Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Hiệp định thương mại tự do sẽ mở rộng cửa thị trường Liên Hiệp Châu Âu (EU) cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là nông sản. Nhưng vấn đề là các doanh nghiệp và nông gia Việt Nam có đáp ứng được các tiêu chuẩn rất gắt gao của các nước Châu Âu hay không.

nongsan1

Gạo Việt Nam xuất khẩu vào Liên Hiệp Châu Âu sẽ bị canh tranh ráo riết - Ảnh minh họa

Trong cuộc họp toàn thể ngày 12/02/2020 tại Strasbourg, Nghị Viện Châu Âu đã thông qua Hiệp định tự do thương mại Việt Nam – Liên Hiệp Châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – Liên Hiệp Châu Âu (EVIPA), vốn đã được hai bên chính thức ký kết ngày 30/06/2019.

Được Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn, EVFTA sẽ có hiệu lực một tháng sau khi hai bên thông báo cho nhau đã kết thúc quá trình thủ tục về pháp lý. Riêng hiệp định EVIPA thì cần phải được Quốc hội của từng nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu thông qua.

Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU tại Đông Nam Á, chỉ sau Singapore, với kim ngạch trao đổi mậu dịch lên đến 50 tỷ euro/năm về hàng hóa và 4 tỷ euro về dịch vụ. EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 thế giới và là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, tuy vậy, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang EU hiện mới chỉ chiếm khoảng 2%.

Ngay sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, 65% hàng xuất khẩu của EU sang Việt Nam sẽ được miễn thuế ngay lập tức, phần còn lại sẽ dần dần được miễn thuế hết trong vòng 10 năm. Ở chiều ngược lại, 71% thuế quan hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được loại bỏ ngay, trong khi số còn lại sẽ được loại bỏ dần trong 7 năm. Tuy nhiên, riêng về nông phẩm, xuất khẩu miễn thuế các mặt hàng "nhạy cảm" của Việt Nam như gạo, tỏi và trứng sẽ bị hạn chế. Về các chỉ dẫn địa lí đối với sản phẩm, 169 mặt hàng đặc trưng của EU sẽ được bảo vệ tại Việt Nam. Ngược lại, 39 sản phẩm của Việt Nam sẽ được bảo vệ tại EU.

Nhưng để tận dụng được hiệp định EVFTA để chinh phục thị trường EU, nông dân, doanh nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải phải tập trung đầu tư nâng cao chất lượng để đáp ứng những tiêu chuẩn gắt gao của thị trường này. Thị trường EU là một trong những thị trường có yêu cầu chất lượng, kỹ thuật cao nhất thế giới hiện nay. Đặc biệt với nông sản, thủy sản, EU không chỉ đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm, dư lượng hóa chất mà còn chú trọng đến yếu tố môi trường, phát triển bền vững, an sinh động vật. Trong khi đó, việc kiểm soát sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn có nhiều vấn đề.

Chính vì vậy, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, chuyên gia nông nghiệp, nghe tin hiệp định EVFTA sắp được phê chuẩn, nông dân lẫn doanh nghiệp Việt Nam vừa mừng, vừa lo :

"Các doanh nghiệp phấn khởi, người nông dân lại càng phấn khởi hơn, bởi vì đây là dịp để xuất khẩu hàng của Việt Nam sang Châu Âu với một cái giá phải chăng, đồng thời được ưu tiên. Nhưng bà con nông dân mình cũng rất lo, và các doanh nghiệp Việt Nam thì càng lo hơn, bởi vì mình không thể sản xuất như từ trước đến giờ, vốn đã quen sử dụng rất nhiều phân bón. Từ chỗ sử dụng nhiều phân bón như thế, sâu bệnh lại càng được "quyến rũ" để tấn công các nông sản của mình, từ hạt lúa cho đến trái cây các loại.

Tôi đã nói chuyện với nhiều doanh nghiệp, và cũng đã xuống nông thôn nói chuyện với bà con nông dân, để nói là không thể nào tiếp tục sản xuất như trước. Trước đây thì chúng ta cố gắng làm thế nào để có năng suất tốt để bán đi, còn bây giờ, tăng năng suất là một chuyện, nhưng làm sao phải sản xuất được sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm mới là vấn đề khó.

