệt hiệu cho chế độ độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay là một cường quốc của dân đendân oan. Hệ lụy bất công có nguồn máy, có sự vận hành riêng của nó, dựa loại chính quyền ký sinh trùng sống nhờ mưu thâm kế độc của tà quyền qua : sưu cao thuế nặng trên lao động, đánh hằng loạt những loại thuế bất chính, lên giá xăng dầu bằng thuế bảo vệ môi trường nhưng không công bố công khai số liệu và thống kê về cách sử dụng tiền thuế này vào bảo vệ môi trường gì ? Ở đâu ? Buôn gian bán lận chủ quyền, cướp đất của dân ngay trong Hiến pháp, mà danh chính ngôn thuận phải gọi là thiến pháp của Đảng cộng sản Việt Nam với tà ngữ ma ngôn : "đất là sở hữu của toàn dân, do nhà nước quản lý" để lập ra liên minh âm binh bạo quyền độc đảng-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền, rồi mở ra tà lộ của "quy hoạch" để tha hồ cướp bóc bằng "cưỡng chế".

Chân dung bất nhân, diện mạo thất đức

Khi đã là nạn nhân của bọn cướp ngày là quan, thì Việt tộc phải cẩn trọng trước liên minh âm binh bạo quyền độc đảng-tà quyền tham quan-ma quyền tham tiền này, vì chúng sẽ tiếp tục vơ vét tiếp trên tài nguyên, thiên nhiên của đất nước, trên xuất khẩu lao động Việt, trên đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, trên xuất khẩu nông sản và hải sản, trên ngoại tệ của Việt kiều… Bất công tại xã hội Việt hiện nay bị xem như là loại bất công với mức độ thậm tệ nhất, mà gốc, rễ, cội, nguồn của loại bất công này mang những hệ lụy sâu đậm tồi tệ chống lại nhân phẩm Việt. Bạo quyền độc đảng dùng công an trị để truy hiếp nhân tâm Việt, nhân từ Việt. Tà quyền tham quan dùng tham ô, tham nhũng để tiêu hủy nhân tính Việt, nhân lý Việt. Ma quyền tham tiền dùng tiền tệ và quan hệ để xóa trừ nhân nghĩa Việt, nhân đạo Việt. Cực quyền độc trị dùng khủng bố, đàn áp, sát hại… để vùi dập nhân tri Việt, nhân trí Việt. Cuồng quyền độc tôn dùng vu cáo, tù đày, lao lý để tẩy khử nhân vị Việt, nhân bản Việt. Khi nhận diện ra được bất công với chân dung bất nhândiện mạo thất đức của nó, thì vẫn chưa nhìn sâu trông rộng vào tâm địa của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, cực quyền độc trị, cuồng quyền độc tôn. Mà tâm địa của loài âm binh này, thì hiện tượng luận đã dựa vào biệt danh cùng biệt hiệu của chúng để soi rọi hệ lương của chúng : lương tâm không có nên chúng mới : hèn với giặc, ác với dân ; lương thiện không có nên chúng mới : mưu hèn kế bẩn ; lương tri không có nên chúng mới : buôn dân bán nước.

Công bằng là cột trụ của dân chủ

Công bằng chính là cột trụ không những của dân chủ để bảo vệ nhân quyền, mà còn nền móng của tự do, vì không có công bằng thì tự do sẽ rơi vào vực thẳm của ích kỷ tự lợi, loại ai chết mặc ai, kiểu bây chết mặc bây, nên công bằng luôn sánh vai với và song hành với công ích xã hội. Ta không chỉ xem dân chủ chỉ là một thể chế, một chế độ, mà trước hết là một tổ chức văn minh cho xã hội, cho con người vì nó đứng vững trên công bằng để chống bất công. Quá trình chống bất công với mục đích và chỉ tiêu vì công bằng luôn là quá trình đấu tranh trong suốt mọi giai đoạn xây dựng dân chủ, một xã hội dù giàu tới đâu, dù nhiều tiền của vật chất tới đâu, mà để bất công tràn lan, thì chính xã hội đó đang thụt lùi trước nhân quyền, đang xa rời quỹ đạo văn minh và tiến bộ. Trường hợp của xã hội Việt hiện nay chính là thảm kịch tay ba : một xã hội đầy dẫy bất công, với tư bản đỏ là ma quyền liên minh với bạo quyền độc đảng để cướp đất, cướp của, biến dân lành một sớm một chiều thành dân oan, dân đen…

Vô loài trọc phú

Tâm trạng làm nên tâm lý, chỉ không đầy nửa thế kỷ, từ sau 1975 ngày hết chiến tranh mà cũng là ngày số phận dân tộc nằm trong tay của ít nhất ba loại quyền lực bất nhân thất đức của bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị. Không mất hồn sao được khi thấy bạo quyền công an trị biến những đồng bào yêu nước, trọng dân chủ, quý nhân quyền thành những tù nhân lương tâm, với những nhà tù đầy những đứa con tin yêu của Việt tộc. Tà quyền tham nhũng trị liên minh với xã hội đen, tức là bọn côn đồ, du đảng, lưu manh cùng đến cưỡng chế để cướp đất của dân lành, một sớm một chiều biến họ thành dân oan. Ma quyền tham tiền trị của bọn sân sau, dùng ô dù của bạo quyền và tham quyền chống lưng cho chúng để trộm, cắp, cướp, giật đất đai của dân để làm giầu, vô loài với tên gọi là trọc phú, sống trong biệt thự, biệt dinh, biệt phủ, đã đẩy dân oan vào thảm cảnh màn trời chiếu đất, với thảm trạng đầu đường xó chợ.

Âm binh tâm loạn

Bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị sống và đối xử với nhau trong quan hệ giết người cướp của, trong phản xạ của thanh toán để thanh trừng lẫn nhau, để thêm vào lý lịch âm binh của chúng hai tâm loạn sau cực quyền, một loại quyền lực của cực đoan, cực đoán làm nên độc đoán, một loại quyền lực tuyệt đối, chúng gọi nhau là đồng chí nhưng đối xử với nhau như tử thù trong không gian lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng đạo đức giả với nhau bằng khẩu Phật tâm xà khi gặp nhau, nhưng sống với nhau thâm ý không đội trời chung với nhau. Cuồng quyền, một loại quyền lực của các hành tác tự cuồng giận tới cuồng điên sẵn sàng giết đồng bào, đồng loại, kể cả đồng chí lương thiện của chúng như vụ hành quyết xã Đồng Tâm, thôn Hoài để hành sát cụ Lê Đình Kình là đồng chí với hơn nửa thế kỷ tuổi đảng của chúng.

xahoi8

Nhận thức về cần lao

Loại ngữ pháp : tổng động viên trong quá trình chính trị hóa rồi quân sự hóa toàn bộ lực lượng lao động của một quốc gia dẫn tới chế độ toàn trị, trong đó từ cá nhân tới tập thể, từ cộng động tới quốc gia, không ai thoát được ý thức hệ toàn trị làm nên định chế toàn trị. Khi chế độ toàn trị, ý thức hệ toàn trị, định chế toàn trị đã có mặt trong xã hội, vì đã có chính quyền toàn trị bảo lãnh cho chúng bằng bạo lực, đây chính là thảm cảnh của số phận Việt tộc hiện nay, vì toàn trị luôn là độc trị trong độc hại vì nó chỉ biết độc lộ bằng độc quyền độc lợi của nó. Trên phân tích này, ta phải thấy sự thông minh của các minh quân, minh vương, minh chủ trong một hệ thống độc tài, họ biết được tổng động viên toàn lực trong một thời điểm lịch sử nhất định, trong khi chờ đợi dân chủ đa nguyên biết tôn trọng nhân quyền, thì họ đã thực hiện được tổng động viên vì thấy và thấu thực tế của thị trường toàn trị. Đó là trường hợp của các minh quân, minh vương, minh chủ này mà ta đã thấy trong thế kỷ XX vừa với kinh nghiệm của Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapour. Phạm trù của thị trường toàn trị luôn dựa lên kinh tế thị trường, nơi mà thức khuya dậy sớm trong cần lao phục vụ cho sản xuất, nơi mà một nắng hai sương trong lao động phục vụ cho xuất khẩu, nơi mà ăn bữa sáng lo bữa tối phục vụ cho tiết kiệm.

Cần lao vừa là đạo lý vừa là tri thức lấy đa trí phục vụ cho đa tài

Tất cả sung lực của cần cù trong lao động, chăm chỉ trong công việc, được đưa vào đúng đại lộ của tiềm năng sáng tạo, lấy sáng kiến lao động để thăng hoa sáng chế ra chất lượng của sản phẩm ngay trong cần lao. Cần lao vừa là đạo lý vừa là tri thức lấy đa trí phục vụ cho đa tài ; lao động giáo lý vừa là ý thức lấy đa năng phục vụ cho đa hiệu. Trong lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam, thì các lãnh đạo qua hơn nửa thế kỷ từ ngày thành lập đảng 1930 tới nay, họ không hề có ý thức về cần lao, nhận thức về lao động, vì ngay thượng nguồn họ không hề có kiến thức chính-quyền-hiểu-thị-trường. Tổng hệ luận (chiến trường là thị trường-chiến đấu bằng lao động-chiến thắng bằng cần lao) đã bị tiêu diệt ngay trong trứng nước trong hệ thống độc đảng của chế độ Việt Nam hiện nay, độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề có tri thức quản trị, cộng vào đó là sự tung hoành cho tới tan hoang của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền) làm tan vỡ ngay trên thượng nguồn mọi phương hướng và phương pháp để đưa Việt tộc tới tiến bộ và văn minh.

Hiệu quả thức khuya dậy sớm, hiệu năng một nắng hai sương, hiệu suất ăn bữa sáng lo bữa tối

Khi chủ tâm với ý đồ của bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền là diệt cần lao Việt, đã có trong lao động biết hiệu quả của thức khuya dậy sớm, hiểu hiệu năng của một nắng hai sương, thấu được hiệu suất của ăn bữa sáng lo bữa tối, để nhận ra an cư lạc nghiệp trên nền của trong ấm ngoài êm. Hủy luôn thông minh Việt đã có trong bản lĩnh giữ nước Việt, có trong nội công lập quốc Việt, thắng bất cứ bạo quốc ngoại xâm nào có thâm ý chiếm đoạt đất Việt, đồng hóa Việt tộc. Diệt luôn sáng tạo Việt đã có trong thành công tại học đường, thành tài trong nghệ nghiệp, thành đạt trong kinh tế, thành tựu trong xã hội khi có được điều kiện hay, đẹp, tốt, lành để thành người. Chuyện này thấy rất rõ trong cuộc sống của Việt kiều tại phương Tây, khi có điều kiện như mọi người, thì sẽ thành danh không thua ai. Không kiêu căng tự phụ hơn người để rơi vào họa vô minh của khinh người ; cũng không mặc cảm tự ti để sa với nạn vô tri của nhục kiếp, luôn sáng suốt để bảo vệ nhân phẩm, nên phải luôn tỉnh táo để bảo vệ nhân quyền cho mình, cho đồng bào mình. Việt tộc phải liên kết hai hệ, hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) song lứa cùng hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) để thay đổi nhân kiếp Việt hiện nay. Gạt bỏ đi môt hệ thống toàn trị độc đảng của quan giàu nước yếu, làm ra hệ lụy của nước nghèo dân khổ, để lập lại quy trình bình thường của nhân lýnhân tri theo hướng thăng hoa của nước giàu dân mạnh.

Ý đồ của tà tâm

Không gian tà quyền này là kết quả của trọn ý đồ của tà tâm được xếp đặt, được dàn dựng, được bày biện như một hệ thống vừa toàn diện, vừa ngặt nghèo để truy diệt hệ thức, luôn bị truy lùng và bóp nghẹn bởi bạo quyền dùng ngu dân để cai trị, nó ngăn chặn kiến thức, để cầm tù tri thức, nó sợ trí thức đánh thức không những ý thức về công bằng, tự do, nên nó mất ăn mất ngủ với nhận thức phải đấu tranh vì dân chủ để có tâm thức vì nhân quyền. Nó đứng ngồi không yên với sự phối hợp muôn hình vạn trạng của phương trình kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tâm thức làm nên tỉnh thức cho một dân tộc, đưa cái tà lẫn cái ngu vào tử huyệt.

Hệ trí, là đối thủ trung tâm của các chế độ dùng ngu dân để thao túng xã hội, chính trí tuệ của dân tộc làm nên lý trí của dân chúng, chế tác ra dân trí để xây dựng nhân trí với thời gian, sẽ là nền móng cho một xã hội đi về phía phát triển, bước về hướng văn minh, phương trình linh hoạt của trí tuệ-lý trí-dân trí-nhân trí là dàn phóng để tạo nên sức bật của sự tỉnh giấc trong quần chúng, khao khát thoát khỏi kiếp nô lệ phản lý trí bằng ngu dân hóa.

