Nhà văn Nguyễn Đình Toàn, tác giả ‘Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên’, qua đời ở tuổi 87
VOA, 30/11/2023
Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn, viết kịch, sáng tác nhạc với bút hiệu Nguyễn Đình Toàn. Thời mới lớn ở Hà Nội, ông dùng bút hiệu Tô Hà Vân, và sau 1975, để tránh rắc rối với nhà nước cộng sản, khi đưa "chui" những sáng tác của ông ra phổ biến ở nước ngoài, ông dùng bút hiệu Hồng Ngọc.
Nguyễn Đình Toàn. (Hình : Đinh Quang Anh Thái)
Nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, người nổi tiếng một thời với chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975, qua đời tối Thứ Ba, 28 Tháng Mười Một, tại California, hưởng thọ 87 tuổi.
Khuôn mặt nổi bật của Văn học Nghệ thuật Miền Nam trước 1975
Sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn từ rất sớm, thời còn học trung học.
Di cư vào Nam năm 1954, ông trở thành biên tập viên của đài phát thanh quốc gia - Đài phát thanh Sài Gòn. Ông gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1968, giải ngũ vì lý do sức khỏe, và trở lại làm việc với Đài phát thanh Sài Gòn.
Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn, viết kịch, sáng tác nhạc với bút hiệu Nguyễn Đình Toàn, tên thật của ông. Thời mới lớn ở Hà Nội, ông dùng bút hiệu Tô Hà Vân, và sau 1975, để tránh rắc rối với nhà nước cộng sản, khi đưa "chui" những sáng tác của ông ra phổ biến ở nước ngoài, ông dùng bút hiệu Hồng Ngọc.
Sau 1975, như các văn nghệ sĩ cùng thời bị kẹt lại Việt Nam, ông bị đưa đi ‘học tập cải tạo’, tổng cộng 6 năm.
Sang Mỹ trễ, cuối năm 1998 theo diện gia đình bão lãnh, không lâu sau, Nguyễn Đình Toàn cộng tác với Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ - VOA, trong chương trình "Đọc Sách" do Nguyễn Đình Toàn và vợ, Nguyễn Thị Thu Hồng, nghệ danh Hồng Ngọc, phụ trách. Trong chương trình này, Nguyễn Đình Toàn thường giới thiệu một tác giả hay một tác phẩm, hoặc một khía cạnh văn hóa nghệ thuật, Việt Nam hay Tây phương. Bà Thu Hồng từng là xướng ngôn viên của một chương trình phát thanh Sài Gòn trước 1975. "Đọc Sách" được phát đi đều đặn trên làn sóng VOA trong vài năm, cho tới khi Nguyễn Đình Toàn nghỉ hưu.
Văn
Tác phẩm đầu tay, "Chị em Hải", viết ở miền Bắc thời Nguyễn Đình Toàn còn rất trẻ với bút hiệu Tô Hà Vân, được đăng từng kỳ trong báo Tự Do trước khi xuất bản năm 1961 ở miền Nam.
Sự thành công của tác phẩm này đưa ông vào nghiệp văn. Trước năm 1975, Nguyễn Đình Toàn đã xuất bản 20 tác phẩm, gồm văn và thi ca.
Được nhắc đến nhiều là "Áo Mơ Phai", truyện, xuất bản năm 1972, đoạt giải văn học toàn quốc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa năm 1973, và "Đồng Cỏ" xuất bản lần thứ nhất tại Úc năm 1994.
Viết về hai tác phẩm dấu ấn này của Nguyễn Đình Toàn, nhà văn Ngô Thế Vinh nói : "Áo Mơ Phai là dự cảm về một thành phố Hà Nội sắp mất, Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri".
Trong một chương trình trên Jimmy Show, Nguyễn Đình Toàn cho biết ông đã dự tính viết thêm một quyển thứ 3 cho đủ bộ ba - trilogy, nhưng tuổi già, sức yếu, khiến ông không thể hoàn thành ý định.
Trong lĩnh vực báo chí, Nguyễn Đình Toàn từng cộng tác với các tạp chí Văn, Văn học… và viết "feuilleton" – truyện dài đăng nhiều kỳ - cho các tờ báo lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ : Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến… Phần lớn các sáng tác in từng kỳ trên các báo ấy sau này được in thành tiểu thuyết, truyện ngắn, tập truyện. Nhưng không chỉ viết bài, tiểu thuyết feuilleton, Nguyễn Đình Toàn còn đóng góp nhiều cho sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975, trong vai trò thành viên của ban tuyển chọn sáng tác thơ, văn cho tạp chí Văn.
Nhà thơ Du Tử Lê lúc sinh thời từng nhận xét, trong văn, thơ, cũng như trong âm nhạc, Nguyễn Đình Toàn luôn tìm một ‘cách nói khác/cách viết khác’.
Thơ
Nguyễn Đình Toàn làm thơ rất sớm khi mới 16, 17 tuổi. Bài thơ đầu đời của ông, Khúc Ca Phạm Thái, để lại ấn tượng sâu đậm nơi người nghe.
Nói với VOA trước đây, nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một người rất gần gũi với Nguyễn Đình Toàn, cho đây là bài thơ tâm đắc nhất của ông :
"Bài thơ tâm đắc nhất đối với cá nhân tôi thời còn trẻ… bởi vì cậu bé nào lớn lên cũng – nói theo nhà văn Duyên Anh, ‘mơ thành người Quang Trung’, có một tính chất gọi là... gắn liền với quê hương đất nước, thì tôi thích bài Khúc Ca Phạm Thái của Nguyễn Đình Toàn. Ví dụ như câu mở đầu :
"Ta tráng sĩ hề… lòng không mềm bằng kiếm/Ta anh hùng hề… chí khí không chứa đầy đôi mắt Trương Quỳnh Như…"
Sau này quen và thân anh Nguyễn Đình Toàn thì mới biết bài thơ này là bài thơ đầu đời của anh ấy, viết ra lúc mới 16, 17 tuổi.
Cái thuở của những đêm lửa trại của thanh niên Sài Gòn ngày xưa, mà được nghe Thanh Hùng ngâm Khúc ca Phạm Thái thì tuyệt lắm !"
Khúc Ca Phạm Thái là bài thơ phổ thành kịch thơ, nằm trong tập thơ "Mật Đắng" của Nguyễn Đình Toàn xuất bản năm 1962. Nhà văn Ngô Thế Vinh cho biết "Mật Đắng" được sáng tác trong "một giai đoạn đen tối, gần như tuyệt vọng" trong cuộc đời nhà thơ, lúc Nguyễn Đình Toàn mắc bệnh lao, tưởng như khó qua khỏi.
