Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Văn hóa

28/05/2021

Giải luận 4 : Niềm tin

Lê Hữu Khóa

Niềm tin

 

niemtin1

 

Tâm hồn… Niềm tin… Linh thiêng

Chúng ta là chủ mảnh đất tâm hồn của chúng ta. Chúng ta phải vừa là kẻ canh tác, vừa là kẻ canh gác mảnh đất hồn để gặt cho bằng được mùa màng tâm. Vì chung quanh ta bạo quyền độc đảng sẽ gửi công an, cảnh sát tới tấn công mảnh đất này giữa đêm, giữa giấc ngủ... Tất cả hãy thức, không ngủ để giữ đất... giữ hồn... giữ tâm... giữ đời... giữ người. Chúng ta là chủ ngôi nhà linh hồn của chúng ta. Chúng ta phải vừa là kẻ gác nhà, vừa là kẻ canh cổng ngôi nhà linh này để giữ cho bằng được bàn thờ thiêng của tổ tiên. Vì chung quanh tà quyền tham ô sẽ gửi côn đồ, du côn, lưu manh của xã hội đen tới đốt nhà, phá bàn thờ tổ tiên giữa ban ngày, ban nhật. Tất cả hãy sẵn sàng giữ cổng... giữ nhà… giữ cho bằng được bàn thờ tổ tiên Việt. Mảnh đất tâm hồn của chúng ta là địa phận bất diệt của niềm tin... Ngôi nhà linh hồn của chúng ta là địa nhân bất hoại của tâm linh...

Nước mắt

Từ khi được sinh ra cho tới chết, tôi chỉ là : giọt nước mắt !

Giọt nước mắt tôi suốt kiếp cứ đi tìm những giọt nước mắt khác ướt nỗi khổ niềm đau, ẩm nổi niềm nạn nhân.

Những giọt nước mắt khi gặp nhau như suối nguồn cúi đầu theo rạch, sông buồn oằn thân ra biển. Giọt nước mắt tôi không bật thành tiếng khóc vì tôi không phải là nạn nhận, tôi chỉ nghẹn vì nạn nhân, nghẹn nên không sao nấc thành tiếng khóc. Có khi giọt nước mắt tôi muốn gần với tiếng cười, với nhân diện của tôi miệng cười méo xệch, khi tôi gẩn kề với các nạn nhân, tôi van họ : "sống vui để vui sống nhé !".

Ngữ

Tôi muốn là thi sĩ của một quốc ngữ ấu thơ thương người, yêu đời, không bao giờ kêu gào chém giết để huynh đệ phải tương tàn.

Tôi muốn là văn sĩ của một ngoại ngữ âu lo khuyên người, van đời, không bao giờ để tha nhân thế chiến cùng tha nhân.

Tôi muốn là luận sĩ của một đồng ngữ chăm lo người, nâng niu đời, với ái ngữ chung lưng đấu cật với mỹ ngôn để dìu nhân tâm tới gặp nhân từ mà tâm giao trong đắc khí.

Hình như

Hình như nếu chúng ta đào xới sâu trong mây, chúng ta sẽ thấy bao nấm mồ vô danh dân mình đã chết oan uổng vì bạo quyền.

Hình như nếu chúng ta cào bới sâu trong gió, chúng ta sẽ nghe được bao tiếng nức nở của đồng bào mình giờ đã là oan hồn đang ôm nhau khóc suốt ngày đêm.

Hình như nếu chúng ta nạo suốt sâu vào bụng trời, chúng ta sẽ thấy tổ tiên Việt đang ngồi đấy đợi chúng ta để chỉ hỏi ta một câu : "Bao giờ các con vùng dậy, đứng lên để lật sập bạo quyền ?".

niemtin2

Cấm tiếng Việt

Bạo quyền độc đảng toàn trị cấm tôi đọc tiếng Việt, vì chúng giành độc quyền để điếm nhục hóa tiếng Việt.

Tà quyền độc đảng hoạn trị cấm tôi viết tiếng Việt, vì chúng muốn độc tài để trần truồng hóa tiếng Việt.

Ma quyền độc đảng cuồng trị cấm tôi hiểu tiếng Việt, vì chúng giành độc tôn để ghẻ lạnh hóa tiếng Việt.

Nhưng tôi vẫn lẳng lặng viết di chúc ngày đêm bằng tiếng Việt vì tổ tiên Việt của tôi.

Niềm tin vào sự sống

Khi chúng ta phải đối mặt chạm trán với cái ác trực tiếp hay gian tiếp đe dọa sự sống, hãm hại mạng sống của chúng ta ; thì câu trả lời có trong chân trời của niềm tin. Niềm tin có trong mỗi chúng ta, đó chính là giá trị tinh thần và tâm linh cao quý nhất, tên của nó là : niềm tin vào sự sống. Bảo vệ bằng được sự sống, bằng cách đứng về phía sự sống, mà vạch mặt chỉ tên cái phản diện của nó là cái chết, đứa con chính tông của cái ác. Niềm tin vào sự sống không hề là loại niềm tin đơn lẻ của cá nhân, đơn độc của một thành phần trong xã hội, đơn côi của người trí thức có kiến thức lý thuyết về cái ác. Mà niềm tin này vượt cá nhân, mạnh hơn cá thể vì nó hướng sự sống về phía quan hệ giữa và người, niềm tin này cô độc trong não bộ của người, nó ra ngoài bằng khả năng đấu tranh để sống còn, tìm mọi cách gạt bỏ sự đe dọa của cái chết. Cụ thể là đấu tranh để được sống chung và sống cùng với tha nhân, với đồng loại, nó có từ phản xạ cảm nhận của đứa trẻ thơ luôn tìm mẹ để được nuôi nấng, rồi để được bảo vệ trước mọi cái ác có thể ập tới khi nó chưa đủ lông, đủ cánh để tự bảo vệ.

Nhận tha nhân để chống toàn trị

Tha nhân là kẻ khác đang đối diện với ta, và chỉ qua khuôn mặt của tha nhân ta khám phá từ nhân sinh tới nhân tính, tự nhân tâm tới nhân nghĩa, từ nhân tri tới nhân phẩm. Chỉ có khuôn mặt của tha nhân ta cũng khám phá luôn từ niềm vui tới nỗi khổ trong nhân thế. Khuôn mặt của tha nhân không phải là chuyện lý thuyết của triết học, mà nó nói lên nội tâm của mỗi chúng ta. Như vậy, ta sẽ thấy kiếp của ta trên khuôn mặt của tha nhân, những kẻ sống quanh ta, sống chung với ta trong cùng điều kiện làm người với ta, vừa tổng thể nhất, vừa vô biên nhất. Chúng ta cứ tưởng chúng ta sống trong một tổng thể đã được xã hội xếp đặt và xếp gọn, đã được lịch sử xếp lớp và xếp hạng, trong kiếp này hay trong kiếp khác, chính vì hiểu sai như vậy nên chủ nghĩa toàn trị mới có cơ ngơi phát triển, mới đưa kiếp ta vào khung, vào rọ, vào hầm, vào chiến tuyến, vào địa đạo, vào tù rạc. Vô biên (infini) thì ngược lại, không lãnh thổ, nên không biên giới, đó chính là tự do của chúng ta, một tự do đầy bí mật, giúp ta khám phá ra công bằng rồi bác ái, đưa ta từ nhân quyền qua dân chủ.

Sáng kiếp

Sống trong cuộc sống để lấy mọi tinh hoa của chất sống, vì trong chất sống (vừa là danh từ đời sống, vừa là động từ sống) có mọi thực tế, thực tiễn để làm thực nghiệm cho nhân sinh, nhân tri, nhân trí, phạm trù sống sẽ sinh động, chủ động, náo động hơn phạm trù chủ thể trong triết học phương Tây, lấy cái tôi ra để lập nhân sinh quan tưởng rộng nhưng thật sự là hẹp, lấy cái tôi ra để xây vũ trụ quan tưởng là cao, nhưng càng cao thì càng đụng tới thượng đế, rồi phải lấy thượng đế, tức là tôn giáo ra để làm đường đi nẻo về cho cái tôi, đây là một loại ngõ cụt. Vậy muốn đổi kiếp phải biết biệt kiếp, đi ra ngoài, cách cho xa, ở giữa để sống cho sáng kiếp.

Thể lực của niềm tin

Sự thật dưới quyền lực, có ba lối đi, mỗi lối đi đưa ra một lý luận rất khác nhau để đi tìm sự thật. Lối đi thứ nhất có niềm tin tuyệt đối vào thượng đế cha đẻ của muôn loài, nhưng không phải vì vậy mà không biết làm giàu một cách khách quan trên minh lộ đi tìm sự thật, nơi mà sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật. Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, và cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả hai cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảng cho cái đón để cái thật được tới.

niemtin3

Sự thật ngoài khuôn niềm tin

Các thực trang của xã hội mà con người đang sống, phải đặt sự thật vào giữa tri thức và quyền lực, và sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, vì sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Chúng ta phải biết chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, vì sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì người ta tưởng là người ta nắm được sự thật, nhưng thật ra là người ta bắt sự thật phải vào khuôn của niềm tin. Mà trên nguyên tắc khách quan của khoa học thì niềm tin phải theo sự thật, chớ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin.

Phải nói thật và phải thật khi nói

Sự xuất hiện của sự thật, bó buộc một chủ thể có lương tri vì có lương tâm trong hành động và có lương thiện trong lý luận, đưa chủ thể đó về hướng phải nói thật và phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân.

Cá thể thực sự thành chủ thể

Tự tin xây lên tự do là trụ cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, hành động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân trong đạo đức với xã hội. Và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội có văn minh, quý dân chủ, trọng nhân quyền. Cụ thể là khi chúng ta giảng trong các đại học công lập hoặc dân lập tại Việt Nam, thì cuối giảng đường là đám công an văn hóa ngồi chực, canh, núp, rình, để nghe ta nói gì với sinh viên và đồng nghiệp những điều gì mà còn về báo cáo với bạo quyền độc đảng công an trị.

Tự tin làm nên niềm tin

Chính tự tin làm nên niềm tin vì tự do sẽ giúp ta chuyển hóa não trạng để thay đổi giáo khoa vì sự thật khoa học biết làm nên lẽ phải trong đạo lý. Ta phải giảng như bơi ngược chiều để chống lại cái não trạng vô minh của tuyên truyền trị, vì ta muốn trao gởi những thông điệp của chân lý khoa học khách quan, để não bộ của sinh viên, của đồng nghiệp được mới, để não trạng của họ được sạch hóa. Để thầy trò cùng nhau đi từ kiến thức tới tri thức để đối kháng lại với ngu dân trị của bạo quyền vô tri. Cũng để đi tiếp thêm một bước nữa từ ý thức tới nhận thức để chống đối vô minh trị của cực quyền, vô tri trị của cuồng quyền, chóng chầy sẽ dẫn dân tộc và giống nòi tới vô học trị, đây chính là vực thẳm của vô hậu trị. Lõi tự tin làm nên lực tự do, nếu muốn vừa vững, vừa bền thì liên minh tự tin-tự do phải dựa vào không gian của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).

Tự tin để nắm lấy tự do

Tự tin để nắm lấy tự do chính là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong cá nhân sẽ là động cơ của dân tộc, là động lực của đất nước. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam độc đảng trong vô minh, độc quyền trong vô tri, độc tài trong vô học, rồi độc tôn trong vô hậu, thì làm sao có chủ trương về hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) như các lãnh đạo của các quốc gia láng giềng : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, cũng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam

Tự tin là rễ của tự do

Tự tin là rễ của tự do, khi tự tin là phải ngẩng đầu mà không cúi đầu nữa, phải thẳng lưng mà không khom lưng nữa, là phải cứng cườm tay mà không khoanh tay nữa, mà phải đứng lên để đi tới và không chấp nhận quỳ gối nữa. Tự tin đứng dậy để đi về phía nhân vị mà nhận nhân phẩm, thì tự tin là nội lực làm thay đổi não trạng nô lệ, nô bộc, nô dịch ; có tự tin vùng lên mà chặt xiềng, mới có não bộ tự do để giải phóng chính nhân kiếp của mình, mà đi về phía chân trời của nhân quyền, để nhân bản được thăng hoa.

Tự tin đứng lên chặt xiềng

Không có tự do sẽ không có nhân quyềndân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằngbác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự tin đứng lên chặt xiềng để chế tác ra tự do biết tự giải phóng chính nhân kiếp của mình, thì tự tin được vận hành trong ý nguyện của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, quỷ quyền ngu dân trị… Không nên ngừng ở quan niệm tự tin chỉ là rễ của tự do, mà hãy đi thêm bước nữa để thấy tự tin là nội lực để tự do có hùng lực mà đòi hỏi công bằng, mà đấu tranh vì công lý. Nơi đây, tự tin chính là nội công tự biết sạch hóa não bộ, trong lành hóa não trạng để đi tới mà tiếp nhận những vùng ánh sáng mới của tri thức, nơi mà tự do mở ra hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức. Tự tin đi tìm tự do chính là nội lực làm thăng hoa cá nhân, làm thăng tiến tập thể, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.

niemtin4

Có tự do để tự chọn cho mình một chân trời

Tự tin vào một nhân lộ văn minh luôn biết lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn). Tự tin khi mình trực diện đấu tranh chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức, tham ô, tham nhũng, tham tiền) khi dân tộc đã bị tước đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Tự tin vào tự do là trụ cột của cộng hòa có công bằng và bác ái, sẽ đưa tự tin tới gặp dân chủ, để khám phá thêm hai định luận làm nên hai đạo đức cho nhân sinh, đó là đa nguyên vì nhân quyền. Khi có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc. Từ đây một tự tin mới sẽ ra đời, đó là sự tự tin diệt bọn "sâu dân, mọt nước", đám "phản dân hại nước","buôn dân bán nước","mại quốc cầu vinh" đang lúc nhúc như sâu, như mọt trong mạng lưới quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, đã và đang ngày ngày điếm nhục hoa trí tuệ, ô uế hóa mọi nguyên khí của quốc gia.

Tự tin vì tự do

Tự tin vào tự do là vốn liếng, mà cũng là kháng thể để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên nhân lộ tiến bộ vì văn minh... Một hệ độc rất độc đoán trong độc hại đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên. Hãy xác chứng tự tin vì tự do để vĩnh viễn gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của giống nòi này ! Một công hai việc, hãy tự tin vào nhân vị chính là sung lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn Tàu tặc, đám lãnh đạo Bắc Kinh, với ý đồ muôn thuở xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Hãy tự tin để bảo trì chủ quyền, tự tin để bảo đảm độc lập, tự tin để bảo quản đất nước. Có tự tin để chuẩn bị thật tỉnh táo trong sáng suốt trước bọn Tàu tặc chỉ biết luật rừng của kẻ mạnh là trộm, cắp, cướp, giật.

Tự tin tạo sáng kiến

Khi có tự tin tạo sáng kiến vì tập thể, cộng đồng, dân tộc, thì sẽ có tự do sáng tạo để kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng gần xa, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Đây là ý chí làm sáng não bộ đang thụ động để làm sạch não trạng đang tiêu cực, sau bao năm, qua bao thế hệ phải nhận lãnh bao tà nạn của ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của độc đảng u mê trong độc tài nhưng lại bất tài trong quản lý đất nước, thậm chí đã đưa dân tộc ngày càng xa nhân lộ của tiến bộ vì văn minh.

Tự tin để làm người

Tự tin vào hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) với tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân. Tự tin để làm người một cách liêm sỉ nhất, tự tin để làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất. Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm minh, liêm sỉ) đã thật sự vắng bóng tới biệt dạng từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.

Tự chủ vì nhân trí để chống bọn bất tài, bất tín, bất chính, bất lương

Tự chủ vì nhân trí với quyền bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng đã là gốc, rễ, cội, nguồn của bất tài, bất tín, bất chính, bất lương. Tự chủ vì nhân trí với quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa tri của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng vì nhân quyền và dân chủ. Tự chủ vì nhân trí biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như bảo vệ để chính cuộc sống của mình. Chống ô nhiễm môi trường cùng lúc chống ngay trên cấu trúc của các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ, với hậu quả khủng khiếp của tập đoàn âm binh khai thác bốc xít tại Tây Nguyên, của Formosa tại Hà Tĩnh, với bao nhà máy nhiệt điện than, bao năm qua đã cấu kết với bọn lãnh đạo âm binh từ trung ương đến địa phương của Đảng cộng sản Việt Nam.

Quyền chọn lựa, quyền quyết định, quyền phán đoán

Tự trọng vừa là quyền chọn lựa, vừa là quyền quyết định để có quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ nhân quyền của chúng ta. Từ đây tự trọng vì nhân phẩm còn là quyền hành động, hành động để tha nhân phải tôn trọng nhân phẩm của chúng ta, vì tự trọng vì nhân phẩm biết đi tìm lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, mà kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác liêm khiết đều có cái giá của nó. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật.

Tự chủ công nhận công lý

Tự chủ vì nhân trí có thể được cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được bền vững qua công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận nhân quyền chính là quyền tự do xóa bất công, khử bạo quyền, loại độc quyền. Với tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn, qua xã hội, qua định chế, qua cơ chế... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những định đề về công lý phải mới hơn để đúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm chính trị, trong đó trách nhiệm hàng đầu là lãnh đạo phải liêm chính, phải liêm khiết, phải liêm sỉ khi thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm.

niemtin5

Phương trình công bằng – công lý – pháp lý – pháp luật

Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự trọng vì nhân phẩm. Chúng ta được quyền "rợn người tới lợm giọng" trước bọn quan chức lãnh đạo cao cấp hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, viết sách rao giảng để rao lận các luận điệu chống tự chuyển biến tư tưởng, để kiên định với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Nhưng chính chúng là bọn sâu dân mọt nước, đã vơ vét bao tiền của, vàng bạc, đã có quốc tịch ngoại, nhà cửa tại phương Tây, và khi bị lột mặt nạ, trước tòa án thì chúng khóc lóc với não bộ sâu mọt, với não trạng sâu rụt, để nhân dân phải thấy rõ âm dạng sâu mọt của chúng.