Tôi có nói với bà con nông dân là tôi đã tiếp xúc rất nhiều khách hàng bên Châu Âu sang Việt Nam làm việc. Họ đều nói rất mừng là Châu Âu dừng nhập khẩu từ Campuchia và từ Myanmar, cho nên Việt Nam được mời vào hiệp định thương mại tự do này. Nhưng tất cả các khách hàng của Châu Âu đều biết là sản phẩm của Việt Nam chứa rất nhiều hóa chất, nhất là những hóa chất cấm mới nhất của Châu Âu, thành ra Việt Nam đừng có tưởng muốn xuất cái gì là xuất.

Bà con nông dân nghe như vậy thì họ rất lo, bởi vì tập quán từ 40 năm nay là đã quen bón rất nhiều phân để có năng suất cao, nhưng bón phân thì rất mất cân đối, phần lớn là chỉ bón phân đạm. Đất của đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và đất của Việt Nam nói chung khi chỉ được bón phần lớn là phân đạm, thì các chất khác phải được cung cấp cho cây trồng, cho nên cây trồng phải hút các chất khác từ trong đất ra. Năm này sang năm kia thì những chất khác đó, nhất là những chất dư lượng, không còn nữa, dẫn đến hiện tượng đất bị "chai". Bà con nông dân càng bón nhiều phân đạm, thì càng thấy là sâu bệnh xuất hiện rất nhiều, cho nên họ lại phải sử dụng rất nhiều thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là sử dụng nhiều loại kháng sinh, là những chất mà các nước khác trên thế giới không muốn hiện diện, tồn dư trên nông sản của họ.

Ở Việt Nam bây giờ chúng tôi đang dấy lên một phong trào để bà con nông dân hiểu cách bón phân thế nào nhằm khôi phục tình trạng nguyên thủy của đất của mình, tức là làm cho nó không chai như hiện nay nữa. Muốn như thế thì không được sử dụng phân hóa học, và từ đó thì sẽ không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các chất kháng sinh. Bà con nông dân phải từ bỏ tập quán "ghiền" chất hóa học, chuyển sang một phương pháp mới, sử dụng các loại phân vi sinh, phân sinh học.

Bà con nông dân nay đã ý thức được vấn đề này. Vấn đề bây giờ là phải sử dụng những phân vi sinh nào có hiệu quả nhất, mà ít tốn kém nhất, đem đến giá thành sản xuất thấp hơn, và các loài sâu bệnh cũng sẽ không còn nữa, để mà bà con nông dân không sử dụng nhiều chất hóa học trên đồng ruộng".

Hàng xuất khẩu sang EU còn phải đáp ứng quy tắc về xuất xứ. Vấn đề là nguồn nguyên liệu cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu được nhập từ Trung Quốc và ASEAN. Nếu không đảm bảo được quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức thuế đãi ngộ tối huệ quốc chứ không phải là mức thuế suất 0% trong EVFTA. Mặt khác, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải thay đổi cách làm việc, không thể tiếp tục thu mua nguyên liệu nông sản mà không quan tâm đến khả năng truy được nguồn gốc :

"Đây là một thách thức rất lớn đối với bà con nông dân Việt Nam, đồng thời là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam, thường thường là mua nguyên liệu từ nông dân một cách trôi nổi, thông qua các trung gian, mà không có việc kiểm soát ngay tại đồng ruộng, và vì thế không thể truy nguyên nguồn gốc nguyên liệu mà mình sử dụng.

Về mặt khoa học, chúng tôi cùng với các chuyên viên của bộ Nông Nghiệp phải hết sức ráo riết, một mặt khuyến cáo các doanh nghiệp phải hợp tác, liên kết với bà con nông dân để nắm được nguồn gốc của nguyên liệu đưa vào dây chuyền chế biến sản phẩm. Đồng thời chúng tôi nói bà con nông dân cũng phải hợp tác với nhau để làm theo những quy trình khoa học do các nhà khoa học đưa ra, từ việc sử dụng các phân bón vi sinh, phân bón sinh học, cho đến việc quản lý đồng ruộng, giảm bớt áp lực của sâu bệnh".

Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, sau khi gặp khách hàng Châu Âu, biết được là họ sẵn sàng mua bao nhiêu khối lượng sản phẩm, doanh nghiệp mới trở về vùng nguyên liệu của mình để ký hợp đồng với nông dân và phải kết hợp chặt chẽ với ngành nông nghiệp địa phương, để giúp nông dân, từ khâu đưa giống mới về, cho đến xác định quy trình kỹ thuật, bón loại phân nào, bón lúc nào, liều lượng bao nhiêu. Nhưng nông dân cũng phải liên kết với nhau :

"Nông dân bây giờ phải là những nông dân đổi mới, phải liên kết với nhau thành các hợp tác xã, để có những diện tích lớn và doanh nghiệp có thể vào để giúp họ canh tác có hiệu quả cao hơn và với giá thành giảm đi. Từ đó, nông dân sẽ giàu hơn và doanh nghiệp thì bảo đảm có nguyên liệu rất tốt, có thể truy nguyên được nguồn gốc. Doanh nghiệp không thể tiếp tục làm việc theo kiểu ký hợp đồng rồi đi mất tiêu, đợi đến lúc có sản phẩm rồi mới lại thu mua.

Có nhiều doanh nghiệp cũng nói là họ không có lực lượng cán bộ kỹ thuật để theo sát bà con nông dân, can thiệp để bảo đảm đồng lúa, vườn cây ăn trái đó sạch các loại côn trùng bệnh. Như vậy họ phải hợp đồng với một số thương lái, khuyến khích các thương lái này không chỉ thu mua một cách đơn thuần, mà cũng phải quản lý bà con nông dân và cũng phải ký hợp đồng với doanh nghiệp để làm hợp tác xã cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp. Các thương lái bây giờ cũng phải tập hợp lại để hướng dẫn cho bà con nông dân, để làm trọn nhiệm vụ của một hợp tác xã cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp. Đây là kế hoạch sẽ được thực hiện rõ nét hơn trong vòng vài tháng tới đây, khi các khách hàng từ Châu Âu qua tìm sản phẩm. Có thể là trong quá trình gặp nhau, họ sẽ bàn bạc, để các doanh nghiệp Việt Nam nắm được nhu cầu về một sản phẩm nào đó. Kế đến các doanh nghiệp này sẽ xuống đồng ruộng, ở các tỉnh, các huyện, để bàn cụ thể kế hoạch sản xuất nguyên liệu".

Như vậy, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình đổi mới này. Trước đây lãnh đạo các cấp từ trung ương cho đến địa phương đều hô hào là nông dân trồng cây gì, nuôi con gì, mà không cần biết có ai mua hay không. Còn bây giờ, các doanh nghiệp nắm được đầu ra như thế nào, rồi từ đó mới tổ chức lại cho nông dân sản xuất theo đúng kế hoạch đề ra. Nếu Nhà nước nhiệt tình giúp nông dân và doanh nghiệp hoạt động, thì hành trình của nông sản xuất khẩu sang Châu Âu sẽ rất suôn sẻ.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 17/02/2020

Published in Diễn đàn

Năm 2020 là một năm mà các nhà ngoại giao của Việt Nam hết sức bận rộn, bởi vì Việt Nam vừa đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của ASEAN vừa làm hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trong 2 năm (nhiệm kỳ 2020-2021), thậm chí trong tháng 1 năm nay còn nắm giữ chức chủ tịch luân phiên của Hội Đồng. Nhưng liệu Việt Nam có thể tận dụng được hai vị thế đặc biệt này để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế và khu vực trên vấn đề Biển Đông ?

bd1

Đá Chữ Thập, một trong những đảo nhân tạo Trung Quốc xây ở Trường Sa. Ảnh chụp từ vệ tinh ngày 09/03/2017. Reuters

