Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết ? Sở dĩ cần có sự sửa chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học Hubold State University (1).
Nhạc sĩ Phạm Duy
Phải nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C. Schafer tra cứu rất nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng khiến tôi giật mình. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3/1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô tình không để ý tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.
Nhưng cũng vì thế, ông tránh đề cập đến những "liên hệ có thể" của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc Trịnh Công Sơn hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4.
Những mối liên hệ này đã được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết : "Một quãng đời của Trịnh Công Sơn" trong đó có phần lật tẩy "Nguyễn Đắc Xuân" trong bài viết : "Trịnh Công Sơn, Cao nguyên bụi đỏ sương mù". Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John C. Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh Trịnh Công Sơn.
Nhất là những tranh luận ngay sau khi Trịnh Công Sơn chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận : Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.
Nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam -một hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết trong gang tấc- không thể nào mà không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn lựa cho mỗi người Việt Nam. Cho nên những bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy -dù là mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính nhân bản hay triết học cao- cũng xuất phát từ những hoàn cảnh chiến tranh Việt Nam.
Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của chiến tranh thì vẫn là chiến tranh nào ? Xác chết ấy do đâu mà đến ?
Mỗi xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ con -dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết bụi- thì cũng có một danh tính, một lý lịch. Và kẻ cầm súng nào thì cũng có một sắc phục, một mầu cờ… Không có cái chết chung chung, chết tình cờ, nhưng… không ! Vấn đề là con người đứng ở góc độ nào để nhìn những xác chết ấy.
Bài viết về Phạm Duy của ông John. C. Schafer chủ yếu dựa trên Hồi ký của Phạm Duy mà ông dùng làm tựa đề : The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy (Tất cả những bài viết trên đây, mọi người có thể tìm thấy dễ dàng khi bấm vào Google.com sẽ tìm đọc được, nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn). Vì thế phần không nhỏ của bài viết đưa ra thật đầy đủ chi tiết về những mối tình lớn nhỏ của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá ông dựa thêm vào cuốn Ngàn Lời Ca thì sẽ làm rõ hơn trong trường hợp nào, Phạm Duy đã sáng tác được bài nọ, bài kia.
Tuy nhiên vì tránh những mặt tiêu cực trong viêc sáng tác của Phạm Duy, ông J.C. Schafer không triển khai đủ sự vay mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội của Phạm Duy v.v…
Vì thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách bàng quan của giáo sư John. C. Schafer vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại cuộc, đứng ngoài nhìn vào. Mặc dù ông đà nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, rất am tường văn hóa Việt Nam, yêu mến Việt Nam nữa. Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc sử dụng ngôn từ một cách diệu ảo của Trịnh Công Sơn trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ nhìn những nhạc sĩ này như những nghệ nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng tác của họ. Đó là họ đang sống, đang sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh.
Chính hoàn cảnh chiến tranh đã khơi nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của ông J.C Schafer vì thế thiếu một sự quân bình cần thiết về công việc sáng tác và hoàn cảnh sáng tác.
Bài viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến trình sáng tác một bản nhạc của ông trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.
Nói về "cái chết" của Phạm Duy, tôi chỉ lặp lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói chuyện tại trường Đại học Văn Khoa Sàigòn vào ngày 6/6/1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với nhan đề : Phạm Duy đã chết như thế nào ?
Bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn nói về cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà Nguyễn Trọng Văn coi là sự phản bội lý tưởng và một cách lôgich Phạm Duy bị coi như đã chết -một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống.
Phần bài viết này phản biện lại bài viết của Nguyễn Trọng Văn… Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị, nhưng nếu Phạm Duy có chết thì cái chết ấy ở phạm vi đức lý giữa tài năng và nhân cách của nhạc sĩ Phạm Duy. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.
Bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn thời ấy hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi vì ít nhạc sĩ nào có thể so bì được với Phạm Duy.
Cùng lắm trừ một người. Trong cuốn Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn (tác giả Nguyễn Thanh Ty gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở Blao, Trịnh Công Sơn có kể về Sài Gòn bán bản quyền bài hát "Chiều một mình qua phố" cho Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là 3000 đồng. Trịnh Công Sơn kỳ kèo thì được Duy Khánh trả lời : "Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi" (2).
Chiều một mình qua phố - nhạc : Trịnh Công Sơn – tiếng hát : Khánh Ly
Chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài thì Phạm Duy là một người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến nay là một người quốc gia "chống cộng". Đánh đúng vào cái thành trì tiêu biểu là giới trí thức thành thị miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo tưởng của một ý thức hệ quốc gia trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.
1. Theo Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết vì phản bội lại kháng chiến ?
Phạm Duy chối bỏ kháng chiến
Nguyễn Trọng Văn đã nghĩ như thế. Đã viết để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho rằng đã có rất nhiều thanh niên đã theo kháng chiến và sau đó đã dời bỏ kháng chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến của Phạm Duy là khác. Nguyễn Trọng Văn viết : "Trí thức theo cách mạng và bỏ cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt khe".
Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến (3).
Phải chăng Phạm Duy đã sửa toàn bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến ? Không hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đã tổng quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí Minh, Vệ Quốc quân v.v… và để cho thuận nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu.
Quê nghèo – nhạc Phạm Duy – tiếng hát Thái Thanh
Và Nguyễn Trọng Văn kết luận :
"Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông hoa đó đã tự chọn cái chết như vậy.
Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn (...). Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm (…). Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến, rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người" (4).
Nguyễn Trọng Văn đã dùng cả một cuốn sách để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông đã sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén chính trị.
Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu cẫu đòi hỏi cấp thời của một tình thế ?
Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca ? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy ? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng ? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế.
Và người ta đã chẳng ngại ngùng gì nói đến một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết Phạm Duy hiểu thâm ý của lời mỉa mai này.
Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi tình quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện tình bông lơn, tán tỉnh nhau.
Lời cũ :
Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Nay đổi ra :
Bao giờ em trở lại vườn dâu hỡi em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu thì kể cũng lạ. Có ép ý, ép lời không ?
Trong bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên :
Lời cũ :
Quân cướp tham ô ngày nao đã chết không ngờ
Nay đổi ra :
Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa tình
Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đã được sửa đổi một cách không nuối tiếc với ba lần in và sửa khác nhau :
Lời cũ :
Nhà thì Tây đốt còn đâu
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công sới vun cấy cầy (..)
Lời mới (tuyển tập xuất bản tại Việt Nam) :
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công sới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới (tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ)
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công sới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa
Từ đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ. Chữ nó được sửa lại thì nó là ai đây ? Nó đây bây giờ phải được hiểu là Việt công -quân đội cụ Hồ.
Nguyễn Trọng Văn cũng đã hết lời ca ngợi Tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa tình tìm kiếm hạnh phúc trên dòng sông sâu.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Lời cũ :
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng (tôi) nhớ anh (..)
Lời mới :
Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng.
Nguyễn Trọng Văn kết luận :
"Các sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tinh, chỉ còn là những bản của những tên lại cái, đồng cô bóng cậu" (5).
Nhưng nếu Nguyễn Trọng Văn biết rằng sau này ở hải ngoại, tôi lại tìm thấy trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách giữ lại nguyên văn lời cũ như sau :
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng (tôi) nhớ (6).
Sự thay đổi rõ ràng như thế đặt ra vấn đề nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về thành, Phạm Duy có thể cứ giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai có lời trách cứ ông. Nhưng khi có ý định về Việt Nam, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi ca từ để đẹp lòng Hà Nôi và tuyên bố vung vít "chửi" cộng đồng hải ngoại là không chấp nhận được. Xóa bỏ, thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại lời cũ : Anh Vệ quốc quân.
Đã mấy ai có thể làm được như Phạm Duy ? Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lý khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như một thứ điếm sang.
Tiếng hát trên sông Lô – Nhạc Phạm Duy – Tiếng hát Thái Hiền & Duy Quang
Nhắc lại trong phần đầu cuốn Hồi ký của ông viết vê ông bố : nhà văn Phạm Duy Tốn để thấy nhân cách bố và con khác nhau lắm. Ông nhắc lại những lời nhận xét và khen tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lãng đã viết những lời trân trọng về ông Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn mà nhân cách của họ không thể chối cãi được như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Đỗ Mục thì ông Phạm Duy quả là người con bất xứng.
Cũng khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm, ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang tàn, phá phách, "quậy" rất sớm.
Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đã chết như thế nào thì lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi ký. Nếu Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc hồi ký rồi thì cũng có thể có cái nhìn khác về Phạm Duy.
Và có thể vì có cơ hội đọc lại Hồi ký Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nhìn lại quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.
Trong hồi ký 1, ông Phạm Duy viết như thế này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch sông Lô. "Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng hát sông Lô của Phạm Duy.
Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.
Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng thì có phí phạm không ?
Phạm Duy viết tiếp. "Nói về cả một chiến dịch thì chẳng những thắng lợi sông Lô chỉ là những chiến công cục bộ, bởi vì vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa, gọng kìm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn còn rất mạnh… Những người phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai tò mò –như tôi– đi tìm đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một dòng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức Lương Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng" (7).
Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong thời kỳ kháng chiến.