Hướng đi lên ngày mai

Tự trọng vì nhân phẩm đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thử thách tới từ các khó khăn mà ta gặp ngay trong cuộc sống, giải quyết các khó khăn, bằng lòng tự trọng của chính mình, tự chọn lựa cách giải quyết tới quyết định các phương tiện để vượt thoát (và vượt thắng) các khó khăn. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng trong cần lao để phát triển, để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên ngày mai phải đẹp hơn, hay hơn, tốt hơn, lành hơn hôm nay.

Bất tuân dân sự !

Tự trọng vì nhân phẩm có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong qua nội hàm của chủ thể luôn có ý thức, một ý thức tới từ tha nhân, tới từ lịch sự, tới từ xã hội, tới từ dạo lý… Một ý thức về kinh nghiệm trong thực tế và biết chống lại tất cả phản xạ vô điều kiện của loại não bộ ích kỷ, của kiểu não trạng thụ động trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội. Những phản xạ khuất phục trước bạo quyền độc đảng toàn trị là nhắm mắt-cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối đều đáng chê, đáng khinh, đáng ghét, đáng bỏ, kể cả chuyện loại bỏ não trạng máy móc hóa ngôn ngữ : thưa, bẩm, dạ, vâng trước các tầng lớp lãnh đạo đang bóc lột, đang bòn rút, đang tha hóa đạo đức xã hội, đang đi trên lưng, trên vai, trên đầu nhân dân. Tự trọng vì nhân phẩm là nền, móng, cột, trụ cho bất tuân dân sự, trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, cụ thể là biết tự chuyển hóa não bộ, tự chuyển biến não trạng nếu cuộc đời bị đe dọa, nếu cuộc sống bị tha hóa.

Chuyện sống chung là chuyện mong muốn

Tự trọng vì nhân phẩm luôn được cụ thể hóa qua ba nội hàm, gầy dựng lên nội chất, đúc kết ra nội dung của tự do : ý thức hiện hữu (có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan). Với ý thức chủ thể (có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan) ; cùng ý thức lý tưởng (có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành) cho mình, cho mọi người ; để chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chớ không phải là chuyện cam chịu. Tự trọng vì nhân phẩm trao tặng cho ta một uy quyền biết rời bỏ những bữa tiệc trà dư tửu hậu của bọn trọc phú, chỉ biết ăn tục nói phét, tự điếm nhục hóa lời ăn tiếng nói của chúng, làm ta "rợn óc tới lợm giọng". Vì bên đường, ngoài phố thì dân lành bị phá nhà, cướp đất, giờ đã thành dân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, đang lầm than cùng dân đen trong cảnh đầu đường xó chợ. Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong nhân dạng với ý lực của nhân cách là không nhượng bộ những điều xấu, tồi, tục, dở có gốc, rễ, cội, nguồn của đặc quyền ác, đặc ân độc, đặc lợi hiểm

Chốn âm phủ của quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ

Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong chuyện chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng với nhận thức ra là mỗi công dân đều được đổi vị trí xã hội của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng theo hướng tiến bộ vì văn minh, trước một hệ thống ý thức hệ dựa vào bạo quyền độc đảng toàn trị. Tự trọng vì nhân phẩm có mặt trong đấu tranh vì công bằng xã hội, chống lại chuyện"con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" đẻ ra từ những quái thai vô tài bất tướng từ các "hạt giống đỏ", được tái sản xuất theo kiểu cha truyền con nối. Theo thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc :"cả họ làm quan", rồi cho ra đời một quái vật ma hình quỷ tướng trong thể loại dây mơ rễ má chốn âm phủ là quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ, ngày đêm rình rập để tiêu diệt mọi trí tuệ, mọi tuệ giác tới từ các nguyên khí chân chính của quốc gia, của Việt tộc.

Thay đời đổ kiếp theo hướng thiện

Tự do vì nhân quyền là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do vì nhân quyền là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới từ thái độ biếng lười của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vì nhân quyền vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đời đổi kiếp theo hướng thiện. Tự do vì nhân quyền đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục. Tự do vì nhân quyền có không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do vì nhân quyền chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

niemtin6

Chung-sống-để-sống-chung

Đồng bào, như một sự khởi hành cùng nhau, cùng lúc của trăm con cùng mẹ, cùng cha, biết chung sống để sống chung, dù trong cuộc sống có sinh ly, đó là lúc 50 con phải lên phía rừng, 50 con kia đi về phía biển. Câu chuyện chung-sống-để-sống-chung trên quê mẹ đất cha có nội công của sống-vui-để-vui-sống. Không một ai coi hai chữ đồng bào là một loại nhà tù, nhà giam, mà ngược lại, hai chữ đồng bào là sự xuất hiện liên kết của hai phạm trù ngày càng xích lại gần nhau hơn : chung và vui, để làm nên chung-vui. Nhưng chúng ta cũng có những con dân Việt bực, giận, trách, than về dân Việt (dân mình ngu, dân mình dại, dân mình khờ, dân mình không khôn, dân mình không thông minh), tại đây cũng có ít nhất hai loại người. Loại thứ nhất bực, giận, trách, than về dân Việt nhưng không bao giờ bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, giận mà thương, trách đồng bào mà nước mắt cứ rơi, buồn nhưng không bỏ. Loại thứ nhì bực, giận, trách, than về dân Việt với giọng điệu khinh mạt, với lời lẽ phỉ báng, họ sẵn sàng bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, xé lẻ để chơi riêng, tách ra để dễ chuồn khi đồng bào bị lâm nạn, loại này không phải là đồng bào. Vì chính chúng không xem dân tộc là đồng bào, vì chính chúng đã vô tâm nên vô thức, chúng đã vong quốc nên vong thân từ lâu rồi !

Đòi hỏi công bằng bằng công lý, tự do bằng dân chủ, bác ái bằng nhân quyền

Khi kết hợp chính trị học tri thức, xã hội học quyền lực, sử học về phong trào xã hội, tâm lý học quần chúng thì chỉ cần từ 5% tới 10% dân chúng xuống đường đòi hỏi công bằng bằng công lý, tự do bằng dân chủ, bác ái bằng nhân quyền. Thì dân chúng sẽ trở thành quần chúng, sẻ tạo được phong trào xã hội, để trực diện với bạo quyền độc đảng toàn trị. Và khi một phong trào xã hội có quần chúng từ 5% tới 10% bền với thời gian vì sự thật vị nhân sinh, vì chân lý vị nhân phẩm để bảo vệ lẽ phải vị nhân quyền của mình thì không một bạo quyền độc đảng toàn trị có thể sống thọ được !

Phía nước mắt !

Xó chợ, tôi thấy một thương phế binh, của quân đội miền Nam hay của bộ đội miền Bắc ? Lê lết, rũ gục rồi bật khóc giữa trưa dưới nắng thiêu, bụng rỗng không một hạt cơm, tôi nhìn nước mắt đó, tôi sẽ chọn đứng về phía nước mắt ! Giữa chợ, tôi thấy một dân lành, một bà mẹ đang đếm những tờ giấy bạc không đủ bữa cơm trưa, lắc đầu, vì biết là ngày hôm nay sẽ không nuôi được đứa con, nước mắt bà mẹ buồn rơi, tôi chọn rõ là mình đứng về phía nước mắt ! Trong chợ, tôi nhìn được một dân đen, một công nhân trẻ, da đen đủi, đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương, vừa đưa cơm vào miệng, vừa khóc với tâm sự là tháng này không đủ tiền để gởi về quê nuôi vợ con, vì đại dịch Vũ Hán mà đã mất ngày lao động, tôi nhận ra là mình đang đứng về phía nước mắt ! Cạnh chợ, tôi ngồi bên một gia đình dân oan, bị phá nhà cướp đất, màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ… đang mong có được bữa trưa, con cái khóc to, cha mẹ khóc thầm, tôi biết rồi là mình đã đứng về phía nước mắt ! Bên chợ, một đứa bé bị ung thư máu trong một ngôi nhà không bóng người, chung quanh em không có ai, em đói, em thì thầm rồi em khóc một mình, tôi biết rồi là mình đã đi cùng nước mắt !

Lý lịch của tự do

Muốn xóa tuyên truyền trị thì nhân lý phải ngẩng đầu. Muốn khử ngu dân trị thì nhân tri phải mở mắt. Muốn tẩy vô học trị thì nhân trí phải tự đánh thức não. Muốn cởi bỏ cái vốn vô học, thì nhân tính cứ đi về phía ánh sáng của sự thật. Muốn vứt bỏ cái vô học, thì nhân bản cứ đi về phía chân trời của chân lý. Muốn rứt bỏ cái vô hậu, thì nhân tâm cứ đi về phía nhân dạng của lẽ phải. Khai thị kiến thức khoa học để thoát vô minh. Khai thác tri thức tự do để thắng vô tri. Khai phá ý thức công bằng để vượt vô giác. Khai phóng nhận thức bác ái để loại vô cảm. Khai quật trí thức dân chủ để bứng vô tâm. Khai minh tâm thức nhân phẩm để khử vô học. Khai sáng tỉnh thức nhân quyền để rời vô hậu… Con người chỉ thấy được lương tri của mình khi con người trực diện trước bất công để đấu tranh vì công bằng. Con người chỉ nhận được nhân phẩm của mình khi con người trực diện chống bạo quyền để bảo vệ tự do cho đồng loại. Con người đánh đổi nhân vị của chính mình để đi tìm hùng vị của nhân quyền dù chỉ bằng lời nói của nhân tính, dù chỉ bằng chữ viết của nhân lý... Con người thách đố với nhân kiếp để đi tìm tự do dù chỉ biết tên tự do mà chưa gặp mặt tự do, chính con người phải tự họa chân dung rồi phải tự viết lý lịch của tự do là : tự do !

Có duyên, hợp duyên, thuận duyên, nhiều duyên…

Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây, ngạn ngữ Việt qua giáo lý Việt vừa có nét duyên dáng của nhân dạng, vừa có chiều sâu nhân nghĩa, cả chiều cao của nhân phẩm, nên câu này vừa là ngạn ngữ vừa là một thi từ mà thi ca của nhân loại phải biết trân quý nó. Riêng trong Việt ngữ, mỗi lần người Việt nhắc tới chữ duyên, là nhân diện tự sáng lên, vì mắt, miệng đều vui lên : có duyên, hợp duyên, thuận duyên, nhiều duyên… Ngược lại, khi ta buồn mà thốt lên : không duyên, hết duyên, cạn duyên… khi phải chia tay với một người, một nơi, một chốn, một thời điểm, thì ngay trong nỗi buồn chính từ duyên biết an ủi, làm cho ta bớt buồn, hết buồn… đây là phép lạ của phạm trù duyên, luôn có chỗ đứng trung tâm trong trong giáo lý, văn hóa Việt.

Trợ duyên để trợ lực

Dường như mỗi người Việt sống, suy nghĩ, vui, buồn cùng chữ duyên, nó cứ theo ta mãi cho đến khi ta rời cõi đời này, nó trợ duyên để trợ lực cho chúng ta vượt thoát các thử thách của nhân sinh, vượt thắng các thăng trầm của nhân thế. Phạm trù duyên không hề rơi vào mê tín dị đoan của ngu dân, nó không mang thói tiền trao cháo múc của loại thất đức, nó chẳng đeo khuyết tật tiền nào của nấy của kẻ không có nhân tâm. Nó kỵ loại người chỉ có một toan tính là nồi nào úp vung nấy, để thực hiện tính toán môn đăng hộ đối ; nó kỵ tư duy ích kỷ vì nó khinh ý đồ vị kỷ. Một ý muốn toan tính chỉ dựa trên một ý định tư lợi, mà nếu chỉ thấy tư lợi thì không bao giờ gặp duyên, để có duyên, để hưởng duyên. Nếu chỉ thấy tư lợi, nếu chỉ sống bằng vụ lợi, quan hệ chỉ vì quyền lợi để trục lợi thì Tấm sẽ không thành người yêu của hoàng tử được, thì Thủy Tinh sẽ không lấy được công chúa, thì người rừng Thạch Sanh không sao có được người vợ quý phái, sang trọng được…

Nằm tù vị kỷ

Khôn quá hóa dại, những kẻ tính toán bằng ích kỷ, toan tính bằng vị kỷ thì dại dột trong duyên, dại khờ trong ngộ, nên họ dại suốt trong hạnh, dại dài dài, dại suốt đời, dại suốt kiếp. Những kẻ ích kỷ trong vị kỷ này là những người vô cùng bất hạnh trong nhân sinh, vì họ đi ngang nhân thế mà không thấy được nhân tâm làm nên nhân nghiã ! Vì cái ích kỷ làm nên cái vị kỷ chính là nhà tù của họ ! Bi kịch của họ là họ đang nằm tù mà họ cứ tưởng họ nằm trong biệt thự, biệt phủ, biệt dinh, đó là âm kiếp của bọn tham quan trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, chúng ngày đêm vơ vét, sống nhờ tham ô, sống bám tham nhũng.

Ân tuệ

Ân huệ nằm sâu trong ân tuệ, có tuệ giác dắt dìu tri giác, đưa đón lý trí để trí tuệ của mình được giáo dục rồi giáo dưỡng bởi những người thầy, những người bạn, những đồng nghiệp, luôn biết đại diện cho chân lý sống lâu mới biết lòng người có nhân. Vậy mà mỗi lần sống sót qua thử thách, sống còn qua thăng trầm, chữ ân hiện rõ trong não trạng của ta. Chữ ân âm thầm theo ta cả đời, có trong vũ trụ, có trong thiên nhiên, vì có trong ân tình với đầy đủ tiếng người, vì khi ân huệ đủ, ân tình đầy, thì ân nghĩa vừa ngập, vừa nặng, Chữ ân biến hai thành một, đã là một thì sẽ không bao giờ bị chia hai ; vì một là chung, vì một là chia, hiểu chung-để-chia, để thấu chia-để-chung, hiểu quy luật của tình yêu vì đã thấu được quy định của ân.

Lý trí, trí tuệ, tuệ giác

Đồng bào, chỉ có hai từ nhưng ngày ngày trở nên sắc nhọn trong tâm khảm mọi con dân Việt, trước hiểm họa mất nước sẽ bị Tàu tặc đô hộ và đồng hóa, qua liên minh giữa nội xâm độc tài tà quyền bán nước và ngoại xâm quỷ quyền Tàu tà cướp nước. Đồng bào, nội hàm sắc bén sẽ chẻ đôi sự mang trá của ý đồ cõng rắn cắn gà nhà, sự gian manh của mưu đồ dắt voi về dày mả tổ. Tại đây để lộ trong cuộc sống Việt, hai loại người Việt : một loại phục tùng, một loại bất tuân. Loại người Việt phục tùng cúi đầu trước bạo quyền như đã cúi đầu trước thảm họa phản dân hại nước ; khoanh tay trước tà quyền như đã khoanh tay trước bi nạn buôn dân bán nước ; quỳ gối trước ma quyền như đã quỳ gối trước hoạn cảnh buôn tông bán tổ. Phục tùng để cam chịu trong hèn dạng, để gánh chịu rồi trong nhục kiếp, để rồi tả tơi trước âm binh, trước diệt vong. Loại người Việt bất tuân bằng lý trí của công lý, với trí tuệ của công bằng, qua tuệ giác của tự do, cả ba : lý trí, trí tuệ, tuệ giác xuất thân để bác ái, vị tha, từ bi giữa đồng bào xuất hiện. Nên bất tuân chỉ để dẹp bạo quyền, đuổi tà quyền, triệt ma quyền, nên bất tuân không hề là chuyện nổi loạn vô trách nhiệm, không hề là chuyện nổi giận vắng bổn phận. Trách nhiệm và bổn phận của bất tuân có mặt trong tự do-công bằng-bác ái, cũng chính là nội chất làm nên nội hàm đồng bào.

Đồng bào : cuộc sống thiêng

Hai chữ đồng bào, chỉ có hai từ nhưng biết làm nên cuộc sống thiêng mang tinh thuần để giữ trong lành, lấy tinh chất để bảo tồn trong sáng, cùng lúc bảo vệ luôn cuộc sống thường-nhưng-thật, thật trong giáo lý tổ tiên, thật trong đạo lý dân tộc, thật trong luân lý giống nòi. Cuộc sống thiêng của gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau, hoàn toàn nghịch lý, nghịch luận, nghịch chiều, nghịch lối với cuộc sống thường nếu chỉ biết cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc tài, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, thì nó phải chấp nhận mọi hậu nạn cõng rắn cắn gà nhà của loài buôn dân bán nước, vì cuộc sống thường này đã bị nắm đầu xỏ mũi bởi tạp chất của âm binh. Từ đây nội hàm đồng bào sẽ tự tan biến ! Thật đáng sợ khi vô tình biến cuộc sống bình thường nhục thành ra cuộc sống tầm thường hèn !

niemtin7

Xóa giải

Đồng bào là hiện thể sinh động vì là rễ của cội tâm linh Việt tộc, hai chữ Đồng bào khẳng định một nội hàm, một giá trị, một tư tưởng hoàn toàn nghịch chiều, nghịch hướng để luôn luôn nghịch lý, nghịch luận với đồng hóa. Vì đồng hóa là ý đồ tới từ ý muốn thâm, độc, ác, hiểm của ngoại xâm để làm xấu, tồi, tục, dở từ nội dung tới nội chất thực thể đồng bào. Mưu ma chước quỷ của đồng hóa luôn đi trên tà lộ của ma đạo tha hóa : Tha hóa để đồng hóa ! Tha hóa với sự thông đồng của nội xâm : bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, tà quyền buôn dân bán nước, ma quyền buôn tông bán tổ. Từ đây, con dân Việt phải biết hóa giải ý đồ đồng hóa bằng cách xóa giải ý định tha hóa Việt tộc của ngoại xâm Tàu tặc. Mà quá trình hóa giải để xóa giải có trong phương trình của hệ sáng : lấy sáng kiến phải cứu nước để tự cứu mình, biến thành sáng lập ra các phong trào đấu tranh để giữ nước, để giữ giống nòi mà chống đồng hóa. Tận dụng liên kết giữa sáng kiến sáng lập để cho ra đời những sáng tạo ngay trong xã hội dân sự bằng tri thức mới : lấy nhân quyền làm văn hiến, lấy dân chủ làm văn minh, lấy đa nguyên để chế tác ra văn hóa đa dũng, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu… Khi hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) kết hợp cùng hệ văn (văn hiến-văn minh-văn hóa) mới này sẽ biến đồng bào thành đồng sáng trong công cuộc cứu nước để giữ nước.