Đối với nhiều nước ASEAN, đặc biệt là với Việt Nam, thách đố lớn nhất trong năm nay vẫn là sự lớn mạnh của Trung Quốc và việc Bắc Kinh vẫn tiếp tục các nỗ lực nhằm gây áp lực lên các nước yếu hơn. Trên Biển Đông, việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo đang gây nhiều quan ngại sâu sắc không chỉ cho ASEAN, mà cả các nước ngoài khu vực, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Trả lời RFI Việt ngữ ngày 17/01/2020 từ Sydney, nhà báo Lưu Tường Quang trước hết nhận định về khuôn khổ hành động của Việt Nam trong hai cương vị đó, đặc biệt là về vấn đề Biển Đông :

"Việt Nam đã gia nhập ASEAN từ năm 1995 và như vậy là hai lần làm chủ tịch ASEAN, lần thứ nhất là vào năm 2010. Năm đó có những chuyển biến quan trọng trong ASEAN, chẳng hạn như có hội nghị các bộ trưởng Quốc Phòng mở rộng, bao gồm cả Úc, Nhật, Mỹ và có những sáng kiến mới trong thời gian đó. Phải nói đây là một thành công về phương diện ngoại giao của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam.

Sau 10 năm thì Việt Nam luân phiên trở lại giữ chức chủ tịch ASEAN và lần này trùng hợp với chức vụ khác cũng tương đối quan trọng là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nói chung đây cũng là một thành công của ngành ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhưng nói đến ngoại giao thì phải nói đến sự mặc cả với các nước để có được những vị trí này. Riêng trong trường hợp ASEAN thì đây là chức chủ tịch luân phiên, nên không có vấn đề vận động, tranh đấu, còn về chiếc ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thì phải vận động rất nhiều, nhất là khi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ứng viên duy nhất (của khu vực Châu Á). Tôi đặt câu hỏi là Việt Nam đã phải trả giá như thế nào đối với Bắc Kinh để lấy sự ủng hộ ?

Khi nhậm chức thành viên không thường trực, đại diện của Việt Nam đã tuyên bố rõ là sẽ không nêu vấn đề Biển Đông tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đây có thể là một quyết định thực tiễn, bởi vì Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc bị chi phối bởi năm hội viên thường trực có quyền phủ quyết. Giả sử Việt Nam có nêu lên (vấn đề Biển Đông) mà Trung Quốc phủ quyết thì cũng như không. Tuy vậy, tôi cho rằng đây là một thái độ dè dặt quá đáng, vì Việt Nam sẽ không mất gì cả khi nêu lên vấn đề này để Trung Quốc phủ quyết, để cho thế giới thấy lập trường ngang ngược của Bắc Kinh.

Trở lại chức chủ tịch ASEAN 2020, chủ đề mà Việt Nam đưa ra là "gắn kết" và "chủ động thích ứng", rồi họ giải thích qua năm điểm : đoàn kết thống nhất, lợi ích kinh tế, giá trị chung, quan hệ đối tác và năng lực thể chế. Đây là những khái niệm chung, cái quan trọng là đoàn kết và thống nhất, nhưng mà đoàn kết và thống nhất như thế nào ? Chúng ta đặt ra vấn đề này để chúng ta có thể lấy Biển Đông làm ví dụ".

Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng áp lực ở Biển Đông, tranh chấp tại vùng biển này được dự báo sẽ là vấn đề nổi cộm nhất trong nhiệm kỳ chủ tịch luân phiên ASEAN của Việt Nam, theo nhận định của trang mạng ASEAN Today ngày 04/12/2019. Theo ASEAN Today, với việc Hà Nội nay giữ chức chủ tịch ASEAN, tranh chấp với Bắc Kinh về Biển Đông có thể sẽ định hình cho vai trò của Việt Nam trong khu vực cũng như thế giới.

Hà Nội đã đề ra năm ưu tiên trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN 2020 : an ninh khu vực, kết nối khu vực, các giá trị chung của ASEAN, quan hệ đối tác với các nước khác, hiệu quả hoạt động của ASEAN. Theo ASEAN Today, tuy phần lớn chỉ mang tính chất "hô hào", những ưu tiên đó có thể là nền tảng để Việt Nam thúc đẩy ASEAN đạt đồng thuận trên vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Với tư cách chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ đại diện cho các nước Đông Nam Á trong các quan hệ với các nước khác, đặc biệt là với Trung Quốc, và trong hồ sơ Biển Đông, Hà Nội được dự báo là sẽ có thái độ cứng rắn hơn so với các nước khác từng nắm chiếc ghế này nhưng không có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh hoặc ngại đụng chạm Bắc Kinh.