Nguyễn Đình Toàn, "người tình không chân dung"
Nhưng thơ không chỉ có trong những tập thơ, mà thơ Nguyễn Đình Toàn còn bàng bạc, phảng phất trong lời văn, trong ca từ, trong cả những lời bạt giới thiệu những ca khúc trong Chương trình Nhạc Chủ Đề của đài phát thanh Sài Gòn trước 1975.
Chương trình Nhạc Chủ Đề do Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An phụ trách là một hiện tượng ở Sài Gòn thời bấy giờ. Lời dẫn nhập cho mỗi bản tình ca qua giọng đọc truyền cảm của Nguyễn Đình Toàn, như "thủ thỉ" vào tai người nghe, đã giúp đài phát thanh quốc gia lôi cuốn đông đảo thính giả yêu nhạc. Mỗi lời giới thiệu, theo Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc, là một "tiểu tác phẩm", lời văn mượt mà, ý tưởng sâu lắng, mà qua giọng đọc trầm ấm, ngọt ngào của Nguyễn Đình Toàn, như rót mật vào hồn người nghe, đi thẳng vào trái tim thính giả ngay từ lời mở đầu "Em yêu dấu"…
Viết về Nguyễn Đình Toàn, nhà thơ Du Tử Lê từng nhận định :
"Với những giới thiệu hay dẫn nhập bằng cách viết (cách nói) riêng của mình ; nhất là qua giọng nói, như một thủ thỉ tư riêng giữa hai người, qua làn sóng điện, họ Nguyễn trở thành một thứ "người tình không chân dung" của rất nhiều nữ thính giả. Đồng thời, ông cũng là "người bạn thiết" của rất nhiều thính giả thuộc nam giới. Với lớp thính giả này, ông như người đã nói thay họ những điều họ muốn nói về tình yêu, âm nhạc, thời thế".
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái, thuở mới lớn cũng từng say mê chờ đón Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối thứ Năm :
"Không gì hạnh phúc cho bằng mỗi tối thứ Năm, bận mấy thì bận cũng phải chạy vù về nhà ngồi bên cạnh cái radio nghe giọng Nguyễn Đình Toàn. Ngồi nghe cái giọng ấm của người đàn ông Hà Nội nói về nhạc chủ đề… Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi về Nguyễn Đình Toàn, rồi sau đó mới đọc sách của ông, nghe nhạc của ông, và nhất là đọc thơ của ông".
Tình khúc thứ nhất - Nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn
Vũ Thành An, lúc 21 tuổi, vào làm đài phát thanh Sài Gòn và kết thân với Nguyễn Đình Toàn. Tình bạn và có lẽ sự đồng điệu giữa hai tâm hồn nghệ sĩ đã cho ra đời hai nhạc phẩm bất hủ : "Tình Khúc thứ Nhất" và "Em đến thăm anh đêm ba mươi", nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.
Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai
Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài
Lời nào em không nói em ơi
Tình nào không gian dối
Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say
"Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai"… ý tưởng lạ, ca từ đẹp, nhạc hay, đã giúp cho hai ca khúc này trở thành ‘bất tử’, ra đời hơn 50 năm về trước mà cho tới giờ vẫn làm xúc động người nghe, những ‘fan’ mới thuộc các thế hệ đến sau.
Trong một cuộc trao đổi với VOA trước đây, nhạc sĩ Vũ Thành An nói nhà thơ Nguyễn Đình Toàn đã "thổi hồn" vào bản nhạc, đặt tựa và lời cho "Tình khúc thứ Nhất", mà ông đã sáng tác để tặng một người bạn.
"Hồi đó tôi có người bạn gái thân muốn tôi viết bài nhạc tặng cô ấy, tôi viết xong, cũng có cả lời, rồi đưa cho anh Toàn nghe thì anh Toàn chê lời tôi viết không hay. Anh bảo để anh đặt lời cho. Hồi đó anh cũng có một người bạn cho nên cũng muốn viết một tình khúc để tặng bạn của anh. Phải nói là khi viết nhạc, tôi cũng chưa thấy được cái nét đặc biệt của tình khúc ấy, sau khi anh Toàn viết lời vào thì thấy là quả thật, nó là một bài hát rất là… có hồn. Chính anh ấy là người đặt tên cho bài này là bài Tình khúc thứ nhất, và đồng thời anh ấy cũng bảo tôi nên lấy tên thật là Vũ Thành An chứ không cần lấy tên hiệu gì cả".
Với Tình khúc thứ nhất, nhạc sĩ Vũ Thành An xuất hiện trên bầu trời âm nhạc, mở màn cho loạt bài Không Tên, đưa tên tuổi Vũ Thành An vào lịch sử âm nhạc miền Nam.
Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An còn hợp tác để thực hiện Chương trình Nhạc Chủ Đề. Theo lời Vũ Thành An thì linh hồn của chương trình này cũng là Nguyễn Đình Toàn, chính ông nảy ra ý tưởng thành lập chương trình, kêu gọi Vũ Thành An đệ đơn xin lập chương trình, viết lời giới thiệu và đọc những đoạn dẫn nhập đó cho các ca khúc chọn lọc với những giọng ca nổi bật nhất thời đó.
Tù cải tạo
Mất Sài gòn, do dự mãi không biết nên đi hay ở, cuối cùng Nguyễn Đình Toàn bị bỏ lại, và như các văn nghệ sĩ ở lại, bị tập trung đi ‘học tập cải tạo.’
Ra tù, Nguyễn Đình Toàn sáng tác hơn 50 ca khúc với bút danh Hồng Ngọc. Có lẽ được nhiều người Việt tị nạn đồng cảm nhất là bài "Nước Mắt Cho Sài Gòn", viết lúc Nguyễn Đình Toàn còn ở trong tù, ca khúc được tuồng ra nước ngoài qua trung gian Hồ Trường An, tới tay tạp chí Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, được Jeannie Mai trình bày đầu tiên, nhưng bản nhạc cất cánh với giọng ca Khánh Ly dưới tên "Sài Gòn, Niềm Nhớ Không Tên", ghi tên tác giả là "Người ở lại". Băng nhạc ‘Người Di Tản Buồn’ phát hành năm 1979 có cả "Sài Gòn, Niềm Nhớ Không Tên" và "Người Di Tản Buồn" của nghệ sĩ Nam Lộc gây tiếng vang lớn trong các cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi.