Hệ sạch chống hê bẩn

Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) là gốc, rễ, cội, nguồn để phân tích và giải thích sự ra đời hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin) ; hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) ; hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) ; hệ chuyên (chuyên cần, chuyên môn, chuyên nghiệp) ; hệ tinh (tinh lực, tinh thông, tinh hoa). Tất cả hệ trên đã, đang, sẽ bị truy, diệt, khử, trừ bằng hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là cha sinh mẹ đẻ của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền ; hệ bất (bất tài, bất lực, bất tín, bất lương) ; hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) ; hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm).

Cuộc đấu tranh vì nhân quyền

Nhân quyền là phạm trù lý luận của nhân sinh đi tìm nhân phẩm, nên phạm trù này chỉ được chấp nhận nếu nhân loại xem nhân quyền là phổ quát từ nhân lý tới nhân tính, từ đạo đức tới luật pháp. Nhưng khi nhân loại xem nhân quyền là phổ quát từ nhân đạo tới nhân luật, thì nhân loại phải chấp nhận một hệ luận về nhân tri là : một chính quyền tôn trọng nhân quyền có thể chỉ trích, phê bình, buộc tội một chính quyền không tôn trọng nhân quyền bằng công pháp quốc tế, mà không bị buộc tội lại là xen vào nội bộ của một quốc gia. Đây chính là thử thách lớn của cuộc đấu tranh vì nhân quyền, vì tất cả các chính quyền dường như đều đồng ý về tuyên ngôn phổ quát về nhân quyền, nhưng không phải tất cả đều tuân thủ tuyên ngôn này. Chuyện này đã kéo dài từ ba thế kỷ qua, và hiện nay trong thế kỷ XXI này, các chính quyền độc tài, độc đảng luôn lẩn tránh nhân quyền để lén lút hoặc công khai vi phạm nhân quyền, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam đang đứng hàng đầu cùng Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba và vài quốc gia châu Phi là những chế độ độc đảng để độc tài, là những tập đoàn tội phạm xâm phạm và đàn áp nhân quyền.

Nhân chất quyết nhân định

Khi xét nhân chất, khi soi nhân lệ, khi hiểu nhân nhiệm, khi thấu nhân biệt, để thấm nhân luận, rồi nhận ra nhân quyết, chúng ta đã thấy được các không gian của nhân tri trong chân trời của nhân quyền, luôn có hai nhân lực, không. Trả lời có mặt để bảo vệ nhân phẩm, như mục đích của nhân quyền. Trả lời không chấp nhận bạo quyền độc tài, khi nó phản nhân quyền. Nhân định được hiểu như nhận định để quyết định đường đi nẻo về của nhân quyền ; từ đây nhân định được hiểu như phân định để giải định các chân trời của nhân phẩm mà nhân quyền phải bảo vệ nhân quyền là hùng lực có mặt trong tư duy dân chủ như một động cơ tạo ra các hành động xã hội, dân tộc, cộng đồng, tập thể để tổ chức lại xã xã hội, dân tộc, cộng đồng, tập thể đi theo hướng thăng hoa vì nhân vị, nhân bản… Nhân quyền là hùng lực có mặt trong tư duy đa nguyên như một khả năng tạo ra các hành động của đảng phái, của hội đoàn, của công đoàn, của xã hội dân sự, theo hướng tiến bộ vì nhân tri, nhân trí. Nhân tố xã hội song hành cùng nhân tố chính trị là hai động cơ chủ lực của nhân quyền, vượt lên mọi con toán ích kỷ của tự lợi, vượt lên mọi con tính quyền lực vì quyền lợi ; tại đây nhân quyền sẽ là nền cho các quá trình nhận thức của xã hội, trong đó con người không còn vô điều kiện với các đạo giáo, tự đặt nhân quyền luôn thấp hơn, luôn phải tuân thủ quyền năng của thượng đế. Nền cho các công trình xây dựng xã hội, trong đó các chế độ chính trị được tổ chức theo hướng tôn trọng nhân vị, nhân bản, nhân tri, nhân trí…

Ý tưởng - ý muốn - ý lực vì lao động

Giữa hai thế chiến, tại Âu châu con người đã ý thức được cái nguy hại của tổng động viên lao động chỉ phục vụ cho chiến tranh, nên qua hiệp ước Versailles, nhân loại đã cho ra đời Tổ chức quốc tế lao động (Organisation internationale du travail), nhân đạo hóa lao động bằng nhân phẩm biết phục vụ hòa bình và tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, và tiếp tục cho ra đời Liên hội các quốc gia (Société des nations), là tiền thân của Liên Hiệp Quốc (Nations-unies) sau Đệ Nhị thế chiến. Sự ra đời của các cơ quan quốc tế : Tổ chức quốc tế lao động, Liên hội các quốc gia, Liên Hiệp Quốc làm nền tảng cho sự xuất hiện các công pháp quốc tế vừa để bảo vệ nhân loại chống chiến tranh, vừa để ngăn chặn các bất công tới từ sự bóc lột lao động của cá lớn nuốt cá bé. Và chính công pháp quốc tế đã trợ lực cho luật lao động, để luật xã hội có mặt trong an sinh xã hội, với bảo hiểm xã hội, dịch vụ công cộng, luôn được củng cố và hoàn thiện qua các đấu tranh của xã hội dân sự.

Ý lực trong lao động

Trong tuyên ngôn của Tổ chức quốc tế lao động, người ta nhận được các điều kiện lao động bảo vệ được nhân phẩm, bằng các định đề nơi mà nội dung của nhân tính được bảo đảm bằng nhân lý trong lao động : con người lao động với sự chủ động đóng góp được sức lao động của riêng mình, đó chính là thành quả lao động tới từ tự nguyện lao động. Con người lao động với nhân phẩm, nhân tính, nhân lý nên con người không phải là thú vật hoặc máy móc phải khuất phục chỉ để tuân lệnh chủ nhân. Con người lao động với tự chủ, bằng tự do của tư duy "muốn làm được việc" bằng lao động của mình, từ thủ công tới trí thức, với sự tính toán của phương án, với ý muốn biến lao động thành quả do mình định đoạt. Con người có ý tưởng lao động dựa trên ý muốn có thành quả lao động, làm nên ý lực của hiệu năng và hiệu quả lao động. Chính hệ luận ý tưởng đầu tiên làm nên ý muốn để thành ý lực ngay trong lao động, đã làm nên sự khác biệt tòan diện giữa điều kiện làm người trong lao động và điều kiện của súc vật hoặc máy móc. Con người vận dụng liên minh ý tưởng-ý muốn-ý lực trong chính điều kiện làm người trong lao động của mình để bảo vệ nhân phẩm, nhân tính, nhân lý trong tổ chức lao động, để trực diện chống lại sự tha hóa nhân vịnhân bản trong lao động.

Giá trị biểu tượng của hoài vọng

Khi chúng ta nêu được các yếu tố trên đã làm nên mệnh đề : thế nào là lao động đúng với điều kiện làm người đúng, hoàn toàn khác biệt với súc vật và máy móc ; thì cùng lúc chúng ta cũng phải công nhận là mỗi con người đều mang hai bản chất cũng rất khác nhau. Bản chất thứ nhất của bản năng : đói ăn khát uống lao động để nuôi thân ; và bản chất thứ nhì của bản thể : lấy ước mơ làm lý tưởng, với các giá trị biểu tượng trong đó con người lao động để thỏa mãn hoài vọng, để thực hiện hoài bão của mình với các giá trị của luân lý, của nghệ thuật, của khoa học… Chính bản thể với các giá trị biểu tượng của hoài vọng, của hoài bão sẽ làm nên sáng tạo trong lao động, nâng cao hiệu suất lao động, làm rộng hiệu năng lao động, không những để tăng trưởng sản xuất mà còn để thăng hoa nhân kiếp ngay trong lao động.

Chủ thể lao động bằng sáng tạo

Sáng tạo trong lao động làm nên chủ thể lao động bằng sáng tạo, không lặp đi lặp lại một cách máy móc hành tác lao động, mà ý thức trong lao động có công cuộc thay đời đổi kiếp, vì trong sáng tạo lao động có thể làm được chuyện dời non lấp bể ; mà không trao thân gởi phận cho chuyện vật đổi sao dời mà mình không có một quyết định, một quyết đoán gì hết ! Khi ta học làm người tức là ta học dung hòa giữa hai bản chất để rồi sau đó chọn ưu tiên một trên hai bản chất : bản năng hay bản thể. Tại đây, lao động chính là môi trường học tập để thỏa mãn bản năng, cùng lúc để thăng hoa bản thể, vì vậy lao động từ môi trường lao tác đã biến thành ngôi trường học tập để mỗi chúng ta xây dựng hiện tại, gầy dựng tương lai bằng nhân đạo làm nên nhân phẩm bằng rành nghề, thạo nghề, giỏi nghề để thấy và thấu chuyện nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Từ môi trường đến ngôi trường của không gian lao động, chúng ta sẽ khám phá ra ít nhất hai hệ vấn đề mới : khám phá thế giới mà ta đang sống (đang ăn ở và đang sáng tạo), cùng lúc khám phá ra chính chúng ta, có hay không "thiên năng" để xây dựng năng khiếu cá nhân, để gầy dựng tài năng, mà thành công trong huấn nghiệp, thành đạt trong chuyên nghiệp, thành tài trong sự nghiệp.

Lao động có lương tri

Trong thế kỷ mới này, người lao động Việt hiện nay vẫn chưa có : công đoàn độc lập, xã hội dân sự thực sự, để cả hai cùng nhau xây dựng : bảo hiểm xã hội lương thiện, dịch vụ công cộng có lương tâm, luật xã hội có lương tri, từ đó bảo đảm một an sinh xã hội chân chính. Chỉ vì chính quyền độc đảng hiện nay không những độc tài nhưng bất tài, mà chính quyền độc đảng này lại dùng độc trị để nuôi nấng độc tham, dụng tham nhũng để cướp bóc lao động vừa qua tổ chức lao động bất nhân, vừa qua chế độ thuế má thất đức. Nên chính quyền độc đảng này không hề có một tri thức tối thiểu nào về lao động có lương tri. Ngày ngày, người lao động Việt hiện nay đang bị các xí nghiệp, doanh nghiệp ngoại quốc bóc lột với lương bổng thấp, điều kiện lao động tồi, và nếu đòi hỏi thì bị đuổi việc, nếu biểu tình, xuống đường để đấu tranh thì bị công an đàn áp thẳng tay bằng quyền lệnh độc đảng của công an trị. Từ đối xử thậm tệ với đồng bào lao động cho tới chuyện thí mạng chính đồng bào mình, chính là hiện thân của một độc đảng "hèn với giặc, ác với dân".

Lao động tận dụng từ nhân tri tới nhân trí

Lao động có lương tri bắt đầu bằng quyết tâm chấm dứt lối lập luận công nhân trong nhà máy là loại người máy là việc như công cụ, như phụ tùng trong sự vận hành của nhà máy vừa đóng vai chính, vừa đóng vai chủ. Từ đó, nó bứng tư tưởng có trong nhân lý, nó tháo tư duy có trong nhân tính, để tha hóa nhân phẩm bằng cách bắt buộc nhân bản phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước toan tính của lợi nhuận, trước tính toán của hiệu năng. Nội dung của lao động có lương tri mang những nội chất sau : lao động có lương tri là lao động vận dụng nhân lý, nhân tính bằng nhân tri, nhân trí để bảo vệ nhân phẩm, nơi mà lao động phục vụ nhân bản chứ không phải ngược lại. Lao động có lương tri là lao động tận dụng từ nhân tri tới nhân trí bằng khoa học, bằng kỹ thuật đã tạo nên những tiến bộ, văn minh cho nhân loại ; chính khoa học, kỹ thuật là lực lượng lao động song hành cùng nhân sinh để phục vụ nhân sinh chớ không phải ngược lại. Lao động có lương tri là lao động chống các hoang tưởng tới từ một loại ý thức hệ nơi mà hứa hẹn là hứa hão để lừa bịp bằng man trá : "Làm theo nhu cầu, hưởng theo tiêu thụ" ; mà quên đi tiền đề của thành tựu lao động luôn là cần lao, cần cù trong lao động và chăm chỉ trong công việc, mà tổ tiên Việt làm rõ bằng các định đề : "thức khuya dậy sớm", "một nắng hai mưa", "ăn bữa sáng lo bữa tối"…

Lao động với tri thức của lương tâm

Lao động có lương tri là lao động chống các chỉ tiêu tới tự ý chí chủ nghĩa, chủ quan hàm hồ lấy số lượng toán để quyết định số phận người, lấy định lượng bị mù lòa về tăng trưởng để vùi dập định chất nơi mà tài năng được nhận ra bằng thành quả lao động, nơi mà sáng tạo biết thăng hoa lao động. Lao động có lương tri là lao động chống lại các lý thuyết tuyệt đối vị khoa học, chống lại các chủ thuyết toàn thần quá khích, mượn tôn giáo để bóc lột lao động, nên nó chống luôn các lãnh đạo dùng ma đạo của độc tôn khoa học, lạm dụng tà đạo của độc quyền tôn giáo. Lao động có lương tri là làm việc với tri thức của lương tâm, nơi mà hiệu quả lao động phục vụ cho nhân vị, hiệu năng lao động phục vụ cho nhân bản, thành quả lao động phục vụ cho nhân phẩm, thành tựu lao động phục vụ cho nhân văn, trong đó nhân sinh, nhân loại được bảo vệ bởi nhân tính, nhân lý biết dựa vào nhân tri luôn tỉnh táo để có sáng suốt bằng nhân đạo của nhân trí.

Lao động bằng lương tri

Từ lao động có lương tri tới lao động bằng lương tri là sự trưởng thành toàn diện của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri), nơi mà lương thiện là gốc, rễ, cội, nguồn của lương tâm chế tác ra lương tri chính là sự hiểu biết của con người bằng tổng lực của nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí, biết làm nên nhân vị, nhân văn, nhân bản để bảo đảm và bảo trì nhân phẩm, nhân đạo, nhân tâm. Hãy lý luận trên nội dung để tìm ra lập luận về nội chất của lao động bằng lương tri. Lao động này vận dụng nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí để hiểu nhân loại, nhân thế, nhân sinh không lao động trong đơn lẻ mà lao động trên một môi trường, lao tác trên một môi sinh, tại đây một nhân sinh quan đứng đắn phải là một thế giới quan tử tế với môi trường và môi sinh. Cụ thể là không để quê hương gấm vóc của tổ tiên Việt tộc thành bãi rác ô nhiễm của Tàu hoạn, bằng hóa chất độc, thực phẩm bẩn của Tàu nạn, nhiệt điện than của Tàu họa, để sau này lại có thể là bãi tha ma của Tàu dịch. Lao động bằng lương tri vận dụng sáng tạo lao động để thành quả lao động không chỉ là sản phẩm phục vụ nhân loại, nhân thế, nhân sinh, mà còn là tác phẩm của môt nhân sinh quan đứng đắn hợp lực một thế giới quan tử tế để có một vũ trụ quan liêm chính biết tôn trọng muôn loài nơi mà mọi sinh vật có chỗ đứng ghế ngồi của sinh linh, tức là linh thiêng bằng linh hồn của sự sống.

Nhân sinh quan đứng đắn – thế giới quan tử tế - vũ trụ quan liêm chính

Liên minh giữa nhân sinh quan đứng đắn, thế giới quan tử tếvũ trụ quan liêm chính chính là bản lĩnh của một nhân loại văn minh, chính là tầm vóc của một nhân sinh "ăn ở có hậu" với tiền đồ tổ tiên, với các thế hệ mai hậu, ngay trong mọi hành tác lao động mang hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) để làm nên lao động bằng lương tri. Từ lao động có lương tri tới lao động bằng lương tri là sự thông minh toàn lý về nhận thức biết làm ra sản phẩm, lại biết làm nên tác phẩm bằng sáng tạo ngay trong lao động, và liên hợp giữa sản phẩm tác phẩm, có trong sự thông thạo làm ra sản phẩm, song lứa để song hành cùng sự thông thái làm ra tác phẩm. Nên lao động có lương tri luôn có chỗ dựa làm nền của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), nơi mà lao động thủ công và lao động trí thức luôn bổ sung để hỗ trợ cho nhau.

Công lý lao động

Phạm trù công lý lao động để giải quyết không những công bằng phải có mặt trong xã hội, mà phải hiện diện ngay trong lao động. Tập-hợp bạo quyền, tà quyền, ma quyền với địa thế ngồi mát ăn bát vàng, với tư thế ăn cỗ đi trước lội nước đi sau ; từ mượn gió độc đảng mà bẻ măng trong thiên nhiên, cướp tài nguyên, với tục thế cốc mò cò ăn, chính là bất công của bất công, nên công lý bảo vệ nhân vị vì nhân phẩm trong lao động phải xuất hiện bằng công pháp biết làm ra công luật để xét và xử bọn cướp ngày là quan này. Từ thảm cảnh của Việt Nam hiện nay, hãy phải nhìn rộng ra những tai họa trong suốt quá trình công nghiệp hóa của ba thế kỷ qua. Biến tổ chức lao động thành tổ chức xã hội, nơi mà con người luôn là công cụ của tổ chức chính trị với hệ ý (ý định, ý muốn, ý đồ) làm nên ý lực biến nhân lực thành công cụ mà không tôn trọng nhân phẩm của kẻ lao động. Đưa chủ thuyết Tylors nơi mà con người là công cụ của nhà máy vào ý đồ của Lenin là biến nhân lực của nguồn máy độc đảng thành công trường để áp đặt lên toàn xã hội với một kỷ luật quân sự toàn trị bất nhân thất đức.