Cho nên, không lạ gì khi cần, Phạm Duy đã không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác gì Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đã nói huỵch tẹt ra là ông đã viết phịa, không hề ra mặt trận.
Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên sông Lô. Tố Hữu cũng đã làm thơ phịa. Đã gọi là sáng tác phịa thì việc thay dổi lời ca còn có gì được gọi là phản bội ?
Phải chăng Nguyễn Trọng Văn đã quá lý tưởng hóa những ý hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng vì thế lời kết án có thêm trọng lượng.
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở.
Phạm Duy mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.
Cho nên Phạm Duy không theo Kháng chiến theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn lựa làm sao có phản bội ?
Phạm Duy không phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nhìn lại
Nguyễn Trọng Văn đã tự chọn cho mình một góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.
Và đã có chỗ kết luận : "Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang" (...). Nhạc sĩ Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đã chết (...). Ông đã quay lưng trở lại với dân tộc, với chúng ta, ông đã ra đi, ông đã chết" (8).
Nhưng nặng hơn nữa, Nguyễn Trọng Văn viết :
"Thân phận Phạm Duy giống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều, đẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai ; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai" (9).
Cho nên, dưới mắt Nguyễn Trọng Văn, dinh tê đã là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, vì đã sửa lại lời ca trong các bài hát của chính mình. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại là : ai phản bội ai ? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến là một phản bội thì thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ tố cáo sự bội phản của kháng chiến không ? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh là một phản bội. Và vì thế đã có một số không ít những thanh niên đã đi theo kháng chiến, đã thất vọng và đã dinh tê.
Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đã trót đi theo kháng chiến, vì đã bị lừa.
Trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, đã có nhiều người cũng đã từng đi theo kháng chiến và đã bỏ kháng chiến. Võ Phiến ở Bình Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc gia, Bình Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đã sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con, Hòa Bình 48, Đốt hay không Đốt. Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới bóng Thánh giá. Đoàn Văn Cừu thì sau nắm đài phát thanh Sài Gòn.
Và có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở tòa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu động. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ.
Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.
Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng hòa đã từng đi theo kháng chiến như quý ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời Tổng thống Ngô đình Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đã từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong Khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ Khu 4 ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà Nội đàn áp và trù dập giới văn nghệ sĩ như thế nào.
Với sự chứng dần một số những nhân vật tên tuổi đã từng tham gia và hoạt động cho kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có mình Phạm Duy là người phản bội còn những Trần Chánh Thành, Võ Phiến, Hoàng Thi Thơ thì không ?
Vì thế, họa sĩ Tạ Tỵ đã phản biện lại như sau :
"Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự" (10).
Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đã trích dẫn thêm ý kiến của Thế Uyên như sau : "Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đòi hỏi thế này thế kia. Tôi thường không đồng ý với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy cất lên hơn 20 năm rồi, đã đóng góp vào các công trình lớn của dân tộc và hiên diện, trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc, người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm anh hùng cả đời được" (11).
Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời thì nhiều người đã nhìn thấy cái đuôi cộng sản ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của Nguyễn Trọng Văn như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nhìn một chiều, méo mó, thiên lệch không chối cãi được. Dám Nguyễn Trọng Văn đã được chỉ định để viết như thế ! Vì thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả tín.
Bên cạnh Tạ Tỵ, còn có Cao Thanh Tùng mà ý kiến được coi là dung hòa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ý việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ý với Thế Uyên như trên.
Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nã Đại Georges E. Gauthier với bài viết : "Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện", Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.
"Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có Việt Nam thì tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một Việt Nam mà không có Phạm Duy". Ông nhạc sĩ Gia Nã Đại viết tiếp ; "Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi vì con người đã cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu" (12).
Cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đã bị trung hòa và loãng đi nhiều khi có một số ý kiến phản biện như trên.
Nhận xét thực tế
Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách "tiêu khổ kháng chiến" với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ còn là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đã "hồi cư".
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.
Vì thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đã sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, còn gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đã rời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khoảng 60 ngàn người đủ thành phần đã tụ tập về Phát Diệm.
60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng tình hình và nhất là chờ cơ hội "dinh tê". Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được sử dụng từ chữ "rentrer". Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hà Nội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.
Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ Khu 4, bỏ kháng chiến ? Và đó cũng là trường hợp của Phạm Duy.
Nhưng phần đông họ từ Hà Nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Phòng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngõ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngã đường sông như Yên Mô-Nho Quan hoặc Cầu Lim-Gia Viễn.
Đó là những người chạy trốn Pháp.
Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến -ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với Liên Khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu Bình Trị Thiên Nam Ngãi.
Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía, Tổng bộ (danh xưng gọi tổ chức của Đức cha Lê Hữu Từ) đã bắt được một mật lệnh, ngày 9/7/1947 của Việt Minh có câu : "dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm".
Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.
Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.
Thứ nhất, vì Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống còn cho Khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Phòng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào Khu tư.
Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn Khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm còn có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.
Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đã có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi ? Làm gì còn những Ngô Đình Nhu, Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu, chính trường miền Nam đã hẳn là khác ?
Lý do Phạm Duy "dinh tê"
Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ vãng và cũng có giọt nước mắt vui mừng vì nhìn thấy cái cái đồn bót phía Quốc gia. Vui mừng vì biết rằng nay mình được giải thoát.
Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai ? Họ có khác gì với Phạm Duy không ? Thật không dễ để xếp loại họ.
Không lẽ chỉ vì đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản ?
Đọc hồi ký do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ý gia nhập Đảng cộng sản. Và vì thế, việc ông dinh tê là chuyện bình thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.
– Thứ nhất, có thể chỉ là lý do kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho mình và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết : "Chúng tôi có khoảng một tháng trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã "dinh tê". Găp được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đoàn Châu Mậu… là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer, vào thành, hay rester, ở lại ? Ở lại, rester thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám nói tới thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh tật… Trong lòng day dứt vì chuyện "ai làm cho ai phụ tình ai" ?
– Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và : "Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại hội mà tôi vừa tham dự". Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy đã không có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ Khoát : "Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hóa. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí".
Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết :
"Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi… Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm thì :
– Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều kiện. Mày phải bỏ cái tính "chơi" của mày đi. Mày phải khai tử bài hát : Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại. Một mình mày đi thôi. Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao" (13).
Bên cầu biên giới – nhạc Phạm Duy – tiếng hát Thái Thanh
Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định tìm đường "dinh tê". Và ngày 1/5/1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.
Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.
– Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại hội Văn hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết : "Tôi cũng rất sung sướng được nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt ? Câu hỏi lớn đấy nhé.
Sau đó còn thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói : Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dậy nói : Tôi không phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời : Chúng tôi không cần những đồng chí như anh.
Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đã thấy các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
Vì thế, tôi không có ý muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà Nội" (14).
Kể như đã rõ ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của đảng phái. Phạm Duy đã có thể thất vọng về kháng chiến và vì thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được.
Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận thì chữ phản bội còn có ý nghĩa gì ? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía mình, nói sao chả được.
– Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ nhạc hùng, nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ quốc quân mà thôi.
Có bao nhiêu bản như thế ? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài, tất cả theo cách lý giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đã khám phá ra điều này cũng đã là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.
Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn Tây, anh Vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.
Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu ? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi. Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy ! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở Việt Nam là coi không được.
Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.
Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nhìn vấn đề, để phê phán ?
2. Phạm Duy chết ở một nơi nào khác ?
Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ sĩ ?
Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu hò, điệu hát của dân ca ba miền. Ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đã có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.
Chẳng hạn, trong bài Tiếng hát trên Sông Lô, theo như sự nhìn nhận của ông, ông đã cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc :
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn (15)
Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đã trở thành : Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế ? Giữa : Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh.
Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng.
Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo. Sự liên hệ ý tưởng (association des idées) đó đã trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10 ?
Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một số ý hướng rất Trịnh Công Sơn như các từ gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ý hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.
Lẽ dĩ nhiên, Phạm Duy không bao giờ nhìn nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đã bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cõi người hay thân phận người xuất phát từ những tình trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những dòng nhạc khá là tuyệt vời.
Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đã bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó v.v… Có thể một cách vô tình và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động đã nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca.
Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ròng đã có, Phạm Duy chuyển tải tài tình cái vốn đó thành vốn của mình một cách chẳng kém tài hoa.
Thôi thì cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc thì trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ở chỗ này, bất cứ ai cũng phải nhìn nhận rằng Trịnh Công Sơn sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.
Hơn bất cứ ai hết, Trịnh Công Sơn cùng một lúc sáng tạo ra ngôn từ và dòng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.
Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.
Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng thì trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó ?
Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đình Vận, Hữu Loan, Lê thị Ý, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire.
Và người chỉ còn có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lội qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rõ ràng là "mượn đỡ".
Gái lội qua khe (Tục ca) – Thơ Bùi Giáng - Nhạc Phạm Duy – tác giả trình bày
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.
Kể là có một không hai.
Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối tình với Thái Hằng. Hay bài Cành hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có gì để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như : theo thơ Guillaume Apollinaire, Sài Gòn 1970.
Mùa thu chết – thơ Guillaume Apollinaire – nhạc Phạm Duy – tiếng hát Julie
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông. Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào quê hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tưởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân.
Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. Còn những trường hợp khác thì không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để tìm hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàigòn, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không ? Ở hải ngọai thì tôi được biết có một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ ?
Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5/5/2006, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của ông đã được phổ nhạc mà theo ông : "Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ý, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ "ý thơ" thôi cũng không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ấy. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…".
Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ Phạm Duy có phổ nhạc bài thơ "Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau" vào năm 1967 gì đó. Rất tiếc, dù đã tìm kỹ, tôi cũng không tìm thấy bài hát này.
Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca thì hầu như Phạm Duy đã không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố tình quên tên họ không ? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy.
Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về 5 bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà như giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời. 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy.
Ngày xưa Hoàng Thị - Thơ : Phạm Thiên Thư - Nhạc : Phạm Duy – Tiếng hát : Ngọc Hạ & Thái Thanh
Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói : Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên… đòi tiền. Kể từ đó về sau, Phạm Duy không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Tôi đã thử tìm trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không ? Tôi đã không tìm thấy bài nào trong 5 bài ấy.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng"nhóc con" muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên ?
Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút Khánh Trường đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vì, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo Hợp Lưu như cầm một cuốn sách.
Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ giã cõi đời thì Phạm Duy cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
Thương tình ca - Thơ Alice - nhạc Phạm Duy - tiếng hát Duy Quang
Phạm Duy đã kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn tình của ông, Alice, con gái của một người tình cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đã làm đến 300 bài thơ tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương tình ca với những giai điệu :"
Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương
Và tiếp nối là Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.
Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc tình có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca ? Thật là đáng tiếc. Thật là "thằng cha bội bạc".
Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc tình của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính (sentimental). Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc tình đầy não tính (cérébral) (chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ tuổi đã chẳng ngại ngùng viết : "Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận".
Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi :
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, có xót xa cũng hoài mà thôi
Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy :
Đừng nhìn em nữa anh ơi…
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau..
Alice đã không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô ! Không thể quên như thế được.
Nhưng dưới mắt Phạm Duy : Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. Vì thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, vì ai là người đã chắp cánh cho họ ?
Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đã chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người tình của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên tình sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm… và cuối cùng đến Hồng Nhung.
Hãy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hãy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.
Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những dòng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.
Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy thì đúng hơn !
3. Phạm Duy của nhiều khuôn mặt
Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành trình nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có gì đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)
Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lãng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái gì đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.
Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.
Đối với một người như Trịnh Công Sơn, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi Xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với hình ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ trọi… Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nhìn nhận ra tác giả.
Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.
Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền thì làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.
Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.
Giai đoạn kháng chiến ca
Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay còn được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so bì với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn gì cho cam. Thơ của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến thì may mắn còn được quân đội Việt Nam Cộng Hòa sử dụng như các bản quân hành như Xuất quân, Nào bao hùng binh tiến lên, Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hàn…
Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người Việt Nam và được nhiêu người ưa thích.
Ít ra, trong giai đọan này, người ta còn nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầu vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa vì tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù, Đoàn quân văn hóa…
Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đã không ai biết đến nữa.
Giai đoạn 20 năm miền Nam
Đây là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đình Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như Tình hoài hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).
Ban Hợp ca Thăng Long
Đây là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.
Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đã nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.
Những bản tình ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đã đưa tên tuổi Phạm Duy lên cao, cao thật cao.
Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền
Cạnh đó là hai bản Trường ca : Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.
Về nội dung, nó nói lên được tình tự dân tộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu hò, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa.
Tạ Tỵ đã nhận xét : "Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đã xúc động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đã gần 40 tuổi đời" (…). Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, thì Mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16).
Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi Phạm Duy là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..
Nhưng về hình thức, theo dõi toàn bộ bài hát thì thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần thì có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca như Lý Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lý con sáo, Hát bội trăng rằm, Qua cầu gió bay dễ gây rung cảm vì nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ v.v… được Phạm Duy lấy cả ý đến lời đến điệu nhạc, điệu hò như thể là của mình.
Nhiều người đã bày tỏ sự không thích của mình. Ông đã sử dụng các câu hò, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ gì, nhiều người đã đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.
Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét : Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ý nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ý quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ý đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ý nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của mình, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm" (17).
Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau : "Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài hành khúc, không còn dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm".
Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đã mượn ý, mượn lời, rồi coi như của mình. Nhiều người như các quý ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đã có nhận xét rõ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.
Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau :" Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của mình, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng mình, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích (18).
Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đã nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể vì thế mà mất giá trị đâu !
Nay lại nhập nhằng trong dân ca !
Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại còn đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lý. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lãnh vực này sang lãnh vực khác. Mỗi lần thay đổi thì ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tý nào.
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến ?
Tâm ca, Đạo ca, Tục ca…
Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, vì đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đã mỗi ngày một rõ mặt. Những người thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đã góp mặt và đã để lại những dấu ấn rõ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.
Phạm Duy kể trong Hồi ký, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
"Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngại. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này" (19).
Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.
Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, "hò hét", "tuyên truyền". Chẳng có gì là Tâm ca cả.
Giọt mưa trên lá – nhạc Phạm Duy – tiếng hát Thái Thanh
Thơ đó thể hiện được tình tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. Tình con người, tình tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như hòa trộn vào nhau.
Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đã không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Nghìn trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.
Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp đã tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài còn được nghe ai hát nữa ?
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2) không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già.
Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng hòa nhập giữa tâm tình tôn giáo và chất nghệ sĩ.
Ông thiếu một cái gì đó -dung tục mà chưa thoát tục. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.
Trên Văn Học số 21, tháng 10/1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi Phạm Duy.
Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance) nói chung của thời kỳ ấy ! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca, v.v.
Vì vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp Trịnh Công Sơn. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng : Tôi đã nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc : "Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được trình bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn còn mang một sắc thái đặc biệt : Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ý hướng điều hợp" (20).
Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng hòa bình, nói tới ước mơ thì người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà còn có thể xích lại gần nhau, như anh em ?
Ảo tưởng hay ước mơ ? Đã gọi là ước mơ thì ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được ? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những tình huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ thì lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy thì sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.
Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh thì Phạm Duy khó có hy vọng thành công.
Nghìn trùng xa cách – nhạc Phạm Duy – tiếng hát : Khánh Hà & Ý Lan – Courtesy of Paris by Night 84
Loạn phát trong trường hợp Phạm Duy
Làm xong 10 bài Tâm ca, Phạm Duy cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đã hoàn tất, không con có gì để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lãnh vực sáng tác nhạc khác.
Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho dòng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như mì ăn liền mang nhãn hiệu : Cung khúc Võ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. Còn tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên : Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.
Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như : Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen…
Tôi không có ý nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng hòa bình, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.
Phạm Duy trong tình huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán "hàng giả" của ông.
Tháng 3/1966
Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng hòa bình. Đó là những gì có thể tìm thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3/1966, ông được Bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để "giải độc" dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ trêu quá.
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller.
Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi" tĩnh tọa" trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong "chiến dịch giải độc" những kẻ chủ hòa ngồi ở trên.
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đã vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỹ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, vì có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ,
Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ -kẻ chi tiền-, vừa chửi chính mình -kẻ nhận tiền-.
1970 một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm "Giari độc"dư luận Mỹ trong vai trò cố vấn.
Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai trò như thế ! Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
Vỉa hè ca :
Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là Vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.
Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy ! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục. Cái gì cũng sức mấy cả. Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả.
Tục ca :
Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xã hội ông đang sống. Đã có 10 bài Tâm Ca thì tại sao không có 10 bài Tục ca. Đó là cái lối lý luận của Phạm Duy.
Thế là 10 bài Tục ca ra đời với những tên rất là tục như : Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn lồn… em Đ… Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nhìn lồn, tôi viết cho đủ chữ là "tục tĩu quá". Đã viết tục được như thế mà còn ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ : lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tròn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nhìn phải đúng lồn mẹ nó.
Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.
Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn (20), nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào thì tôi không biết, nhưng phần lời ca thì thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm gì. Thật sự không biết để làm gì ? Từ nhìn lồn sang đạo ca thì không biết phải nói thế nào.
Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ thòm thèm thì nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc "sưu tập" Tiếu Lâm Annam. Còn Phạm Duy là "sáng tác"
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác :
Tôi có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua (21)
Tại sao ông lại viết tục ca để làm gì ?
Theo ông, viết tục là để châm biếm xã hội hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để "nổi giận" phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.
Nổi giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ thì có liên quan gì đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin ! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nhìn L. đàn bà !
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
Đạo ca :
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm phẩn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca.
Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều gì đã khiến ông thay đổi như thế ? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.
Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ : Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài : Anh tan trường về. Bài hát thật dễ thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.
Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.
Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, hòa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lõi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.
Những lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lý gì đến Phạm Thiên Thư cả.
Nhưng không sao, kẻ đã bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông "Cam Lộ" như Phạm Thiên Thư thì còn xá gì ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về mình đi.
Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn : "Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái gì mỉa mai, lạc lõng nếu không phải là một cái gì ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca... Đạo ca là một nối dài của tình ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi hòan cảnh đau khổ trước mắt" (22).
Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những tình huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.
Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau thì khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.
Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngã, đại ngã, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không !
Sau 1975 tại hải ngoại
Trước khi chấm dứt hành trình sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. Hình như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở hải ngoại.
Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đã tắt.