Nước Mắt Cho Sài Gòn - Trình bày : Nguyên Khang - Nhạc : Nguyễn Đình Toàn - Hoà âm: Trúc Hồ
Tới cuối năm 1999, sau khi định cư ở Mỹ gần 1 năm, Nguyễn Đình Toàn mới chính thức ra mắt một số ca khúc sáng tác sau năm 1975 trong 3 tập nhạc : Hiên Cúc Vàng (1999), Tôi Muốn Nói Với Em (2001) và Mưa Trên Cây Hoàng Lan (2002).
Nguyễn Đình Toàn : liệu thơ có như người ?
Đối với một tâm hồn nghệ sĩ mẫn cảm, những trải nghiệm cay đắng do biến đổi của thời cuộc và các trải nghiệm trong tù cải tạo, chắc hẳn phải có ảnh hưởng sâu đâm tới tác giả và tác phẩm. Đời thực của người nghệ sĩ thì sao ?
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái :
"Thỉnh thoảng những người hay đến chơi với anh, ngồi hút thuốc lá, uống một tí rượu hay nghe anh nói chuyện, uống trà, cà phê… thì có lúc thấy được cái khoảnh khắc mà Nguyễn Đình Toàn cảm thấy cuộc sống này nó đáng chán, nhưng mà bình thường thì Nguyễn Đình Toàn hóm hỉnh lắm".
Đinh Quang Anh Thái nhắc đến một bài thơ khác của Nguyễn Đình Toàn ít người biết đến mà ông và tác giả khá tâm đắc. Đó là bài "Tro Tàn", viết năm 1984.
Ta yêu nhau trong nghèo khó
Khi quê hương tàn phá
Được mấy ngày vui trong đời
Tóc biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta xa nhau vào lúc xa đời
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Cứ coi là mất coi là hết
Lật ngửa bàn tay mà cắt dây
"Tôi tâm đắc cái câu : ‘Bóng bỏ theo người/ Đổ một lần cho hết cuộc rủi may’. Đó là tâm tư của một Nguyễn Đình Toàn mà thảng hoặc, thấy anh như hốt hoảng trong cái cuộc sống trên cái cõi tạm này".
Giờ bóng đã "bỏ theo người". Người nghệ sĩ đa năng, tài hoa đã ra đi ‘vào sương đen’, những lời ông viết trong bài "Mai Tôi Đi" khi rời Việt Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, giờ diễn tả tâm trạng của những người ở lại.
Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc, tẩm vào người nỗi chết
Quê hương ta sống chia giòng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin
Phu nhân Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thu Hồng, trong chương trình Đọc Sách của VOA, qua đời ngày 24/2/2021, hưởng thọ 78 tuổi. Với sự ra đi của người vợ hiền mà ông đã đền đáp ân tình bằng cách tận tình chăm sóc trong nhiều năm, có lẽ không còn gì trên cõi tạm này để níu kéo ông.
Nguồn : VOA, 30/11/2023
*************************
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn, trong cuộc trò chuyện cuối
Tuấn Khanh, RFA, 29/11/2023
Trong cái chớp mắt của cõi nhân gian, lại bàng hoàng nhận ra một cái tên quen thuộc nữa đã ra đi. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã rời bỏ nơi trần thế, ra đi vào lúc 7 giờ 15 phút tối Thứ Ba, 28/11/2023, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 87 tuổi.
Năm 1998 nhà văn Nguyễn Đình Toàn đến Mỹ, góp vào khung trời ký ức mang theo của người Việt hải ngoại về một thời thi ca nhạc họa lẫy lừng miền Nam, có Nguyễn Đình Toàn như người kể chuyện âm nhạc độc đáo Sài Gòn, qua sóng phát thanh. Nhà thơ Du Tử Lê từng gọi ông là một nghệ sĩ như người tình không chân dung của người yêu nhạc, vì người nghe mê say cách ông trình bày một ca khúc, diễn đạt một ý niệm, mô tả về hình ảnh như du vào mộng, mở cửa vào khu vườn bí mật của mỗi tối thứ Năm, chương trình nhạc chủ đề.
Vào giai đoạn đó, nhà văn Nguyễn Đình Toàn như một người dẫn chương trình độc đáo, nâng bước cho nhiều nghệ sĩ. Về sau, nhiều bài hát hay album của những ca sĩ từng được ông giới thiệu trên đài, vẫn hay chép lại những mô tả của ông để in trên bìa băng, bài nhạc như khẳng định uy tín. Chẳng hạn, Nguyễn Đình Toàn đã từng giới thiệu về Khánh Ly, mà về sau câu nói của ông luôn được dùng lại trong các giới thiệu : "Khánh Ly – người đàn bà hát những bài tình ca không hạnh phúc".
Nói về nghề phát thanh viên, Nguyễn Đình Toàn đã mở ra một cách thức mới mẻ, bằng tiếng nói nhỏ nhẹ, giọng Bắc 1954 êm nhẹ như ru ngủ, cộng với văn tài của ông mà về sau gần như không có ai có thể thay thế. Nhiều người vào nghề sáng tác, ca hát đã bỗng chốc quen thuộc với khán giả.
Trong một cuộc trò chuyện, có người đã ví ông tài năng như Oprah Winfrey. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Đình Toàn còn vượt qua ngưỡng ấy, vì ông không là show diễn, mà dùng tiếng nói của mình chải chuốt lòng người Việt trong những giai đoạn chiến tranh điêu tàn, vượt qua những giằng co khác biệt chính trị, mở ra một khung trời thơ mộng trong đêm tối, mang hy vọng cho ngày mai.
Những tác phẩm đã bị đốt sau 1975 của nhà văn Nguyễn Đình Toàn
Nhưng nói gì thì nói, Nguyễn Đình Toàn cũng không vượt qua được con mắt soi xét của chính quyền mới. Sau năm 1975, ông cùng với những bạn văn, bạn thơ, bạn nhạc… lần lượt đi vào trại giam vì bị coi là thành văn hóa đồi truỵ, những tên biệt kích văn hoá. Công an ập đến tổng cộng hai lần và ông đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm.
"Họ dọn đi tất cả sách vở, tài liệu, huy chương, giải thưởng… nói là để nghiên cứu tội của tôi", nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói, giọng nhỏ nhẹ như kể chuyện trong một tiết mục trên đài. Các tác phẩm của ông bị truy vết từng con chữ để lần ra chuyện, trong ý niệm của các điều tra viên. Sau cùng thì các tác phẩm của ông bị đốt làm gương, và một số được giữ lại trong Bảo tàng Tội ác Mỹ Nguỵ như chứng tích, trong một thời gian.