Vận dụng ngu dân để bịt mắt, bịt tai, bịt miệng nhân dân

Hệ luận, là sự trưởng thành của của hệ thức, là bản lĩnh của hệ trí, dùng dữ kiện của sự thật để lý luận, dùng chứng từ của chân lý để lập luận, dùng luân lý của lẽ phải để giải luận, từ đó xây dựng nên diễn luận để tìm đường đi nước bước cho tương lai, trong đó luận được trợ lực bởi lý và trí. Phương trình vừa tri thức, vừa lý trí của hệ luận : lý luận-lập luận-giải luận-diễn luận trong giáo lý của tổ tiên Việt dạy con cháu là so ra mới biết ngắn dài, luôn đi trên vai, trên lưng, trên đầu mọi chế độ ngu dân hóa. Vì tà quyền dùng ngu dân để bịt mắt, bịt tai, bịt miệng nhân dân, nên nó tránh lý luận, né lập luận, trốn giải luận, lách diễn luận để dễ bề tuyên truyền một chiều, nhồi sọ một lượt, xóa não một lần, cho nên tà quyền sợ phân tích chi ly để giải thích cặn kẽ, sợ lý giải chỉnh chu để phê bình tận gốc. Hệ thông, lúc đầu là đối địch, lúc sau là thù địch của tà quyền dùng ngu dân để bưng bít sự thật, vùi lấp chân lý, bóp nghẹt lẽ phải ; tà quyền ngại các thành phần thông thái trong xã hội, tà quyền sợ các tầng lớp thông minh trong quần chúng, khi cả hai hùng lực thông thái  thông minh kết hợp lại được, thì dân tộc sẽ thông suốt mọi ý đồ của tà quyền, đó là ngày báo tử của một chế độ dùng ngu dân để thao túng dân tộc.

xahoi9

Lương tâm là cội rễ của đạo đức

Hệ lương, trong đó lương tâm là rễ của đạo đức, và lương tri là cội của đạo lý, khi mà lương tri đã trở thành tri thức của lương tâm, thì nó đã là nguồn sống của luân lý lương thiện, chống ngu dân vì ngu dân là xảo trá, chống tà quyền vì tà quyền diệt nhân tri lẫn nhân trí, hủy nhân lý lẫn nhân tính. Phương trình lương tâm-lương tri-lương thiện chính là phương trình đạo đức-đạo lý-luân lý của một dân tộc, của một xã hội được thừa hưởng những giá trị tâm linh cao đẹp của tổ tiên. Tà quyền không có giáo dục của lương tâm, nên sẽ không thấu hiểu là lương tri là sự thông minh chớ không phải sự dại khờ để dễ bị ngu dân hóa, nên không biết lương thiện là sự thông thái chớ không phải sự ngây ngô để dễ bị thui chột hóa. Hệ giáo, nơi mà hệ thống giáo dục dựa vào giáo lý vững để có giáo khoa hay, giáo trình tốt, giáo án lành, làm nên sung lực của giáo dưỡng sâu, biến một cá nhân lành thành một công dân tốt, thành một chủ thể cao có sáng tạo trong xã hội để thăng hoa cho chính mình, cùng lúc đưa dân tộc vào hướng của văn minh, biến văn hóa của tổ tiên thành văn hiến cho nhân loại. Tà quyền khi thao túng, giật dây quần chúng qua ngu dân đã biến một xã hội mang khuyết điểm thiếu tri thức thành một xã hội mang khuyết tật ngay trong nhân tri, nơi mà dân tộc bị tật nguyền ngay trong nhân trí.

Câm điếc hóa nhân quyền

Chính tà quyền luôn biến giáo dục thật - giáo lý thật -giáo khoa thật - giáo trình thật - giáo án thật - giáo dưỡng thật thành quái thai mà xã hội Việt, dân tộc Việt đang phải gánh chịu với học giả-thi giả-bằng giả, với cử nhân giả, cao học giả, tiến sĩ giả, chui rúc trong ngu dân, mà không dám lộ đầu trực diện trong học thuật thật-nghiên cứu thật-phát minh thật để có tư duy thật-tư tưởng thật. Hệ nhân, chính tà quyền dùng ngu dân để thui chột hóa nhân tính trong nhân tình, để què quặt hóa nhân lý trong nhân thế, để câm điếc hóa nhân quyền trong nhân sinh. Nhưng cũng chính tà quyền sẽ tự khai tử nó, cùng lúc đào mồ chôn chủ nghĩa ngu dân hóa do nó chế tạo ra để vùi dập dân tộc của nó, khi nhân đạo sẽ mở đường cho nhân tri đi tìm nhân trí. Vì tà quyền là loại khôn quá hoá dạimiệng lanh nhưng đầu khờ, khi dùng cả vú lấp miệng em, vì muốn ăn trên ngồi trốc, mà không đủ nhân từ tới từ nhân nghĩa mà tổ tiên đã dạy cho con cháu : sống có nhân mười phần không khó. Tà quyền không bao giờ có tuổi thọ cao vì nó không có thời gian để hiểu : sống lâu mới biết lòng người có nhân.

Ngăn chặn nhận thức đê xiết ngộp tâm thức

Hãy phân biệt hai quá trình ngu dân khác nhau bị khai thác bởi tà quyền : ngu dân qua ngu dốt, cụ thể là cấm học hoặc không cho đi học bình thường, đàng hoàng, tử tế, mà chuyện học thuật vì chuyện thức khuya mới biết đêm dài, phải có giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án trong cái đau đáu và đằng đẳng của giáo dưỡng, mà tà quyền không bao giờ dùng thời gian để học tập mà chỉ dùng thời gian để gian lận, xảo trá, ngụy biện, vo tròn bóp méo từ kiến thức tới tri thức, diệt trí thức để hủy ý thức, ngăn chặn nhận thức để xiết ngộp tâm thức, nhờ vậy nên quá trình ngu dân hóa của nó mới tồn tại được. Ngu dân qua mê thức, tà quyền chặn thông tin để què quặt hóa tin tức, ngăn truyền thông để thui chột hóa chứng từ, cấm kiến thức để diệt tri thức. Tà quyền chém sự thật để sự thật không toàn vẹn, tà quyền chặt chân lý để chân lý không nguyên hình, tà quyền đốn lẽ phải để lẽ phải bị khuyết tướng. Tà quyền vùi thực tế để lấp thực trạng. Đưa không đủ tin tức, giao không đúng thông tin, trao không trọn truyền thông nên phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải luôn bị tà quyền làm đui, què, câm, điếc để thế vào đó một phương trình ngược lại gian dối-xảo trá-lừa bịp, nó chính là một loại quái thai xa lạ với nhân tính.

Rứt kiếp ngu dân, dứt kiếp nạn nhân

Thượng nguồn của mọi cuộc cách mạng thật sự tích cực, làm thay đời đổi kiếp của nhân loại vì nhân phẩm, đưa nhân sinh vào hướng nhân tính, đưa nhân tình vào phía nhân trí, luôn bắt đầu bằng cách lột mặt nạ tà quyền trong ý đồ tổ chức chế độ ngu dân hóa của nó, từ đó đưa vào lý trí của nạn nhân bị ngu dân hóa ba phân tích chủ lực để nạn nhân rứt kiếp ngu dân, dứt kiếp nạn nhân, để đối diện với tà quyền : phân tích khách quan (chống chủ quan) qua các dữ kiện của quá trình ngu dân hóa ; phân tích trung tính (chống quá khích) qua các chứng từ của ngu dân hóa ; phân tích khoa học (chống tuyên truyền) qua các hậu quả ngu dân hóa. Chính ba phân tích này sẽ tạo tiền đề cho ba tư duy mới, từ đó sinh ra hành động tích cực để thoát kiếp làm nạn nhân trong một chế độ ngu dân. Đó là ý thức biết mình là nạn nhân của một ý đồ thâm độc là ngu dân, đã cướp đi không những nhân trí mà cả nhân lý làm người bình thường. Đó là nhận thức mình bị thao túng, giật dây bởi một tà quyền dùng chế độ ngu dân qua tuyên truyền một chiều để chỉ phục vụ tư lợi của nó, không những cướp mất nhân tri, mà còn đoạt luôn nhân phẩm của mình. Đó là tâm thức bằng ý nguyện để biến thành ý lực phải thoát kiếp ngu muội, phải vượt số phận nạn nhân của ngu dân, để bền bỉ đòi hỏi nhân cách, bền chí đấu tranh vì nhân tính, vượt thoát ngu dân để vượt thắng tà quyền.

Lấy vô tri để giết tri thức

Một chế độ ngu dân hóa luôn được tổ chức ngay trong trứng nước của nó bằng các hệ bất chính liên kết nhau qua các chính sách từ giáo dục tới văn hóa, từ xã hội tới truyền thông, từ chính trị tới ngoại giao, từ công an tới quân đội. Trong không gian chuyên chính để chuyên quyền, độc tài để độc quyền hệ độc, lấy độc đảng để thâu tóm mọi quyền lực, các từ ngữ dân chủ tập trung chỉ là xảo ngữ không có nội dung dân chủ và không có có nội chất dân bầu. Độc đảng sinh ra độc tài, lấy độc quyền để độc trị, cho ra đời một quái thai độc hại là độc tôn, tức là nó chỉ thấy nó, không thấy ai khác, mà ai muốn làm khác sẽ bị nó truy, muốn ngược nó sẽ bị nó hại, muốn chống nó sẽ bị nó giếtChính vì độc quyền trong tà quyền, nên nó phải dùng ngu dân để che lấp chính quyền chân chính, chính thể chân thực, chính pháp công minh. Hệ độc song hành cùng hệ tà, nơi mà tà quyền tới từ tà tâm, một loại âm binh đội nhân dạng để đưa nhân cách vào tà đạo, nhân phẩm vào tà thuật, lấy vô minh để diệt kiến thức, lấy vô tri để giết tri thức, lấy vô giác để vùi tuệ giác, từ đó lấy ngu dân để chế tác ra quái thai vô cảm. Chính cái vô cảm của ai chết mặc ai để đẻ ra quái thai của luân lý trong cái vô tình bây chết mặc bây, và triết học luân lý khi phối hợp cùng chính trị học đã phân tích được cái ác luôn đi đôi với cái ngu.

Bóc lột sinh lực dân tộc

Tà quyền dùng cái ác để cai trị trong ngu dân, rồi dùng cái ngu là kết quả của nó để biến cái ngu thành cái ác. Tà quyền dùng ngu dân để điều kiện hóa các nạn nhân của nó rồi biến các nạn nhân này cũng ác như nó để truy diệt đồng loại, đồng bào của chính mình. Hệ bạo, khi độc và tà nhập làm một làm ra hệ bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành) sẽ tới để củng cố chế độ ngu dân trị, được bảo kê bởi bạo quyền của độc đảng, hỗ trợ cho bạo động qua đàn áp, khủng bố, bắt bớ, ám hại, thủ tiêu, song hành cùng bạo hành của cả một hệ thống công an trị. Không có một chế độ ngu dân hóa nào không qua hệ bạo này trong lịch sử của nhân loại, gieo rắt sự sợ hãi đi cùng với tra tấn dã man, gây tâm lý hoảng hốt qua trấn áp kiểu man tính, thí mạng nhân dân như thí mồi cho dã thú. Hệ tham (tham quan, tham ô, tham nhũng) nơi mà tà quyền dùng bạo lực để ôm giữ tư lợi của bọn lãnh đạo qua quyền lợi làm nên động cơ mờ ám cho quyền lực để tổ chức một chế độ ngu dân hóa. Từ đó bòn rút tài nguyên đất nước, bóc lột sinh lực dân tộc, cùng lúc hủy mọi sức đề kháng tạo nên phản đối trong quần chúng, phản kháng trong xã hội. Để qua đó tham quan lộng quyền trong tham ô, rồi tiếp tục tham quyền để tham nhũng. Muốn giữ kiếp sâu dân mọt nước thì phải biến nhân kiếp thành kiếp tằm ăn dâu, suốt ngày đêm tham quyền để gặm nhấm và vơ vét cho tới cạn kiệt tiền của và sinh lực của dân tộc.