Những học thuyết lầm đường lạc lối

Chúng ta cũng không được quên những lầm đường lạc lối của chính các lý thuyết gia, các tư tưởng gia chính là các tác giả lớn trong hệ thống học thuật của khoa học xã hội và nhân văn khi họ nghiên cứu về quan hệ giữa con người, xã hội, và lao động. Tổ sư của xã hội học cận đại là Durkheim đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là một vật thể (chose). Tổ sư của xã hội học đương đại là Bourdieu đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là một phân tử (particule) trong một không gian nam châm. Tổ sư của nhân học cận đại và đương đại là Levi-Strausse đề nghị khi nghiên cứu về quan hệ con người-xã hội-lao động, thì hãy xem con người là côn trùng (insecte) trong một cấu trúc chung nơi mà cơ cấu quyết định cho số phận của cá nhân. Khuyết điểm của các luận thuyết này làm nên khuyết tật của các chủ thuyết mà họ đề ra, nơi mà các lý thuyết gia, các tư tưởng gia này không những mượn hình tượng của vật thể vô tri kiểu Durkheim, của vật thể vô giác kiểu Bourdieu, của tiểu sinh vật vô cảm kiểu Levi-Strausse để làm biểu tượng mà dựng lên hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) không nhân lý cũng không nhân tính, không nhân bản cũng không nhân văn…

Tri thức lao động

Khuyết điểm thành khuyết tật ngay trong hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức) của các trí thức này tác động thẳng lên nhân trí, luôn yêu cầu chúng ta phải cẩn thận trong tri thức để cẩn trọng trong nhân tri. Trong một thế chế thực sự dân chủ để bảo vệ nhân quyền, thì công lý lao động phải có mặt ngay trong công bằng lao động qua tổ chức trong lao động bằng hệ thức (ý thức, kiến thức, tri thức, trí thức, nhận thức, tỉnh thức). Hành tác trong lao động bằng hệ tự (tự do, tự trọng, tự chủ, tự tin). Phân công trong lao động bằng hệ chuyên (chuyên khoa, chuyên ngành, chuyên môn, chuyên nghiệp). Thành quả trong lao động bằng hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo). Nhưng tri thức lao động làm nên thành quả lao động có hiệu quả kinh tế, được hỗ trợ bởi khoa học kỹ thuật, trong đó sáng tạo lao động có mặt trong thị trường qua cungcầu, ở ngoài phạm vi quyền lực của chính quyền và chính quyền chỉ có vai trò làm trọng tài khi bất công trong lao động xuất hiện. Khi chính quyền trở thành trọng tài thì chính quyền này phải được bảo chứng bởi luật lao động, được trợ lực bởi luật xã hội với các tiền đề : thành quả lao động không phải là hàng hóa với giá cả nhất định ; vai trò con người trong lao động không phải hàng hóa để trả giá, để mặc cả ; thị trường lao động không thuần túy là thị trường hàng hóa.

Công lý lao động trước quyền lực của lượng

Công lý lao động trong điều kiện công nghiệp cơ giới hóa không còn là công lý lao động trong điều kiện công nghệ truyền thông hiện nay với khả năng vi tính biết có phản ứng phản hồi để thích ứng môi trường, bối cảnh, hiện trạng của xã hội. Kỷ nguyên công nghệ truyền thông có khả năng vi tính có phản ứng, biết phản hồi để thích ứng với nhiều hoàn cảnh, từ chứng khoán tới đầu tư, từ sản suất tới tiêu dùng bắt buộc chúng ta phải linh động trong chuyển luận về công lý lao động… Tại đây công lý lao động trong bối cảnh công nghệ truyền thông, cũng vẫn bị điều khiển bởi quyền lực của lượng, nơi mà số lượng đẩy lui chất lượng, để chất phải lùi để nhường chỗ cho lượng. Nơi mà chỉ tiêu sản xuất quyết định cường độ lao động, tất cả phải phục tùng định lượng trong hiệu quả và kết quả lao động. Chính sức ép của sản lượng, áp đặp lên hiệu quả, hiệu năng của lao động đã cho xuất hiện những hiện tượng trầm cảm, tự tử, với tầng số tai nạn lao động cao, theo cùng với những hậu quả về tâm lý, những hậu nạn về nhân phẩm. Chính tại đây, công lý lao động phải tiếp tục những phương án, phương pháp mới để bảo đảm lao động có nhân tính, để bảo hộ người lao động không là nạn nhân của tổ chức lao động, phân công lao động luôn dựa trên sản lượng lao động. Công lý lao động phải biết tương đối hóa sản lượng, để vào thực chất của phẩm, để biết nhận ra tác phẩm của sáng tạo lao động, tự đó biết được hoài bão của nhân phẩm, hoài vọng của nhân tri, nơi mà nhân trí đã vượt thoát số lượng, để vượt

Nhận diện các giá trị tâm linh

Nếu các giá trị tâm linh sắc về trí tuệ, nhọn về lý trí, thì các giá trị phải là kết quả của một quá trình lập luận cao về tư tưởng, sâu về triết học, tức là rộng về nhân tri, và hề không dính dáng gì tới các chuyện mê tin dị đoan mà học thuật không kiểm chứng được, kinh nghiệm không thí nghiệm trọn vẹn được. Nhưng khi nghiên cứu về các giá trị tâm linh biết củng cố nhân lý, biết phục vụ nhân trí, biết thuyết phục nhân loại tinh anh hơn, giúp nhân sinh tỉnh táo hơn, dìu nhân thế và dắt nhân tình theo các tri thức mà sự sáng suốt của nhân trí giữ vững được các giá trị của nhân đạo, các giá trị tâm linh rất khác các sự thật của khoa học, các chân lý của triết học, các lẽ phải của luân lý tuyệt đối. Các giá trị tâm linh chọn đường đi nẻo về cho riêng nó, tại đây phải hiểu cách định vị (như các chỉ báo) của các giá trị tâm linh, để lần tìm ra cách định nghĩa các các giá trị này. Chiều sâu của các giá trị tâm linh là chiều cao của linh hồn, một chiều cao biết nâng nhân tri cụ thể là biết yêu theo chiều cao của hướng thiện những gia trị bị xem là tầm thường trong cuộc sống, tại đây minh triết cùng đạo đức biết nhập nội để chế tác ra các giá trị tâm linh ; làm được chuyện mà Platon đặt tên là sự bất tử của linh hồn. Chiều sâu của các giá trị tâm linh luôn bắt đầu bằng sự đánh giá tỉnh táo, sự phân tích sáng suốt, luôn bình tĩnh chọn con đường để thực hiện cái tốt, nó mang theo nguyện vọng làm nên ý chí biến cái tốt thành hiện thực và chiều cao của các giá trị tâm linh là ý chí muốn làm tốt cái tốt.

Chiều sâu của các giá trị tâm linh

Chiều sâu của các giá trị tâm linh, không phải là chuyện của lý trí tuyệt đối, càng không phải là chuyện lý trí suông, nó chính là sự cẩn trọng không những là khẳng định các lý trí tốt, mà nó phải trở thành các triết lý của cuộc sống được quyền sống còn, nên nó không cực đoan quyết định, và không bao giờ quá khích trong hành động. Các giá trị tâm linh cũng không phải là chuyện khoa học chính xác, mà là chuyện triết đúng lúc, lý đúng cảnh, luận đúng thời, lấy bối cảnh để hiểu nhân sinh, lấy hoàn cảnh để tìm đáp số, lấy tâm cảnh để tư duy, nên nó tìm cách giải quyết ít nạn nhân nhất, cách trả lời ít đổ vỡ nhất, nó tìm cái hợp lý thấu tình để có lối ra, mà không ai phải là nạn nhân cho thời cuộc. Aristote gọi tên nó là thế giới của sự thông minh làm nên sự thông thái, và lắm lúc nó không lệ thuộc vào thế giới thông suốt sự thật của khoa học. Chiều sâu của các giá trị tâm linh chỉ thật sự là giá trị khi nó là sự cẩn trọng trong sáng suốt và là khẳng định của sự can đảm, cẩn trọng ngược với liều lĩnh, can đảm trái với hèn nhát. Các giá trị không bao giờ "liều mạng" để "tử vì đạo""xem rẻ mạng người", nó cũng không hề "ba phải" để "lòn lách" mà làm "nhục kiếp người", nó cẩn trọng cho nhân sinh và nó can đảm bằng chính bản thân nó, nên nó ngược lại hoàn toàn với sự "né tránh" để tồn tại, "lẩn trốn" để "thoát thân", vì nó dụng chân lý, biết dùng sự thật để tạo lối thoát cho những ai "lầm đường lạc lối" sa lầy trong "mê lộ" đang đi tới "tử lộ" mà cứ tưởng đang đi trên "sinh lộ".

Chiều cao của các giá trị tâm linh

Chiều cao của các giá trị tâm linh mang tính tiên tri mà nhân sinh kiểm chứng được, đó là tầm vóc của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cứu cùng lúc nhà Mạc và nhà Nguyễn ra khỏi vũng lầy của vua Lê, chúa Trịnh. Chiều cao của các giá trị tâm linh khi được chứng thực bởi sự cẩn trọng và sự can đảm, chính là sự thông minh linh động biết thích ứng trong biện chứng vì biết giữ trígiữ tâm. Chiều cao của các giá trị tâm linh có trong ý nguyện muốn cái tốt có mặt trong cuộc sống để chống lại cái xấu có cha sinh mẹ đẻ là cái ác ; nhưng các giá trị tâm linh luôn mang theo sự cẩn trọng không những trong định nghĩa thế nào là tốt mà còn bắt con người phải rõ ràng từ cứu cánh tới phương tiện, luôn phải cẩn trọng hơn nữa khi chọn lựa phương tiện, khi đã có cứu cánh tốt rồi. Plotin tin rằng chiều cao của các giá trị tâm linh làm nên đạo đức của ý nguyện muốn làm tốt cuộc sống từ cứu cánh tới phương tiện, từ thượng nguồn của tư duy tới hạ nguồn của hành động. Chiều cao của các giá trị tâm linh khi lấy sự cẩn trọng làm giá trị cho đạo đức, thì nó trở nên sinh động khi phối hợp sự cẩn trọng luôn song hành trong các giá trị của luân lý về bổn phận và trách nhiệm. Các giá trị tâm linh luôn biết điều phối sự cẩn trọng như sức mạnh của tư duy biết cái nào là cái tốt cho mình và cho người khác, nó mang trọn vẹn một quá trình suy ngẫm, nó mang toàn bộ các kết quả tâm định trí định để làm nên thiền định trong tỉnh táo và sáng suốt, đó là vòng tròn khôn ngoan biết chứa cả hai, vừa cẩn trọng, vừa đạo đức.

Chiều rộng của các giá trị tâm linh

Chiều rộng của các giá trị tâm linh biết dựa vào ý muốn đi tìm tri thức để hiểu sự vận hành của nhân tri, nó luôn song hành cùng với ý nguyện của nhân sinh muốn tồn tại bằng nhân phẩm trong nhân thế, mặc dù nhân loại đang đầy dẫy các xáo trộn, các hỗn loạn của nhân tình. Weber đề nghị muốn có các giá trị này nhân tri phải thấy sự quan hệ chặt chẽ giữa đạo lý của ý chí đạo lý của trách nhiệm, khi cả hai có mặt để phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, thì chính cái trí của cái tri sẽ giúp cuộc sống thấy ra cái sinh của cái , cụ thể là quyền năng của nhân trí sản sinh được các giải đáp lối thoát mới cho nhân lý, để nhân tri nhận ra lối thoát mới cho nhân thế. Chiều rộng tâm linh Việt không những là chiều cao của nội dung lý trí, mà còn là chiều rộng của tư tưởng Việt mang văn hiến riêng của Việt tộc. Chiều rộng tâm linh Việt không những là chiều cao của trí tuệ, mà còn là chiều rộng của lịch sử Việt mang văn minh riêng của Việt tộc. Chiều rộng tâm linh Việt không những là chiều cao của nhân phẩm Việt, mà còn là chiều dài của bản sắc Việt luôn biết mở cửa để song hành cùng văn hóa Việt. Cao, sâu, rộng, dài có độ bền của đạo lý đã được thử thách, có độ vững của đạo đức đã biết vượt qua thăng trầm ; đạo lý bền biết đi trên lưng cái cực đoan để vượt thoát cái vô minh, đạo đức vững biết đi trên vai cái quá khích để vượt thắng cái vô tri.

Hiện thực tâm linh Việt : đồng cam cộng khổ

Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện lý thuyết, vì trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "thấy thương quá" tới tự lời nói thật bình thường của những người có lòng vị tha, muốn chia sẻ tức khắc nỗi khổ niềm đau với tha nhân. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện trừu tượng, vì trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người có thể nghe được câu "nghe mà thương" tới từ một câu nói ngắn gọn của những người có lòng bao dung, muốn chia sẻ tức thì sự đồng cam cộng khổ với đồng loại. Câu chuyện tâm linh không hề là câu chuyện viễn vông, vì trong quan hệ hằng ngày, mọi người có thể thấu được câu "càng nhìn càng thương" tới từ một phản xạ nhanh nhẹn trong sáng suốt của những người có lòng rộng lượng, muốn chia sẻ tức thời chuyện đồng hội đồng thuyền với đồng bào mình. Đạo Phật biết mang hiện thực này đến để chia sẻ với Việt tôc về vô lượng tâm qua các Tâm kinh : "nhìn đời bằng mắt thương" để làm sáng lên lòng vị tha, lòng bao dung, lòng rộng lượng của Việt tộc.

Tuệ giác tâm linh Việt

Câu chuyện tâm linh không quan hệ gì tới câu từ tâm linh bị lạm dụng trong ngôn ngữ hiện nay bị mê hoặc bởi mê tín về cõi âm nào đó mà nhiều thành phần xã hội hiện nay đang bị lôi kéo, để bọn đầu cơ mê tín trục lợi ngay trên mê lộ của họ. Tuệ giác của tâm linh kết hợp thuần thạo sự thật, chân lý, lẽ phải để tạo ra cái đẹp của đạo đức, cái hay của đạo lý, cái tốt của luân lý, từ đó tuệ giác tâm linh luôn ngược hướng, trái chiều với mê tín, vì nó mang sự tỉnh táo của lý trí, sự sáng suốt của trí tuệ, có liên minh cứng cáp là minh triết trong lý luận, có minh luận trong hành động. Tuệ giác của tâm linh thấy đường đi nẻo về của nhân tính, nhận ra nhân vị nhờ nhân bản, hiểu rõ nhân tri nhờ nhân từ, thấu sâu nhân đạo nhờ nhân nghĩa. Mê tín bị mê hoặc trong mê lộ còn đang mò mẫm dưới chân đồi, thì tuệ giác của tâm linh đã tới đỉnh núi với nhân cách thư thả của nhân tri thư thái để nhận diện mọi chân trời mà không bị một trở lực nào vùi, lấp, che, choáng được.

Nội công tâm linh Việt

Nơi đây, nội công tâm linh mang tính thiêng liêng với các giá trị đạo đức tối cao bắt con người lầm đường lạc lối phải suy nghĩ lại, phải cân, đo, đong, đếm lại từ hành vi tới hành động của mình để tìm lại con đường hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý. Nội công tâm linh không phải là chuyện thể lực thuần túy, mà là chuyện của trí lực biết bao dung, là chuyện của tâm lực biết dung thứ : phải dung kẻ dưới mới là lượng trên (Nguyễn Du).

Bản lĩnh tâm linh Việt

Có tầm vóc, có nội công sẽ có bản lĩnh, nhưng các giá trị tâm linh không cần bản lĩnh của xảo thuật để thành công, cũng không cần bản lĩnh của mưu lược để thoát hiểm, nên không cần luôn bản lĩnh của mưu trí để tồn tại trong tính toán. Các giá trị tâm linh được sống ngay trong ánh sáng của chuyện con người yêu cái đẹp, thích cái hay, quý cái tốt, trọng cái lành, nó vượt lên nên vượt xa chuyện tính toán để lời lỗ, để hơn thua, để đọ tài, để thi sức. Bản lĩnh của các giá trị tâm linh tự tin nên tự tại, tự trọng nên tự do trước mọi mưu kế, mưu đồ, nó đi trên mọi cái đầu của vị kỷ, nó đi xa hơn mọi con tính ích kỷ, vì nó đại trí nên nó thoải mái trên đại lộ của mọi nhân lộ.

Tầm vóc tâm linh Việt

Trong khu vực của tam giáo đồng nguyên, khi đánh giá về các loại chiến thắng trên mọi mặt trận từ chính trị tới quân sự, từ văn hóa tới giáo dục, từ luân lý tới đạo đức… người xưa xếp loại từ thấp lên cao : thắng nhỏ là thắng mà phải dùng : lực ; cao hơn là chiến thắng khi biết dụng : trí, cao hơn nữa là dùng : đức, và cao hơn cả là thắng là nhờ : đạo ! Đây là toàn thắng. Đạo của nhân đạo tới từ chính nghĩa có lý luận làm nên chính đạo, mang giá trị của nhân đức, có nhân trí của nhân tính, có nhân lý của nhân vị, có nhân văn của nhân bản, tầm vóc của tâm linh chắc chắn là ở đỉnh cao giữa đức đạo. Thắng được đối phương với sự khâm phục của đối phương, với tầm vóc giúp đối phương cùng thắng với ta, từ đó đối phương không còn là đối thủ, nên không bao giờ trở thành tử thù với ta. Mà ngược lại, chính đối phương tìm tới ta, tiếp nhân sinh quan vị tha của ta, nhận thế giới quan rộng lượng, đón vũ trụ quan khoan dung của ta ; đây mới là toàn thắng qua đạo ! Thắng vinh quang, thắng bền vững vì biết "cải tử hoàn đồng" cái xấu, tồi, tục, dở giúp nó hóa thân vào cái hay, đẹp, tốt, lành. Hãy nhận ra tầm vóc của Nguyễn Trãi : lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo, để thấy tầm vóc tâm linh Việt tộc.

Cấu trúc tâm linh Việt

Nếu đi từ trên xuống dưới, bắt đầu bằng đạo, đi tiếp tới đức, qua nẻo của trí, cùng lúc tránh xa lực (bạo lực), mẹo (mưu kế) vì chúng quá thấp so với các yêu cầu của các giá trị tâm linh, nhưng tác giả sẽ đi trên hai con đường luôn cần sự có mặt của tâm linh để vấn nạn các khổ đau mà Việt tộc đã cam nhận trong lịch sử cận và hiện đại của mình. Cấu trúc lý luận của tiểu luận sẽ bắt đầu bằng tâm đạo để đi tìm chiều cao các giá trị tâm linh thừa kế của tổ tiên, nhận diện được sự đặc sắc của các kinh nghiệm tâm linh của Việt tộc, nhất là qua các kinh nghiệm của Thiền tông, từ đời Trần tới cõi tâm linh mà thiền sự Thích Nhất Hạnh đã trao truyền cho thế giới. Rồi đi tới tâm đức đã có từ lâu trong sáng tác thi ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và tiếp tục trên con đường tâm trí qua nhiều tác giả, nơi mà tâm linh chính là trí lực của nhân lý. Theo chiều sâu lịch sử của Việt tộc, tiểu luận dừng lại trước các oan khiên của đất nước, để hiểu tâm cảnh qua hoàn cảnh của chiến tranh, tâm phận qua hậu quả của nội chiến huynh đệ tương tàn thế kỷ XX vừa qua, cuối cùng là đi sâu vào tâm nạn tới từ bạo quyền độc tài lập nên nhà tù cải tạo sau 1975, giờ đã tới tà quyền là "hèn với giặc, ác với dân" để cảm nhận bi nạn của Việt tộc. Tâm đạo, tâm đức, tâm trí trong các giá trị tâm linh là để giúp người vì quý người.