Một trong những kỷ vật bị lấy đi, mà ông nhớ tiếc trong nhiều năm, đó là chiếc kỷ niệm chương Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1972-1973, trao cho tác phẩm Áo Mơ Phai – tiểu thuyết nhiều kỳ đăng trên nhật báo Xây Dựng. Tác phẩm dày 300 trang, câu chuyện qua ánh mắt của một người Hà Nội về nơi chốn của mình.
Cứ tưởng đó là một câu chuyện đời, mà đó lại là câu chuyện của một Hà Nội muôn thuở sắp mất, mất mãi mãi. Một người trẻ Hà Nội đọc tác phẩm này vào năm 2021, và để lại lời nhận xét "Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu".
Vào Nam, mang theo trong mình ký ức một thành phố yêu thương của mình, Nguyễn Đình Toàn dựng lại trong ngôn từ, dựng lại trong tiếc nhớ và dựng lại cho những người đọc về sau. Mà không chỉ Áo Mơ Phai, trong nhiều tác phẩm khác của mình, ông đều dựng nên một không gian lạ lùng định danh Nguyễn Đình Toàn như vậy.
Nhắc về Giải Văn học Nghệ thuật, mà người ta còn gọi tắt là giải thưởng Tổng thống Thiệu, tuyên ngôn của giải này được ghi rằng "Mục đích Giải chính là nhằm tuyên dương các nỗ lực chấn hưng văn hóa Việt Nam trong hoàn cảnh thế giới mới có những chuyển biến hết sức phức tạp, cũng là nêu cao chính nghĩa và khát vọng hòa bình, có nhiệm vụ quảng bá đặc sắc truyền thống nước Việt ra bằng hữu khắp năm Châu".
Vì ý nghĩa này nên ngoài tấm Kỷ Niệm Chương, người đoạt giải còn nhận được tiền thưởng là 600,000 đồng. Nhà văn Ngô Thế Vinh có nhắc là vào lúc ông Nguyễn Đình Toàn nhận được số tiền đó, nhà văn Nhật Tiến mua một xe hơi Renault 4CV, là xe được coi là ngon lành lúc đó, với giá có 400,000 đồng.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể, khi lục soát mọi thứ mang đi, viên công an mang ra tấm Kỷ Niệm Chương bằng đồng, lớn như miệng chén, trên đó có in nổi dòng chữ "Việt Nam Cộng Hòa – Tổng thống", hỏi cái này là cái gì. Ông giải thích đó là giải thưởng văn học. Không nói không rằng, viên công an đưa tấm Kỷ Niệm Chương vào hồ sơ tang vật.
Kỷ Niệm Chương và tác phẩm Áo Mơ Phai
Trải qua lần tù thứ hai, ông được về và phải trình diện với công an khu vực mỗi tuần, và không được viết cho đến lúc đi. Kỳ diệu thay, nhiều năm sau, một người Bắc rành rẽ chuyện văn chương thi họa miền Nam chợt nhận Kỷ Niệm Chương có khắc tên ông nằm ở vỉa hè bán hàng lạc-xoong. Mua lại với giá bằng hai chai bia, người này tìm cách gửi lại cho ông. Nghe đâu, những tang vật như vậy, sau năm 1995, người ta tìm thấy được bán rải rác ở các nơi bán đồ cũ, sưu tầm ở miền Bắc khá nhiều.
Đưa tấm Kỷ Niệm Chương cho chúng tôi xem, ông cười nói "Nó như định mệnh, mà đã là định mệnh dường như là ta không dễ từ bỏ". Lần cuối, Tháng Năm 2023, đến thăm ông, lúc này ông đã yếu và quên nhiều nhưng vẫn giới thiệu lại chuyện tấm Kỷ Niệm Chương.
Gọi con trai mình, anh Nguyễn Đình Thư, mang ra bộ sách cuối cùng của mình để ký cho chúng tôi, ông không còn giữ vững được cây bút. Chữ viết và chữ ký chồng lên nhau ngọn xanh như núi, nhìn không còn được chữ. Ký xong, nhìn lại, ông lại cười "Ừ thì đó là tôi, chữ loạng choạng như người rồi".
Trò chuyện những giờ cuối với nhà văn Nguyễn Đình Toàn, hỏi ông nhớ gì Việt Nam. Ông thừ người chốc lát rồi nói "chỉ nhớ con đường làng". Không biết được là ông nhớ con đường làng nào, rồi hỏi ông có buồn hay giận gì về những điều đã mất của mình ở Việt Nam không, ông lắc đầu cười nhẹ như đứa trẻ, không giận không buồn, người như đã chuẩn bị sẵn hành trang cho mình là một chuyến đi xa thật thảnh thơi.
Và rồi khi hay tin ông mất ở miền Nam Cali, mới chợt nhận ra rằng ông là người đã tạo ra khu vườn bí mật, cũ kỹ mà nao lòng, xa xôi mà rộng lớn vô cùng trong thời đại của chúng ta – những người miền Nam với mãi mãi văn hóa miền Nam. Nhưng hụt hẫng biết bao, là ông – cây cổ thụ to lớn, thâm sâu nhất trong khu vườn bí mật của ký ức của chúng ta, đã vẫy tay lìa bỏ địa đàng.
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 29/11/2023
********************************
Nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn : Trọn đời mang theo ‘quê hương thu nhỏ’
Kalynh Ngô, Người Việt, 29/11/2023
Nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tác giả bài hát nổi tiếng "Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên" và từng một thời phụ trách chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975, vừa qua đời lúc 7 giờ 15 phút tối Thứ Ba, 28 Tháng Mười Một, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 87 tuổi.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. (Hình : Tài liệu Người Việt)
Nửa đêm về sáng Thứ Tư, 29 Tháng Mười Một, tin nhắn từ chị Nguyễn Đình Phượng Uyển, con gái của nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, cho hay : "Ông đã đi rất thanh thản".
Vậy là, sau 87 năm "bước lạc sa xuống trần", "người tình không chân dung" (theo cách gọi của cố thi sĩ Du Tử Lê) của hàng triệu thính giả miền Nam Việt Nam trước 1975 đã trở về với "Quê Hương Thu Nhỏ" của ông.