Năm 2020 sẽ là năm mà các nước ASEAN và Trung Quốc theo dự kiến sẽ phải đẩy mạnh đàm phán về bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC để có thể thông qua văn bản này vào năm 2022. Trong chiếc ghế chủ tịch ASEAN, Việt Nam chắc chắc cũng sẽ nhấn mạnh nhiều hơn đến quyền "tự do hàng hải" ở Biển Đông theo hướng có lợi cho mình và điều này cũng sẽ khiến Hoa Kỳ hài lòng.

Nhưng vấn đề là ASEAN vẫn còn bị chia rẽ quá nặng nề trên vấn đề Biển Đông để có thể đạt được sự đồng thuận cần thiết để đạt được một bộ quy tắc ứng xử theo mong muốn của Việt Nam, như nhận định của nhà báo Lưu Tường Quang :

"Thương thuyết về một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông trên Biển Đông COC đã có từ rất lâu, nhưng hai thập niên qua thì vẫn dậm chân tại chỗ, vì Bắc Kinh vẫn không nhượng bộ bất cứ một điểm gì trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông.

Trước đây, Bắc Kinh khăng khăng loại bỏ Hoàng Sa ra khỏi phạm vi áp dụng của COC và nhất quyết giữ lập trường thương thuyết song phương, chứ không phải đa phương, trong khi tranh chấp Biển Đông là vấn đề vừa song phương, vừa đa phương. Nếu Bắc Kinh vẫn không nhượng bộ chút nào về vấn đề Hoàng Sa, cũng như về phương thức giải quyết song phương hay đa phương, thì Việt Nam sẽ làm gì ?

Nếu Việt Nam nói là chúng ta theo đuổi mục đích đoàn kết và thống nhất, do đó nhượng bộ để cho bộ quy tắc COC được đồng ý, và để Brunei, quốc gia chủ tịch kế tiếp, thông qua vào năm 2021, điều này có nghĩa là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bán nước và mang tội với lịch sử. Còn nếu Việt Nam vẫn giữ lập trường đòi Hoàng Sa phải được bao gồm trong bộ quy tắc ứng xử, thì tất nhiên thương thuyết sẽ dậm chân tại chổ.

Cho nên tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, ngay cả trong ưu tiên đầu tiên là "đoàn kết và thống nhất". Trong vấn đề COC, tôi rất hoài nghi là nó sẽ đạt được đồng thuận để có thể được hoàn tất vào năm 2021.

Việt Nam có thể có một vài lợi thế là sau khi Malaysia và Indonesia đã bắt đầu có những sự tranh chấp rõ rệt hơn với Bắc Kinh, thì Malaysia và Indonesia cũng đã có lập trường cứng rắn hơn khi thương thuyết về COC. Nhưng điều này chỉ có lợi một phần nào cho lập trường của Việt Nam, bởi vì ASEAN rất chia rẽ. Philippines đã ngả theo lập trường là phần lớn ủng hộ Trung Quốc. Miến Điện hay Thái Lan thì không có quyền lợi gì ở Biển Đông, do đó có thể ngả theo Bắc Kinh để thủ lợi. Còn tất nhiên Cam Bốt và Lào là hai quốc gia bị ảnh hưởng rất nhiều của Bắc Kinh từ nhiều năm nay. Nội bộ ASEAN chia rẽ như vậy, tôi không lạc quan vào khả năng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc đạt được đoàn kết và thống nhất để có thể giải quyết vấn đề Biển Đông. Vì không có sự đoàn kết, thống nhất đó, thời gian Việt Nam làm chủ tịch ASEAN năm 2020 sẽ phung phí đi".