Tâm cảnh, tâm phận, tâm nạn trong các giá trị tâm linh để cứu người vì thương người.

Ngữ văn "trời" biết thao túng

Chuẩn định của Nho giáo : nhân, lễ, nghĩa, trí, tín cho phép quân tử "thay trời hành đạo", tại sao lại đặt chính nghĩa của quân tử vào "mệnh trời" ? Tại sao lại ghép lý tưởng của quân tử vào "ý trời" ? Trong khi đó nếu trời là một phạm trù mơ hồ của nhân tri, thì chắc gì thiên lý cao, sâu, xa, rộng hơn nhân lý ? Nếu nhân lý có rễ là nhân từ, có cội là nhân tâm, có gốc là nhân bản, có nguồn là nhân nghĩa, làm nên nhân tri, dựng lên nhân trí, thì tại sao người lại thua trời, rồi để trời quyết định mệnh, phần, số, phận của người. Chính vì không định vị được "mệnh trời", "ý trời" nói chung là thiên lý (lý của trời) nên ngữ pháp "thay trời hành đạo" luôn bị cái mông lung, cái mơ hồ, cái lang bạc của ngữ văn "trời" thao túng. Vì nó càng mông lung, mơ hồ, lang bạc nên nó dễ bị khai thác trong bất cẩn, lợi dụng qua bất minh, vì hiệp sĩ có thể "thay trời hành đạo", mà giới giang hồ ít đạo lý, thiếu luân lý, vắng đạo đức cũng có thể "thay trời hành đạo", để trở thành thảo khấu trộm, cắp, cướp, giựt, vì dám "mệnh danh là mệnh trời", cho nên nhóm Lương Sơn Bạc bên Tàu được gọi là anh hùng. Nhưng dứt khoát là các giá trị tâm linh không thể ai cũng lấy ra dùng, lấy ra khai thác theo ý riêng, tức làm ra luật rừng cho mình được.

Minh bạch trong "nhất tâm hành thiện"

Việt tộc hiện nay đang sống trong bi kịch dân oan. Bọn người khi xưa vỗ ngực là cách mạng, hô to "trả lại ruộng cho dân cày", chính chúng giờ đây đã biển lận ngay trong hiến pháp : "đất là sở hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý", dưới sự "lãnh đạo của Đảng", nên không có một công dân nào được có sở hữu riêng về bất động sản. Từ đó, bạo quyền độc đảng tha hồ chỉ giáo bọn đàn em là tà quyền tham quan cướp đất của dân để bán lại ma quyền buôn đất, bọn đầu cơ xây cất, biến công dân thành dân oan, màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ, bụi đời ngay trên mảnh đất của mình. "Thay trời hành đạo", không nói rõ chính nghĩa bền vững trong một lý tưởng bất biến, nên nó không mang một giá trị tâm linh nào cho kẻ tuyên bố về nó ; ngược lại đạo Phật sắc nhọn vì chính xác về các giá trị tâm linh, nên ngữ pháp "nhất tâm hành thiện" là một ngữ pháp rõ ràng, một ngữ văn minh bạch, nó chống lại cái mông lung, cái mơ hồ, cái lang bạc của "thay trời", vì nó biết khẳng định từ, bi, hỷ, xã ngay trong cái vô thường của vạn vật, nó xác thực nội công, bản lĩnh, tầm vóc lấy tình thương xóa bỏ mọi tham, sân, si. Đây là giá trị tâm linh đích thực !

Cái tôi thành cái ta để ra cái mình

Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây, một câu vừa ngạn ngữ, vừa dân ca của Việt tộc, dịu dàng và dễ thương như vậy nhưng dính dáng gì tới câu chuyện tâm linh ? Có thì can hệ gì tới các giá trị tâm linh trong văn hóa của Việt tộc ? Chắc là có chứ vì chỉ cần hai chữ đầu : nhờ duyên đã tạo ra cả một vũ trụ mới, được mở ra khi mọi điều kiện để tụ duyên đã có, để chuyện khởi duyên được bắt đầu, không cảm nhận hết chữ duyên, thì sẽ không đứng lâu trên không gian văn hóa Việt được, không sống dài trong thời gian văn minh Việt được, nhất là không ra vào thảnh thơi được trong cõi tâm linh văn hiến Việt được. Có duyên thì có mọi chuyện, từ tình yêu tới hạnh phúc, còn duyên thì không có gì cả, thậm chí còn bị coi là vô phúc nữa (vô phúc vì thiếu tơ duyên, vì vắng trần duyên). Riêng từ : nhờ, vừa là chỗ dựa cho hội duyên, vừa là sức bật cho xướng duyên, vì nhờ đây là kết quả của hợp duyên nơi mà mọi điều kiện thuận lợi đã có rồi, nơi mà tam cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, tâm cảnh) đã nhập một. Vì bối cảnh của gặp gỡ làm nên hoàn cảnh tạo ra thân thiết đang trở thành thân mật, để chế tác ra tâm cảnh của hai kẻ sẽ chung đời chia kiếp với nhau, vì mỗi bên đều sẵn sàng trao thân gởi phận cho nhau.

Biết dạy nhau đếm 1,2,3 bằng duyên, nợ, tình

Muốn theo chân chữ duyên để hiểu chữ đời và chữ người thì phải học chữ ngộ ! Mới gặp nhau là sơ ngộ, nhờ thuận duyên nên sẽ được tái ngộ, rồi dựa vào khởi duyên thì sẽ hưởng tao ngộ, và nếu biết dựa lên hợp duyên thì sẽ có hạnh ngộ, một hạnh phúc có trong tầm tay, bền bỉ với ta, nếu ta tin vào chữ duyên này. Vì theo sau chữ duyên là sáng tạo của số học tâm linh Việt : một duyên, hai nợ, ba tình, của một dân tộc biết dạy nhau đếm 1,2,3 bằng duyên, nợ, tình, đây không chỉ là số học, không chỉ dạy đếm, mà còn là một toán học tâm linh rất tế nhị và phức tạp, vì phải để cả đời ra mà học, mà hiểu, mà thấu. Chưa hết, câu chuyện nhờ duyên không những là câu chuyện nội chất của tâm linh làm nên giá trị tâm linh cho tất cả người Việt nào tin vào nó, mà còn là động cơ của một tình cảm luân lý : biến nhờ duyên thành quê mình. Nơi mà niềm tin vào duyên biến sự thật của duyên thành : đôi ta, lứa đôi… để khi hai kẻ yêu nhau lấy nhau, thành vợ thành chồng, thì họ gọi nhau bằng tuyệt từ linh diệu của Việt ngữ : mình ơi ! (người thương của mình cũng chính là thân thể của mình). Nếu không thấy được tầm vóc tâm linh của nhờ duyên, nếu không cảm nhận được bản lĩnh tâm linh của quê mình, thì là một thiệt thòi lớn lắm thay !

Cần huyền thoại để sống khác rồi sống cao

Việt tộc kể cho nhau nghe qua bao thế kỷ, không biết bao nhiêu là thế hệ chuyện thuở Việt tộc dựng nước, Lạc Long Quân và Âu Cơ có 100 trứng, thành 100 đứa con biết gọi nhau là đồng bào, cùng mẹ cha nên, cùng một bào thai mẹ. Rồi, Việt tộc kể cho nhau nghe bao chuyện khác, nào là Sơn Tinh, Thuỷ Tinh của một quê hương có núi trên đất, có nước ngoài khơi, nên Việt tộc gọi quê hương mình là Đất Nước… Huyền thoại thì không thuộc về phạm trù của khoa học chính xác, nhưng khoa học xã hội và nhân văn thì có ý kiến sắc sảo về ảnh hưởng tâm linh của huyền thoại, mặc dầu không xác chứng được tính toán học của huyền thoại. Đây là một hệ vấn đề thật hay trong khoa học xã hội và nhân văn, vì khi nghiên cứu về huyền thoại đã được trao truyền qua bao thế kỷ, qua bao thế hệ, thì huyền thoại đã trở thành huyền sử, như linh hồn của Việt tộc, như giá trị tâm linh của Việt sử. Các huyền sử đi lại thong dong trong thư thái của không gian và thời gian của lịch sử, bằng chứng là các huyền sử có mặt trong giáo khoa, giáo trình, giáo án của trường học, làm nên cột xương sống tâm linh cho giáo dục.

Sử nâng cao nhân phẩm

Những ai buộc tội huyền thoại của một dân tộc toàn là chuyện mê tín, dị đoan, thì chính họ sẽ lạc vào cõi vô minh trong vô thức, nên vô tri trong vô trí, chóng chày sẽ bị rơi vào hố vô giác rồi trở thành vô cảm trước các giá trị tâm linh, nơi có sự phối hợp diệu kỳ giữa huyền thoạilịch sử. Sự giao thoa diệu kỳ giữa huyền thoạilịch sử trong cấu trúc tạo chuyện làm nên chất huyền hoặc của huyền sử, mà nội dung là nâng cao nhân phẩm bằng chiều sâu của các giá trị tâm linh, nơi mà thiện sẽ thắng ác, nơi mà sự sống sẽ là sức thông minh của ánh sáng sủa đi tất cả bóng tối của cường quyền. Khi mà mọi bạo quyền tới từ tà quyền đều không có chỗ đứng trong nhân phẩm, con người sẽ không cho nó thổi độc chất vào nhân tri, không cho nó biến thành ma quyền với âm binh của nó để hoành hành nhân cách, hãm hại nhân thế. Trong phương trình huyền thoại-lịch sử, thì Việt tộc có Thạch Sanh một thân một mình chém chằng, một công hai việc, không những để cứu công chúa, biểu tượng của cái đẹp ; mà còn cứu dân tức là cứu người, cứu đồng loại của mình.

Các chuyện hay, đẹp, tốt, lành có mặt trong nhân đạo

Khi thế hệ đi trước có trách nhiệm phải trao truyền ít nhất ba giá trị giáo dục cốt lõi cho các thế hệ đi sau. Thứ nhất, là sự trao truyền sự thật của lịch sử, mà sự thật làm xuất hiện chân lý với sử liệu, sử chứng, không ai chối cãi được, song hành cùng các tang chứng, làm nên chứng tích luôn có mặt trong kỷ niệm, trong ký ức, tạo ra chất sống cho sử học. Chính sự thật làm nên chân lý giúp nhân sinh thấy ra lẽ phải. Thứ nhì, khi thấy ra lẽ phải thì các giá trị của đạo đức cùng lúc trên hai nhân lộ, con đường đầu tiên giúp nhân sinh nhận ra đạo lý của các chuyện hay, đẹp, tốt, lành có mặt trong nhân đạo. Con đường tiếp theo là khi có đạo lý rồi thì nhân sinh sẽ tìm ra luân lý khám phá ra bổn phận với xã hội, trách nhiệm với đồng loại. Từ đây, ranh giới giữa đạo lýluân lý sẽ bị xóa dần đi, để tạo nên sự hòa hợp mới, làm nên các giá trị tâm linh.Thứ ba, khi các giá trị tâm linh xuất hiện giữa cuộc sống, làm đẹp và làm cao cuộc đời, thì chỉ có nhừng kẻ vô minh vì vô tri, vô giác vì vô cảm mới buộc tội huyền thoại là mê tín, là mê muội. Ngược lại, chính huyền thoại khi xuất hiện như huyền sử nó giúp con người biết sống đẹp trước bạo quyền, biết sống hay trước tà quyền, biết sống tốt trước ma quyền, biết sống lành trước bọn âm binh đang đe dọa sự sống.

Sự vận hành toàn bộ của các giá trị tâm linh đi từ  cái tôi tới tha nhân

Hãy lập nên một phương trình mới cho nhân tâm biết bảo vệ nhân phẩm : (sự thật+chân lý = lẽ phải) + (đạo lý+luân lý = đạo đức) = các giá trị tâm linh. Và khi phương trình này hình thành thì ta được trao nhận một định nghĩa mới về : tự do, một định nghĩa đẹp vì đây là cùng có tự do với tha nhân, với đồng bào, với đồng loại, để cùng hưởng chung với mọi người, mọi loài. Ngược hẳn với loại định nghĩa thấp hèn về tự do qua cái ích kỷ chỉ cho một người, một phái, một đảng có trong não trạng của bạo quyền lãnh đạo, đã thành tà quyền hãm hại dân tộc, rồi sẽ thành ma quyền buôn dân, bán nước. Sự vận hành toàn bộ của các giá trị tâm linh đi từ cái tôi tới tha nhân, tâm linh là trao không để cùng hưởng chung, mà không hề đòi trả ân, trả oán, từ đây chúng ta có được một định nghĩa về các giá trị tâm linh, qua các chỉ báo rành mạch trong sinh hoạt xã hội, trong đời sống xã hội, trong quan hệ xã hội, vì tâm linh không thể tự định nghĩa, mà phải dựa trên sự phối hợp giữa : luân lý, đạo lý, đạo đức luôn đi đôi kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức ; công bằng, công lý có từ công tâm, công đức luôn chung đôi với lương tâm, lương thiện, lương tri.

Lòng biết trao thương để nâng mọi người, mọi loài theo chiều cao của nhân phẩm

Chính sự phối hợp này làm nên trí tuệ của các giá trị tâm linh, chế tác ra tuệ giác giúp mỗi chúng ta biến các giá trị tâm linh thành động thái, động tác, làm nên hành động tâm linh ngay giữa cõi nhân sinh. Hành động tâm linh vì yêu đờivì thương người, thương một lần trọn vẹn cho trọn kiếp, trọn vẹn vì đầy đủ, không giữ gì cả cho riêng cái tôi, để không mất gì cả cho cái chung làm nên cái ta. Các giá trị tâm linh có tự tin, nên không cần mê tín, có khi cũng không cần luôn tôn giáo, không cần cả khoa học, chúng chỉ cần lòng biết trao thương để nâng mọi người, mọi loài lên cao, theo chiều cao của nhân phẩm. Có hai phân tích về các giá trị tâm linh, giúp chúng ta tránh được hai loại lầm đường lạc lối. Chúng ta thận trọng trên các từ ngữ sau đây : cái thiêng trong mê tín làm nên cái tế là lấy sinh mạng người làm vật tế thần cho thần linh, mà mình không bao giờ gặp mặt, không được đối thoại trên chủ đề nhân phẩm, thì đây là cái bạo làm nên cái chết, nó không hề có rễ của đạo đức, có gốc của đạo lý, có cội của luân lý, có nguồn của lẽ phải. Ngược lại, tâm linh thì luôn muốn đưa con người theo chiều cao để biến cái ngườichất thánh. Cho nên, cái thiêng mà dựa trên cái tế thì nó đưa còn người vào bạo lộ ngụp lặn trong mê lộ, hoàn toàn trái lại chất thánh làm sáng lên nhân lộ, đang trở thành nhân đạo cho nhân phẩm.

Bi nạn cộng sản : sự thất bại của vật chất, sự thảm bại của duy vật

Khi chọn duy vật biện chứng để xây dựng duy vật sử quan, thì ông tổ K. Marx của chủ thuyết cộng sản không chỉ đưa ý muốn dùng biện chứng qua duy vật để giải mã sự vận hành của xã hội bằng kinh tế, mà còn dùng cơ sở vật chất trong kinh tế xã hội này để chế tác ra luận thuyết chỉ phân tích lịch sử bằng hạ tầng kiến trúc vật chất. Từ tổ tới các người tự xứng danh là cách mạng để xây dựng chủ nghĩa cộng sản, từ tây sang đông đã dùng chủ thuyết duy vật biện chứng để diệt các sinh hoạt tâm linh, mà họ đặt tên gọi là duy linh, duy tâm, cùng lúc tạo ra một hệ thống tuyền truyền một chiều xem các sinh hoạt của duy linh, duy tâm là khu vực của mê tín, dị đoan, hoang tưởng, nơi mà họ không ngại xài lại câu của ông tổ của họ : tôn giáo là thuốc phiện, ru ngủ dân tộc. Chính nhận định sai trái này của những người cộng sản đã gây ra những tổn thất, mất mát các giá trị tâm linh bị đốn quỵ ngay trong các chế độ cộng sản ; cụ thể là khi làm công dân trong những xã hội này thì họ không được giáo dục nên không được sống bằng các giá trị cao đẹp của tâm linh. Đây không phải là một thắng lợi của những người cộng sản mà là một thất bại tuyệt đối của họ !

Những nhân lộ mới làm phong phú nhân đạo sẵn có

Khi sự thảm bại đã rút đi phần hồn tâm linh để thay vào đó phần xác bản năng. Khi chiều cao của nhân phẩm không phải ở vật chất, nên chiều sâu của nhân tâm không nằm trong duy vật. Khi chối bỏ và hủy diệt đời sống tâm linh trong nhân sinh, thì những người cộng sản đã tự "què quặt hóa" chính họ, tự biến mình thành người ngọng, què, chột, điếc trước các giá trị tâm linh, những giá trị biết nêu lên những điều hay, đẹp, tốt, lành của đạo lý, biết gợi ra những điều cao, sâu, xa, rộng của đạo đức, được dùng để thương người hơn, để cứu người trong cơn hoạn nạn. Mỗi lần có chiến tranh, có thế chiến, là ta thấy cách ứng dụng các khám phá khoa học kỹ thuật mới đều có thể gây ra các thảm kịch mới cho nhân loại, từ vũ khí hạt nhân tới vũ khí hóa học… Nhưng cùng lúc chúng ta phải nhìn nhận tính hữu dụng của các khám phá khoa học kỹ thuật là không thể chối cãi được, nhất là qua quá trình xây dựng các tiện nghi cho nhân sinh, từ dâng nhân tri tới nâng nhân trí. Vì vậy, chính kiến của giá trị tâm linh phải có mặt để nhận định, phân tích, giải thích các làn sóng tới từ các khám phá khoa học kỹ thuật, vừa tạo ra các thảm họa cho nhân loại qua chiến tranh, cùng lúc lại trao cho ta không những tiện nghi mới trực tiếp nâng chất lượng cho đời sống hằng ngày ; cùng lúc trao cho chúng ta những nhân lộ mới làm phong phú nhân đạo sẵn có của chúng ta.