Lấy dối trá để diệt sự thật

Hệ xảo, nơi mà tà quyền đi sâu vào tà đạo của hệ xảo (xảo quyệt, xảo thuật, xảo ngôn), từ hệ thống giáo dục tới cơ cấu xã hội đều bị điều chế bởi các chính sách xảo quyệt, lấy dối trá để diệt sự thật, dùng xảo thuật của cơ chế, của hành chính, của quyền lực để giết chân lý, dùng xảo ngôn để hủy lẽ phải. Hệ xảo (xảo quyệt, xảo thuật, xảo ngôn) là thượng nguồn của mọi chính sách ngu dân hóa, là guồng máy để điều động các âm binh của nó, từ công an tới quân đội, từ định chế tới hành chính, là phản xạ hằng ngày của chính quyền khai thác tà quyền để bạo quyền vì tham quyền. Hệ bất, luôn là hệ đôi (vì chúng là quái thai sinh đôi), trong đó hệ bất (bất tài, bất tín, bất lực) thứ nhất luôn song hành cùng hệ bất (bất lương, bất chính, bất trung) thứ hai, để giật dây quần chúng cùng bạo quyền làm cách mạng. Nhưng khi cách mạng thành công thì một sớm một chiều bất chính với đất nước, bất trung với dân tộc, và bất lương trước tiền đồ tổ tiên, đang hằng ngày bị Tàu tặc gây ra bao Tàu nạn, với bao hệ lụy Tàu họa. Và ngày qua ngày, tà quyền lộ ra sự bất tài trong quản lýsự bất tín xem thường niềm tin nên sẵn sàng vứt bỏ lòng tin của nhân dânvà sự bất lực trong các chính sách phát triển đất nước, đưa dân tộc ra khỏi nghèo nàn lạc hậu.

Một dân tộc bị khổ sai hóa tri thức

Tác động của các chính sách ngu dân hóa lên cộng đồng, tập thể, cá nhân từ não trạng tới ngữ pháp, từ hành vi tới ngữ văn, từ truyền thông xã hội tới đối thoại thường nhật, qua đó ngu dân đeo đẳng trên tư duy của các nạn nhân hai thái độ sống trái ngược nhau : tự ti và tự kiêu, nơi mà mặc cảm song hành một cách lạ lùng với sự tự mãn. Câu chuyện người Việt lao động giỏi, học giỏi, nói chung là tự thấy mình giỏi hơn người, hơn nhân loại trung bình, đây là câu chuyện tự tuyên truyền, tự ngu dân để tự ngộ độc tư duy của chính mình bằng một loại tự kiêu không đủ hùng lực để khách quan hóa nó thành công thức để thuyết phục người khác, trong một đất nước mà lãnh đạo không có được một sáng kiến để phát triển đưa dân tộc ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, như các quốc gia láng giềng có cùng một nôi văn hiến tam giáo đồng nguyên như Việt Nam : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Một dân tộc bị khổ sai hóa tri thức bởi bạo quyền độc tài không có một sáng chế gì để vượt thoát và vượt thắng nhục kiếp của mình. Một xã hội bị âm binh hóa bởi tà quyền công an trị, không có cơ hội sáng tạo từ khoa học, kỹ thuật tới sáng tác nghệ thuật, từ kinh tế, thương mại tới văn hóa, giáo dục. Không có hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) mà tự vỗ ngực để tự khen mình là giỏi hơn thiên hạ thì đúng là đối tượng của phân tâm học để được phân tâm trong dạng "tự mãn để tự diệt".

Dẹp xóa cái vô lý của tự ti hoặc tự kiêu

Nếu Việt tộc vì sống hằng ngày bằng một hệ thống giáo dục hiện nay học giả-thi giả-bằng giả, mà mỗi kỳ thi đều có trường hợp nâng điểm qua hối lộ kiểu kỳ thi trung học của tỉnh Hà Giang, thì tự kiêu là giỏi thì đúng là "ngu hóa điên". Riêng tự ti là một dân tộc hiện nay phải làm lao nô ngay trên đất nước mình cho các doanh nghiệp, công nghiệp ngoại quốc, nhất là cho Tàu hoạn đang lũng đoạn kinh tế, đang ô nhiễm môi trường của đất nước, rồi phải vong thân trong lưu vong của xuất khẩu lao động để làm nô tỳ, nô bộc cho các nước láng giềng, thì hay biến tự ti thành khởi điểm để đi tìm tự do bằng cách dẹp tà quyền ! Rồi dùng tự do đó biến thành tự tin để thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa của tự chủ trong sáng kiến để tự lập trong sáng tạo. Muốn dẹp xóa cái vô lý của tự ti hoặc tự kiêu thì chỉ có cách là dùng hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) để lập ra phương trình tự do-tự tin-tự chủ-tự lập, từ đó chôn vùi luôn kiếp nạn nhân của một chế độ ngu dân hóa.

Tuệ giác khử ngu dân

Hãy phân tích hậu thân qua các hậu nạn của chính sách ngu dân : ngu dân hóa để còng tay kiến thức rồi lao lý hóa kiến thức, ngu dân hóa để siết não tri thức rồi nô lệ hóa tri thức, ngu dân hóa để vắt óc ý thức rồi khổ sai hóa ý thức.Từ đây, ngu dân hóa để cầm tù nhận thức rồi hình sự hóa nhận thức, ngu dân hóa để vùi dập tâm thức rồi lưu vong hóa tâm thức, ngu dân hóa để truy diệt tỉnh thức rồi vong thân hóa tỉnh thức. Một chế độ liêm chính, một chính quyền liêm sỉ phải có hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tâm thứctỉnh thức) này, nếu không có hệ thức thì chỉ là tà quyền với tà thuật thấp hèn của các chính sách ngu dân hóa. Con người có được văn minh của dân chủ, xây dựng trên văn hiến của nhân quyền, tại đây mỗi cá nhân là một chủ thể của hệ tự (dùng tự do tới từ tự giác làm nên tự tin nâng cao tự trọng để bền vững trong tự chủ), đây là điều mà các tà quyền dùng chế độ ngu dân hóa để cai trị, luôn mất ăn mất ngủ và tìm mọi cách để truy diệt tự do.

Chủ thể biết tự giải phóng

Chủ thể biết tự giải phóng mình bằng nhân lý của công bằng, nhân tri của công lý, nhân trí của công pháp để bảo vệ nhân phẩm của mình. Một nhân phẩm luôn biết dựa trên hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức để luôn tỉnh thức), đây là quá trình học hỏi để tự chủ trong tự tin, phải đấu tranh để có tự do vì biết tự trọng, với quyền tự quyết để loại, trừ, khử, bỏ mọi ý đồ ngu dân tới từ tà quyền. Ngay trong tri thức đã có cội nguồn của tư duy, giúp chủ thể muốn tự giải phóng mình phải suy nghĩ về điều kiện làm người của mình để tổ chức lại tuệ giác, rồi biến nó thành lý trí trong đấu tranh vì nhân quyền. Chính sự hoàn chỉnh của tri thức trực diện để chống chế độ ngu dân hóa, để loại mọi hậu quả và hệ lụy của ngu dân đang làm cho nhân tình đui, què, câm, điếc giữa nhân sinh. Chính quan hệ song hành giữa thế giới bên ngoài và tư tưởng bên trong của mỗi cá nhân làm nên tư duy, luôn mang theo một động cơ là ý định đi tìm tri thức làm nên ý muốn nhìn về phía các chân trời của tương lai luôn rộng hơn, cao hơn, tốt hơn số kiếp ngu dân mà mình đang gánh chịu. Khi thấu hiểu hiện tượng thì con người tìm hiểu thêm về 5 hiểu biết khác để có ít nhất 5 nhận thức : hiểu sự cố đang diễn biến qua hiện tượng ; hiểu quy luật đã tổ chức ra sự cố ; hiểu kỹ thuật cũ đã làm ra quy luật cũ ; học kỹ thuật mới để điều chỉnh quy luật cũ ; hiểu sự vận hành quá trình của quy luật cũ để chế tác ra chủ thể mới với kiến thức mới, từ đó tự giải phóng, tự phát triển, tự thay đời đổi kiếp. 

xahoi10

Chủ thể nhận trách nhiệm với số kiếp

Chính chủ thể có trách nhiệm với số kiếp của mình, có bổn phận với tha nhân, cùng là đồng loại với mình, nên chủ thể không sao chấp nhận được mình phải chịu làm nạn nhân cho một quá trình ngu dân hóa. Chủ thể mang tuệ giác để chống ngu dân vì biết dùng tri giác để chế tác ra trí tuệ, để có ý thức làm chủ cuộc đời của mình trong nhận thức phải đấu tranh để thoát kiếp ngu dân, trong tâm thức gầy dụng nên kiếp người vừa thực, vừa khôn để chống ngu, chống xuẩn. Chủ thể khi được định nghĩa sống-để-thấy, rồi thấy-để-thay, thay cái tồi để có cái hay, để có điều kiện làm người tốt nhất. Từ đây, chủ thể đang xây dựng ý thức làm người cho chính mình để cùng đấu tranh với tha nhân ; để gầy dựng nên ý thức nhân quyền trong nhân loại. Đây là cuộc hành trình trong khám phá đôi : khám phá tri thức để khám phá sự cố, để được làm người với nhân phẩm ; và khám phá cặp đôi này sẽ sinh ra khám phá bộ ba trong cuộc sống : khám phá bên ngoài để khám phá bên trong ; khám phá tha nhân để khám phá chính mình ; khám phá tha nhân bên ngoài để nuôi tư duy bên trong cho chính mình. Từ đây thay đổi não trạng để xua đuổi kiếp nạn nhân vì ngu dân tổ chức bởi tà quyền.

Chính sách ngu dân hóa của tà quyền : bóng tối của ma xó

Ngu dân chỉ là ý đồ hạn hẹp trong cái ngu của tà ý, ngược lại với ý muốn tự làm mình khá hơn, tốt hơn, giỏi hơn, hay hơn, đây chính là sung lực làm nên hùng lực của ý định đi về phía hay, đẹp, tốt, lành của đạo lýTại đây tính khoa học, tính khách quan, tính vô tự lợi của kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức để tỉnh thức luôn đứng về phía ánh sáng, từ chứng minh tới chứng thực. Còn các chính sách ngu dân hóa của tà quyền thì phải lẫn lách trong bóng tối như ma xó, phải chui rút trong bùn nhơ như ma bùn, vì chúng sợ ánh sáng của sự thật làm nên chân lý để tạo dựng ra lẽ phải ! Chất thực của kiến thức có từ-thấy-qua-tin trong sự thật vô trương bất tín (không thấy thì không tin), cho nên các hệ thống tuyên truyền ngu dân hóa luôn chôn giấu cái thực của trí, làm nên sức mạnh liên đới giữa sự thật và lý trí, và tà quyền khi tổ chức chế độ ngu dân, thường rất sợ sự liên minh sự thật-lý trí này, qua câu ông bà đã dặn con cái : "biết thì thưa thốt. Tà quyền vô tri nên ngụy ngôn để nhồi sọ dân chúng, xảo ngôn để xóa não quần chúng.

Tà quyền rất lo vì rất sợ hệ

Quá trình thực trí loại ngu dân là quá trình truyền đạt kiến thức thật để có tri thức thật, trong cái chỉnh lý của lý trí, trong cái hợp lý của trí tuệ, khi mà tri thức đã giúp tạo nên ý thức, thì nó đi vào lý trí để biến thành nhận thức, và nó sẽ đi ra như tâm thức để trở thành hành động đấu tranh cụ thể. Khi kiến thức đã kiến trúc hóa được tri thức, thì tri thức có khả năng biểu quyết để phán quyết !

Đây là một nỗi lo khác của tà quyền dùng ngu dân hóa để cai trị, nó ngày đêm mất ăn mất ngủ vì nó sợ bị ý thức sẽ vén màn cho ánh sáng của nhận thức vào để lột mặt nạ tà quyền đã che giấu để bưng bít, đã dối trá để lừa đảo. Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) chính là nơi sinh ra đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành cho nhân lý, để làm nên luân lý của trách nhiệm và bổn phận cho nhân đạo, trong đó cá nhân và tha nhân cùng sống, cùng chia nhau từ quyền lợi tới trọng trách phải bảo vệ nhân tính. Tà quyền ăn gởi sống nhờ qua chế độ ngu dân hóa của nó. tà quyền là luôn biến quyền lực của nó thành quyền lợi để có tư lợi trong tham ô và tham nhũng. Chính tại đây tà quyền rất lo vì rất sợ hệ lý (lý luận làm ra lập luận, giải luận làm nên diễn luận), tà quyền lo và sợ vì khi nó rơi vào hệ  này thì nhân dân sẽ thấy hệ bất (bất tài, bất chính, bất tín, bất trung) của nó. Nó sẽ bị lộ nguyên hình dối, xạo, dóc, láo để trộm, cắp, cướp, giựt qua chế độ ngu dân hóa của nó.

Nổi lên đòi dân chủ, nổi dậy vì nhân quyền

Ngu dân ngày đêm truy diệt nhân tri, nên nó luôn tìm cách thủ tiêu sự thông minh để ám sát sự sáng tạo, tà quyền luôn biến dân tộc thành lao nô chớ không muốn dân chúng trở thành chủ thể để phát minh, phát triển cho đất nước. Đây là thảm kịch của Việt tộc hiện nay dưới tà quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà quần chúng thành lao nô ngay trên quê hương mình cho nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp của Tàu tặc, nơi mà xuất khẩu lao động để làm nô lệ, nô tỳ cho các nước láng giềng gần xa. Nếu thật sự Việt tộc có văn hiến vì có văn minh trong thông minh và sáng tạo, thì chắc chắn sẽ nổi lên đòi dân chủ, để sau nổi dậy vì nhân quyền, vì nhân phẩm Việt tộc, một nhân phẩm không bao giờ chịu khuất phục bởi bạo quyền của ngoại xâm hay nội xâm. Chính kiến thức xóa ngu dân để chống độc quyền của độc tài, chính công lý loại bạo quyền để chống tham nhũng qua tham quyền, chính lý luận dứt bỏ độc đảng để chống độc trị, chính sáng kiến qua sáng tạo sẽ bứt hết ngu dân ra khỏi xã hội, để giải phóng nhân tình hiện nay ra khỏi tuyên truyền một chiều kiểu lưỡi gỗ.