Cũng giống như vào năm 2012 và 2016, chắc chắn là Cam Bốt sẽ ngăn chặn các tuyên bố của ASEAN về Biển Đông, để bảo vệ liên minh giữa nước này với Trung Quốc. Nhất là vào lúc mà quan hệ quân sự giữa Phnom Penh với Bắc Kinh dường như đang chặt chẽ hơn, theo nhà báo Lưu Tường Quang :

"Cam Bốt không chỉ là tiếng nói của Bắc Kinh trong nội bộ ASEAN, mà chúng ta chưa bao giờ thấy một bản thông cáo chung nào của ASEAN nêu lên vấn đề Biển Đông hoặc chỉ trích Trung Quốc một cách rõ rệt, bởi lý do đơn giản là Cam Bốt bao giờ cũng chống đối. Trong năm 2020 này, Cam Bốt còn có vấn đề khác gây chia rẽ trầm trọng hơn : có những nguồn tin cho rằng Bắc Kinh có những mật ước với Phnom Penh và đã viện trợ rất nhiều cho Hun Sen để có thể sử dụng độc quyền một căn cứ gần Sihanoukville vào mục đích quân sự. Mặc dù chế độ Hun Sen đã cải chính, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng điều này có thể đã xảy ra, vì chính Hoa Kỳ và Úc đã nêu quan ngại.

Nếu Trung Quốc sử dụng căn cứ ở Cam Bốt như là bàn đạp để ảnh hưởng đến vấn đề Biển Đông và ảnh hưởng đến hoạt động trong ASEAN, tôi không nghĩ là Việt Nam có khả năng "gắn kết" và "chủ động thích ứng", để có thể thực hiện mục đã đề ra khi làm chủ tịch ASEAN năm 2020.

Trong bài báo đề ngày 04/12/2019, ASEAN Today nhắc lại là đầu tháng 11 vừa qua, thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng nếu có kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng Tài Thường Trực như Philippines đã làm vào năm 2016, thì Bắc Kinh chắc chắn cũng sẽ bác bỏ phán quyết của Tòa.

Do đó, theo ASEAN Today, Hà Nội sẽ cố tận dụng chiếc ghế chủ tịch ASEAN để xây dựng một sự đồng thuận trong khối trước khi tiến hành một hành động pháp lý. Cho dù điều này có thể sẽ không ngăn cản Trung Quốc xâm nhập vùng biển của các nước ASEAN, nhưng ít ra nó sẽ là một thắng lợi ngoại giao đối với Việt Nam.

Nhà báo Lưu Tường Quang cũng cho rằng, dù biết trước là Trung Quốc sẽ bác bỏ phán quyết, Việt Nam cũng nên kiện Bắc Kinh ra trước Tòa Trọng tài Thường trực như Philippines đã làm :

"Tôi không nghĩ là vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 có thể củng cố hay cải thiện khả năng của Việt Nam để đối chọi với thách đố của Trung Quốc. Vào năm 2010, Việt Nam đã từng làm chủ tịch ASEAN và lúc bấy giờ còn là thời của ông Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc chưa bắt đầu xây đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông. Mãi đến tháng 12/2013, khi ông Tập Cận Bình trở thành tổng bí thư, họ mới bắt đầu một tiến trình kéo dài trong 3,4 năm trời để biến 6,7 đá thành 6,7 đảo và sau đó quân sự hóa hoàn toàn các đảo nhân tạo này, trở thành các căn cứ quân sự, có cả chiến đấu cơ, có cả những tàu chiến thăm viếng.

Cho nên, cục diện của Biển Đông đã hoàn toàn đổi khác và sự xác quyết về chủ quyền, về thế đứng của Bắc Kinh trên các diễn đàn quốc tế cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta thấy là Philippines dưới thời tổng thống Aquino đã đưa Trung Quốc ra trước Tòa Trọng tài Thường trực CPA tại La Haye. Tòa Trọng tài này đã có một phán quyết rất rõ rệt, công bố ngày 12/07/2016 theo đó, đường "lưỡi bò" chín đoạn của Bắc Kinh hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và do đó hoàn toàn bất hợp pháp. Phán quyết của CPA là chung quyết và có tính chất cưỡng hành, nhưng Bắc Kinh vẫn một mực từ chối chấp nhận.