Tổ khúc Bày chim bỏ xứ (đoạn 1) – nhạc Phạm Duy – tiếng hát : Vũ Anh – Kim Tước
Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ý đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đã được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học tập cải tạo, Phụ nữ Sài Gòn, Độc lập tự do. (Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân mình cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để thò Bác ra)…
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã chết rồi.
Cuối cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca : Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi ký của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lý do tại sao sáng tác cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.
Thứ hai, chuyện ông chọn về Việt Nam ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm gì. Tìm về Việt Nam ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành trình về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm gì. Và nếu hiểu con người Phạm Duy thì thấy rõ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.
Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông thì đã vấp phải sai lầm là đã đánh giá quá cao về ông, về vai trò người nghệ sĩ, đòi hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ tình huống nào.
Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại học Văn Khoa thì bạn bè có đưa ra nhận xét như sau : "Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tạc tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc : "Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá còn gì. Đáng lý phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải" (23).
Những phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.
Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa trước 1975.
Giết ông thì Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi ký, ông đã viết như sau :
"Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh thì chua xót, nhìn vào người quốc gia thì thiếu hứng khởi. (…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những dòng chữ cuối cùng của đời mình. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ vãng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hãy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài : Thương nhớ Sài Gòn soạn năm 1981 tại Mỹ :
Sài Gòn ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên…
Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài Gòn mà hôn gót kẻ mà ông đã trốn chạy và chửi bới trong nhiều năm !
Nguyễn Văn Lục
Nguồn : Đàn Chim Việt, 11/10/2023
Chú thích :
(1) Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy. Xin vào Google kiếm tìm.
(2) Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo
(3) Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết như thế nào, Nhà xuất bản Văn Mới, trích tóm tắt các trang 33-34
(4) Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 39-41
(5) Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 34
(6) Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.
(7) Phạm Duy, Hồi ký 1, thời "Cách mạng kháng chiến"
(8) Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 45
(9) Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 130
(10) Tạ Ty, "Phạm Duy còn đó nỗi buồn", trang 129
(11) Tạ Ty, ibid.
(12) Cao Thanh Tùng trích lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971
(13) Phạm Duy, Hồi ký, tập hai, thời "Cách Mạng kháng chiến".
(14) Phạm Duy, Hồi ký, tập hai, ibid.
(15) Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập : Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại
(16) Tạ Tỵ, "Phạm Duy còn đó nỗi buồn", trang 200
(17) Lê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76. Trích lại Nuyễn Trọng Văn, ibid, trang, 65
(18) Trần Văn Khê, "Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy", Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 67
(19) Nguyễn Trọng Văn, ibid, 72
(20) Phạm Duy, Hồi Ký, tập ba, chương 14
(20) Phạm Duy, Hồi Ký, tập ba, ibid
(21). Phạm Duy, Hồi Ký, tập ba, ibid
(22) Nguyễn Trọng Văn , ibid, trang 123- 124
(23) Nguyễn Trọng Văn, ibid, trang 128
Phạm Duy vẫn ở đâu đó trong cuộc đời này, không chỉ 100 năm này, mà có lẽ còn nhiều trăm năm nữa trong những trái tim thuần khiết yêu nước Việt, đi cùng những giai điệu gần gũi và khoan nhặt của ông.
Nghe nhạc Phạm Duy, đôi lúc tôi nhận ra như nhu cầu của một người Việt. Nó thôi thúc và cồn cào. Thậm chí khi im lặng nghe mà cứ tưởng như mình đang cất tiếng, bởi lời ca đã âm vọng không biết bao điều. Và tôi cũng đã chứng kiến điều như vậy.
Có lần linh mục Đặng San ở Sài Gòn trở bệnh nặng. Ông nằm lặng lẽ trong phòng mình nhiều giờ rồi lặng lẽ nhắn cho một cô bạn của tôi "có thể đến hát cho Cha nghe một bài Phạm Duy không ?". Bác sĩ không cho ông hút thuốc nữa, cũng không cho xem điện thoại nữa. Sự tĩnh lặng và chăm sóc chu đáo thể xác, vẫn không đủ cho phần hồn. Ông nằm nhìn lên trần nhà. Im lặng. Thở mệt nhọc.
Tôi đến cùng cô bạn của mình, mang theo cây guitar. Cha ngồi dậy, vui như trẻ nhỏ. Ông đòi nghe hát ngay. Đàn so dây và bài hát Tôi đang mơ giấc mộng dài vang lên. Những bài hát của Phạm Duy có ma lực lạ lùng, như nhấn sâu người nghe vào một hồ chứa tâm trạng mênh mông, vẫy vùng tâm hoặc. Hình ảnh của bài hát như bao bọc không gian của mọi người chung quanh. Lần đầu tiên tôi thấy một cụ già tóc bạc, yếu ớt trên xe lăn khi nghe được đôi câu, đã ôm mặt khóc nức nở. Ông khóc như gặp lại người thân, và cố ôm mặt vì sợ tiếng khóc sẽ ngăn mọi người ngừng trình bày bài hát đó.
Chắc cũng nên nói một chút về linh mục Đặng San, để biết ông không phải là một người dễ bị chinh phục bởi mọi loại văn nghệ. Khởi đầu ông chọn tự mình trở thành tu sĩ Phật Giáo khổ hạnh, bỏ lên núi sống một mình với kinh kệ. Rồi một ngày mưa gió, ông ngã lăn bất tỉnh và được người ta đưa về một nhà dòng Công Giáo gần đó cứu giúp. Sau một thời gian ông được ơn gọi và trở thành linh mục. Những kiến thức uyên bác của cả hai hệ tín ngưỡng đầy ắp trong người, nên khi ông giảng hay viết đều song hành các dẫn chứng của cả hai tôn giáo.
Ấy vậy mà, con người chứa trong mình sâu thẳm những triết giáo khôn ngoan hàng ngàn năm đó, lại bật khóc, và nói "cần gì tìm cao xa nữa, bài hát này cất tiếng, nó đã đẹp như một thánh lễ rồi". Trong phút giây ấy, tôi chợt nhận ra rằng nếu chúng ta yêu dân tộc này, yêu những khổ đau và nghịch cảnh của quê hương này đã và đang chịu, thì nghe nhạc Phạm Duy mà bật khóc cũng không phải là điều quá lạ lùng.
Có một thời gian dài, tôi cứ ám ảnh về bài Bên cầu biên giới của nhạc sĩ Phạm Duy. Những gì day dứt tự hỏi lòng, ông đều trải ra đủ trên từng nốt nhạc, từng nhịp chất vấn dồn dập của đời người và thời thế. Đời hỏi ông muốn được vinh danh như một kẻ làm chính trị không ? Ông đã trả lời bằng cách bước xuống tàu, đi theo con đường của một nghệ sĩ, bất chấp phận mình có thể nổi trôi theo vận nước. Nhiều thập niên sau, ông nhắc lại điều này với tôi trong một lần được hỏi "Tôi thấy mình hạnh phúc là một người hát rong, một người hát rong hạnh phúc".
Thái Thanh hát Bên cầu biên giới, nhạc và lời Phạm Duy – thu âm trước 1975
Hành trình của những người hát rong trong lịch sử nhân loại, có kẻ mua vui cho bạo chúa, có kẻ sống và chấp nhận rơi đầu để giữ vẹn lời ca về sự thật. Phạm Duy đã làm trọn phần hát rong cao quý của mình, ông hát cho con người và không đem tài năng của mình để phục vụ bạo quyền hay dối trá.
Dòng chảy đau đớn của dân tộc Việt Nam đi đến đâu, vẫn thấy có ông nơi đó kể lại, hát lại. Từ cuộc chia ly 1954 cho đến những ngày dựng đời cùng Bình Ca. Rồi cả khi một lần nữa rời khỏi quê nhà 1975, ông vẫn không dừng ghi lại ký ức với Tỵ nạn ca, Ngục Ca… Và đến cả những tiên đề của đất nước trong Rong Ca về thế kỷ mới.
Năm 2002, ông gửi về tặng tôi quyển Chân Dung Nghệ Sĩ của Trường Kỳ, trong đó có bài về ông. Viết trong thư tay, ông dặn "Không phải cái gì viết trong đây về tôi cũng đúng. Nhưng không đúng cũng là một kỷ niệm. Đời người rồi cái gì cũng thành kỷ niệm". Đọc đến đó, tôi mỉm cười. Ông lại chơi chữ với tôi rồi, như để nói về chính cuộc đời của ông. Tôi hình dung cái cách rất "Phạm Duy" của ông, cười nhếch mép, nheo mắt, gật gù. Cái cách y như lúc ông về Việt Nam và nói với tôi "Anh có cái kiểu hỏi han khó chơi lắm. Nhưng được đấy !".
Trước lúc ông mất, tôi có ghé nhà ở quận 11, Sài Gòn, thăm ông. Lúc đó, ông gần như đã cạo trọc, yếu ớt và ngồi trên xe lăn. Thấy tôi cất lời chào, ông khoát tay như bảo "chờ đấy, đừng hỏi" và cho đẩy xe đến trước một cái tivi lớn, phát một cái DVD tự làm slideshow, trình bày chi tiết từ lúc bệnh, đi cấp cứu cho đến về nhà. "Đấy, nhiều người đến hỏi lắm, cho xem thì biết, khỏi mất công trả lời", ông cười, có vẻ khoái trá vì thấy tôi hơi ngỡ ngàng với sự chuẩn bị của ông. Có người khuyên là ông nên về Mỹ, vì có thể việc chăm sóc y tế sẽ tốt hơn. Ông lại hỏi ngược "rồi được thêm bao lâu nữa ?"