Tà quyền : bóp chết sự thật, chôn sống chân lý, xiết ngộp lẽ phải

Muốn bảo trì tư lợi bất chính thì tà quyền phải tiếp tục chế độ ngu dân, cùng lúc kiểm soát đời sống xã hội, canh giữ sinh hoạt xã hội, rình rập các quan hệ xã hội và sẵn sàng đàn áp, bắt bớ, giam giữ, khủng bố, ám hại chính nhân dân của nó qua tà cách bóp méo tin tức, thao túng thông tin, giật dây truyền thông, để bóp chết sự thật, chôn sống chân lý, xiết ngộp lẽ phải. Tà quyền dàn dựng cơ chế ngu dân, qua định chế lừa dân, để có tư pháp giả với pháp luật ngoa, để lập án xử dân, từ đó vo tròn bóp méo mọi dữ kiện, mọi chứng từ, lấy giả làm thật, lấy sai thay đúng, trong đó tuyên truyền đã thành bản năng để nói dối, nói dóc, nói xạo, nói điêu. Tà quyền sống trong tà đạo vì tư lợi và vì tiện lợi, nơi mà tư lợi có được qua tư quyền hóa chính quyền, tiện lợi vì ăn gian nói dối trong xảo trá dễ hơn phải chăm chỉ học hành trong ngày đêm đèn sách ; vì ăn điêu nói ngoa để lừa đảo dễ hơn tu tâm dưỡng tính ; vì ăn trên ngồi trốc qua gian lận dễ hơn ăn bữa sáng lo bữa tối trong lương thiện. Ở đây tà quyền dùng hành chính để có quyền lực, khư khư giữ con dấu để được ký tên vào các quyết định trong các ngân sách cho các sinh hoạt khoa học, từ đó "kiếm chác"bằng cơ chế qua hành chính. Nơi mà kẻ bất tài nhiều hơn người có chân tài. Nơi mà bi hài kịch bất tài quyết định số phận và số phần cho chân tài.

Nạn nhân bị khổ sai hóa trong địa lý dân oan

Đó là những nơi mà công dân Việt bị cướp đất, có tổ chức bởi các quan thầy đang lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, dùng không những công an mà cả côn đồ, lưu manh, trộm cướp của xã hội đen để khủng bố qua bạo lực, đuổi họ ra khỏi mảnh đất của họ và của tổ tiên họ, rồi bán lại cho bọn đầu nậu đất đai, để chúng lập ra các khu chung cư, giải trí, du lịch… với giá gấp hàng ngàn, hàng triệu giá bồi thường cho dân oan. Từ lãnh đạo tới công an, từ côn đồ cùng bọn đầu nậu đất, tất cả bọn chúng đều là âm binh, vì chúng dùng tà quyền trong ma đạo để trộm, cắp, cướp, giật ; nếu bọn âm binh này còn thì kiếp khổ sai của dân oan sẽ còn, và ngày ngày càng nhiều, càng tăng lên ; vì lòng tham của âm binh không có đáy. Chúng dùng độc đảng để độc quyền trong quyết định, độc tài trong chính sách, độc trị trong các công trình qua đó chúng tha hồ mà vơ vét. Nước mắt và tiếng gào thét của dân oan sẽ còn đầy, còn đẫm, sẽ còn làm vang dội với kiếp sống vô định không nhà, màn trời chiếu đất, khổ sai trong nay đây mai đó, sống kiếp khổ ngục trong bụi đời, nửa sống, nửa chết như oan hồn.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của ô nhiễm môi trường

Đây là loại khổ sai mới chưa có trong lịch sử xã hội Việt, nơi mà người dân là nạn nhân trực tiếp từ môi trường tới môi sinh, mà không có điều kiện của công lý để đối kháng, cũng không có cơ hội để di dân đi nơi khác để sinh sống, để làm lại cuộc đời. Hiện trạng môi trường đúng là quốc nạn mà Đảng cộng sản Việt Nam trực tiếp chịu trách nhiệm, vì Đảng cộng sản Việt Nam là tác nhân khi ký kết cho Tàu tặc vào lãnh thổ Việt để gây ra đại nạn môi trường. Từ bốc-xít Tây Nguyên tới Vũng Áng của Hà Tĩnh do Formosa gây ra. Hiện nay, lãnh thổ Việt ngày ngày gánh chịu loại khổ sai hóa của ô nhiễm môi trường, với các nhà máy than điện kiểu Vĩnh Tân, tại Bình Thuận, tác động như hiểm họa vừa trên sinh hoạt sinh nhai của nhiều ngành nghề, vừa trên sức khỏe của quần chúng, trong sự thờ ơ, phủi tay, vô trách nhiệm của chính quyền và chính phủ hiện nay.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của tha hóa giáo dục

i mà trường học từ mẫu giáo các cháu đã bị bạo hành, qua trung học nơi mà học sinh bị sĩ nhục, tới đại học với một nền giáo dục gian lận học giả-thi giả-bằng giả. Cùng lúc phụ huynh phải chịu vô vàn các hy sinh về học phí lẫn các lớp học thêm, mà thực chất là các nơi làm tiền trắng trợn, cùng một loạt các chi phí khác, đưa đến chuyện khổ sai hóa triền miên trong tài chính của phụ huynh và của học sinh, với một tương lai bất định qua bất nghiệp vì thất nghiệp. Có cử nhân, cao học lại phải lái xe ôm, phải phục vụ tay chân cho các nhà hàng, phải cúi đầu cam nhận làm những việc không dính líu gì đến các ngành nghề mà mình được đào tạo, cúi đầu nhận chuyện sai nghề, như lạc sâu vào nhục nghiệp.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của đồi bại y tế

Tại đây, bịnh viện là địa ngục trần gian, con bịnh bị xem rẻ như các con thú đã bị thương không được chăm sóc, một giường bịnh mà nhiều người nằm, nằm la liệt luôn cả dưới đất, với bao dịch vụ không quan hệ gì tới y tế, gây tốn kém cho chi phí một gia đình, một sào huyệt của tham nhũng ở mọi cấp từ bác sĩ tới y tá, từ nhân viên phục vụ tới nhân viên canh gác. Nạn nhân bị khổ sai hóa trong quá trình "nuôi bịnh", và không hề được thật sự "chữa bịnh", với thuốc giả mà giá cao, qua tổ chức và mạng lưới của chính gia đình bà bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Kim Tiến. Nạn nhân bị khổ sai hóa trong hiện trạng đã nghèo, thì giờ đây ngày ngày càng nghèo hơn, vì không có cơ hội được bác sĩ giỏi, được uống thuốc đúng, có điều kiện chữa trị ổn định, chỉ một người mang bịnh để cả gia đình phải nuôi bịnh tới tán gia bại sản.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của điêu tàn nông nghiệp

Qua tà thuật của Tàu tặc, với sự bất lực của chính quyền và bất tài của chính phủ hiện nay, để Tàu họa thao túng nông thôn Việt, giật dây giá nông phẩm, o ép nông nghiệp Việt với sản xuất quốc nội bị mất giá và bỏ đi, với nông dân bị lái buôn Tàu nạn ép giá rồi tự ý hủy bỏ hợp đồng, đưa sinh hoạt nông nghiệp từ bấp bênh tới hấp hối. Cùng lúc hệ Tầu tặc-Tàu họa-Tàu nạn này đã từ cưỡng bức dòng chảy tới bức tử triều lượng sông Mê-Kông, từ một vựa lúa phì nhiêu nuôi cả nước Việt giờ thành một vùng hạn, nửa chết nửa sống, với bao đập thủy điện của Tàu ngay trên thượng nguồn. Nạn nhân khổ sai hóa của điêu tàn nông nghiệp, trong đó nông dân phải bó tay, phải chịu trận từ nhiều năm qua và trong nhiều năm nữa, nếu không có một chính sách với quyết tâm cứu cho bằng được đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt tộc, thì cả nước sẽ bị đe dọa về lương thực.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của đại nạn giao thông

Trùm phủ lên toàn sinh hoạt xã hội, mỗi lần người công dân phải di chuyển trên đường phố, trên các trục lộ, từ quốc lộ tới các ngõ ngách ; nơi mà tai nạn có thể tới với cả người đi bộ trên lề đường, bị các xe leo hẳn lên lề với vận tốc cao gây thương tích, có khi dẫn đến tử nạn. Một quốc gia với con số thống kê hơn 10000 tử vong hàng năm vì giao thông, hơn cả một số quốc gia đang có chiến tranh. Kể cả các trục giao thông đường sắt với các hệ thống thiết bị an toàn vô hiệu lực, thường xuyên gây ra thảm họa cho hàng trăm nạn nhân, trên các tuyến đường không bao giờ được chính phủ đầu tư đúng mức, với các công trình luôn bị "rút ruột" từ vật liệu tới xây dựng, bị "đội vốn" từ dự án tới thực hiện. Nơi mà chính phủ từ chối nhận bổn phận và trách nhiệm để bảo đảm an toàn tính mạng của người dân, nơi mà quá trình nạn nhân khổ sai hóa của đại nạn giao thông không hề là một quốc sách để chính quyền quan tâm.

Nạn nhân bị khổ sai hóa của chế độ công an trị

Bao trùm lên đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, nơi mà công an và cảnh sát chà đạp vừa nhân quyền, vừa pháp luật, trắng trợn bắt công dân Việt phải chịu hối lộ như mãi lộ trên đường phố, nơi mà khi công an tự cho phép chúng dùng bạo lực để bạo hành, vì chúng được bảo kê, được bao che bởi bạo quyền của Đảng cộng sản Việt Nam. Nơi mà có các đồn công an mang một thống kê loại "khát máu" độc nhất trên thế giới là có hơn 1000 nạn nhân tử vong hằng năm trong các đồn công an. Nạn nhân khổ sai hóa của chế độ công an trị là những nạn nhân có thể bị khủng bố, bắt cóc, ám hại, bỏ tù, tra tấn bất cứ lúc nào mà không có một luật pháp nào tại chỗ có thể bảo vệ họ. Đó là số phận của các đứa con tin yêu của Việt tộc, quý nhân quyền, yêu dân chủ, trọng công bằng, kính tổ quốc trước họa Tàu tặc, trong một thể chế vô nhân, không nhân tính vì không biết nhân đạo, không nhân tri vì không có nhân lý, không nhân từ vì không hề được giáo dưỡng để tôn quý nhân nghĩa.

xahoi11

Nạn nhân bị khổ sai hóa của độc tài qua độc đảng

Nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam áp đặt độc tôn bằng áp chế độc trị qua áp bức của bạo quyền độc đảng, nơi mà dân tộc Việt không được quản lý mà bị cai trị, nơi mà tổ quốc Việt không được bảo vệ mà bị buôn, bị bán, nơi mà tiền đồ tổ tiên đang cam chịu số phận bọt bèo sống nay, chết mai trước Tàu tặc. Nạn nhân khổ sai hóa của độc tài qua độc đảng mà dân tộc phải nhận hàng loạt cái tròng trên cổ mình tới từ ngoại bang : bắt đầu bằng một ý thức hệ giai cấp ngoại lai, một sớm một chiều biến quan hệ thống tộc thành kẻ thù giai cấp trong cuộc thảm sát cải cách ruộng đất với ngàn vạn nạn nhân tử vong trên đất Bắc, 1954-1956. Nạn nhân khổ sai hóa của độc tài qua độc đảng, phải nhận hàng loạt cái chết chóc với số nhiều triệu trên cả ba miền, để biến chiến tranh lạnh của các cường quốc thành chiến tranh nóng, chiến tranh lửa, chiến tranh máu, ngay trên đất nước Việt, với thảm trạng của huynh đệ tương tàn. Với một Đảng cộng sản Việt Nam luôn giao số phận của nó cho ngoại bang, trong chiến tranh cho khối cộng sản quốc tế, hiện nay cho đảng cộng sản Trung Quốc, bất chấp số kiếp dân tộc, số phận đất nước, số phần tiền đồ tổ tiên. Chúng đưa đẩy các số kiếp, số phận, số phần này vào hướng vô định trong vô tri, vô phương vì vô minh cho ngoại bang, chỉ để cứu đảng, chớ không hề để cứu nước.