Sài Gòn niềm nhớ không tên - Khánh Ly | ASIA 9
Chương trình "Nhạc Chủ Đề"
"Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người, bao giờ cũng được bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em, trong tất cả tiếng động ngù ngờ nhất, của cái ngày sung sướng đó, tiếng gió mây thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố…".
Lời giới thiệu trên rất quen thuộc với những ai đã lớn lên ở Sài Gòn, sống và thở với khói lửa chiến tranh, tâm hồn được sưởi ấm bằng nền văn học nghệ thuật miền Nam. Tiếng nói trầm ấm ấy là của nhạc sĩ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, một thời phụ trách chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975.
"Mỗi tuần, tôi và nhóm bạn nữ của trường Gia Long lại tụ họp nhau ở nhà của một người, háo hức chờ đón nghe chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn. Đó là một trời hoa mộng của chúng tôi", bà Thảo Hà Nguyễn, từ Maryland, nói về ký ức thời áo trắng của bà dưới sân trường miền Nam ngày cũ.
Những ngày tháng đó, cứ mỗi tối Thứ Năm, trên đài phát thanh Sài Gòn, tiếng nói của ông lại vang lên, ru thính giác người nghe vào những ca khúc trữ tình bằng lời nói ngọt ngào, tình tứ về những cuộc tình được ươm mầm, sinh ra, lớn lên, rồi… chết, chết trong bất tử, trên chính mảnh đất quê hương. Ông chuyển đến thính giả các ca khúc với lời giới thiệu truyền cảm, tình tứ và nhẹ như tơ.
Thơ và văn
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 Tháng Chín, 1936, tại huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1954, ông di cư vào Nam.
Ông đóng góp nhiều sáng tác văn học nghệ thuật dưới nhiều dạng như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, và bút ký. Tác phẩm "Áo Mơ Phai" của ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam Cộng Hòa năm 1973.
Ông cũng viết nhiều truyện dài đăng thành nhiều kỳ trên các báo miền Nam Việt Nam như tạp chí Văn, Văn Học và các nhật báo như Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, và Tiền Tuyến.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn có bút hiệu ban đầu là Tô Hà Vân nhưng thành danh với tên thật và cũng là bút hiệu của ông sau này. Lời giới thiệu của ông trong chương trình Nhạc Chủ Đề luôn cuốn hút thính giả, truyền tải đến người nghe bằng những ngôn từ trau chuốt, êm như thơ, như nhạc. Đó là vì ông vốn là một nhà thơ, nhà văn.
Giới yêu thơ của những năm 1960 say mê nhân vật Phạm Thái và Trương Quỳnh Như trong bài thơ "Khúc ca Phạm Thái", một bài thơ phổ thành kịch thơ, nằm trong tập thơ "Mật Đắng" mà sau này, vì một lý do riêng, ông đã đốt hết.
Khúc Ca Phạm Thái - Nguyễn Đình Toàn
Ngày gặp lại ông ở Little Saigon, trong căn nhà nhỏ chứa đầy sách vở, ông kể lại, năm vừa ngoài 20 tuổi, ông bị lao phổi nặng. Khi ấy, ông và người vợ tào khang, "Tú Xương" Nguyễn Thị Thu Hồng vừa có người con đầu lòng. Ông bị ho ra máu, sức khỏe suy yếu và thường bị ám ảnh bởi cái chết.
"Lúc đó, tôi sợ lắm rồi, tôi thật sự không muốn theo công việc (viết) ấy nữa. Tôi đốt hết những gì tôi viết. Cuối cùng có một người bạn mang đi được đoạn cuối cùng của vở kịch. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là mối tình không thành. Họ yêu nhau nhưng không lấy nhau".
Thời ấy, giới yêu văn học miền Nam biết đến ông với tác phẩm nổi tiếng "Áo Mơ Phai" đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam Cộng Hòa năm 1973, còn gọi là giải thưởng Tổng thống Thiệu.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn di cư vào Nam năm 1954. Hơn 300 trang của "Áo Mơ Phai" là dự cảm của một người yêu Hà Nội nồng nàn về một thành phố sắp không còn nữa.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn và phu nhân (hàng đầu, thứ nhất và thứ nhì, từ phải sang trái) trong Đêm Nhạc Nguyễn Đình Toàn "Môt ngày sau chiến tranh" tổ chức tại phòng sinh hoạt báo Người Việt, Tháng Tư, 2019. (Hình : Văn Lan/ Người Việt)
Chính tác giả đã nói về tác phẩm của mình trên một Tạp Chí Văn Học năm 1974 : "Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu… Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi".
Sau năm 1975, ông bị bắt và "tù cải tạo" 10 năm mới được thả. Năm 1998, ông cùng gia đình xuất cảnh sang Mỹ, định cư ở Nam California, và tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Hơn 30 năm sau khi Áo Mơ Phai ra đời, tại Đài Á Châu Tự Do (RFA) ở Washington DC, nhà văn Nguyễn Đình Toàn chia sẻ : "Tôi viết cuốn sách đó chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử như chịu đựng sự đổi thay của thời tiết".
Chính ông cũng không ngờ, khoảng 30 năm sau, Áo Mơ Phai lại mang đến cho ông "giải thưởng thứ hai" trên quê hương thứ hai. Có lẽ giải thưởng này, ý nghĩa hơn rất nhiều với ông, người đã chịu 10 năm "tù cải tạo", nhiều lần "bước chân xuống thuyền bỏ lại quê hương", theo lời ông nói.
Một buổi sáng Tháng Tư của năm 2019, ngay tại Little Saigon, nơi ông định cư từ năm 1988 theo diện đoàn tụ gia đình, người nghệ sĩ kể lại.
"Năm 1975 vào, họ bắt hết những nhà văn, tịch thu hết sách vở. Tôi cũng bị như thế. Huy chương này, khi họ làm biên bản thì họ mang theo. Tôi nghĩ là họ sẽ cất làm tài liệu về hoàn cảnh đất nước lúc đó. Tôi không ngờ sau đó, hơn 10 năm sau, có một người, không biết ở đâu, chỉ biết là ở Mỹ, gọi điện thoại cho tôi, nói là ‘cháu có mua được một huy chương từ một chỗ bán đồng nát. Cháu thấy tên của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nên cầm lên xem, khi lật ra mặt sau thì thấy tên của bác.’ Anh ấy xin tôi địa chỉ và đến vào đúng ngày lễ của Cha (Father’s Day). Anh ấy đến tận đây, đưa tôi cái này và nói ‘coi như cháu trao giải này lần thứ hai cho bác’".