Hơn một năm sau, ông mất. Dường như về cuối đời, chọn về Việt Nam, ở lại, và ở lại mãi mãi là ước muốn lớn nhất của đời ông. Một lần trả lời phỏng vấn của đài BBC, ông nói "Tôi về đây không phải là tôi đi tìm danh vọng, hay tôi tìm đồng tiền kinh tế. Không phải. Tôi về đây là vì tôi yêu nước thôi. Mà tôi phải về vì người già nào cũng muốn chết ở quê hương của mình, thế thôi".
Ngay cả đến cái chết, Phạm Duy cũng như câu chuyện kể sống động ở giữa chúng ta, nhắc về những người Việt Nam khốn đốn trước cơ đồ cha ông để lại bị cưa xẻ, bất lực trước những dòng người vơ vét đất mẹ bằng quyền lực chính trị, giàu có và chọn thành công dân và chết ở một quốc gia xa lạ nào đó. Nhưng quê hương, đó là thứ không thể lìa xa với mỗi chúng ta, những người yêu nước Việt.
Phạm Duy không hô hào yêu nước. Nhưng âm nhạc của ông dạy người ta yêu nước. Dạy và thấm sâu ở từng câu chữ, giai điệu. Bất kể tôi, hay một linh mục, hoặc một người bạn trẻ nào đó lắng nghe rồi cũng sẽ tự thấy mình có một duyên lành với đất nước mình. Đó là điều được chia sẻ từ quyền năng của một người hát rong sống trọn vẹn với nghiệp đời. Người hát rong đó vẫn ở giữa chúng ta, trong muôn ngàn lời tha thiết Việt Nam, khắc sâu, thấm sâu hơn cả những bài giáo khoa buộc phải học.
Sài Gòn, 5/10/2021
100 năm ngày sinh người hát rong vĩ đại của âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 05/10/2021 (tuankhanh's blog)
"Tinh âm dương chan chứa, xoay trong tử sinh "
Duy Cường thân, Thái Hiền thân,
"Tôi đang ốm nặng, tin Khóa làm tôi vui", đây là dòng thư cuối cùng mà tôi nhận được của Bác, viết ngày 15 tháng giêng ; ngày 27 cùng tháng năm 2013, tôi nhận tin Bác qua đời. Thư cuối cùng tôi viết tới Bác để thông tin thêm các suy nghĩ mới của tôi về nghệ thuật ca khúc của Bác, sau bài nghiên cứu về Bác bằng tiếng Pháp trong bộ sách Anthropologie du Vietnam của tôi. Tôi đã tặng Bác bài nghiên cứu này, vào một ngày mùa xuân năm 2010, chắc Duy Cường còn nhớ buổi trưa hôm đó, Duy Cường và tôi dùng cơm trưa gần chợ Bến Thành, Duy Cường dặn Bác qua điện thoại : "Bố đừng đi đâu nhá, Khóa lại thăm Bố" ; rồi đầu dây bên kia, giọng của Bác lúc nào cũng mạnh và rõ : "Khóa cứ lại, Bố chờ đây".
Tôi mang lại một bài nghiên cứu của mình sau gần hai mươi năm mới xong, Bác nửa đùa, nửa thật, trách tôi : "Viết gì mà lâu quá vậy, tưởng tới chết vẫn chưa đọc được bài của toi". Tôi lúc nào cũng có sẵn câu trả lời : "Bác ạ, nghiên cứu không chỉ là viết, mà phải tổ chức tư liệu, sắp xếp lập luận, giải trình tư duy... mất rất nhiều thì giờ mà chưa chắc đã thành công". Bác ngồi thanh thản nhưng rất tập trung đọc bài này, nhìn khuôn mặt Bác tôi biết Bác rất thú vị mỗi lần được đọc tiếng Pháp, vì tôi nhớ rất rõ khuôn mặt này mỗi lần Bác lại đọc sách tiếng Pháp tại nhà tôi ở Paris những năm cuối thế kỷ qua. Bác không hỏi, không bàn gì về nghệ thuật âm nhạc, cuộc đời của Bác trong bài viết, mà chỉ hỏi, hỏi thật nhiều về các tư tưởng gia, các triết gia, các nhà phê bình nghệ thuật âm nhạc và thi ca của Âu châu được trích trong bài này dùng để "giải mã" cách sáng tác của Bác. Bác bàn thật lâu với tôi về câu của Kant : "L’amour est une affaire de sentiment et non de volonté, ainsi je ne peux aimer parce que je le veux, encore moins parce que je le dois, car le devoir d’aimer est un non sens". Tình yêu vẫn là chuyện của tình cảm, không phải chuyện của ý chí, tôi yêu vì tôi muốn yêu, không ai yêu vì bị buộc yêu, chuyện bổn phận trong tình yêu là chuyện vô nghĩa. Vô nghĩa đã biến thành vô duyên. Hôm đó, tôi nhắc là Bác có cách nói riêng của Bác : "Ngày đôi môi đã quyết trói đời người".
Bây giờ Bác đã ra đi, người cha thâm niên của trường ca dân tộc, người yêu bền bỉ của tình ca, đứa con tin yêu của Việt tộc, mà không một ý thức hệ nào thuần hóa được, không một chế độ nào khống chế được, không một bè phái nào có thể bôi bác được. Vì đứa con tin yêu này của Việt tộc đã tặng tổ quốc mình hàng ngàn ca khúc, với rất nhiều bài hát làm rạng rỡ tinh anh dân tộc mình, làm thăng hoa thể phách đồng bào mình. Chuyện này phải có thiên tài mới làm được. Nếu có những người trách Bác vì bị thất thế trong cuộc vật đổi sao dời vừa qua, vì chiến tranh, vì là nạn nhân của các chế độ bất nhân trong chuyện huynh đệ tương tàn của thế kỷ qua, họ cứ trách, tôi hiểu họ, thông cảm với hoàn cảnh của họ, nhưng tôi không phải là họ.
Phạm Duy (05/10/1921 – 27/01/2013)
Bạn bè, đồng nghiệp, sinh viên hay trách tôi : "chỉ khen chớ không chê, chỉ nâng chớ không hạ, chỉ nghe, đọc, nhìn chuyện hay, không nhắc, không viết gì về chuyện xấu, chuyện tồi" ; mỗi lần bị trách như vậy, tôi luôn trả lời rất thành thật : "Sách thánh hiền cả đời đọc không hết, nhạc hay nghe tới chết chưa xong, còn thì giờ đâu mà đi phanh phui chuyện dở, chuyện thấp… để viết" ; tôi được quyền có thái độ này với cuộc sống "nắng sớm, mưa chiều" này. Vậy nên trong những năm qua, tôi gần Bác qua cái đẹp, cái hay, cái cao, cái lành trong âm nhạc Bác, tôi tiếp tục trân trọng những cái này trong việc nghiên cứu về dân tộc học, về nhân học của mình mà không để cái mê chấp của thời cuộc làm mờ nhạt đóng góp của đứa con tin yêu này của Việt tộc. Nếu các thế hệ đàn cha, đàn anh đã có những ý kiến khác nhau về Bác trong cuộc biến thiên của thế kỷ qua, mà chiến tranh vô nhân, các ý thức hệ vô luân gieo bao đại nạn cho dân tộc, hàng ngày vùi dập nhân cách nghệ sĩ và trí thức ; riêng tôi chỉ muốn tâm sự với các thế hệ trẻ tuổi hơn Duy Cường và tôi (chúng ta sinh cùng năm, có lần Duy Cường còn nói là : "Tôi hơn Khóa sáu tháng"), tâm sự về nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan trong âm nhạc của Bác.
Không già
Bác là người Việt hiếm hoi mà tôi thấy tuổi đời không lấn được trí lực. Lý trí khi đã thành sinh lực, nó trở thành tinh anh và tự cho phép nghệ sỹ và trí thức đi trên vai của thời gian, cụ Tiên Điền thi hào của Việt tộc đã đào sâu được chuyện này : "Thác là thể phách, còn là tinh anh". Bác vượt lên cả chuyện thể phách, tinh anh của riêng mình, để tinh hoa hóa môi trường sống của đất nước qua cách tự tình dân tộc của riêng mình, cả đời nghệ thuật của mình Bác biết "trẻ hóa tình yêu", "thăng hoa yêu đương", cùng vui chia nhau những niềm thương thật hiếm hoi trong cuộc sống. Muốn làm được chuyện này trong gần một thế kỷ phải có hoài bão mạnh, ý tưởng vững, nơi mà trí lực phải dựa vai cùng ý lực, như lời Bác đã đọc khi giới thiệu Đạo ca, khi phổ thơ Phạm Thiên Thư : "Ý lực cứu độ muôn loài như cứu chính mình", ý Phật và tâm Phật là một. Sinh lực của Bác đủ vai vóc đồng hành với ý lực, chuyện Bác làm việc say mê dung hòa với chuyện ăn uống điều độ, sống một ngày với Bác thấy rõ được việc này, tránh xa mọi nơi "chén chú, chén anh", kỷ luật tri thức rành mạch với thì giờ trước mắt, chuyện nghỉ ngơi đúng lúc giữ cho tầm vóc tư duy luôn được sáng suốt.