Nạn nhân bị khổ sai hóa và Tàu tặc-Tàu họa-Tàu nạn

Đã nô lệ hóa được Đảng cộng sản Việt Nam, đã thuần hóa được các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nên chúng sẽ khổ sai hóa Việt tộc không những bằng bạo lực quân sự, xảo thuật chính trị, ma thuật ngoại giao, mà Tàu tặc-Tàu họa-Tàu nạn sẽ gieo trên lưng của Việt tộc các hiểm họa của ô nhiễm môi trường và môi sinh với các công nghệ bẩn, biến lãnh thổ Việt là bãi rác của Tàu. Tàu tặc-Tàu họa-Tàu nạn sẽ đạp trên vai Việt tộc qua thao túng kinh tế, giật dây thương mại, lũng đoạn xuất khẩu bằng cách dội ngập tràn các hàng hóa của Tàu qua nhập khẩu các đồ dùng, vật dụng, thực phẩm độc hại để dần mòn truy diệt Việt tộc. Tàu tặc-Tàu họa-Tàu nạn sẽ dẫm trên đầu chính quyền, chính phủ của chế độ "hèn với giặc, ác với dân" chỉ vì Đảng cộng sản Việt Nam đã bị chúng siết cổ bắt cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối từ bao năm nay, chịu thuần hóa của Tàu tặc.

Thực cảnh lao lý

Chính các công dân là kẻ định nghĩa xã hội và quốc gia nơi mà họ đang sống chớ không phải chính quyền hay chính phủ ; và nếu công dân tự nhận là mình đang bị khổ sai hóa bởi một chế độ, một định chế, một chính quyền, thì chúng ta phải đi từ khái niệm khổ sai của tội phạm học để đi tới một phạm trù rộng hơn xã hội học thực nghiệm, để hiểu tại sao các công nhân của một quốc gia lại tự nhận đang bị quy chế khổ sai không nhà tù, không trong vòng lao lý nhưng hằng ngày phải sống thực cảnh lao lý. Ngày ngày sống cảnh trên đe dưới búa, cá nằm trên thớt, cá chậu chim lồng trong tăm tối, trong quyền sinh sát của một chế độ công an trị, được quyền khát máusát nhân, trong sự bảo kê của một bạo quyền bất chấp đạo lý và công lý. Các chỉ báo sau đây của xã hội học hiện đại, để định vị rồi định luận các quá trình khổ sai hóa trong quần chúng, nơi mà xã hội sống hằng ngày của họ bị hệ chế (áp chế, cưỡng chế, ức chế) qua hệ bạo (bạo quyền dùng bạo lực để bạo hành) nơi mà xã hội lẫn dân tộc đều là nạn nhân.

Nguyên tắc kín của khổ sai hóa

Khổ sai hóa một xã hội có quá trình dựa trên nguyên tắc kín trong đó sự thật về khổ sai luôn bị giấu kín (cấm nói, chặn họng, bịt mắt kiểu luật an ninh mạng) qua kiểm duyệt mà bạo quyền luôn cấm điều tra, nghiên cứu, điền dã về quá trình này. Vì sự thật của các kết quả điều tra, nghiên cứu, điền dả trong khoa học xã hội và nhân văn sẽ lột được mặt nạ của tà quyền, và các kết quả đó sẽ là tiền đề cho các cuộc đấu tranh đòi hệ công (công bằng, công lý, công pháp). Tất cả các bạo quyền đều lo sợ, đều mất ăn mất ngủ về các chân lý của khoa học xã hội và nhân văn, vì nó đủ khoa học tính để "lật tẩy" tà quyền đang khổ sai hóa dân tộc của nó. Chính bạo quyền luôn kèm kẹp, luôn bóp nghẹt sự phát triển và sức giãi luận liêm chính của khoa học xã hội và nhân văn, và cũng chính bạo quyền thay thế vào đó bọn văn nô, bồi bút, điếm báo… để tráo lận và bôi nhọ các điều tra, nghiên cứu, điền dả nghiêm túc trong khoa học xã hội và nhân văn, bằng tuyền truyền, qua nhồi sọ, để xóa não… tức là xóa sự thật biết nói lên chân lý để đi tới lẽ phải.

Sự bóc lột triền miên

Khổ sai hóa một xã hội mang thực chất của sự bóc lột triền miên, vừa thường trực, vừa lâu dài, nơi mà nạn nhân mang kiếp nô lệ mà không được đặt tên là nô lệ, kẻ thống trị không đặt tên và không gọi đúng tên để tiếp tục bóc lột bền bỉ, tận xương tủy kẻ bị khổ sai không tên, để chúng yên tâm mà vơ vét qua bòn rút, trong một xã hội mà luật pháp không làm ra để bảo vệ dân, mà để bao che cho bạo quyền thống trị. Những xảo ngữ của tà quyền còn biết đặt tên ngược lại : tòa án nhân dân, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, nơi mà chính nhân dân không bao giờ muốn tới, và mỗi lần tới đều bị tới với tư cách tội phạm, tội nhân. Khổ sai hóa một xã hội luôn kèm theo một quá trình ngầm là diệt cá tính của cá nhân biết đòi hỏi công bằng, tự do, dân chủ. Diệt cá tính tức là diệt chủ thể, cụ thể là diệt sự thông minh và sức sáng tạo của chủ thể, tìm mọi cách vây siết cá tính, không cho cá nhân phát triển cá tính tức là bản lĩnh, nội công, tầm vóc của mình để tự giải phóng mình, để tự thay đời đổi kiếp của mình. Ma thuật của tà quyền dùng bạo quyền để ngăn chặn cá nhân, tập thể, cộng đồng rời bỏ kiếp xấu, tồi, thấp, hèn để tìm tới một kiếp khác hay, đẹp, tốt, lành hơn.

Bị nô lệ hóa trong khổ sai giữa trời

Khổ sai hóa một xã hội là cuộc đổi chát bỉ ổ về luân lý cộng đồng, thô bỉ về đạo lý dân tộc, khi tà quyền dùng bạo quyền để tổ chức cường quyền bằng cách lấy kết quả bóc lột đa số quần chúng, để chia sẻ qua bổng lộc, qua tham nhũng cho một thiểu số trong nguồn máy của chính quyền của nó, và ngoài nguồn máy như bọn thầu đất, buôn công trình, lãnh đạo ngân hàng… qua các tổ chức "sân sau", qua sử dụng quyền-tiền, để "chống lưng" cho nhau. Cuộc đổi chát này luôn dựa trên ý đồ nô lệ hóa quần chúng để khổ sai hóa một xã hội, nơi mà tà quyền thao túng để vơ vét, kiềm kẹp để truy bức bằng cách gạt hẳn tam quyền phân lập, nó luôn nắm hành pháp, nó siết lập pháp và nó giật dây tư pháp. Khổ sai hóa một xã hội nơi mà các nạn nhân bị nô lệ hóa trong khổ sai giữa trời, giữa đất không nhà tù, nhưng chính các nạn nhân sẽ tường trình trong tự thuật, sẽ hồi ký hóa các án khổ sai không tên mà họ phải lãnh chịu, để nói lên sự thật qua đấu tranh và cũng qua tâm sự, trong đó một số kiếp khổ sai luôn kéo theo một tập thể lúc thì gia đình, thân tộc, lúc thì làng xóm, đồng nghiệp… Chính quá trình tự thuật như trần tình, sẽ làm lộ tà diện của tà quyền, bạo lực của bạo quyền, trong đó tà quyền vùng vẫy trong tà đạo, vừa lộng hành trong âm địa, nhưng cũng vừa ngoi ngóp trong sợ hãi ngày nó bị lôi ra pháp luật để công pháp trị nó bằng công lý của nhân tri.

Canh giữ và trừng trị

Khổ sai hóa một xã hội tới từ một bạo quyền thường qua hai xảo thuật : canh giữtrừng trị, canh giữ nạn nhân bắt họ phải nhận khổ sai trong kiếp nô lệ không nhà tù, và trừng trị họ khi họ làm khác : xé rào, phá lưới, chặt xiềng… để đòi hỏi tự do chính đáng của họ qua đấu tranh. Ngoài hai xảo thuật trên, tà quyền không ngần ngại dùng vu khống, vu cáo để chụp mũ, vu oan giá họa các nạn nhân. Và, bạo quyền cũng sẵn sàng dùng khủng bố, bắt bớ, tra tấn, kể cả ám sát và thủ tiêu các chủ thể đấu tranh vì nhân quyền cho công bằng và công lý. Khổ sai hóa một xã hội tới từ sự ngăn chặn toàn diện của tà quyền trong quá trình hình thành một xã hội hiện đại trong đó tự do của công dân sẽ làm nên tự chủ của nhân quyền, tạo ra tự tin cho chủ thể đấu tranh chống khổ sai hóa, chống nô lệ hóa, chống bần cùng hóa, từ đó thiết lập ra hệ công (công bằng, công lý, công pháp) đó là điều mà tà quyền không bao giờ muốn, vì đó là hồi chuông báo tử cho hệ độc (độc tài, độc trị, độc tôn) qua độc đảng.

Bất tuân dân sự vì sự thật, chân lý, lẽ phải

Khổ sai hóa một xã hội là thực thể bị áp đặt bởi tà quyền luôn tìm mọi cách để ngăn chặn bất tuân dân sự dựa trên tự do nói lên : sự thật, chân lý, lẽ phải, tức là khả năng lột mặt nạ tà quyền vì nó là tác giả và thủ phạm tạo ra một chế độ khổ sai hóa xã hội, để nô lệ hóa quần chúng, bần cùng hóa dân tộc. Bất tuân dân sự luôn là bước đầu trong đấu tranh chống tà quyền, nơi mà chủ trương bất bạo động là sự thông minh chỉ dùng hệ luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận) để lập nên hệ đối (đối kháng bằng đối thoại, đối trọng bằng đối chất). Chính tà quyền tạo ra một xã hội bị khổ sai hóa luôn "lo ra""đứng ngồi không yên" vì sức sáng tạo "muôn hình vạn trạng" của bất tuân dân sự, tức là sức mạnh dân tộc đủ lực đốn tận gốc, rễ, cội của tà quyền, chỉ biết dùng tà thuật của nó là bạo lực. Chính tà quyền sẽ nhận ra bạo động của bạo lực làm nên diện mạo của bạo quyền chỉ là : cái xác không hồn ! Một loại khôn nhà dại chợ cấp điếm nhục của kiếp cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối theo kiểu hèn với giặc ác với dân.

Tà quyền bình thường hóa chuyện phi nhân

Khổ sai hóa một xã hội là sự dàn dựng của tà quyền, vừa bóc lột nạn nhân của nó qua nô lệ hóa quần chúng, bần cùng hóa dân tộc, vừa được bày biện qua diện mạo đạo đức giả của nó là đặt nạn nhân đã bị khổ sai ngay trong xã hội họ đang sống vào thế phạm pháp, vào chỗ phạm tội, một loại bị can không tiền án, cần được "xét xử" để được "xét tra" bởi tà quyền. Đây là xảo thuật của tà quyền, luôn dùng tòa án do nó tổ chức để buộc tội hoặc siết án các nạn nhân của nó. Nhưng cùng lúc tà quyền rất sợ các dữ kiện tạo ra chứng từ với chứng nhân nói lên sự thật trước tòa án, các chứng thư làm nên chân lý, các hành động chân chính làm nên lẽ phải. Tà quyền thích thú khi tổ chức các tòa án với bọn quan tòa là âm binh tay sai của nó, nhưng nó lại rất hèn hạ khi cấm các nạn nhân đưa ra ánh sáng mọi hành vi chống công lý, mọi hành động phản đạo lý, mọi hành tác diệt dân chủ của nó.

xahoi0

Tà quyền sinh âm binh

Khổ sai hóa một xã hội là sự dối trá của tà quyền, luôn răn đe quần chúng qua bạo lực của công an, cảnh sát, rồi bắt dân chúng xem đó là chuyện bình thường vì an ninh. Tà quyền bình thường hóa chuyện phi nhân của nó khi nó áp chế rồi cưỡng chế bằng công an trị, cùng lúc tuyên truyền chuyện bắt bớ, tra tấn, tù ngục là lẽ thường, là chuyện thường, để giữ an ninh. Tà quyền không bao giờ dám nói thật, nói thẳng là nhân loại đã một sớm một chiều loại hẳn ra các chế độ nô lệ, các chế độ khổ sai bằng nhân tínhnhân tri, nhân đạonhân trí, nhân nghĩanhân lý, nhân tâmnhân từ, vì chính hệ nhân này có thể dẹp tà quyền là thủ phạm của khổ sai hóa dân tộc trong chớp mắt, khi một dân tộc biết nhận nhân phẩm để giữ nhân cách của mình. Âm binh sống bám tà quyền trong bóng tối. Âm binh được điều khiển bởi âm tướng, được trợ lực bởi âm tá, chúng có mặt trong chính quyền, biến chất chính quyền của chung thành bạo quyền của chúng. Âm binh làm tay sai cho âm tướng, âm tá mang bộ mặt của chính phủ, cơ chế, định chế... để tham nhũng, tham ô, tham lợi.