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn và phu nhân, bà Nguyễn Thị Thu Hồng. (Hình : Nhiếp ảnh gia Mai Dung)
‘Quê Hương Thu Nhỏ’
Những lần mà người nghệ sĩ Nguyễn Đình Toàn phải đau đớn tìm cách bước chân xuống tàu, tách lìa ra khỏi quê hương mình, ông thú nhận mình đã mang theo nỗi sợ hãi khôn cùng vì đối diện với sương đêm. Ông sợ cái chết và sợ cả phải dứt bỏ cái gì rất thiêng liêng.
"Khi sống với cảm giác ấy, tôi có cảm tưởng như mình đứng không vững nữa, tức là mình chênh vênh trên một cái gì đó. Từ đó trở đi chắc là mình đứng không vững nữa, mà quả thật là như vậy", ông nói.
"Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ như vậy. Như cái cây mà bị bứng ra khỏi đất của nó đó, thì mang sang trồng sang chỗ nào khác thì nó cũng có thể sống được, nhưng hoa trái của nó sẽ không còn mang cái vị của nó nữa. Thành ra, khi người ta ước mơ người ta đi thì có nghĩa là cái đất nó đã chua rồi. Chỉ có đi thì may ra còn nuôi được, chứ tình cảm trong đó thì đã chết hết".
Và từ đó, ông không viết văn nữa. Không viết nữa vì : "Tôi gọi là đất đã chua cành đã chết rồi, không có cây nào mọc được nữa rồi. chỉ có một giống nào đó cấy với nhau thì nó mới mọc được".
"Nó giống như người không có chỗ trú thân. Tách rời ra khỏi quê hương, từ bỏ quê hương thật của mình thì chỗ khác không thể nào thay thế được đâu".
Trong nhạc phẩm, và cả thơ ca của nghệ sĩ Nguyễn Đình Toàn, ông chưa bao giờ tách lìa tình yêu trai gái ra khỏi tình đất nước. Hai lần, ở hai thời điểm, hai địa điểm khác nhau, ông đều nói : "Tình yêu quê hương và tình yêu trai gái gần như là một. Khi thu nhỏ lại thì là tình của hai người, nhưng cũng cái tình ấy khi phóng lớn lên thì nó là tình hoài hương".
"Quê Hương Thu Nhỏ là ca khúc ông viết sau năm 1975. Lúc đó, "không còn cách nào khác", theo cách diễn đạt của ông về Sài Gòn không còn nữa. Ông muốn tìm một hình ảnh nào đó mà có thể trọn vẹn ôm gọn ý nghĩa một "quê hương thu nhỏ".
"Tôi nhớ hình ảnh một người phụ nữ, kiếm sống bằng cách hằng đêm, bà thắp đèn hột vịt, bày ra chiếc bàn nhỏ, bán thuốc lá. Cho dù lúc đó tiền ăn không có, ai hút thuốc lá làm gì", ông kể.
"Hình ảnh đó tôi cho là quê hương thu nhỏ của mình, để người viễn xứ mang cho vừa đó mà".
Không cần lớn lao, không cần vĩ đại. Tình yêu quê hương của người nghệ sĩ chỉ cần là một ánh đèn dầu heo hắt bên xa lộ, với cuộc sống mưu sinh cơ hàn trên chính mảnh đất quê hương, nay đã không còn.
Huy chương Giải Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam Cộng Hòa mà nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận được cho tác phẩm "Áo Mơ Phai". (Hình : Kalynh Ngô)
Người nghệ sĩ hơn 80 tuổi, mắt ông đã nhoà hơn xưa rất nhiều, tay đã run, nhưng những gì thuộc về quê hương của ông thì bất tử trong tâm trí.
Ông nói : "Người nghệ sĩ là cuống rốn của quê hương. Nếu tách lìa nhau thì người nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ nữa".
35 năm trước, ông đã đi để giữ quê hương trong sâu thẳm một góc cuộc đời mình. Ông đi để nhớ mãi những đêm hè, quán nhạc. Ông đi để còn có thể gọi tên "người tình" của mình, "người tình" mà ông gọi là Sài Gòn.
35 năm sau, ngày 28 Tháng Mười Một, ông lại ra đi một lần nữa.
Chị Nguyễn Đình Phượng Uyển, người kịp từ nước Úc bay về bên cạnh ông những ngày cuối cùng, nói rằng : "Ông đã chiến đấu cho cuộc đời mình. Ông rất dũng cảm. Đã ba, bốn lần thập tử nhất sinh, nhưng ông đều vượt qua. Hôm nay, ông đã nhẹ nhàng, thanh thản đi gặp mẹ của tôi".
Hành trang của ông lần này, chắc chắn ông vẫn mang theo "Quê Hương Thu Nhỏ" của mình.
Kalynh Ngô
Nguồn : Người Việt, 29/11/2023
"Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó : một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của những ngày sung sướng đó. Tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố, ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thửa thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa Hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về. Gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố".
Nguyễn Đình Toàn. (Hình : Đinh Quang Anh Thái)
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn mở đầu như thế, trong chương trình "Nhạc Chủ Đề Tình Ca Quê Hương" do anh phụ trách hàng tuần vào mỗi tối Thứ Năm trên làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn trước năm 1975.
Giọng Bắc, sang, trầm, buồn, tác giả "Áo Mơ Phai" đã làm say đắm lòng người với hàng trăm buổi tối "Nhạc Chủ Đề". Thuở ấy, nhiều người, bận gì thì bận, tối Thứ Năm cũng phải về để bắt kịp Nguyễn Đình Toàn :
"Chiều đang xuống trên đường về, mệt mỏi giăng mắc quanh tôi, như vòng tay của tình yêu quyến rũ. Sương lam buông kín trên ngọn cây như khói của buổi chiều đang thắp hương cầu nguyện. Tôi yêu em như con ong say mật ngã vào lòng bông hoa. Tình yêu giống như cái chết nuốt trôi tất cả. Trong đám cỏ may, tiếng gió nào đang khóc và trên trời, những đám mây bay giống như những kẻ bại vong. Chiều trở về trong nỗi tiếc thương. Lòng ta ta không hiểu nữa là ai thấu hiểu. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả. Đêm bắt đầu trải dài dưới bước chân đi, sao trên cao nín thở đếm thời gian, trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả".
***
Một buổi chiều cuối năm, đến thăm tác giả "Áo Mơ Phai".