Phạm Duy, Quai de Seine, Paris (2002)
Bác đã tặng cho chính mình một món quà thật quý, mà thi sĩ Y. Bonnefoy, tầm cỡ loại Nam Tào của thi ca Pháp trong thế kỷ hai mươi, đã nói rõ được chuyện này "L’esprit sait vaincre la grisaille". Lý trí biết cách thắng cái ảm đạm, cái mờ đục, nó không chấp nhận cái đìu hiu. Không già tức là không lẩm cẩm, mà cũng là không thụ động trước các truy bức trong cuộc sống, cứ đẩy nhân tính gần về phía biên giới của thú tính. Tôi thấy rõ chuyện kỷ luật tri thức này trong các nhà tư tưởng, các lý thuyết gia của nhân loại, sự sáng suốt có từ sự tỉnh táo, trí tuệ minh giác là nội công của lý luận, kiến thức tinh thông là nội lực của lập luận.
Không già và đủ sức mở lòng thật mạnh với đời để sáng tác, lực nghệ thuật có trong sức nhạy cảm, ý nhập nội trong lý, khai nghiệp để nhập nghệ. Sau một ngày đi đây đó tại Paris, tối Bác về nhà tôi, vui vẻ kể cho tôi nghe : "Trong mười bài Thiền ca, nội ngày hôm nay, moi làm được năm bài !", chuyện không già này thấy rõ trong Thiền ca : "Hai mươi tuổi đời yêu như hổ đói, bảy mươi tuổi rồi yêu cũng vậy thôi". Bạn bè gần xa thường "trách" : "Câu này chẳng có hơi hướm thiền gì cả !". Bác và tôi thường đùa nhau : "Nhập thiền kiểu này để tránh già !".
Không rũ
Bác luôn thấy được lối ra mỗi lần cuộc sống bế tắc, sự thụ động hoàn toàn xa lạ với cá tính quyết đoán của Bác, không có cá tính này đừng tìm đến nghệ thuật, có cá tính mạnh mới trao truyền được sáng tác, kể cả những sáng tác buồn, kể cả những tác phẩm bi quan. Vì cá tính đánh thức cảm tính, vực dậy linh tính, làm thẳng lưng trí tính, mở đường cho nghệ thuật được thăng hoa ; không rũ tức là không cam nhận tai biến. Trong chuyện vật đổi sao dời sau 1975, với hằng triệu đồng bào phải bỏ quê cha đất tổ ra đi, Bác có trong khúc ruột bị cắt điếng vất xa tắp khỏi quê hương đó. Những năm đầu tiên Bác cũng hoang mang như mọi người, vì đồng bào di tản của mình bắt buộc phải vượt biên mà dân tộc mình chưa hề có kinh nghiệm vượt biển.
Duy Cường ơi ! Biển Đông đã thành một nấm mồ khổng lồ vô hình của bao bạn bè, của bao quyến thuộc… Nhưng Bác không rũ, không gục ; với Bầy chim bỏ xứ, chủ động với nhận định "Tự do là tiếng loài chim !", phải chọn lựa tự do mới bảo vệ được nhân cách của mình, phải gìn giữ tự do mới che chở được tư cách của mình, đối với nghệ sĩ và trí thức phải ôm ấp tự do mới nuôi nấng được phong cách của mình. Tôi kể về nhận định của văn sĩ J.M.G. Le Clézio : "Le destin de chacun est sa liberté", số kiếp mỗi người vẫn là tự do của người đó, Bác rất thích câu này. Trong thư, Bác thường viết "Khóa ơi ! PD, chim già chưa mỏi cánh". Nhớ lại nhiều thi sĩ được dân mình ngưỡng mộ nhờ qua các bài được Bác phổ nhạc, hãy xem lại tên tuổi những thi sĩ đó, tất cả họ là những người yêu tự do, từ nhân sinh quan ra thế giới quan.
Một tự do không ích kỷ cũng không hận thù, tự do còn phải biết biến thành tình thương đồng loại, tinh anh của nhân loại là đây, nếu tự do là riêng tư thì nó vô thưởng vô phạt. Có lần, Bác hỏi tôi : "Trong Thiền ca, nếu chọn một câu hay nhất thì toi chọn câu nào ?", tôi thảnh thơi nhưng cũng trầm mặc trả lời : "Cháu chọn câu : "Tròn như viên đạn đồng đen, đã khô vết máu, xa miền chiến tranh", cháu chọn câu này vì nó có nội dung hòa hợp, hòa giải dân tộc !". Sau cuộc huynh đệ tương tàn trong thế kỷ hai mươi, đáng lẽ kẻ thắng là người cộng sản phải làm chuyện này, họ không làm lại để kẻ thua trận, bại cuộc làm chuyện này, thì lương tri và nhân phẩm sẽ thuộc về bên thua cuộc.
Phạm Duy, Place du Tertre, Montmartre, Paris (2002)
Nhớ lại người xưa thật hay, như Quang Trung Nguyễn Huệ chẳng hạn, từ Nam ra Bắc, giải phóng trọn vẹn tổ quốc, khi tới Thăng Long, thủ đô thương yêu của Việt tộc, không còn một bóng giặc Thanh, vua liền bị vây quanh bởi các kẻ đầy tị hiềm dân tộc, trao tới vua một hồ sơ những người đã hợp tác với ngoại xâm, đưa đẩy vua phải mang họ ra xử, vua đã xé bản tường trình tố cáo đó, lại còn lập ngay đàn giải oan, dứt khoát xóa tất cả vết nhơ trong chuyện huynh đệ tương tàn. Đấng minh quân này đã hóa giải chuyện "gà nhà bôi mặt đá nhau" để hòa giải nên chuyện "gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau".
Bác nghe tôi kể xong chuyện hóa giải để hòa giải, Bác liền nhắc tôi : "Moi đã làm chuyện hóa giải để hòa giải này từ lâu, hồi còn trẻ giữa cuộc chiến tang thương, trong bài Bên cầu biên giới moi đã thấy hậu quả của chuỵên hận thù : "Lòng tôi sao vẫn còn biên giới ?", rồi trong bài Bà mẹ Gio Linh, ôm đầu đứa con vừa bị giặc chặt, nhưng lòng tràn đầy tình thương đồng loại : "Xa xa tiếng chuông chùa réo", moi hình dung một viễn ảnh của dân tộc mình mà tâm Phật qua tiếng chuông chùa chan hòa trong không gian ; tình thương đồng loại ngân vang như chuông chùa giữa cuộc sống". Duy Cường ơi ! Nhạc hay là nhạc cảm hóa được mọi tỵ hiềm, cảm nhận được tình thương bao la của việc hóa giải để hòa giải.
Bà mẹ Gio Linh (Phạm Duy) – Duy Quang diễn đạt
Hãy tâm sự với các bạn trẻ đang làm nhạc và đang nghe nhạc Việt Nam, các bạn đừng rơi vào các lời lẽ dễ dãi, câu chữ chụp giựt, âm điệu ngấu nghiến trong cách sáng tác, trong cách thưởng thức nhạc hiện nay ; nếu các bạn không hóa giải được cái tục để hòa giải cùng với cái thanh, các bạn có thể bị sa lầy trong tương lai vì các bạn sẽ không đủ tâm, đủ ý, đủ lực để hòa hợp được với dân tộc này, đã chịu quá nhiều thảm họa.
Không nản
Bác không coi chuyến lưu vong sau 1975 vừa qua là vĩnh viễn, phải chấp nhận kiếp lưu đày tới chết, Bác đã trở lại với quê hương, đã tìm về với dân tộc, không một xảo thuật chính trị nào có thể giật dây được thái độ này, kẻ thân với chính quyền thì bảo đã trở về với chế độ, kẻ chống cộng sản thì bảo là đã đầu hàng trước quyền lực độc tài. Riêng người nghệ sĩ họ biết trước hết họ là ai, họ là nghệ sĩ của dân tộc họ, họ có chỗ đứng trên bất cứ thời gian và không gian nào của tổ quốc họ, vì họ yêu đất nước như bất cứ một nhà cách mạng nào, như bất cứ một chính trị gia nào, đừng mơ hồ và cũng đừng đánh lận con đen trên chuyện này, vì nước Việt là của mọi người Việt, không một chế độ nào, không một chính phủ nào, không một ý thức hệ nào thay đổi được chân lý này. Không nản ở đây là không để cho dân tộc này bị chia xé, không để cho đất nước này bị chia cắt, vì "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời", cho dù "Đất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu", cùng dân tộc tôi "Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ" ; đó là thông điệp âm nhạc của Bác.