Âm binh cờ gian bạc lận

Một xã hội bị âm binh hóa ngay trong các cơ cấu, đường dây, mạng lưới của tham nhũng luôn được điều khiển bởi mạng nhện của tà quyền. Âm binh cờ gian bạc lận, hàng loạt các tướng công an tổ chức đánh bạc lận qua mạng truyền thông, tạo không gian bất hợp pháp trong quá trình xoay tiền, chuyển tiền, rửa tiền bất chính của chúng. Loại âm binh này khai thác ít nhất ba góc khuất của xã hội. Chúng đại diện cho an ninh để bảo vệ xã hội, và chúng dùng danh nghĩa này để tổ chức cờ gian bạc lận ngay trong sào huyệt của chúng là các nơi đại diện cho quyền lực của một chế độ (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng...) mà quần chúng và xã hội không sao tưởng tượng được. Chỗ giấu diếm chuyện bất chính ở cấp cao thường là nơi được quyền lực che chở, kẻ tổ chức âm quyền này tự cho phép mình đứng cao hơn cả chính phủ và pháp luật để làm chuyện phạm pháp.Chủ mưu để tổ chức đường dây và mạng lưới đánh bạc siêu quốc gia với kỹ thuật cao của truyền thông chính là các lãnh đạo cấp cao nhất trong chính quyền, mà Bộ Công an là nơi chứa nhiều âm tướng, âm tá, âm binh.

Âm binh của thuốc gian thuốc giả

Âm binh thuốc gian thuốc giả, qua Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến vừa chủ mưu, vừa tổ chức cho mạng lưới hậu duệ tín cẩn của mình có được các hợp đồng béo bổ nhất, với nhẫn tâm bán thuốc ung thư giả cho các bịnh nhân. Chính bà bộ trưởng này được bao che, được bảo kê, được "chống lưng" ở cấp cao nhất (âm binh vương ?) qua một hệ thống buôn lậu thuốc quốc tế rồi độc quyền và lạm quyền của một bộ trưởng luôn được bao che bởi bè phái của nó ở cấp cao nhất, cho phép nó có độc quyền trong quá trình chọn đối tác từ nhập khẩu thuốc cho tới các khâu phân phối thuốc trong các bịnh viện.Chính quyền hạn của một bộ trưởng tác động trực tiếp tới quá trình quyết định liều lượng thuốc cho tới quyết định giá thuốc trên thị trường, trong đó độc quyền phân phối tạo tiền đề cho độc quyền sản xuất trong gian lận. Các tổ chức độc lập trong y khoa và y tế vẫn bị phủ nhận bởi chế độ độc đảng của Việt Nam hiện nay ; trong khi đó các hội đồng đạo lý y khoa, đạo đức y tế tại các quốc gia có dân chủ hiện nay trên thế giới có chỗ đứng độc lập, ngoài chính quyền và không bị chính phủ chi phối. Các hội đồng này có ảnh hưởng lớn tới các giới chuyên môn trong y tế, có ảnh hưởng cao trong chính sách an sinh và an toàn y tế của chính phủ, có ảnh hưởng sâu trong xã hội dân sự, có ảnh hưởng mạnh tới các cơ quan truyền thông.

Âm binh buôn đất bán biển

Âm binh buôn đất bán biển, trong thảm họa Formosa gây khốn đốn cho nhiều triệu ngư dân miền Trung, một thảm họa môi trường và một truy diệt môi sinh chưa từng có trên đất nước ta, mà hậu quả mai hậu không sao lường hết được, thì loại âm binh lãnh đạo này cho phép bọn âm binh Tàu luyện thép bằng độc chất được quyền sử dụng đất và khai thác công nghiệp trong 90 năm ; khi nghiên cứu sâu và kỹ về loại âm binh buôn đất bán biển này chúng ta phải thấy ít nhất ba âm phủ địa của chúng. Chúng cam tâm nhận bồi thường chỉ 500 triệu đô la của bọn âm binh Formosa cho một thảm họa không thể dung thứ được, tạo ra bao cảnh chia lìa trong các gia đình ngư dân, mà giờ đây họ phải bỏ quê hương mình để đi làm lao nô cho các nước láng giềng, vì không sao sống được trong một vùng biển chết. Chúng vẫn bao che cho Võ Kim Cự là lãnh đạo địa phương đã ký cho Formosa trong 90 năm với nhiều đặc lợi, hắn và đàn anh trung ương của hắn có trách nhiệm trực tiếp tại về các hậu quả, các hệ lụy của quá trình ô nhiễm hủy diệt môi trường tại đây. Chuyện chống tham nhũng hiện nay của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ có nội chất là thanh trừng lẫn nhau giữa các lực lượng âm binh đang dùng tà quyền của chúng để có độc quyền trong chính quyền. Nó không hề có luân lý của công bằng, đạo lý của công pháp để được đặt tên là một chiến dịch chống tham nhũng.

Âm binh buôn đất bán nhà

Âm binh buôn đất bán nhà, có mặt không những trong chính quyền độc đảng, trong chính phủ qua Bộ Tài nguyên Môi trường mà qua các công trình quy hoạch địa phương, vùng miền, thành phố, tại đây âm binh khai thác một âm luật (đất không phải của dân mà dân chỉ có quyền sử dụng đất do đảng lãnh đạo, chính phủ quản lý, từ quy hoạch đất tới cưỡng chế). Chính chúng là thủ phạm làm ra cảnh màn trời chiếu đất của bao triệu dân oan hiện nay, chúng là âm binh đúng nghĩa nhất khi chúng dùng tà quyền lẫn bạo lực để cướp đất của dân. Chúng không chừa thủ đoạn nào, kể cả phối hợp đàn áp công an cùng với khủng bố dân lành của các băng đảng, côn đồ, du đảng... Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về loại âm binh này chúng ta phải thấy ít nhất ba liên minh trong âm thổ của chúng : Bọn đầu cơ trung ương có mặt trong chính phủ luôn, có luôn mạng lưới đàn em tại địa phương, chính bọn này là tham quan địa chủ, chia chát thẳng với đàn anh trung ương để trộm, cắp, cướp, giựt đất của dân, chúng bao che cho nhau qua bạo quyền của độc đảng, mà trong đảng thì các nhóm lợi ích chỉ là các mafia, với cách tổ chức lén lút kiểu âm binh vô dạng. Bọn anh em âm binh với nhau trong đảng và trong chính quyền thông đồng với các công ty trách nhiệm xây cất, đây là bọn chủ thầu, một loại âm binh chỉ có một động cơ là tiền và không hề có một luân lý cộng đồng, một đạo lý dân tộc. Chúng chính là âm binh trọc phú, có tiền mà không có lương tri, đừng mong chờ chúng có lương tâm với đồng bào.

Âm binh rút ruột nạo đường

Âm binh rút ruột nạo đường, chúng có mặt trong các bộ xây dựng, giao thông, vận tải, chúng có luôn liên minh của chúng thông đồng với nhau để ăn chia với chúng qua các công trình xây dựng cầu đường, các cơ sở hạ tầng... Chưa hết chúng còn cấu kết với nhau qua các trạm thu phí, mà chúng không ngượng khi đổi tên là trạm thu giá (ngữ pháp của loại âm binh mãi lộ) gây bao khốn đốn trên mọi trục giao thông trong cả nước. Chúng chính là loại âm binh độn thổ để vơ vét, chúng trộm, cắp, cướp, giật ngay từ thượng nguồn bằng mọi cách mà âm ngữ của chúng dùng là rút ruột, nạo ruột, vắt ruột, tức là ăn cắp, biển thủ, gian lận ngay trên vật liệu xây dựng. Chúng có trách nhiệm trong các nguyên nhân của bao tai nạn giao thông, hơn chục ngàn đồng bào tử vong hằng năm. Hãy đi từ hệ thống dọc của lãnh đạo tới quan hệ hàng ngang giữa chính quyền và các công ty xây dựng, để thấy tham nhũng đã bòn rút xương tủy của đất nước, dân tộc như thế nào. Chất lượng từ vật liệu xây cất tới kỹ thuật xây cất không hề lấy tiêu chuẩn quốc tế, tức là tôn trọng an toàn tính mạng của người dân trong giao thông, mà luôn bị rút ruột, nạo ruột, vắt ruột nhiều lần và qua nhiều giai đoạn. Trong thống kê về tử xuất giao thông của Việt Nam hiện nay là cao nhất của thế giới, một phần có lỗi và tội của chúng.

Âm binh đầu nậu sự cố

Âm binh đầu nậu sự cố, chúng có mặt trong mọi phương án từ giải trí tới nghệ thuật, từ điện ảnh tới sân khấu, từ lễ hội tới văn nghệ quần chúng, tự festival này tới festival kia. Chúng nằm ngay trong chính phủ trung ương và chính quyền địa phương, và mỗi khi có ngân sách cho các sự cố : giải trí, nghệ thuật, điện ảnh, sân khấu, lễ hội, văn nghệ quần chúng... là chúng "ăn chặn" ngay thượng nguồn từ o ép giá tới biển lận các chi phí, từ đó các đạo diễn, diễn viên, ca sĩ, kịch sĩ, kỹ thuật viên... chỉ còn nhận được khoảng 50%, tức là chúng đã lấy và bỏ vào túi của chúng 50% rồi. Còn nếu ai mà không nhận điều kiện tham nhũng qua kiểu âm binh đầu nậu này, thì chúng sẵn sàng tìm người khác, ban khác, nhóm khác chấp nhận điều kiện của chúng. Khi nghiên cứu, điều tra, điền dã về loại âm binh đầu nậu này, ta nên nhận diện ít nhất ba hành vi gian lận của chúng. Chúng có sẵn các mạng lưới các nhân vật, các nhóm, các đoàn trong danh sách của chúng sẵn sàng cam chịu các điều kiện tham ô, hối lộ, mãi lộ của chúng. Chúng có mạng lưới các bộ trưởng, các lãnh đạo đảng ủy, các trách nhiệm của các ủy ban nhân dân sẵn sàng "nhắm mắt, làm ngơ" để chia chát với chúng qua thói đầu nậu chặn tiền ngân sách của chúng. Chúng có mạng lưới như mạng nhện ngay trong các nghệ sĩ, các nhà đạo diễn, các nhà sáng tạo sự cố... bị chúng buộc phải làm theo yêu cầu của chúng, dù rất cẩu thả trong nghệ thuật, dù rất buông thả trong kỹ thuật.

Âm binh buôn bằng ban cấp

Âm binh buôn bằng bán cấp, đang thiêu hủy từng ngày, từng năm nền giáo dục với học giả-thi giả-bằng giả, ngay giáo chức cho tới các cấp lãnh đạo của bộ máy độc đảng hiện nay. Giả vì có học vịhọc hàm mà không có học lực, chạy chọt qua hối lộ và tham nhũng để có chức phó giáo sư, giáo sư đại học mà chưa hề có công trình nghiên cứu cá nhân, chưa hề công tác trong một viện nghiên cứu, thậm chí chưa hề có quá trình giảng dạy. Bọn âm binh này xem bằng cấp là tờ giấy như có tiền mua vé vào cửa để tiếp tục chuyển việc gian lận buôn bằng bán cấp qua chuyện xảo trá mua chức bán quyền sau đó, chính chúng cũng công nhận chúng là tiến sĩ giấy, giáo sư giả... Hãy vận dụng ba tiêu chuẩn để lột mặt nạ bọn âm binh vô tri thức này. Dùng hệ chuyên qua đào tạo : chuyên gia phải có chuyên môn, có gốc của một chuyên ngành, có rễ của chuyên khoa là nơi đào tạo ra chuyên gia, nơi mà chuyên gia nhận học vị rồi học hàm để xác chứng học lực của chuyên gia đó. Dùng hệ chuyên qua trao đổi : một chuyên gia phải có trao đổi, đối thoại, phản biện qua hệ hội (hội thảo, hội luận, hội nghị), qua đó chuyên môn chuyên ngành, chuyên khoa của một chuyên gia được tập thể, cộng đồng khoa học dùng hệ kiểm (kiểm tra, kiểm soát, kiểm định) để làm rõ về giá trị của công trình nghiên cứu, về chất lượng khoa học của chuyên gia đó.