Bước ra khỏi xe, ngước nhìn lên căn nhà trọ, đã thấy bóng anh hắt qua khung cửa sổ. Anh nhìn xuống, tôi đoan chắc là anh chỉ thấy thấp thoáng bóng người từ xa. Mắt anh đã mờ, vì khói bụi cuộc đời – và cả tình người - kể từ ngày thoát khỏi những năm tháng nghiệt ngã trong nhà tù ; rồi đặt chân đến Mỹ.
Căn nhà trọ một phòng u ám, anh đứng dậy mở cửa, lưng như trĩu xuống vì sức nặng cuộc đời, lao chao như vừa thoát ra khỏi cái bóng của ngọn đèn vàng vọt trên trần chiếu xuống bàn ăn.
Trở lại chỗ ngồi cố hữu nơi cửa sổ, giọng anh yếu, nhưng vẫn còn hơi hướng Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối Thứ Năm ngày nào. Anh bảo, chán thật, thế mà đã ngoài "tám bó". Nghe mà giật mình, thoáng chốc anh đã bước vào tuổi 82.
Nhớ những buổi tối Thứ Sáu vừa ra khỏi tù năm 1984, trên căn gác nhà bác Dzoãn Quốc Sĩ, bác gái cho ăn bữa cơm đạm bạc, có anh Nguyễn Đình Toàn, anh Thanh Tâm Tuyền và anh Duy Trác. Chỉ là kẻ hậu bối hàng con cháu, tôi ngồi hóng chuyện những tên tuổi lẫy lừng của làng văn, và học được vô số điều trân quý. Giá lúc ấy anh Toàn đồng ý cùng tôi đào thoát và may mắn như chuyến đi của tôi ít tháng sau đó, anh đã có thể chữa được bệnh mắt. Hỏi anh sao nhất quyết ở lại, anh bảo, nghệ sĩ như cái nhau của thai nhi và quê hương như bà mẹ, một khi cái nhau bị cắt rời khỏi cuống là lúc nguồn nuôi dưỡng trực tiếp đứa bé không còn nữa.
Ngày chia tay anh ở Sài Gòn, thoắt cái đã hơn 30 năm. Rốt cuộc anh cũng đành phải ra đi. Hỏi anh, quê hương trong anh bây giờ ra sao, anh nói "tận cùng của tình yêu chính là nỗi nhớ quê nhà ; đôi lứa là quê nhà ; hạnh phúc lẫn khổ đau cũng là quê nhà", rồi anh cho nghe một đoạn anh từng đọc năm nào nơi quê hương giờ đây đã cách xa nửa vòng trái đất :
"Ngày đã tàn nhưng mưa chẳng chịu ngừng giây lát, chiều âm u như giấc ngủ không yên. Những cành tre nào lạ ngọt dưới những giọt nước u sầu. Quê hương ở phương nào trong bốn phương mù mịt. Tiếng chim kêu buồn trên những cành cây khô. Ngày sắp tàn cùng với cuộc tình đã rũ áo ra đi. Tình yêu rực sáng như trân Châu trong bóng mờ của trái tim ẩn kín đã tắt cùng với ánh sáng thảm thương của một ngày Thu buồn nhưng cũng đủ làm vọng lên trong ta những giây phút hoan lạc của một thời nơi quê nhà yêu dấu. Bên bếp đỏ tro than, em hãy hơ nóng hai bàn tay rét mướt. Ngày gần nhau đã vĩnh viễn xa rồi. Liệu có kiếp nào mai sau cho chúng ta những ngày đầm ấm ?".
Hỏi anh giờ này anh mong gì, anh nói, chả biết mình mong gì nữa, "ngày hai bữa nấu cơm cho vợ ăn là đủ hết ngày rồi", còn mong gì nữa.
Chị Hồng, vợ anh đau bệnh. Mà chính bản thân anh cũng nào khá hơn, anh cũng đã "làm bạn" với tật bệnh từ nhiều năm nay.
Tôi gợi lại anh về "Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn", anh nói, chắc chẳng còn bao người nhớ đến ; thế hệ trẻ bây giờ, khó cho họ để cảm được cái cảm của một thời vang bóng đó. Tôi nói với anh, dù thế nào chăng nữa thì vẫn phải "gìn vàng giữ ngọc", vì đó là dấu ấn trong lòng nhiều người trong một giai đoạn tan nát nhất của đất nước.
Hai anh em ngồi với nhau, có những lúc thinh lặng không một lời. Tôi cảm được nỗi cô quạnh đang bủa vây anh. Tôi nói, anh cho em nghe thêm đi, những lời thì thầm anh vẫn cất lên vào những tối Thứ Năm xưa cũ.
"Tình chúng ta bắt đầu vào một Thu rất xa xôi, khi những chùm Hoa Thạch Thảo ngát hương trên những lối đi quanh. Mùa Thu bắt đầu trên giòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cách rừng. Mùa Thu với áo mơ phai, chiều võ vàng, với xác hoa trên mình bướm. Em đã đến với anh như đám mây Tháng Bảy nặng mưa rào. Em hãy đừng quên, dù bây giờ mùa Thu đã chết. Những mùa Thu khác có thể trở về nhưng mùa Thu của chúng ta đã chết. Anh không bào giờ quên những ngày sung sướng, hạnh phúc đó. Đừng quên nhau, dù đôi chúng ta chẳng còn tao phùng được nữa".
"Hãy cầu nguyện cho tình ta dù một ngày tình đã vỡ tan. Cầu nguyện cho sự yên vui hằng cửu của mỗi người. Cầu nguyện cho sự tình cờ sầu hận đã đưa chúng ta đến với nhau. Khi em bước ra khỏi đời, anh chỉ còn hai bàn tay không với những chuỗi ngày cô quạnh. Đời có người khôn ngoan, có kẻ dại khờ. Có những đôi mắt cười, có những đôi mắt khóc. Riêng trong mắt anh, có điều gì như đang tan trong lòng. Em làm sao hiểu được từ ngày em bỏ đi, anh đã rã mục dưới gánh nặng của trái tim. Có những người tiến xa trên đường đi, có những kẻ lẽo đẽo theo sau. Có người tự do, có người tù túng. Riêng anh đứng lại rã rời dưới gánh nặng u buồn của trái tim mình".