Phạm Duy qua nét cọ của Trần Thế Vĩnh
Nhưng khổ đau cuộc sống hàng ngày trên đất nước đã tới Bác trọn vẹn, nhờ sức nhận định rành mạch về thời cuộc của Bác, lần cuối gặp Bác tại Sài Gòn, Bác tâm sự : "Đối với nghệ sĩ trên đời này chỉ có hai chế độ, chế độ ác và chế độ lành, chế độ này không lành, vì nghệ sĩ không được tự do sáng tác, kể cả tự do gặp gỡ nhau. Moi về đây đã năm năm, bị mổ, bị bịnh, bạn bè không dám tới thăm… Nhưng buồn nhất vẫn là chuyện dân tộc mình còn trong lầm than, nhất là về nông thôn, đồng bào mình sống khổ cực lắm cậu à !… Có lẽ moi sẽ trở lại Mỹ, rồi viết tiếp hồi ký, cuốn hồi ký lần này, moi sẽ đặt tựa là : Năm năm mặc áo giấy !". Duy Cường ơi ! Đi với thầy tu mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, chúng ta chỉ bảo nhau chuyện này vừa để phòng thân đối với bọn xấu, vừa để thủ thân đối với kẻ ác, cũng vừa để tìm cách lập thân trong một môi trường lành, rồi tu thân trong cái trong.
Nhưng khi chia tay, rời nhà Bác lấy taxi về lại trung tâm Sài Gòn, tôi tìm cách ngồi thật yên, thở thật sâu như lời dặn của thiền học, nhưng không sao thở sâu được, nước mắt tự nhiên rơi, khi nhớ lại câu : "Nhưng buồn nhất vẫn là chuyện dân tộc còn trong lầm than, nhất là về nông thôn, đồng bào mình sống khổ cực lắm cậu à !". Tôi nhìn kỹ hơn Sài Gòn trước mắt, lầm than, khổ cực đã lẳng lặng nhưng sừng sững đứng giữa tầm nhìn của tôi.
Không chùng
Đối với Bác vừa là không chùng bước cũng vừa là không chùng lời, trong thư từ qua lại, Bác luôn tìm cách trao tin vui : "Đừng sợ già cậu à, càng già nhạc của moi càng hay, lời ngày càng sâu, chữ ngày càng rộng". Từ lâu, khi nghe nhạc của Bác chúng ta học sâu thêm được nhiều chữ, trong đó có chữ đi : "Cho đi lại từ đầu, chưa đi vội về sau, xin đi từ thơ ấu, đi vui và bên nhau" ; chữ đi không rời chữ đời : "Đời ngon như men say, tình lên phơi phới… Đời vui như ong bay, ngọt lên cây trái…", rồi chữ đời này được làm bạn đời với chữ hát : "Vì lòng tin yêu còn hát nghìn năm… Hát với tôi khi mới mang thân phận bào thai…". Đi để hát cho đời, hát câu yêu đời để đi xa, đi rộng, đi sâu, đi có khi để tránh cảnh : " Đất nước hai miền chật chội oan khiên…".
Nhìn lại những người quen xung quanh, ít ai đi nhiều như Bác, "Người đi trong đêm tối, trong đêm thâu. Người đi không dắt, không ai đưa…", đi nhưng luôn cảnh tỉnh "Thế giới âm thầm, thủ phạm lâu năm" để hiểu sâu đậm hơn chữ tự do : "Ngoài trời tự do… Đưa tôi ra gặp ngay ánh sáng…". Không chấp nhận cảnh : "Như đui mắt, như bơ vơ… Đi trong vòng quanh của bầy ma…", đi và hát để thấu được số phận của Việt tộc đã nằm trong cái tăm tối của thế kỷ hai mươi, rời khỏi thế kỷ này không biết là mình đang cười hay đang khóc, hài kịch cõng bi kịch trong thế kỷ này vì thảm kịch đã bồng thảm cảnh trong thế kỷ qua, "nước mắt len sau từng nụ cười", vận nước nay mai rồi không biết về đâu ? Nhưng đừng chùng bước trong cuộc tầm xuân : "…Người ôm nhân loại trong mình. Cười trong nước mắt cho xuân tình dấy men…".
Không chờ
Chữ ban ân, không đợi lời thương xót ; trong xuân tình, cái lõi vẫn là tình, Bác nhận chữ tình rồi gìn giữ nó như báu vật, gìn giữ trọn vẹn không phải chuyện dễ, tình yêu đôi lứa không thiếu vắng tình thương đồng bào, đồng loại ; không ngại câu chuyện tình ái, cũng không giấu diếm câu chuyện tình dục… "Tình âm dương chan chứa, xoay trong vòng tử sinh…". Platon dặn đời muốn hiểu được chữ yêu, thì phải hiểu tại sao chữ thiếu chống lại với chữ có : "aime ce dont il manque, et qu’il ne possède pas", yêu vì thiếu, yêu vì chưa có. Aristote còn khẳng định rõ hơn là yêu thú vị hơn được yêu, vì sao ? Chỉ vì : "aimer est certainement une activité de plaisir et un bien, alors que le fait d’être aimé ne procède d’aucune activité chez l’être aimé", yêu là một sinh hoạt vừa sướng vừa vui, còn được yêu không tạo dựng được một sinh hoạt lý thú nào cả cho kẻ được yêu.
Bác thấy xuyên qua các thế hệ cái lõi vui của chữ yêu : "Xuân trong tôi, đã khơi trong một đêm vui. Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về". Nhạc của Bác cũng dặn thêm cho đời chữ mất, người ta yêu và không ngừng yêu, vì đã bị mất mát nhiều, và biết vui lên khi cuộc sống trở lại bình thường : "Tình xuân chớm nở đêm qua khi mùa chinh chiến đã lùi xa ngoài đời", số phận của một dân tộc đếm bằng mùa chinh chiến. Không chờ, không đợi, sẵn sàng tìm nhau "Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu…" để gặp nhau… "Gặp nhau trong vinh dự của đời người…". Không chờ, không đợi để không vội, không hoảng, biết nhận vận tốc của thời gian như biết nhận tuổi đời, nhưng cũng biết thong thả với đời, để được ung dung với thân : "Nắng còn nắng lê thê thì đêm ơi chớ vội gì". Phải tiếp tục sáng tác, phải tiếp tục làm chứng nhân cho sự thật và lẽ phải : "Đừng ngậm miệng im hơi thành xác không hồn…", cũng chỉ vì : "…Lời tôi thay cho tiếng đạn bay… Lời tôi khâu vá tình thương... Đừng cho ai ăn cướp tình ta… Lời tôi sâu như tiếng tình yêu…". Trước sau, Bác vẫn không nản : "Tôi còn yêu đời, tôi còn yêu người".
Lê Hữu Khóa cùng với Duy Cường và Phạm Duy, Paris.
Trong tình yêu Bác đi thật xa, đi-yêu và yêu-đi, Bác thông cảm với Stendhal : "Aimer, c’est avoir du plaisir à voir, toucher, sentir par tous les sens, et d’aussi près que possible, la personne aimée", yêu là có thích thú trong chuyện nhìn để thấy, va chạm để cảm nhận bằng tất cả cảm quan, càng gần người mình yêu càng hay. Rồi Stendhal như kẻ ham-yêu đi xa hơn : "Il nous pousse à aller plus loin dans le sens de la jouissance : aimer c’est pouvoir jouir ou se réjouir, et se démarquer de l’indifférence et l’ennuie".
Tình yêu đưa ta tới vùng cảm nhận của khoái lạc, yêu để hưởng đi, để được sướng lại, nó hoàn toàn xa lạ với sự thờ ơ, sự buồn chán. Ngược lại với mọi lãnh đạm, buồn rầu, nhạc của Bác có sức gợi cảm trong tình yêu, bàng bạc trùm phủ chữ yêu trong không gian, biến môi trường sống thành lãnh địa của ham muốn : Đêm thơm như một dòng sữa. Nietzche vẫn không lầm khi nhận ra : "ce qu’on fait par amour s’accomplit toujours par-delà, le bien et le mal", chuyện con người làm trong tình yêu, vượt lên cái thiện và cái ác. Bác cũng hiểu rõ chuyện này của Nietzche,
Bác càng hiểu hơn Réné Char, thi sĩ loại Bắc Đẩu của thi ca Pháp thế kỷ hai mươi, đào kiếm trong tình yêu để hiểu thêm ham muốn : "L’amour réalisé du désir demeuré désir", tình yêu được thực hiện qua ham muốn, rồi vĩnh viễn ở luôn trong dạng ham muốn, bởi vì sao ? "Bởi vì đời còn nhiều khi là mơ ! Bởi vì đời còn nhiều khi thành thơ !".
Lê Hữu Khóa
(16/03/2021)
Chiều Chủ Nhật 19/11/2017 ở San Jose đã có chương trình nhạc Phạm Duy, chủ đề "Thuyền viễn xứ : 70 năm lịch sử Việt Nam qua âm nhạc Phạm Duy", do trung tâm IRCC/Việt Museum và Dân Sinh Media phối hợp tổ chức tại hí viện quen thuộc của Santa Clara Convention Center với sự tham dự của chừng 600 khán giả.
Giới thiệu Phạm Duy trong tờ chương trình (Ảnh : Bùi Văn Phú)
Phần đầu của chương trình có đồng ca "Việt Nam Việt Nam", là tuyên ngôn thời đại của dân tộc Việt :
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyền tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người…
Bài hát mà MC Phạm Phú Nam một lần nữa nhắc lại, như được giới thiệu trong chương trình "Phạm Duy-Hoàng Cầm" hôm tháng Ba đầu năm, là đã được chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng hòa hát vang trong trận hải chiến chống Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa năm 1974.