Đồ hình tri thức để nhận diện âm binh

Giải luận hệ lụy qua nhận định thực tế trong phân tích thực tại dựa trên các kết quả thượng nguồn của nghiên cứu thực tế, điều tra thực tiễn, điền dã thực địa, để kiểm định bản chất tà quyền của hiện tượng tham nhũng, với các chỉ báo để nhận diện các loại âm binh. Tà quyền và tham nhũng luôn thay trắng đổi đen, tráo trở để gian lận, nên nó sẵn sàng tuyên bố với những luận điệu trái ngược nhau, xoay theo chiều gió âm của chúng, quyền lịnh qua các tuyên bố mâu thuẫn để chạy tội. Tà quyền luôn đồng hội đồng thuyền với tham nhũng qua phương trình âm của chúng : giấu-che-vùi-lấp tất cả các hành vi, hành động phạm pháp của chúng. Tà quyền ăn nằm với tham nhũng qua các mạng lưới trong bóng tối, trong đó có sự hiện diện của băng đảng, côn đồ, du đảng, xã hội đen... Tà quyền chung chạ với tham nhũng để tìm mọi cách khống chế quyền lực chính trị, thao túng được kinh tế, rồi đe dọa và mua chuộc cả tư pháp. Tà quyền chia chát với tham nhũng luôn dùng hai con đường chính trị qua : quyền lực và kinh tế, mà qua đó nó chỉ chú trọng tài chính khi vơ vét. Tà quyền sinh đôi với tham nhũng và khi chúng bị truy tố ra pháp luật thì lời khai của chúng luôn dính tới quyền lực trong chính quyền hoặc trong chính phủ, nơi mà quyền lợi chính là tư lợi của kẻ nắm quyền lực.

Tà quyền trong tà thuật từ khủng bố tới chụp mũ

Dùng đồ hình tri thức để nhận diện âm binh qua tà quyền và tham nhũng, để hiểu cơ cấu, quy trình, tức là sự vận hành của bọn âm binh này, để hiểu biết về sự vận hành này trong nguồn máy của chúng, cụ thể là khi có hội lộ, thì ta có ba nhân tố : kẻ tham nhũng nhận hối lộ, kẻ trao hối lộthỏa thuận hối lộ vừa là cầu nối, vừa là hợp đồng lậu của cơ cấu tham nhũng : tà quyền và tham nhũng luôn dùng lập luận "có qua có lại", rồi phát biểu thêm "hai bên cùng có lợi", nhưng trong bóng tối chúng sẵn sàng "ném đá dấu tay""ngậm máu phun người" đối với các nạn nhân của chúng, thí dụ cụ thể là dân oan, mà ta thấy đã lên nhiều triệu trong xã hội Việt hiện nay, vừa bị chúng cướp đất, vừa bị công an và côn đồ đánh đập, lại còn bị bỏ tù vì tội "phá rối an ninh" do chính chúng đặt ra. Tà quyền và tham nhũng luôn tự tin trong ảo tưởng là chúng đứng ngoài, và đứng trên luật pháp, vì chúng biết : lách luật, né luật, xé luật... nhưng khi chúng chuyển tiền ra ngoại quốc, trong các nước dân chủ, thì chúng sẽ bị vạch mặt chỉ tên, chúng là nạn nhân của chính chúng, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Tà quyền và tham nhũng còn đi tự bắt cóc (vụ Trịnh Xuân Thanh) tới ám sát (các tướng, tá công an và quân đội bị thủ tiêu), chúng có tà thuật từ khủng bố tới chụp mũ các kẻ chân chính đấu tranh cho công bằng, dân chủ và nhân quyền.

Âm ngữ của âm binh

Tà quyền và tham nhũng còn liên minh được các lực lượng có sinh hoạt đối kháng nhau trên hành chính và cơ chế : công an lo cho trật tự xã hội thì đi đêm với du đảng, côn đồ, lưu manh, xã hội đen ; quân đội phải lo cho an ninh quốc phòng thì lén lút với bọn đầu cơ bất động sản... Tà quyền và tham nhũng luôn tự tin vào đường dây và mạng lưới mà chúng gọi tên là "sân sau""cửa sau" để "chống lưng""đỡ lưng", đây là âm ngữ của âm binh, khi khoe khoang về "hậu đài" của chúng, giờ đã là thuật ngữ được chấp nhận và tràn lan đang ô uế xã hội Việt, và được xem là một cái vốn xã hội bất chính nhưng đầy quyền lực đen của âm binh. Tà quyền và tham nhũng giữa chúng với nhau thì có "giá rẻ" và không có kiểm tra, đây là thượng nguồn của bọn lãnh đạo âm tướng với bọn thầu đất âm tài, ngược lại giá mà nạn nhân của chúng phải trả sẽ thật cao : dân oan mất đất và kẻ mua nhà mới với giá thật đắt đỏ. Âm ngữ của âm binh là : "bôi trơn" để nhận ra quá trình tham ô qua hối lộ là mua chuộc bất chính để giật dây nạn nhân, rồi thao túng họ trong một quá trình từ bất hợp pháp tới phạm pháp.

Mạng nhện là cái bẫy nhện

Tà quyền và tham nhũng không những chống luật pháp, mà còn tiêu diệt tài nguyên của đất nước, chống tài lực của đồng bào ; không những bòn rút tới kiệt quệ sinh lực của quốc gia mà còn thiêu hủy luôn khả năng và tiềm năng phát triển của quốc gia đó. Đây là một tội ác vô hình, vì khó thấy, nhưng là một tội ác trầm trọng phải xử theo tội hình sự cấp quốc gia. Tà quyền và tham nhũng tổ chức theo mạng lưới để cấu kết lén lút với nhau, nhưng mạng lưới này là mạng nhện được đặt giữa xã hội như một cái bẫy nhện để bẫy các con mồi chính là nạn nhân của hối lộ, tham ô, trong đó có dân đen, dân oan không được chính quyền bảo vệ, và không có dân chủ để bảo an, không có nhân quyền để bảo chứng. Tà quyền và tham nhũng luôn đứng ngoài nhưng đứng cạnh cái bẫy kiểu mạng nhện này, chúng là loại âm binh đói mồi vì lòng tham không đáy của chúng. Giữa chúng với nhau chúng luôn dùng 2 loại âm luật giang hồ : luật im miệng đi đôi với luật yên lặng, còn đối với nạn nhân của chúng thì chúng có hai loại vũ khí : điêu ngoa khi giới thiệu tà quyền của chúng và bí mật khi giăng bẫy tham nhũng của chúng.

xahoi12

Tham nhũng trắng, tham nhũng xám, tham nhũng đen

Tà quyền và tham nhũng đi đêm để thao túng xã hội, giật dây quần chúng, suy kiệt tài nguyên đất nước, xói mòn nguyên khí của dân tộc, thì chúng bất chấp đạo lý yêu nước, luân lý tổ tiên, trong bối cảnh hiện nay là đảng nát như tương, nước nát như cám. Tà quyền và tham nhũng khi chung chạ với nhau thì luôn dìm, luôn trấn để làm ngộp, làm nín quá trình song hành phạm pháp và tội phạm của chúng. Khi bắt được một thủ phạm, thì đồng phạm luôn tìm cách thủ tiêu thủ phạm này để thủ tiêu nhân chứng trước luật pháp, cho nên tà quyền và tham nhũng sẵn sàng ám sát và ám hại đồng bọn của chúng. Đầu môi chót lưỡi "đồng chí" chỉ để làm trò hề cho chúng. Tà quyền và tham nhũng dùng hệ ám (ám sát, ám hại) qua các thủ đoạn đầy ám chướng, đây là một trong các bản chất chính gốc của âm binh, khi bị ánh sáng của công pháp soi tới. Có ba loại tham nhũng khác nhau : tham nhũng trắng, "khi chấp nhận được thì cho phép", như tặng quà bánh, hoa... trong quan hệ xã hội, nghề nghiệp, cơ chế... Tham nhũng xám, dùng tiền để mua quyền, thì luật pháp phải có mặt để xét xử. Tham nhũng đen, dùng tiền và dùng quyền để gây tác hại, có hậu nạn cho quốc gia, dân tộc, qua các phương án, kế hoạch, công trình trong công vụ thì phải xử theo hình sự, vì là tội phạm, có khả năng gây ra tội ác.

Âm binh luôn tha hóa quyền lực để tha hóa pháp luật

Khi mà âm binh đã có mạng lưới thành mạng nhện để gài bẫy xã hội, quốc gia, dân tộc, mà nạn nhân luôn là những kẻ "bé cổ, ngắn họng", tức là dân đen, dân oan, là dân chúng không có nhân quyền, vì không có chế độ dân chủ để bảo vệ họ, thì đây là loại âm binh luôn tha hóa quyền lực để tha hóa pháp luật. Ta biết tiền điều khiển người, và tiền điều khiển cả thời gian lẫn không gian xã hội, kẻ chi tiền để hối lộ luôn nghĩ là mình khôn lanh khi tiết kiệm được thời gian, và kẻ tham nhũng khi làm tiền rồi thu tiền luôn khai thác triệt để loại ảo tưởng khôn lanh này để trục lợi. Tại đây, bọn âm binh này làm hao tổn năng lượng và công sức cho xã hội, mà thực tế này không hề được xem xét tới trong con tính của bọn tham nhũng. Trong cách nói nhân gian : "có tiền mua tiên cũng được", thì kẻ chấp nhận loại thực tế này là kẻ không có đạo lý dân tộc, không có luân lý cộng đồng, không có đạo đức xã hội, vì đây là loại ngữ pháp đã bị âm binh hóa rồi.

Tà diện của tham nhũng

Tham nhũng luôn lộ bộ mặt : sành đờisành ăn chơi, sành luậtsành quen biết, sành trò lách luật và trò thoát luật. Tham nhũng có cặp song hành : đạo đức giả đi cùng bạo động, phạm pháp đi cùng lạm quyền, đe dọa đi cùng khủng bố. Tham nhũng có mặt trong nguồn máy lãnh đạo. trong cơ chế của chính quyền ; trong quen biết an ninh (cảnh sát và công an). Tham nhũng đa tà diện : độc quyền quyết định và đa quyền trong quen biết (dùng quan hệ) ; độc trị để cả quyết và lạm quyền trong hành động (dùng hậu duệ) ; độc tôn để điều khiển và phạm pháp để trục lợi (dùng tiền tệ). Tham nhũng luôn tìm có nhiều chức năng để tăng khách hàng đến tìm tham nhũng, chúng vừa là bộ trưởng, vừa là dân biểu ; vừa là đảng ủy, vừa là ủy ban nhân dân... Nhiều chức năng để có nhiều quyền, quen được nhiều bao thầu, để gặp được nhiều đối tượng và đối tác trong quan hệ tham nhũng. Nhiều chức năng để qua được các cửa của nhiều cơ chế, để gặp nhiều khách hàng, để có được nhiều nguồn hối lộ. Tham nhũng luôn tạo ba đồng hành trong bóng tối : đồng hội đi đêm để đồng chí phạm pháp ; đồng hội chia lợi để đồng chí giấu lời, đồng hội che chở nhau để đồng chí giấu tội nhau.

Yêu công lý để chống tham nhũng

Chống tham nhũng phải có luật pháp đúng trong nghiêm minh, để nghiêm túc lúc thi hành luật, chưa đủ ! Xã hội phải có ngữ vựng đúng, ngữ văn đúng để có ngữ pháp đúng ; luật pháp đúng luôn song hành cùng ngôn ngữ đúng ! Đây là đường đi nẻo về của công lý làm ra pháp luật, một tình yêu của các công dân vô vụ lợi dùng luật pháp để chống chống tà quyền và tham nhũng, nếu cần thì làm mới luật theo hướng công bằng-công lý-công pháp. Như vậy xã hội học phải hiểu để thấu bản lĩnh và nội công của hệ công (công bằng-công lý-công pháp) mang sung lực để tạo ra chủ thể công dân vô vụ lợi, để nhận diện ra bất bình đẳng tạo ra bất công trong xã hội. Nếu tự "vỗ ngực" là yêu công lý mà nhắm mắt, khoanh tay, cúi đầu, quỳ gối để "làm ngơ" trước bất công vì sợ bạo lực của tà quyền và tham nhũng, quay lưng-bỏ mặc dân chúng là nạn nhân của bạo quyền thì chắc chắn không phải là kẻ yêu công lý !

Công dân công pháp

Muốn chống tham nhũng với vai trò công dân thì công dân phải tích cực dùng luật pháp, công dân còn là chủ thể dùng sáng tạo làm mới luật pháp ; để trở thành công dân công pháp dùng nhân quyền vì dân chủ mà tạo ra các mặt trận chống tham nhũng. Bằng luật pháp, bằng đạo đức, bằng dân chủ, bằng quyết tâm chống bạo quyền, chống tà quyền, bằng tự do trực diện vừa để hưởng tự do, vừa để tuyên bố tự do của chính mình. Chế tác ra các diễn đàn chống tham nhũng. Tạo không gian công chúng nói thẳng để nói đúng, có cảnh giác, có tố cáo. Tạo không gian quần chúng nói đúng về hậu quả vật chất, kinh tế, tài chính do tham nhũng gây ra. Tạo không gian cộng đồng nói trúng về hậu quả trực tiếp xúc phạm tới đạo đức, đạo lý, luân lý. Vận dụng tối đa các mạng truyền thông lợi ích tập thể trong định nghĩa đúng thế nào là lợi ích tập thể để chống tham nhũng, để chế tác ra chủ thể công dân trực tiếp để chống tham nhũng, để đấu tranh cho độc lập tư pháp để chống tham nhũng. Qua quá trình này, xã hội dân sự phải cho ra đời càng sớm càng hay : những công dân báo động (lanceurs d’alerme) mỗi lần tham nhũng xuất hiện, ló mặt. Tại Bắc Mỹ, trong đó Canada đã cơ chế hóa và pháp lý hóa để bảo vệ các công dân báo động này. Chỉ khi nào có tư pháp thực sự dân chủ mới chống được tham nhũng của tà quyền, trong đó công pháp có công bằng qua công lý tuyệt đối thì phải xử lãnh đạo tham nhũng như xử thường dân phạm tội. Hãy suy nghĩ vì vĩnh hằng của chân lý, vì trường cửu của đạo lý ! Vì tà quyền và tham nhũng luôn phản lại chân lý và đạo lý.