Nội lực của ký ức bảo vệ sự trao truyền kiến thức

Chính kiến của giá trị tâm linh trong lịch sử của nhân loại luôn dựa trên ba cột trụ chính của nhân tri : sự tính toán chỉnh lý làm nên nhân lý, nội lực của ký ức bảo vệ sự trao truyền kiến thức, tư duy lý luận làm nên sự sáng tạo. Toàn cầu hóa hiện nay với khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi hằng ngày ba cột trụ này, tại đây bản thân các giá trị tâm linh phải có lý luận mới về sự tính toán chỉnh lý làm nên nhân lý đang được-hoặc-bị các khám phá khoa học vừa đột phá, vừa tràn lan làm lung lay tận gốc rễ. Kế đó là nội lực của ký ức bảo vệ sự trao truyền kiến thức, nơi mà đợt sóng toàn cầu hóa đã làm lên trận đại hồng thủy về quản lý tư liệu, cai quản chứng từ, nơi mà khả năng lưu giữ của tin học truyền thông đã vượt lên khả năng của một cá nhân, của một quốc gia. Tại đây, internet tổ chức đời sống xã hội hằng ngày của chúng ta, Facebook làm thay đổi sinh hoạt thường nhật của mỗi chúng ta, Youtube đã biến hóa phương cách tiếp nhận truyền thông của chúng ta. Sau hết là tư duy lý luận làm nên sự sáng tạo, tại đây sức tưởng tượng của mỗi cá nhân phải quản lý vô lường các lượng tin tức tới từ công nghệ truyền thông, cùng lúc sự sáng tạo luôn được-hay-bị so sánh trong một môi trường toàn cầu hóa không biên giới, đã tạo ra việc xóa bỏ lãnh thổ giữa các quốc gia hay giữa các châu lục.

Trong cơn lốc xoáy !

Chính kiến của giá trị tâm linh trước một xã hội toàn cầu luôn bị biến động bởi các khám phá khoa học kỹ thuật thường trực, tại đây các lý luận về tâm linh có thể trở lại lịch sử của nhân loại để nhận định mạch lạc các khám phá của khoa học kỹ thuật, chính chúng cũng tạo ra các thảm họa mới cho nhân sinh, cùng lúc cũng chính chúng đã, đang, sẽ tạo ra các lý lẽ mới để phục vụ nhân lý. Chúng có làm xáo trộn đời sống xã hội, từ chuyện tạo ra nạn thất nghiệp tới chuyện tạo ra các thảm họa tàn phá mới khi ứng dụng các khám phá khoa học kỹ thuật để làm vũ khí rồi đưa ngay vào các cuộc chiến ; cùng lúc cũng chính chúng đã, đang, sẽ dâng nhân trí mới, tạo nhân tri mới, để chúng ta thăng hoa nhân phẩm. Đây là câu chuyện sâu xa về phương pháp tổ chức lại các giá trị tâm linh qua các lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận trước cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang song hành cùng cuộc cách mạng truyền thông ; bằng vận tốc của vũ bão của chúng mà chúng ta phải ý thức là đang ở trong cơn lốc xoáy ! Hãy trở lại lịch sử của nhân loại không phải chỉ vì muốn giữ ký ức, mà lần này là để phận định bằng nội lực của nhân lý, bằng bản lĩnh của nhân tri, bằng tầm vóc của nhân trí chuyện mất hay còn, lợi hay hại, thắng hay thua trước các biến động được tạo ra bởi các khám phám khoa học kỹ thuật.

Các biến động tới tận gốc rễ

Công nghệ truyền thông không những đã làm thay đổi sâu xa sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, mà còn tạo ra các biến động tới tận gốc rễ các sinh hoạt tập thể, các tri thức cộng đồng, sức sáng tạo của cá nhân, trong một loại xã hội đôi vừa thực, vừa ảo ; cùng lúc vừa phẳng, vừa rộng. Hãy nhớ lại khi con người tìm ra chữ viết, thì con người từ lo sợ đánh mất ký ức tập thể qua truyền khẩu, nhưng cùng lúc con người lại có được sử học đã quản lý không những ký ức mà cả về sự vận hành nhân tri của cả một dân tộc, của cả một văn hóa, của cả một nhân loại… Hãy nhớ lại khi con người có toán học lại cùng lúc có thêm các khoa học lý, hóa, sinh… đã giúp con người đi vào kỹ nghệ, nhưng tại đây mỗi lần công nghệ phát triển là mỗi lần thủ công lãnh nhận những thiệt hại.

Quá trình xây dựng xã hội dân sự

Chúng ta phải nhận thấy vai trò của khoa học kỹ thuật trong sự phát triển của nhân loại, từ sản suất tới tiêu thụ, tại đây con người đã được hưởng các tiện nghi mới, từ nhân sinh tới nhân trí. Chính hiện nay nơi mà thực tế của toàn cầu hóa truyền thông qua internet tới các ứng dụng của Google, Facebook, Youtube… đã làm xáo trộn không biết bao nhiêu trật tự bình thường tưởng cứ sẽ được trường tồn, đột nhiên bị lật, bị thay, bị quỵ, bị đổ, nhưng cùng lúc chính sự phát triển của các mạng xã hội qua internet đã đóng một vai trò rất thông minh vì rất đột phá trong quá trình xây dựng xã hội dân sự, để có chức năng tích cực trong việc bảo vệ nhân quyền và tìm kiếm dân chủ tại Việt Nam, nơi mà độc đảng đã tự cho phép nó độc quyền trong bạo quyền bất nhân (hèn với giặc, ác với dân), độc trị trong tà quyền thất đức (phản dân, hại nước). Hãy sữ dụng các khám phá của khoa học kỹ thuật để phục vụ cho nhân phẩm để nâng nhân quyền, hãy tận dụng các phương tiện truyền thông toàn cầu hóa để bảo vệ dân chủ để nâng dân quyền mà lật đổ độc đảng bạo quyền, độc trị tà quyền. Hãy nhận thấy trong các biến động từ khám phá khoa học kỹ thuật, thật sự có làm nên xáo trộn, trước mắt có làm nên các thiệt hại, tại đây chúng ta phải tìm ra các lý luận mới để làm mới các giá trị tâm linh, giúp ta nhìn xa trông rộng : kẻ thua hôm nay sẽ là kẻ thắng ngày mai !

Chiều cao nhân tâm

Các giá trị tâm linh đã vượt lên sự ngạc nhiên cần thiết của triết học trước các câu hỏi về cuộc đời để đi tìm các câu trả lời cho triết luận ; các giá trị tâm linh khi đã có các câu trả lời triết lý rồi, nhưng vẫn tiếp đi theo lòng tin của nhân tâm về hướng thiện để nâng cao tuệ giác cho nhân tính. Các giá trị tâm linh dùng nội lực tự tư duy của mình để nhân lý nhận ra nhân thế như một sự sống huyền diệu mà nhân tri phải bảo vệ, mà phương pháp bảo vệ nhân loại vừa phải sử dụng không những sự chính sát của nhân lý, cùng lúc phải vận dụng cả nhân tâm để chở che cho nhân vănnhân bản. Các giá trị tâm linh mang lực tổng hợp của nhân lýnhân tâm, nơi mà nhân lý đưa đường chỉ lối cho chúng ta, còn nhân tâm luôn tạo niềm tin cho nhân tính để vượt qua mọi thử thách của nhân thế, mọi thăng trầm của nhân tình. Các giá trị tâm linh luôn giữ nhân lý của chúng ta luôn ở dạng thức, từ kiến thức tới tri thức, từ ý thức tới nhận thức, để hiểu được tâm cảnh thức trong nhân tri, để khi nhân trí phải ngủ trở lại thì tự thấy là nhân loại sẽ bớt vô minh đi, bớt vô tri đi, bớt vô giác đi, bớt vô cảm đi. Các giá trị tâm linh giúp mỗi cá nhân tự biết quên mình để nhận ra nhân loại, biết giữ trí tuệ mở rộng để có tuệ giác rộng mở, giúp nhân tri nâng cao nhân lý, giúp nhân trí đưa nhân vị đi theo chiều cao, tại đây nhân bảnnhân văn không bao giờ tách rời nhân tâmnhân đạo.

Tình yêu muôn loài song đôi với tình thương đồng loại

Các giá trị tâm linh mở ra nhân lộ có hai nhân phẩm cùng song hành, nơi mà tình yêu muôn loài song đôi với tình thương đồng loại ; các giá trị tâm linh tạo các điều kiện tốt lành nhất của nhân đức để giúp nhân loại khi đi trên nhân lộ này sẽ gặp nhân từ, từ đó nhận ra giá trị bền chặt của nhân nghĩa. Các giá trị tâm linh luôn mang theo trí lực đi tìm con đường huyền diệu, có khi mượn huyền thoại đẹp để tạo niềm tin về sự sống, từ Sơn Tinh thắng Thủy Tinh tới Thạch Sanh thắng chằn, ở đây huyền thoại không còn là một sản phẩm của hoang tưởng tới từ mộng tưởng hoang đường, mà nó là niềm tin vào cái thiện, chính cái thiện làm nên cái mỹ, để nhân sinh giữ vững niềm tin, mà đi tiếp trên các nhân lộ mới của nhân sinh. Các giá trị tâm linh có thể chỉ là tiếng nói của tình thương giữa sa mạc không người, hay giữa xã hội đã mất nhân tính đang vô cảm trước nhân tâm, đang mất nhân tính giữa nhân thế, nhưng tiếng nói tình thương này dù đang ở giữa sa mạc, hay đang lạc lỏng giữa nhân tình đã mất nhân bản, thì kết quả tối thiểu vẫn rất tích cực, vì khi kẻ nói và nghe được lời hay ý đẹp của tiếng nói tình thương này thì đã tự biết cứu rỗi được mình rồi.

Nơi hội tụ của nhân tâm, nhân lý, nhân tri

Các giá trị tâm linh có khả năng nắm thời khắc trước mặt, ngay trong hiện tại, để vận dụng nhân lý, nhân tri, nhân trí của chính mình để suy nghĩ lại, suy tư lại, trầm tư lại, để được trở về thượng nguồn của tổ tiên, của tiền nhân, để hiểu tại sao trong thử thách của nhân sinh cũng như trong thăng trầm của nhân thế, người xưa luôn giữ được không những nhân tính, nhân tâm mà cả nhân từ, nhân nghĩa để có nhân đạo mà đi tiếp trên nhân lộ. Các giá trị tâm linh giúp ta thấy rõ cõi tâm linh không những là nơi hội tụ của nhân tâm, nhân lý nhân tri, và trong cõi tâm linh thì tam nhân này luôn được nâng niu bảo vệ để tạo nên nhân lộ đưa nhân sinh đi theo chiều cao, nơi mà nhân văn nhân bản sẽ thăng hoa cho nhân vị. Các giá trị tâm linh lấy nhân lý làm nền cho nhân sinh nhưng luôn giữ nhân tính để làm gốc cho nhân loại, để nhân tâm trở thành rễ sâu của nhân tình, từ đó nhân vị cứ theo hướng nhân thiện mà đi lên theo chiều cao. Các giá trị tâm linh tạo nên nhân lộ, tạo đường đi lên cho nhân tâm, tại đây nhân lý không phải là giá trị độc nhất cho nhân sinh, vì khi nhân lộ có nền vững của nhân tâm, thì nhân lộ đã trở thành nhân đạo để dẫn dắt nhân thế chọn hướng có nhân tri hay, đẹp, tốt, lành để để bồi đắp nhân tính.

Các giá trị tâm linh luôn là lực của sự thông minh

Các giá trị tâm linh không hề là một bộ óc được đặt trên một đống sách vở, mà là trí tuệ của nhân tri đi để hiểu nhân sinh, là tuệ giác soi rọi nhân thế để hiểu nhân loại, nên các giá trị tâm linh không hề trừu tượng vì không phải là lý thuyết suông. Vì chúng đã được trải nghiệm qua nhân thế bằng chính kinh nghiệm nhân tính của nó, vì chúng đã vượt thoát thăng trầm của nhân tình bằng chính bản lĩnh vượt thắng vô tri, vô minh, vô giác, vô cảm khi con người mất đi nhân đức, đang sa lầy trong bất nhân, thất đức. Các giá trị tâm linh luôn là lực của sự thông minh biết tháo gỡ cái khung chật hẹp bị đóng chỉ bằng cái lý của khoa học, vô tình hoặc cố ý ép uổng cái tâm đa dạng, đa phương, đa chiều. Lấy cái tâm để chế tác nhân tâm, để giúp cái lý tự đi tìm cái sống, nơi mà sự sống biết dựa vào cái tin, để tạo niềm tin như ánh sáng đưa con người ra khỏi đường hầm tối tăm mỗi lần con người lầm đường lạc lối. Thấu hiểu những nỗi buồn sâu lắng nhất nhưng ngày ngày hiển diện trong nhân tri ta, tháng năm làm thổn thức nhân tâm ta. Nơi đây ta đã làm cho tha nhân mất niềm tin vào ta ; nơi mà ta đã đánh mất niềm tin ngay trên nhân lộ của mình. Nỗi buồn trở thành nỗi đau thậm tệ khi ta đã đánh mất tiền đồ của tổ tiên, đánh mất lòng tin của dân tộc, đánh mất tương lai của hậu sinh, chỉ vì sự bất cẩn của ta trước bọn buôn dân, bán nước.

Các tù nhân lương tâm là ai ?

Tù nhân lương tâm, mang hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) đi tù, vào tù vì lương tâm của mình, như vậy bạo quyền của độc đảng toàn trị, tà quyền của cơ chế độc trị, ma quyền của công an trị như đang bỏ tù cả dân tộc, cả đồng bào khi chúng đẩy các tù nhân lương tâm vào vòng lao lý. Tù nhân lương tâm là tuyến đầu trong cuộc đấu tranh cho nhân quyn nhân phm. Tù nhân lương tâm là những đứa con tin yêu của Việt tộc bằng lương tri của mình : "Sng lâu mi biết lòng người có nhân !". Tù nhân lương tâm nhắc cho dân tộc, cho đồng bào là nhân quyn luôn có chỗ dựa trên hệ nhân nơi mà nhân phm là gốc của nhân tâm, nhân t, có rễ là nhân bn, nhân văn, có cội là nhân tính, nhân lý, làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, tất cả cùng bồi đắp cho nhân v. Tù nhân lương tâm chấp nhận : tù đày, tra tấn, nhục hình, truy sát… để đưa cả hệ nhân này vào nhân đạo, để đi trọn con đường từ nhân ái tới tận nhân nghĩa, tù nhân lương tâm là những đứa con kiên cường của Việt tộc bằng quyết tâm của mình : "Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn !".

Tù nhân lương tâm mở cửa cho dân tộc thấy chân trời của nhân quyền

Họ đẩy cửa cho đồng bào thấy rạng đông của dân chủ, bằng chọn lựa của hệ đa : nhận đa đảng để đón đa tài, quý đa trí để dâng đa năng, trọng đa dũng để tạo đa hiệu. Tù nhân lương tâm xuất hiện rồi dùng nhân tính để xóa não bộ của bạo quyền độc đảng toàn trị, dùng nhân lý để tẩy não trạng của tà quyền cơ chế độc trị, dùng nhân bản để gỡ não hoạn của ma quyền công an trị. Tù nhân lương tâm đầy chính nghĩa là những đứa con ngoan dũng của Việt tộc : "Sống có nhân mười phn không khó". Tù nhân lương tâm bồng, ẵm, bế, cõng hệ đạo trong chính nhân kiếp của mình, để làm sáng lên đạo lý : Mt con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ của tổ tiên, để làm rõ ra đạo đức của Việt tộc : Bầu ơi thương lấy bí cùng. Chính đạo lý khi song hành cùng đạo đức làm nên luân lý qua bổn phận và trách nhiệm của Việt tộc khi gọi nhau là đồng bào, cùng tổ tiên, cùng huyết thống. Trên thượng nguồn lập quốc con dân Việt đã sinh ra cùng một bào thai thủa nào của cha Lạc Long Quân, của mẹ Âu Cơ, luôn thấy để thấu : "Máu chy rut mm". Tù nhân lương tâm là những đứa con đoan chính của Việt tộc qua dấn thân : "Máu chy tới đâu ruột đau tới đó".

Tù nhân lương tâm mang kiến thức của giống nòi

Tù nhân lương tâm vận dụng lý lun của sự thật để nhận ra chân lý, sử dụng lp lun của chân lý để tìm ra lẽ phải, tận dụng gii lun của lẽ phải để din lun chiều cao của lương tâm, chiều sâu của lương thiện, chiều rộng của lương tri. Hệ có nội công của lý lun để biết đường đi nẻo về của nhân đạo ; có bản lĩnh của lp lun để xây nền đắp gốc cho nhân v ; có tầm vóc để dựng tường, xây mái cho nhân bn. Tù nhân lương tâm là những đứa con tỉnh táo trong sáng suốt của Việt tộc : "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu". Tù nhân lương tâm mang kiến thc của giống nòi, của đất nước để phục vụ cho tri thc của dân tộc, của đồng bào ; dâng trí thc của mình để trao ý thc cho xã hội, cho quần chúng ; truyền nhn thc của mình để tạo ra tnh thc cho bao thế hệ mai hậu. Hệ thc (kiến thc, tri thc, trí thc, ý thc, nhn thc, tnh thc) chế tác ra hệ sáng : lấy sáng kiến để giống nòi được tiến hóa, lấy sáng to để dân tộc được thăng hoa, lấy sáng chế để xã hội được tiến bộ. Hệ thc song đôi cùng hệ sáng (sáng kiến vì dân chủ, sáng to vì nhân quyền, sáng chế vì đa nguyên) thì bạo quyền của độc đảng toàn trị sẽ bị thay, tà quyền của cơ chế độc trị sẽ phải lùi, ma quyền của công an trị sẽ tự diệt ! Tù nhân lương tâm là những đứa con thông minh của Việt tộc, có "điều hay, lphi" để "nhìn xa trông rng".