"Em có nhìn thấy mây giăng kín buổi chiều, nhìn thấy giòng sông trôi. Ngày đã muộn và con thuyền đã theo sóng trôi xa. Em có nhìn thấy mây giăng kín bầu trời, nhớ lại những ngày chúng ta còn gần nhau. Những trận gió từ phương Nam thổi về lòng anh đầy nỗi nhớ nhung. Anh không thể nào nhớ chúng ta đã xa nhau giữa mùa Xuân hay mùa Hè. Bởi vì mắt anh đã tràn ngập sương lam mỗi lần nhớ tới em, mỗi lần anh dõi theo chân trời nơi anh tưởng rằng có em. Ôi ! ngôi mộ của bình minh nơi em cư ngụ. Anh muốn tan thành giòng nước cuốn trôi đến nơi mênh mông cô quạnh ấy. Anh muốn được cùng em tan trong ánh sáng rạng rỡ của ngày bắt đầu, và được cùng em, hòa trong ánh chiêu dương khi chiều trở lại".
Khói thuốc tỏa ra từ cái tẩu, anh chìm trong hoài niệm và như đang bềnh bồng trên đôi cánh chim bay về cố hương. Anh bảo, để anh đọc cho chú nghe bài thơ anh viết ở Sài Gòn năm 1984. Bài "Tro Tàn" :
Ta có thở khói thương nhau
Tình cũng như nhang tàn
Ta còn nương náu trong đời không bao lâu
Lòng có đau thì cũng như nắng qua chiều
Thôi cũng nhẹ
Ta yêu nhau trong nghèo khó
Khi quê hương tàn phá
Được mấy ngày vui trong đời
Tóc biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta xa nhau vào lúc xa đời
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Cứ coi là mất coi là hết
Lật ngửa bàn tay mà cắt dây
Dẫu cho còn có khi nào nữa
Gặp lại được nhau cũng muộn rồi
Đừng hỏi tình xa bao lâu tình sẽ lạ
Và hỏi người chia xa nhau lòng có sợ
Gương lạnh bóng mờ
Còn một phần ba cây nhang đợi cháy vội
Đội một hòn than chôn chân sầu đứng đợi
Tro tàn rụng rơi.
***
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Ừ, anh nói, cũng đã sắp tới lúc "bóng bỏ theo người".
Nhìn những thùng sách chất chồng trong căn phòng hẹp của anh, tôi hỏi, "Nguyễn Đình Toàn tiểu thuyết 1 và 2" có được độc giả chú tâm không, anh cười nhưng không dấu được chua chát : "cứ xem đây là lần in cuối cùng dành tặng bằng hữu".
Ngồi chơi với anh rồi cũng phải về. Anh đóng cánh cửa sau lưng tôi và nói vói theo : "Đã thấy ta gần với cái xa".
Câu thơ này, anh đã đọc cho tôi nghe hôm đám tang Nhạc sĩ Nhật Ngân buổi sáng Mùng Sáu Tết năm nào.
Theo đoàn người sau quan tài, đi ngang nơi an nghỉ của Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, anh Toàn ngồi xuống bãi cỏ trước mộ phần anh Yến, đọc cho nghe trọn bài thơ "Đã Nghe" :
Đã nghe đời xa ta
Người xa ta
Tình xa ta
Như cây khô trút dần hết lá
Đường đang đi bỗng như
Chập chờn có sóng đưa
Xô dồn
Trong một lối về
Đã thấy quanh ta đời quạnh quẽ
Những tiếng xôn xao im dần đi
Đời một phía ta trôi về một phía
Có phải ta mù dở hay sương che
Những bóng hình xưa
Nhập vào trong ước mơ
Giờ cũng bay ra làm gió
Ta có quên đâu
Nhưng nhìn xem cũng lạ
Hoa ngỡ như không còn là hoa nữa
Những mặt người ta giấu trong ta
Dấu mốc đời qua
cười băng giá
Ta cũng không mong quay lại nữa
Trăng thoắt rơi ngang trên đường đi
Ta bỗng nghe ra bằng thịt da
Đã thấy ta gần với cái xa
Ô hay đất đá nào rơi lở
Hay tự lòng ta lấp lối về.
Rời căn phòng trọ của tác giả "Áo Mơ Phai", ngoái lại nhìn thấy dáng anh xiêu đổ.
Đêm California se lạnh, trong đầu bỗng vang lên câu cuối của bài thơ : "Hay tự lòng ta lấp lối về".
***
Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học (trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn) ; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến ; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.
Tác phẩm đã xuất bản :
Văn :
- Chị Em Hải (truyện, Nhà xuất bản Tự Do 1961) ;
- Những Kẻ Đứng Bên Lề (truyện, Nhà xuất bản Giao Điểm 1974) ;
- Con Đường (truyện, Nhà xuất bản Giao Điểm 1965) ;
- Ngày Tháng (truyện, Nhà xuất bản An Tiêm 1968) ;
- Phía Ngoài (tập truyện, viết chung với Huỳnh Phan Anh, Nhà xuất bản Hồng Đức 1969) ;
- Đêm Hè (truyện, Nhà xuất bản Hiện Đại 1970) ;
- Giờ Ra Chơi (truyện, Nhà xuất bản Khai Phóng 1970) ;
- Đêm Lãng Quên (Nhà xuất bản Tân Văn 1970) ;
- Không Một Ai (truyện, Nhà xuất bản Hiện Đại 1971) ;
- Thành Phố(truyện, Nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1971) ;
- Đám Cháy (tập truyện, Nhà xuất bản Tân Văn 1971) ;
- Tro Than (truyện, Nhà xuất bản Đồng Nai 1972) ;
- Áo Mơ Phai (truyện, Nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng 1972) ;
- Đồng Cỏ(truyện, Nhà xuất bản Đồng Dao/ Úc Châu 1994).
Thơ : Mật Đắng (thơ, Nhà xuất bản Huyền Trân 1962).
Kịch : Các vở kịch của Nguyễn Đình Toàn đều là kịch truyền thanh, trừCơn Mưa được trích đăng trong bộ môn Kịch Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, những bản thảo khác đều thất lạc.
Nhạc :
- Hiên Cúc Vàng (tập nhạc, 1999) ;
- Tôi Muốn Nói Với Em (tập nhạc, 2001) ;
- Mưa Trên Cây Hoàng Lan (tập nhạc, 2002).
Ký : Bông Hồng Tạ Ơn I & II (Nhà xuất bản Đêm Trắng 2006, 2012).
Áo Mơ Phai đoạt giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 1973.
(Trích "Nguyễn Đình Toàn Từ Đồng Cỏ Tới Áo Mơ Phai" trong tác phẩm "Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật Và Văn Hóa" của Nhà văn Ngô Thế Vinh).
(Tháng 12, 2017)
Đinh Quang Anh Thái
Nguồn : VOA, 06/12/2017