Tàu tặc : kẻ xâm lược

Kẻ xâm lược luôn tìm cách thủ tiêu quá trình tự do hóa của các nạn nhân, khi họ đi tìm con đường nhân cách hóa cuộc đời của họ, đó chính là quá trình tự lập hóa, tự chủ hóa, xác nhận quyền làm người cùng lúc bản sắc văn hóa và văn minh của mình, đây là quá trình rất minh bạch đòi hỏi được đối xử công bằng, tức là ngang hàng nhau, không ai được "đè đầu ai". Đây là chuyện làm kẻ xâm lược "ngày đêm lo lắng", đừng nghĩ rằng nó "ăn trên ngồi trốc" rồi "vinh thân phì gia", mà phải lý luận là nó cũng phải mất thời gian, năng lượng, tâm trí để nghĩ sâu thêm về sự can đảm dẫn tới cái bất khuất của kẻ bị trị ; nhất là Việt tộc đã có thông minh, kinh nghiệm, trí tuệ trong việc diệt ngoại xâm. Kẻ xâm lược rất ngại nạn nhân của nó đi tìm các nguồn bảo kê khác để thay đổi quan hệ giữa người và người, nơi mà công bằng trong quan hệ được công lý bảo đảm qua pháp luật. Kẻ khống chế rất lo lắng nạn nhân của nó phát huy tính thông minh dẫn tới chủ động đi tìm các đối tác mới công bằng hơn với họ hơn trong cái thông minh được xem là văn minh nhất hiện nay là cái thông minh biết tôn trọng lẫn nhau. Kẻ xâm lược suồng sã trong các hệ xâm, khống, bạo, tà... mà cũng là nhà tù trong quá trình vô đạo lý vì vô giáo dục của nó, nên nó rất "bồn chồn", có khi như "mất hồn", trước các đồng minh mới của nạn nhân thông minh, biết khai thác nhân trí của nhân loại, bảo vệ nạn nhân vì tôn trọng nạn nhân trong nhân quyền.

Không ai muốn sống chung với kẻ xâm lược

Kẻ xâm lược không những phải "lo ra" trước các đồng minh mới văn minh hơn nó của nạn nhân, mà nó "càng sống càng lo" trước công pháp quốc tế ngày càng công bằng, không chấp nhận mãi cảnh "cá lớn nuốt cá bé", chỉ vì quy luật man rợ này không phải là pháp luật công minh. Công pháp quốc tế văn minh hiện nay yêu quý dân chủ, trân trọng nhân quyền. Đây chính là lối thoát của Việt Nam hiện nay, trên con đường tìm tới sự thông minh tôn trọng lẫn nhau từ trong ra ngoài không gian của Liên Hiệp Quốc. Kẻ xâm lược biết rất rõ, hiểu rất kỹ là "không ai muốn sống chung với nó" để bị nó "đè đầu, đè cổ", cụ thể là ai cũng muốn "xa Tàu", "tránh Tàu" (mà ông bà ta có khi nói nhanh là như "tránh tà"), còn ta trong lịch sự ngoại giao thì phải nói cho rõ là muốn : "thoát Trung". Kẻ xâm lược thấu rất rành cái khác biệt giữa các đạo lý của mỗi dân tộc, tạo nên không những nhân sinh quan, mà cả thế giới quanvũ trụ quan của mỗi nền văn hóa, của mỗi gốc giáo dục cộng đồng. Đây là câu chuyện rất cụ thể giữa Tàu và Ta, vì hai đạo lý sống của hai dân tộc rất khác nhau, đối với Tàu là "bình thiên hạ" nhưng thực chất là "nuốt thiên hạ" ; còn đạo lý tổ tiên ta là phải"biết người biết ta" để biết "ăn ở có hậu" hiểu được thế nào là"thương người như thể thương thân".

Lòng yêu nước : nỗi lo của kẻ xâm lược

Kẻ xâm lược nghĩ rất sâu về lòng yêu đất nước, tình yêu quê hương của nạn nhân, ngay cả trong tâm tư của các lãnh đạo đã có lần "lầm đường, lạc lối" trong ma đạo mà tạm thời cam tâm "bán nước", nhưng họ có thế trở về với dân tộc họ, đồng bào họ bất cứ lúc nào. Kẻ xâm lược thường "bất an","ăn ngủ thất thường" vì hệ nổi (nổi lên, nổi loạn, nổi dậy) của dân tộc đang là nạn nhân trực tiếp của chúng, hệ nổi luôn kéo theo hệ bật (bật lên, bật mồi, bật lửa) với tinh thần bất khuất không để mất quê hương và không muốn làm nô lệ. Đây là hằng số trong bản sắc Việt yêu độc lập dân tộc như yêu chính nhân phẩm của mình. Kẻ xâm lược thường "ngày đêm lo lắng" về biến chuyển của thế giới trong toàn cầu hóa hiện nay, lấy công bằng làm công pháp, lấy nhân trí làm nhân lý, không để chuyện "có tiền mua tiên cũng được" đè lấp nhân phẩm, nhân tri. Bon tham nhũng sẵn sàng bán nước cứ tưởng cái gì trên đời này cũng có thể mua được bằng tiền, thì chúng sẽ thấy chuyện nhãn tiền là cầm tiền tham ô trên tay rồi mà "vẫn nuốt không trôi", vì công lý của công pháp rất hiện hành !

xahoi13

Khuyết tật của kẻ xâm lược

Kẻ xâm lược luôn tìm "thuốc an thần" trước các làn sóng tôn vinh dân chủ để bảo vệ nhân quyền, luôn dựa trên hệ đa (đa tài, đa năng, đa hiều, đa trí)gốc, rễ, cội, nguồn trong đa nguyên đang đi mạnh tới để kết liễu tính xâm lược mọi rợ của nó, và truy diệt nó ngay trên đất Trung Hoa của nó với dân tộc Hoa có thông minh, vì là con cháu của Mạnh Tử : "biết đục thủng thuyền khi kẻ lãnh đạo cầm lái bạo ngược và độc ác !". Kẻ xâm lược luôn dùng xảo thuật khống chế giấu sự thật về nó : không cho nạn nhân biết hết sự thật về khuyết điểm, khuyết tật của mình, nó tránh nói câu "nhân bất thập toàn", nó tránh tuyệt đối nói "Thưa ông ! Tôi ở bụi này", nó tránh trong tuyệt mật về sự thật "lòng tham không đáy" của nó. Nó lo lắng là nạn nhân của nó đã là kẻ "đi guốc trong bụng của nó", vì cũng khôn lanh như nó. Kẻ xâm lược luôn sống với tâm lý đi tra hỏi trong đối thoại, hạch hỏi trong đàm phán, tra khảo trong đàm đạo với nạn nhân về hệ thuần (thuần phục, thuần hóa, thuần tuân) của nạn nhân, cùng lúc biết rất rõ là nạn nhận không bao giờ muốn rơi vào hệ độc (độc chủ, độc tôn, độc quyền) để chịu làm nô lệ vĩnh viễn.

Hành tác cực trị của kẻ xâm lược

Khi nghiên cứu để phân tích tâm lý kẻ khống chế, cụ thể là về nỗi lo, nỗi sợ của kẻ xâm lược, thì không thể không tìm hiểu về tà dạng của bọn bán nước để thấu rõ tại sao lại có "cặp bài trùng cướp nước-bán nước". Hãy nhập nội vào không gian và thời gian của loại"cặp bài trùng cướp nước-bán nước"này qua hành tác thống trị trong đó kẻ xâm lược có ba loại vốn chính để biến thành chục, thành trăm loại vốn khống chế khác, để ức chế nạn nhân của chúng vốn nổi : kinh tế, tài chính, vật chất ; vốn áp đảo : chính trị, ngoại giao, quân đội ; vốn lan tỏa : văn hóa, xã hội, giáo dục. Đừng quên hành tác kiềm hãm qua áp chế để áp đảo : áp đặt từ trên cao ép xuống, trùm phủ toàn bộ đời sống xã hội, bao lấp mọi quan hệ xã hội. Cũng không quên hành tác bất bình đẳng dùng khống chế để xâm lược : kẻ khống chế từ chối quan hệ ngang hàng để tránh đối thoại trực diện, kẻ khống chế áp chế quan hệ vừa cao, vừa chéo để kiểm tra nạn nhân, kẻ khống chế áp đặt quan hệ qua sức mạnh đơn phương của nó.

Các chỉ bảo để nhận diện bọn bán nước

Chúng sợ Tàu và mở cửa cho Tàu vào đất Việt như chốn không người. Chúng sợ Tàu và luôn tổ chức các đặc quyền, đặc lợi, đặc khu cho Tàu. Chúng theo Tàu và giấu mặt nhưng luôn tạo ra các chính sách nhượng bộ Tàu. Chúng theo Tàu và luôn qua lại với Tàu để ký các hợp tác lấy Tàu làm chủ, cho Tàu đóng vai chính trong kịch bản của thỏa ước.Chúng cần Tàu để được yên và tạo điều kiện cho chúng tự tham quyền qua tham nhũng. Chúng cần Tàu để ủng hộ chúng trong các cuộc thanh trừng nội bộ, để diệt những ai chống chúng và chống Tàu. Chúng tuân lịnh Tàu để "vinh thân phì gia" để được yên thân trong cuộc đời "sâu dân mọt nước" của chúng. Chúng tuân lịnh Tàu để giữ tất cả các ưu đãi, ưu tiên, để chúng được ưu hậu, bỏ chạy theo chủ Tầu, khi Việt tộc nổi lên lật đổ chúng. Chúng đi nước đôi : có tiền của nhờ Tàu và nhờ tham quyền-tham ô-tham nhũng. Chúng chạy nước đôi : chuyển tiền của ra ngoại quốc, rồi đưa gia đình và con cái ra trước nước ngoài, để dễ nhanh "cao bay xa chạy" khi Việt tộc vùng lên lấy lại độc lập cho nhân phẩm của họ.

xahoi14

Đạo lý Việt và bản sắc Việt là nhân phẩm Việt

Đạo lý hay, đẹp, tốt, lành là đúng nhưng phải hiểu tâm địa của Tầu để cái đúng trở thành cái thông minh : ta muốn "dĩ hòa vi quý" nhưng không muốn "dĩ hòa vi nhục" ; ta mong "một điều nhịn chín điều lành" nhưng ta cũng biết "đánh trận đầu cho xác xơ ngạc, đánh trận sau cho tan tác chim muông". Ta hiểu"tránh voi có xấu mặt nào" nhưng ta cũng biết tát vào mặt voi khi nó đe dọa dân tộc ta ; chọc thủng mắt nó khi nó hăm he dòm ngó để xâm lâng đất nước ta ; chặt chân nó khi nó tính chuyện dày xéo quê cha đất tổ của ta. Chúng ta biết "ngoại giao kiểu đu dây", nhưng chúng ta không cho Tàu đu dây trên đầu chúng ta ; còn bọn suốt ngày "cúi đầu đu dây" mà câm họng khi nó chiếm biển đảo của ta, im miệng khi nó lấy đất của ta ngay biên giới phía Bắc, chúng đừng lãnh đạo nữa, vì chúng còn thì còn các mật nghị Thành Đô khác sẽ ra đời. Tàu ngày ngày giết ngư dân ta, mà ĐSCVN lại "ngụy ngôn" là : tầu lạ, kẻ lạ… Thật khốn kiếp cho Việt tộc ! Chúng ta hãy sẵn sàng đạp cho té bất cứ ai đang đu dây trên đầu Việt tộc. Thấy tới nơi để hiểu tới chốn Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại để biết phải làm gì : mỗi chuyện trên đời đều có cái giá của nó, mà cái vô giá là toàn vẹn lãnh thổ luôn song hành cùng độc lập dân tộc, trong đó nhân Việt nhân tính Việt, nhân phẩm Việt, còn cái giá vô danh giá là cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối : đó là cái giá của điếm nhục hóa.

Lê Hữu Khóa

(03/04/2021)

---------------------

lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 1041 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)