Sự công bằng giữa các chính kiến

Tù nhân lương tâm, theo định nghĩa quốc tế, là những công dân một sớm một chiều thành tù nhân, vì họ có chính kiến hoặc chống lại, hoặc khác biệt với ý thức hệ, với chế độ đang cầm quyền không tôn trọng tự do ngôn luận. Như vậy, ý thức hệ độc tôn để độc tài, chế độ độc trị để độc quyền, mà trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc đảng để độc quyết chính là nguyên nhân cùng lúc là thủ phạm sinh ra, tạo ra, chế ra hiện tượng : nhân lương tâm ! Hiện tượng tù nhân lương tâm không có trong các quốc gia tôn trọng văn minh của dân chủ, quý trọng văn hiến của nhân quyền, như vậy hiện tượng này chỉ có trong hiện tình của một quốc gia như Việt Nam hiện nay là độc đảng-toàn tr, trong đó hoàn toàn không có tam quyn phân lp, để có một nền tư pháp biết lấy công pháp dựa trên công lý để giải luận rõ ràng về sự công bng giữa các chính kiến. Từ đây, mọi lý luận đều dẫn đến một lập luận là : bạo quyền độc đảng-toàn trị phải bỏ tù, mà không qua đối thoại để đối luận, thì bạo quyền này được nuôi dưỡng bởi : tà kiến ! Chính tà kiến tới từ tà quyn được giáo dưỡng bởi bạo quyền độc đảng-toàn trị đã vạch ra tà lcho thượng tầng lãnh đạo bằng ngc lđể dựng lên nhà tù, rồi đẩy các công dân yêu nước thương nòi, quý dân chủ, trọng nhân quyền vào vòng lao lý.

Chính nghĩa làm đẹp lương tâm

Khi lý luận, lập luận, giải luận xong thì cùng nhau tới một diễn luận là hiện tượng tù nhân lương tâm, có nguyên nhân của đấu tranh giữa hai thế lực chính kiến đúng chống tà kiến sai đang cầm quyền bằng cái ác ! Chính kiến hay chống tà kiến ti đang cầm quyền bằng cái độc ! Chính kiến đẹp chống tà kiến xu đang cầm quyền bằng cái dở ! Chính kiến tt chống tà kiến tc đang cầm quyền bằng cái bẩn ! Chính kiến hay chống tà kiến ti đang cầm quyền bằng cái hiểm ! Hiện tượng : tù nhân lương tâm luôn là cuộc đấu trí giữa : lương tâm chống lại bạo quyền lãnh đạo ; lương thiện chống lại tà quyền tham quan, lương tâm tri chống lại ma quyền tham quyền. Chính hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) làm nên định nghĩa, có định đề làm nền cho định luận của hiện tượng tù nhân lương tâm, tại đây tù nhân vì chính kiến của chính nghĩa đã làm đẹp cụm từ lương tâm, làm thăng hoa nhân cách của tù nhân, vì nhân chính là chủ thể của lương tri.

Tù nhân lương tâm : tù vì ý thức

Tù nhân lương tâm, bị một bạo quyền lãnh đạo mang tà lực của âm binh bỏ tù mình bởi mình có ý thức, thì đây là định nghĩa, định đề, định luận khác, cũng thật đẹp. Vì trong ngữ văn cũng như ngữ pháp cả hai ngữ vựng : lương tâm ý thc đều đẹp vì cả hai đại diện cho đạo lý đúng, hay, tốt, lành để đối diện rồi trực diện trước cái phản đạo lý xu, ti, tc, dđến từ cái phản luân lý thâm, độc, ác, him trong cuộc sống. Định nghĩa thế nào là tù nhân lương tâm cần cả hai gc, r, ci, ngun của hai hệ : hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), hệ thc (kiến thc, tri thc, trí thc, ý thc, nhn thc, tnh thc). Tại đây, kiến thc xuất hiện để xóa vô tri, tri thc có mặt để loại vô minh, trí thc hiện diện để bứng vô nghĩa, ý thc ra đời để gạt đi vô cảm, nhn thc đứng lên để vùi vô tâm, làm nên tnh thc từ lương tâm tới lương tri. Tại đây, chọn lựa của các đứa con tin yêu của Việt tộc, vừa cõng hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), vừa bồng hệ thc (kiến thc, tri thc, trí thc, ý thc, nhn thc, tnh thc) tạo nên một sung lực cho quần chúng, cho xã hội, sung lực đó chính là hùng lực của sự phn tnh.

Sự phản tỉnh là sự tỉnh giấc của đồng bào, của dân tộc

Sự phn tnh là khi tnh gic của đồng bào, của dân tộc đã qua ác mộng của tà lộ được tà quyền vẽ ra qua ngu dân bằng tuyên truyền, qua áp chế, khủng bố, trù dập của một chế độ lấy công an trị để gieo cái sợ, dùng cái sợ để truy hủy sung lực của tỉnh thức, để truy diệt hùng lực của sự phn tnh. Hãy lý luận tiếp để lập luận thêm là bạo quyền lãnh đạo không sợ sự thật, nó chỉ sợ sự thc tnh. Tà quyền tham quan không sợ chân lý, nó chỉ sợ sự phn tnh. Ma quyền tham quyền, không sợ lẽ phải, nó chỉ sợ sự tnh gic. Chính các tù nhân lương tâm đại diện cho cả ba : sự thc tnh trước bất công, sự phn tnh trước bất luân, sự tnh gic trước bất nhân. Quá trình của lương thiện vừa là vốn của nhân phẩm, vừa là động cơ cho đấu tranh vì công bằng và dân chủ, để mở rộng chân trời của lương tâm biết dấn thân vì đời, vì người, với lương tri của nhân bản để có nhân vị xứng đáng cho nhân vị trong một chế độ độc đảng toàn trị. Chính chị là nạn nhân của chính sách xuất khẩu lao động, một sách lược khốn kiếp của lãnh đạo độc tài đã và đang vùi lấp nhân phẩm Việt, khi con dân Việt một sớm một chiều trở thành : lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.

Hằng số của phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri

Tồi tệ như bọn lãnh đạo là tay chân của chúng là bọn làm môi giới, tha hồ vơ vét tiền hối lộ của các con dân Việt thất nghiệp đã túng quẫn tới đường cùng, lại phải chi tiền cho chúng mới được đi ra nước ngoài làm loại lao động rẻ tới tận cùng của mạt vận. Bọn lãnh đạo thì đầu cơ chính sách, bọn môi giới thì đầu nậu buôn người, chúng chính là loại ký sinh trùng bòn rút sinh lực đồng bào, một loại ký sinh đang nắm quyền, cầm quyền, và bám quyền để vơ vét cho tới ngày chúng bị mạt vận trong ma trận của chính chúng dựng lên. Hãy nhận diện các hằng số trong phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri từ đấu tranh cho công bằng xã hội tới chủ thể đấu tranh toàn diện trên mọi bất công xã hội : đấu tranh để bảo vệ các nạn nhân trong chính sách xuất khẩu lao động mà thực chất là thực hiện một chế độ nô lệ mới mà ai cũng có thể là nạn nhân, mà thân thể hiện đang mang thương tật trên đoạn đường làm nô lệ này. Từ đây, một chủ thể Việt vừa tiếp tục đấu tranh chống chính sách xuất khẩu lao nô, cùng lúc ủng hộ các phòng trào bảo vệ môi trường, trực diện với bạo quyền để đấu tranh chống ô nhiễm do Formosa gây ra.

Bọn bạo quyền lãnh đạo xảo ngôn trong điểm lộ, cùng bọn tà quyền tư pháp gian nghiệp trong điểm phận

Đứng cạnh, đứng kề cùng dân oan chống bọn tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, cả hai chúng chỉ biết tham tiền đang chủ trì ma sách nheo nhóc hóa Việt tộc. Phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri đấu tranh cho công bằng xã hội, ở bất cứ nơi nào có bất công, đi tới đấu tranh vì tự do, vì nhân quyền và dĩ nhiên vì dân chủ. Hãy nhận diện các chỉ báo mà các tù nhân lương tâm phải trả giá trước bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tư pháp, ma quyền công an. Tù nhân lương tâm, có mặt trên hai trận tuyến đấu tranh cho xã hội, một tại công đoàn, hai trong phong trào bảo vệ môi trường sau đại nạn ô nhiễm miền Trung do Formosa gây ra. Đấu tranh trên hai mặt trận của xã hội dân sự, thì đối với bạo quyền lãnh đạo đã là đa lý, vì tà quyền độc đảng rất sợ các chủ thể đa lý, vì họ đa tài, đa năng, đa hiệu và nhất là đa trí trong công cuộc đấu tranh vì công bằng và tự do. Trong lao tù tại nhà tù với điều kiện lao lý khắc nghiệt, để hủy diệt thể lực, hành hạ tù nhân lương tâm bằng những bản án dài, hành sát tù nhân lương tâm bằng điều kiện lao lý của loại địa ngục trần gian, nơi mà nhân quyền là chướng ngại vật luân lý mà bọn bạo quyền lãnh đạo xảo ngôn trong điếm lộ, cùng bọn tà quyền tư pháp gian nghiệp trong điếm phận.

Cái ác cặp kè cùng cái độc và cái hiểm

Trong cái ác của bạo quyền, trong cái thâm của tà quyền, trong cái độc của ma quyền là sự vô tâm của chúng đã "sn xut" ra lương tri, khi chúng đưa những người lương thiện vào vòng lao lý, bị bắt, bị lãnh án tù bằng của các phiên tòa bất lương, vô nhân. Trong bán án kết tội, thì bọn quan tòa bất nhân của tòa án vô luân đã kết tội luôn có luận điệu : "chống đối những người đang thi hành công v !". Vu khống để vu cáo rồi vu họa lên kẻ lương thiện, đó là hành vi giờ đã thành phản xạ của tà quyền, mà sự thật có trong lương tâm của mỗi công dân Việt. Những năm tháng trong tù là cuộc tra tấn tàn bạo, dã man của những tên công an cai ngục, ngày ngày chúng đóng vai đồ tể để tra tấn bằng đòn thù trong ý đồ hành xác. Những đòn thù của tra tấn, luôn song hành bằng hành vi tồi tệ của âm binh âm giới nơi chỉ có cái ác xuất hiện ở dạng điếm nhục nhất. Những trận đòn chỉ để gây nội thương lâu dài, với các lời nhục mạ vô liêm sỉ, với những lời phỉ báng bất nhân nhất. Những ngày tháng trong tù đày là những ngày tháng bị tra tấn bằng đòn thù mà cũng là những ngày tháng bị lao động vất vả như một cực hình khác song hành cùng tra tấn. Bạo quyền không hề có tư duy để lý luận là khi tù đày song lứa cùng tra tấn rồi song đôi cùng lao động như nhục hình thì chính tại đây khi cái ác cặp kè cùng cái độc và cái hiểm.

Đánh thức lương tâm của quần chúng

Đánh thức lương tâm của quần chúng, trong xã hội, trong và ngoài nước mà bạo quyền lãnh đạo, tà quyền công an, ma quyền cai ngục không sao đoán hết được hậu quả một ngày kia sẽ tới với chúng ! Là biểu tượng của lương tâm trong một chế độ bất lương, đã khủng bố, truy lùng các chủ thể yêu tự do, trọng dân chủ, quý nhân quyền ; một chế độ đã biến xã hội là một nhà tù khổng lồ với bạo quyền lãnh đạo độc đảng có quyền sinh sát công dân Việt, ma quyền công an có quyền truy sát các chủ thể đấu tranh vì công bằng, tự do, dân chủ, nhân quyền. Đó chính là cuộc đời phải luôn dời chỗ ở, luôn tránh thoát các khủng bố, bắt bớ của bạo quyền và ma quyền này. Và trong điều kiện phải sống như vô hình ngay trên đất nước của mình đang bị quản thúc bởi âm binh công an. Chủ thể của lương tâm hoạt động không ngưng nghỉ từ báo chí tới mạng xã hội, đúng nghĩa chủ thể của trách nhiệm với đất nước, của bổn phận với đồng bào, còn phải là chủ thể của sáng tạo các đường lối đấu tranh, của tri thức nhìn xa trông rộng trước hiện tình của đất nước, với các tư duy sáng suốt mang lại những phương pháp cụ thể trong đấu tranh chính trị, xã hội, truyền thông nói lên chính nghĩa cốt lõi của mọi công dân yêu tự do, quý dân chủ, trọng nhân quyền.

Mẫu số chung giữa các tù nhân lương tâm

Hành động vì lương tâm và hành tác vì lương tri là biểu tượng của lòng khao khát công bằng, tự do, dân chủ cho Việt Nam. Cái thiếu công bằng, cái vắng tự do, cái mất dân chủ của Việt tộc hiện nay chính là cái bất hạnh dưới bạo quyền bất lương. Động cơ tranh đấu của các tù nhân lương tâm : nguyên nhân, lý do làm lên động lực của dấn thân vì đời, vì người. Phương pháp đấu tranh cụ thể trong môi trường xã hội cụ thể, địa phương hay toàn quốc, chính trị hay môi trường, luật pháp hay xã hội… Khi có phân tích về hai chỉ báo này, thì phân loi hóa phải giải thích tiếp sự tương đồng và khác biệt giữa các tù nhân lương tâm, trong đó đồng thuận trên các tiêu chí và phạm trù đấu tranh sẽ giúp chúng ta tìm tới mẫu số chung giữa các tù nhân lương tâm, đây chính là sự đồng thuận như một định đề giải luận để định vị về động cơ tranh đấu cũng như phương pháp đấu tranh của các tù nhân lương tâm : đồng thuận xã hội : đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái ; đồng thuận chính trị : đấu tranh cho dân chủ, đa nguyên, nhân quyền ; đồng thuận đạo lý : đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tham quyền ; đồng thuận giáo lý : đấu tranh cho giáo dục, giáo khoa, giáo án ; đồng thuận tín ngưỡng : đấu tranh vì tự do tôn giáo, tín ngưỡng, niềm tin ; đồng thuận cộng đồng : đấu tranh vì môi trường, môi sinh, thiên nhiên… Chính các đồng thuận này làm nên nội công đạo lý và luân lý các tù nhân lương tâm.

niemtin8

Tù nhân lương tâm : trách nhiệm với đất nước, bổn phận với đồng bào

Nội lực của lương thiện chính là sung lực của lương tâm, là hùng lực của lương trí. Các tù nhân lương tâm không xem ai là tthù, vì họ không xem ai là đối thcủa họ, họ không dùng con người làm đối phương, và trong nhận định cũng như trong định luận của họ thì : tthù của các tù nhân lương tâm là hành vi phản dân hại nước, buôn dân bán nước, mại quốc cầu vinh. Đối thcủa các tù nhân lương tâm là hành động của tà quyền tham quan vì tham quyền để tham nhũng. Đối phương của các tù nhân lương tâm là thái độ mang voi dày mt, rồi cõng rn cn gà nhà, trong bối cảnh thừa nước đục thcâu, với bất công của ma quyền là cốc mò cò ăn. Các tù nhân lương tâm thẳng lưng vì đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, thẳng bước vì luân lý có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào, nên họ không có tử thù !

Tù nhân lương tâm : vốn gốc của nhận thức

Đơn phương độc mã chống lại bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, thì thường xuyên xem xét kỹ lưỡng vn tri thc có trong vn chính trcủa mỗi chủ thể, vn xã hi trong vn kinh nghim của mỗi cá thể. Các vốn sau đây được nhận ra trong lý lịch, trong hồ sơ, có ngay trong chân dung của các tù nhân lương tâm của Việt Nam : vốn lương thiện chống bất bình đẳng ; vốn lương tâm chống bất công ; vốn lương tri chống bất tài. Ba vốn này của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) vn ngun để vạch mặt chỉ tên bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, nhưng nó chưa đủ để làm hành trang vững bền trong công cuộc đấu tranh trường kỳ. Vì bạo quyền sẽ dùng bạo lực, tà quyền sẽ dùng tà lực, ma quyền sẽ dùng ma lực không những qua tuyên truyền, tuyên giáo, mà bọn này còn biết dùng vu khống, vu cáo, vu họa để làm tổn thương thanh danh rồi tìm mọi cách để truy diệt các chủ thể của hệ lương này. Ở đây, xuất hiện một vn gc của hệ thc : lấy kiến thc chống tuyên truyền, lấy tri thc chống ngu dân, lấy trí thc chống độc tài, lấy ý thc chống độc tôn, lấy nhn thc chống độc quyền, lấy tnh thc chống độc trị.

Các tín hiệu, các chỉ báo để đưa ma quyền vào tử lộ !

Chính hệ thc (kiến thc, tri thc, trí thc, ý thc, nhn thc, tnh thc) giúp các chủ thể đấu tranh tiếp cận stht để chống bưng bít, chân lý để chống bịp bợm, l phi để chống man trá của bọn bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, từ đây xuất hiện một vn ci của hệ thông ; sử dụng thông minh để xóa độc đoán của bạo quyền lãnh đạo ; vận dụng thông thái để xua độc hại của tà quyền tham quan ; tận dụng thông tho để loại độc tham của ma quyền tham tiền. Từ vn ci của hệ thông các chủ thể đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái bằng con đường của dân chủ, nhân quyền, đa nguyên, sẽ cho xuất hiện một vn rcủa hệ sáng. Dùng sáng kiến để lập hành trình đưa dân tộc, đất nước ra khỏi bạo quyền. Dùng sáng to để lập hành trang đưa đồng bào, đồng loại ra khỏi tà quyền. Dùng sáng lp ra các phong trào xã hội đưa nhân quần ra khỏi ma quyền. Tất cả những vốn vừa được liệt kê cũng chính là các tín hiệu, các chỉ báo để đưa ma quyền vào tử lộ !

Tỉnh thức rộng, nhận thư sau

Khi tổng hợp hai vốn làm nên nội công và bản lĩnh của các tù nhân lương tâm : vn tri thc có trong vn chính tr, vn xã hi trong vn kinh nghim. Ta nhận ra hai vốn này có ngun, gc, ci, r, đã hiện diện trong nội lực làm nên sung lực để dấn thân, rồi hùng lực trong đấu tranh của các tù nhân lương tâm : vn ngun của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) ; vn gc của hệ thc (kiến thc, tri thc, trí thc, ý thc, nhn thc) ; vn ci của hệ thông (thông minh, thông thái, thông tho) ; vn rcủa hệ sáng (sáng kiến, sáng to, sáng lp). Các phân tích này không hề trừu tượng, các giải thích trên không hề mơ hồ, chúng có trong lý lịch, hồ sơ làm nên chân dung của các tù nhân lương tâm. Ngay như những chủ thể không có học thức cao, nhưng họ có sự tỉnh thức rất rộng, nhờ có nhận thức rất sâu về bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền.