Năm 1965, để ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống miền Nam, Không quân Việt Nam Cộng hòa có chiến dịch Bắc Tiến, mà trong một phi vụ, máy bay của Trung tá Phạm Phú Quốc bị trúng đạn phòng không và rớt trên bầu trời miền Bắc.
Phạm Duy bùi ngùi nhớ đến người chiến sĩ anh hùng qua "Huyền sử ca một người mang tên Quốc"
Ngày xưa khi anh vừa khóc vào đời
Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời
Ðặt tên cho anh, anh là Quốc
Ðặt tên cho anh, anh là nước
Ðặt tên cho người, đặt tình yêu nước vào nôi
Rồi anh nâng cao Tổ Quốc vào đời
Tuổi xanh vươn trong lửa máu ngụt trời
Việt Nam đang sôi, sôi lòng nước
Việt Nam đang sôi, sôi lòng Quốc
Việt Nam đang đòi Tự Do, Hạnh Phúc giống nòi …
Chiều nao anh đi làm kiếp người hùng
Chiều nao thương ôi rụng cánh đại bàng …
Bài hát theo điệu ballad, qua giọng ca Duy Khánh hay Hoàng Oanh đã một thời vang vọng trên những nẻo đường quê hương từ Quảng Trị đến mũi Cà Mau. Thời đó, lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa là tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng đã có lần cất giọng để tưởng nhớ đồng đội.
Hôm nay Thái Hà thể hiện ca khúc cùng với sự phụ hoạ của đoàn Hoa hậu Quí bà.
Qua mạng truyền thông, bài hát đưa lên YouTube đã có 600 nghìn lượt nghe và nhiều bình luận, tuy không phải là con số cao, nhưng công ơn của người chiến sĩ không quân vẫn còn được nhớ đến.
Cũng như ca từ trong "Kỷ vật cho em" (thơ Linh Phương), do Đồng Thảo thể hiện, là để tưởng nhớ – trong nỗi xót xa – những người lính đã hy sinh một phần thân thể hay cả mạng sống cho tổ quốc mà MC Phạm Phú Nam nhận định rằng nhạc phẩm là phản ánh tính nhân bản của xã hội miền Nam.
Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleimei
Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả
Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về bại tướng cụt chân
Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn mầu tang trắng
Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa …
Phần đầu của chương trình còn có hợp xướng "Viễn Du", "Còn chút gì để nhớ" do Văn Quân biểu diễn, "Áo anh sứt chỉ đường tà" với Trọng Huy, "Thuyền Viễn Xứ" với Diệu Linh.
Diệu Linh hát giọng cao, không hợp với điệu nhạc mang mang buồn của "Thuyền viễn xứ". Ở phần hai, qua "Dòng sông xanh" cô hát rất hay vì bài hát đòi hỏi một giọng cao vút bay.
Trọng Nghĩa, một giọng ca trẻ, được khán giả tán thưởng với ca khúc do Phạm Duy phổ thơ Hữu Loan.
Phần hai của chương trình tươi vui với các em Như Quỳnh, Như Trâm và Jeany Đan Anh trong áo bà ba, nón lá, áo dài biểu diễn "Em bé quê", "Tuổi thần tiên", "Tuổi mộng mơ".
Những tình ca sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, qua "Con đường tình ta đi", "Trả lại em yêu", "Thà như giọt mưa" và "Em hiền như ma sơ" với Lê Việt, Văn Quân, Đồng Thảo, Duy Hùng, Hoàng Lan đưa khán giả về lại khung trời đại học, về lại Sài Gòn với hàng cây xanh phủ dài bóng mát.
Người từ trăm năm
Về ngang trường Luật
Ta hỏng tú tài
Ta hụt tình yêu
Thi hỏng mất rồi
Ta đợi ngày đi
Đau lòng ta muốn khóc…
Nghe để nhớ về Duy Quang một thuở. Hôm nay với ca sĩ cây nhà lá vườn thì đúng là "có còn hơn không", câu nói MC Phạm Phú Nam thường hay nhắc nhở khán giả để mong được thông cảm nếu có điều gì không hài lòng.
Chương trình kết thúc với "Tình ca", nhưng không phải nhạc tình như nhà văn Giao Chỉ đã viết, mà đó là những lời ca đưa hồn người về với nguồn cội, về tình yêu quê hương.
Ở giữa chương trình, trước khi kết thúc phần một, dàn đồng ca đã hát "1954-1975" cũng trong tinh thần "cây vườn sau nhà". Ca khúc đánh dấu cuộc di cư lần thứ hai của Phạm Duy, của hàng trăm nghìn người Việt khác, mở đầu cho làn sóng Thuyền nhân Vượt biển đưa cả triệu người ra khỏi Việt Nam từ sau biến cố 30/4/1975.
Bản nhạc này, theo lời nhà văn Giao Chỉ thì Phạm Duy viết xong trong những năm đầu lưu vong, nhưng không được phổ biến ngay vì con trai của ông còn kẹt lại và ông sợ nhà nước cộng sản trả thù. Cho đến khi những người con thoát ra khỏi Việt Nam, bản nhạc mới được tung ra.
Đây là bài hát duy nhất về cuộc đời lưu vong 30 năm ở Mỹ của Phạm Duy mà ban tổ chức đã đưa vào chương trình.
Chỉ một bài ông viết trong đời lưu vong, lâu hơn cuộc sống 20 năm ở miền Nam của ông, như thế có phải là quá thiếu xót cho một mảng đời của người nghệ sĩ đã phải "hai lần ta biệt xứ".
Trong cuộc sống xa xứ Phạm Duy đã có những ca khúc để đời như "Người con gái Việt rời xa tổ quốc", "Ở bên nhà em không còn đứng chờ đợi anh" hay tập "Ngục ca" phổ thơ Nguyễn Chí Thiện, là tài năng của Phạm Duy, như ông đã từng viết "Đạo ca" phổ thơ Phạm Thiên Thư, "Hoan ca", "Bình ca" và cả "Tục ca".
Khán giả hôm đó đã được thưởng thức 22 ca khúc của Phạm Duy, gồm 20 bài được viết trong gần ba thập niên trước năm 1975, từ năm 1946 với "Chiến sĩ vô danh" cho đến những năm đầu thập niên 1970 với "Tuổi thần tiên", "Con đường tình ta đi", "Trả lại em yêu".
Vì thế nếu gọi đó là "70 năm lịch sử Việt Nam" (1946 – 2017) qua dòng nhạc của người nghệ sĩ gắn liền với "mệnh nước nổi trôi" thì nội dung chương trình gần như đã bỏ ra ngoài những sáng tác mà Phạm Duy viết trong 30 năm ông sống lưu vong từ 1975 cho đến khi ông về nước năm 2005.
Nhắc đến 70 năm lịch sử cận đại của nước Việt mà thiếu vắng giai đoạn sau năm 1975 là một thiếu xót.
Khi biết có chương trình văn nghệ Phạm Duy, đã có ý kiến phản đối, cho rằng không nên ca tụng, coi Phạm Duy là thiên tài âm nhạc, không hát nhạc của ông nữa vì cuối đời ông đã qui hàng cộng sản.
Người viết bài có nhận xét sau đây. Phạm Duy quả thực là thiên tài âm nhạc, với cả nghìn tác phẩm để lại cho đời. Dòng nhạc của ông dù có bị cấm phổ biến trong nước trong hơn 40 năm qua, nhưng hàng triệu người vẫn biết đến vẫn ngân nga hát.
Nhưng ông chỉ phát triển được tài năng trong không gian có tự do, như thời nước Việt Nam mới được khai sinh và khi đất nước chia đôi, ông được sống ở miền Nam tự do và sau năm 1975 lưu vong qua Mỹ.
Trong 60 năm của cuộc đời Phạm Duy, từ 1945 cho đến 2005, là khi ông trở về sống với quê hương, ông đã để lại một gia tài âm nhạc phong phú, phản ánh cuộc sống của con người Việt Nam, trên quê hương cũng như nơi đất khách quê người. Đúng là ông đã "khóc cười theo mệnh nước nổi trôi".
Nhưng từ ngày ông trở về sống trên quê hương, dưới chế độ cộng sản, từ 2005 đến ngày 27/1/2013 là khi ông lìa đời, ông chỉ có ít bài hát như "Hoàng Cầm ca", "Kiều ca" mà thiếu những ca từ mang tình tự quê hương.
Trước khi ông về nước, Phạm Duy đã tâm sự với nhà văn Giao Chỉ trong một cuộc điện đàm và chỉ được phổ biến sau khi nhạc sĩ qua đời. Trong đêm nhạc vừa qua, lời ông vang vang đến với khán giả : "Tôi về chỉ để mà chết thôi".
Một người có tài âm nhạc mà trong quãng đời 8 năm còn lại trên quê hương, ông tiếp tục đi qua mọi miền đất nước mà ông không còn chút rung động, không còn có thể "khóc cười theo vận nước" thì coi như ông đã chết ngay từ lúc đặt chân trở về đất mẹ.
Phạm Duy là "phù thủy âm nhạc" như những quan văn hóa cộng sản đã sợ ông. Trong những ngày cuối đời, Phạm Duy lại là biểu tượng nổi bật nhất của tự do sáng tạo dưới chế độ cộng sản.
Bùi Văn Phú
Nguồn : VOA, 25/11/2017