Tù nhân lương tâm : đối trọng của độc trị ?

Khi ta đi tìm sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, ta thấy xuất hiện hệ đối : đi kháng, chống bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị đang trùm phủ lên toàn xã hội, lên trọn số phận của Việt tộc. Rồi đi trng, chống bất công trong xã hội, bất tài trong quản lý, bất nhân trong đạo lý, đã tạo ra đói nghèo trong dân chúng, lầm than trong xã hội. Bằng Đối lc, chống tham quan đang tham quyền để tham ô qua tham nhũng, làm nên tà lộ từ sâu dân mọt nước tới buôn dân bán nước. Nhận Đối din, để trực diện mà chống mọi nguồn gốc của ngu dân, mà tội phạm là tuyên giáo nắm tuyên truyền, gây bao độc hại từ độc đoán của độc đảng. Đối đầu, để đấu trí chống bạo quyền là chống chế độ công an trị, chống tà quyền là chống bọn vi hiến và phạm pháp, tội phạm và tội đồ của Việt tộc.

Hệ hành của các tù nhân lương tâm

Hành trang, luôn mang theo bốn vốn : lương tri, nhận thức, thông thái, sáng tạo, để vừa đấu tranh trực diện, vừa đấu tranh lâu dài với bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị. Hành trình, vừa có khó khăn qua la thvàng, gian nan thsc, vừa của thử thách bằng đầu sóng ngn gió, trong thăng trầm với sóng cao nhưng vững tay chèo. Thậm chí có ngục tù, tra tấn, có cả truy diệt, thủ tiêu. Hành vi, vừa có kiên cường của sng lâu mi biết lòng người có nhân, vừa có đạo lý của tổ tiên, của dân tộc trong sống có nhân mười phn không khó, nơi mà cái khó không bó được cái khôn của các tù nhân lương tâm. Hành động, từ đề nghị vì tự do để có công bằng và bác ái tới quyết định dấn thân vì dân chủ và nhân quyền trong đa nguyên : hành động của đạo lý. Hành tác, mang hành động của đạo lý hay, đẹp, tt, lành tới quần chúng và xã hội để đánh thức mọi người, đây là hành tác của bổn phận trước đồng bào, trách nhiệm trước đất nước để làm nên luân lý yêu nước thương nòi như quý nhân sinh, trọng nhân tâm. Tại đây, sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh đã làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, thì s tht-chân lý-lphi đã được cõng, bồng, bế, ẵm bởi hệ hành của các tù nhân lương tâm !

Tù nhân lương tâm : công chúng của công bằng

Ai là tù nhân lương tâm ? Họ các công dân là những con người có mong cầu được sống trong một chế độ tốt biết bảo quản cho một xã hội tốt, một định chế tốt biết bảo hành một cuộc sống tốt. Chính tính từ tt đã làm nên định đề để định vị nhân quyền của con người là luôn muốn có một quan hệ tốt giữa họ và chính quyền. Và khi họ phải trực diện dùng tính mạng để dấn thân chống một chế độ xấu sản sinh ra một xã hội tồi, một định chế ác đã tạo ra một cuộc sống tục, thì họ có thể trở thành tù nhân lương tâm bất cứ lúc nào bởi bạo quyền cầm quyền. Nếu chính quyền xấu và ác đó bỏ tù họ, đẩy họ vào vòng lao lý thì chính quyền đó không những xu, ti, tc, dmà nó còn thâm, độc, ác, him đã dùng bạo lực để truy sát những cái hay, đẹp, tt, lành đã có trong tính lương thiện, làm nên lương tâm, dựng lên lương tri của họ.

Tù nhân lương tâm : lập quyền tự quyết

Quá trình nhn thc của một công dân trước bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đã liên minh với nhau thành một tổng thể để vơ vét tài nguyên đất nước, trấn lột tiền bạc của đồng bào. Tại đây, quá trình đấu tranh cũng được xây dựng như một tổng thể mà nhn thc là hạ nguồn, mà thượng nguồn là kiến thc tới từ thực trạng xấu của một xã hội đang bị đồi bại hóa bởi bạo quyền độc đảng. Khi kiến thức khi được xếp đặt thành tri thc để biết về một dân tộc đang bị âm binh hóa bởi tà quyền tham quan làm giàu bằng tham ô và tham nhũng. Sự xuất hiện của ý thc khi khám phá ra một ma quyền tham tiền khi tham đất thì phá nhà để cướp đất, biến dân lành thành dân oan, giờ đây đã định hình thành nhn thc. Mà nhn thc chính là sự tnh thc trước bất công của bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, đã làm nên sự cnh tnh trước các hiểm họa đang đe dọa một đất nước, một dân tộc, một tiền đồ, một đạo đức quốc gia. Họ muốn Việt tộc phải có quyền tự quyết, ra khỏi cái nhà tù vô hình đang trùm phủ lên số phận của cả một đất nước, đang vùi lấp ngay trên tương lai của của cả một dân tộc.

Tù nhân lương tâm : chống bạo quyền độc đảng

Thế nào là lương tâm ? Và ai là tù nhân lương tâm ? Hãy đi từ đời sng xã hi có công bằng hay đang chịu bất công, trong hiện trạng của Việt Nam, thì chính bạo quyền độc đảng là nguồn gốc của mọi bất công từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới nghề nghiệp, từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng tới dân tộc. Tại đây, sự phân biệt trong đảng ngoài đảng, là nguồn cơn sâu xa của một hệ thống bất công và rất bất nhân. Rồi tới sinh hot xã hi, trong đó những kẻ được xem là trong đảng, tức là được Đảng cộng sản Việt Nam bảo hộ rồi bảo kê thì được vào "đúng quy trình" của tham quyn để thành tham quan, rồi lấy tham ô tham nhũng, và thảnh thơi trong tham tin trong vi hiến và phi pháp, mà công lý của pháp quyền luôn bị vùi dập. Để tới là quan hxã hi của thảm kịch Việt nay hiện nay là hối lộ để mua chc bán quyn của loài ký sinh trùng hút máu chính đồng bào của mình để vinh thân phì gia. Đa số này đã trở thành bọn sâu dân mọt nước, thừa nước đục (độc đảng) để thả câu mưu lợi vì tư lợi của chúng. Hiện nay đời sng xã hi đã và đang bị bạo động hóa bởi bạo quyền độc đảng với hành vi xu, ti, tc, d ; khi sinh hot xã hi đã và đang bị đồi trụy hóa bởi tà quyền tham quan với hành tác trm, cắp, cướp, git, khi quan hxã hi với đã và đang bị âm binh hóa bởi ma quyền.

Tù nhân lương tâm : thành người trong giáo dục

Các tù nhân lương tâm sẽ ngày càng nhiều nếu bạo quyền độc đảng còn cầm quyền, tà quyền tham quan còn giữ quyền, ma quyền tham tiền còn có quyền, khi chúng tiếp tục vùi dập nhân tâm, truy diệt nhân bản, ám sát nhân quyền. Các tù nhân lương tâm chính là công pháp vì công chúng để vch mt chtên bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang trù ếm nhân phẩm của Việt tộc. Tại đây, lương tâm là gì ? Là những người đã thành người trong giáo dc : mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền đều được hưởng thành công trong giáo dục, nơi mà kiến thức giúp sự trưởng thành về nhân cách luôn song hành cùng tri thức của khoa học nơi mà sự thật của khoa học làm nên chân lý của nhân sinh. Thảm trạng của Việt Nam hiện nay là cái giđã ngự trị để giết cái tht với hc gi-thi gi-điểm gi-bng gi. Khi sự bất công đã có mặt ngay trên thượng nguồn khi học làm người, tức là ngay tại học đường, với mua bng bán cp, chính nó đã đánh thức tính lương thiện, đã làm tỉnh thức lương tâm, để lương tri để một công dân đi vào cuộc dấn thân vì giáo dục, giáo lý, giáo luận.

Tù nhân lương tâm : bảo vệ thành quả của đồng bào

Các tù nhân lương tâm là ai ? Họ chính là những chủ thể đấu tranh đang chống lại bạo quyền, tà quyền, ma quyền đã trm, cặp, cướp git đi các thành qu của họ và của đồng bào họ thành tài trong nghnghip : mọi công dân khi rời trường lớp, rời một hệ thống giáo dục để làm người trưởng thành như một chủ thể có bổn phận với đồng bào, có trách nhiệm với tổ quốc, có lương tâm tốt để phục vụ tốt cho nghề nghiệp mà chính họ có tự do chọn lựa. Thảm họa của xã hội Việt hiện nay là mua chc bán quyn để vinh thân phì gia, nơi mà nht nghtinh nht thân vinh không chỗ đứng ghế ngồi, mà phải nhường chỗ cho hoạn bịnh của chế độ độc đảng giữ độc tài nhưng hoàn toàn bất tài trong quản lý, bằng ung thư do chính nó tạo ra : tin t-quan h-hu duđể diệt trí tucủa nghlẫn nghcủa tất cả ai yêu nghề, trọng nghệ để có một nghip tốt.

Tù nhân lương tâm : bảo vệ vốn liếng của đồng bào

Các tù nhân lương tâm là ai ? Họ chính là những chủ thể đấu tranh đang chống lại bạo quyền, tà quyền, ma quyền đã trm, cặp, cướp git đi các thành qu của họ và của đồng bào họ thành công trong kinh tế : mọi công dân trong một nhà nước pháp quyền biết bảo vệ nhân quyền đều phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để chuyện thành người trong học đường và thành công trong nghề nghiệp cụ thể trở nên thành công trong kinh tế, với đời sống vật chất vững, với vốn liếng tài chính bền. Sự bền vững của một cuộc sống kinh tế có thăng tiến là chỉ báo rành mạch của một xã hội có chính quyền liêm chính, có chính phủ liêm sỉ, vì có chính sách lãnh đạo liêm minh. Nơi đây, tà quyền tham quan không có chỗ đứng, tại đây ma quyền tham tiền không có ghế ngồi, mà chỗ đứng ghế ngồi của chúng là các tòa án của lương tâm mà từ chứng nhân tới với chứng từ được công bố bởi chính các tù nhân lương tâm đã là nạn nhân của chúng. Thành tu trong xã hi : mọi công dân trong một quốc gia có văn minh vì trọng dân chủ, một xã hội có văn hiến vì yêu nhân quyền khi đã thành người trong giáo dục, thành tài trong nghề nghiệp, thành công trong kinh tế sẽ được công nhận bằng thành tựu trong xã hội, nơi mà những chặn đường hay, đẹp, tốt, lành của một định chế sẽ tạo dựng được thành qucủa cả một đời người.

Tù nhân lương tâm : thấu đáo đạo lý tổ tiên Việt

Các tù nhân lương tâm là ai ? Là các chủ thể nhận bổn phận với dân tộc, lãnh trách nhiệm với tổ quốc để lập nên phương trình đôi để đấu tranh bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền. Các tù nhân lương tâm bảo vệ phương trình thứ nhất của thượng nguồn nhân bn : lương thiện-lương tâm-lương tri, có trong nhân tính Việt, có trong nhân lý Việt. Các tù nhân lương tâm bảo vệp hương trình thứ nhì của hạ nguồn nhân v : công bng-công lý-công pháp, có trong nhân nghĩa Việt, có trong nhân tri Việt. Sự liên kết từ thượng nguồn tới hạ nguồn làm nên sự liên minh trong dấn thân, trong đấu tranh qua một phương trình đôi để khẳng định nội công, bản lĩnh và tầm vóc của các tù nhân lương tâm. Phương trình đầu tiên của hệ hành : lấy hành vi lương thiện làm nên sự tỉnh thức của lương tâm, lấy định vị của lương tâm làm nên ảnh hưởng của lương tri trong quần chúng, trong xã hội. Phương trình tiếp theo của hệ kháng : lấy đối kháng để trực diện với bạo quyền độc đảng phản dân chủ, với đối lun để đối đầu với tà quyền tham quan phản công bằng, với đối trng chống ma quyền tham tiền phản đạo đức dân tộc. Các tù nhân lương tâm là ai ? Họ là những công dân Việt đã hiểu, đã thấu đạo lý tổ tiên Việt : Cây ngay không schết đứng !

Tù nhân lương tâm : địa danh của nước mắt

Tù nhân lương tâm không phải là tù nhân hình sự, chẳng phải là tội nhân phạm pháp, họ ngược lại với tập đoàn tội phạm lãnh đạo, với bè lũ tà quyền đã bán lương tâm cho ma quyền tham tiền. Vì tù nhân lương tâm đã thực hiện được, đã thể hiện được một nhân lý lng trong nhân tính, một nhân trí lng trong nhân tri là họ đã : đứng về phía nước mt ! (nước mắt của nạn nhân). Một nhân sinh quan, một thế giới quan trung tâm ngay trong địa lý, địa dư, địa phận, địa danh của nước mt, một chuyện mà không sao bạo quyền, tà quyền, ma quyền làm được, vì chúng chính là tác giả và tác nhân rất bất nhân đã làm ra : nước mt ! Nhà tù của bạo quyền độc đảng đã dùng tà quyền tư pháp làm công cụ để hủy diệt một công dân chỉ muốn nói lên tiếng nói của công chúng, đòi công lý cho các nạn nhân của chế độ bạo tà này. Nguyên nhân sâu xa trên thượng nguồn là sự uất ức đã biến thành lòng quả cảm trước tội ác của bọn tà quyền lãnh đạo với chế độ âm binh toàn trị của chúng đang trùm phủ lên số phận của dân tộc.

Một thảm sử đang vây Việt tộc

Shc được xây dựng trên sliu mang skin trong không gian lịch sử với định điểm của thời gian. Trong trường hợp của Việt tộc luôn có Việt tính kiên cường để bảo vệ chủ quyền và độc lập, thì Việt tính được hiểu và được soi như một hằng số, thì đây là stính. Có khi hng sthun với sử tính lập đi lập lại qua kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc, có khi nó lại là hng số ngược của Việt tộc, đã nhiều lần mất nước vì bọn bán nước, vì chúng mi quc cu vinh. Việt tộc có Ngô Quyền đứng lên như bão tố, một sớm một chiều quét sạch một ngàn năm Bắc thuộc, nhưng Việt tộc cũng có những đứa con mi quc cu vinh, trước khi bán nước chúng là bọn sâu dân mọt nước bằng tham ô, tham nhũng, từ bòn rút tài nguyên của đất nước tới vơ vét tiền tài của dân tộc. Từ sâu dân mt nước, chúng dễ dàng sa lầy vào tà lộ của phn dân hại nước, chỉ đi thêm môt bước nữa là chúng buôn dân bán nước, mang voi vgiày mtđể rồi là cõng rn cn gà nhà, có mặt ở cấp cao nhất của tập đoàn lãnh đạo hiện nay, một bi sử đang chực Việt tộc, một thảm sử đang vây Việt tộc.

Hằng số thuận của lòng yêu nước

Hng sthun của lòng yêu nước có trong Việt tính kiên cường để bảo vệ chủ quyền và độc lập, luôn phải song hành và phải đề phòng, phải cảnh giác với hng số ngược là bọn mi quc cu vinh, sâu dân mọt nước, phn dân hại nước, buôn dân bán nước. Giữa hằng số thuận yêu nước và hằng số ngược phản quốc, chúng ta có hng shệ lương, với nền lương thiện biết dựng thẳng lên lương tâm với lương tri sắc nhọn để tố cáo tà quyền buôn dân, để tố cáo ma quyền bán nước. Việt sử không thiếu các chủ thể liêm chính như Chu Văn An, như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... biết vch mt chtên bọn tham quan chỉ tham tiền mà quên đi tiền đồ của tổ tiên, cơ đồ của dân tộc. Hng shệ lương hiện đại chính là các tù nhân lương tâm hiện nay, tuệ giác của Việt tính, các đứa con tin yêu của Việt tộc, các hậu duệ chính thống từ tinh thần tới luân lý của Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Stính là sự thông minh tới từ nhân trí của con người biết, hiểu, thấu lịch sử và không muốn lặp lại các sai lầm của quá khứ, của đời xưa. Như vậy, sử tính là tính sáng tạo ra lịch sử trong hiện tại vì tương lai, nhất quyết không lập lại các sai sót, sai lạc, sai lầm đã có trong lịch sử thủa nào. Từ đây, trong nhân loại xuất hiện các chủ thể đấu tranh cho tự do, dấn thân vì công bằng, lấy nhân quyền để bảo vệ nhân phẩm, có trách nhiệm với nhân bản, có bổn phận với nhân đạo, dấn bước vì nhân tâm.

Nhận thức nhân quyền

Khi ta tổng kết được lịch sử của nhân quyền, ta sẽ nhận ra quá trình tiến bộ của nhận thức nhân quyền đi từ một quan niệm chính đáng về tiến bộ vì quyền làm người, trong đó nguyên tắc của nhân quyền là nền tảng cho mọi tổ chức xã hội muốn có văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền. Nhận thức nhân quyền đi từ tính phổ quát về quyền làm người tới quy luật bảo vệ tự do cá nhân như tự do căn bản nhất, để nhận ra bản chất của một tập thể, một cộng đồng, một chế độ về cách hành xử biết tôn trọng nhân quyền của của cá nhân này. Nhận thức nhân quyền đi từ tổ chức xã hội có công bằng được bảo vệ bằng công lý tới một chính quyền tôn trọng nhân quyền để trong một chế độ dân chủ với nhân sinh quan tử tế vì nhân quyền từ gia đình tới dân tộc, từ văn hóa tới giáo dục, từ kinh tế tới thương mại… để bảo đảm một thế giới quan đứng đắn từ quan hệ quốc tế tới hợp tác quốc tế, trong đó nhân quyền là nền tảng mà cũng là động cơ.

Lê Hữu Khóa

(12/04/2021)

---------------------

lhk0 Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille

Giám đốc Anthropol-Asie

Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc

Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Hữu Khóa
Read 758 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)