Tuy rằng tổng thống Duterte của Philippines đã không dám sử dụng phán quyết của tòa CPA và cũng không bao giờ dám nhắc đến phán quyết này. Ngược lại, tổng thống Indonesia Widodo không những đã nhắc lại phán quyết năm 2016, mà còn sử dụng phán quyết này trong tranh chấp với Bắc Kinh về vấn đề đánh cá, về vùng đặc quyền kinh tế tại quần đảo Natuna. Tổng thống Indonesia đã đích thân đến đảo này và xác quyết chủ quyền, đồng thời gia tăng hoạt động của tàu chiến và phi cơ của Indonesia để bảo vệ chủ quyền.

Trong vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi chưa hề thấy một vị bộ trưởng, một vị thủ tướng hay một vị ủy viên Bộ Chính trị nào đến một đảo của Việt Nam tại Trường Sa để xác quyết chủ quyền cả !

Cũng vì lý do đó tôi không nghĩ là với tư cách chủ tịch ASEAN, Việt Nam có thể làm gì khác hơn là trong quá khứ. Một việc mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể làm và có thể gây ra sự khác biệt, là kiện Trung Quốc ra trước tòa trọng tài quốc tế tương tự như Philippines đã làm. Mặc dù chắc chắc là Trung Quốc sẽ không công nhận phán quyết đó, nhưng phán quyết đó vẫn là một thành phần của luật pháp quốc tế, trong luật về biển, chẳng hạn như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Nếu Việt Nam có can đảm làm việc ấy, thật sự đó là điều mà Việt Nam dù là chủ tịch ASEAN hay sau khi là chủ tịch có thể làm được và vẫn có thể mang lại một kết quả thuận lợi, mặc dù trên thực tế không đủ hoặc không có khả năng thi hành phán quyết như vậy. Tuy nhiên, đứng về phương diện công pháp quốc tế, đó cũng là một thành quả đáng kể và đó cũng là một thành phần của luật pháp quốc tế, được tồn tại sau này".

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 20/01/2020

Published in Diễn đàn

Cùng với đà phát triển kinh tế, các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và Sài Gòn cũng đã dần dần theo chân của Jakarta, Bangkok, Bắc Kinh…, đối phó với nạn ô nhiễm không khí ngày càng trầm trọng. Nạn ô nhiễm này trong những ngày qua đã lên đến mức báo động và đã gây ra nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, ô nhiễm không khí là một vấn đề liên quan đến nhiều mặt, tìm ra các giải pháp không phải là đơn giản.

onhiem1

Ảnh minh họa. Không khí ô nhiễm tại Bangkok ngày 30/12/2019. Hà Nội cũng đang theo chân các đô thị ô nhiễm nặng ở Châu Á. Reuters

Một báo cáo do tổ chức Global Alliance on Health and Pollution (Liên minh toàn cầu về sức khỏe và ô nhiễm) công bố tháng 12/2019 vừa qua cho thấy có hơn 71.300 người đã chết vì ô nhiễm môi trường ở Việt Nam, trong đó khoảng hơn 50.000 người chết vì ô nhiễm không khí, trong năm 2017, tức là năm mới nhất mà chúng ta có được các dữ liệu này. Như vậy, tính về số người chết vì ô nhiễm, Việt Nam đứng hàng thứ tư ở khu vực Tây Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc (1,8 triệu người), Philippines (86.650 người) và Nhật Bản (82.046 người).

Thành phố ô nhiễm không khí nặng nhất hiện nay tại Việt Nam là Hà Nội, nhất là ô nhiễm về bụi mịn, trong thời gian gần đây đã lên đến mức báo động. Bụi mịn ở Hà Nội chủ yếu là do những nguyên nhân nào, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 28/12/2019, giáo sư Phạm Duy Hiển, cựu Viện trưởng Viện nguyên tử Đà Lạt, nhiều năm nghiên cứu về vấn đề ô nhiễm không khí ở Việt Nam, giải thích :

"Nguyên nhân chính vẫn là phát thải từ giao thông, trước hết là xe cộ. Hà Nội nay có trên 7,5 triệu phương tiện giao thông (xe máy, xe tải, xe bus, xe hơi). Mỗi loại xe như thế phát thải những bụi khí rất độc, phần lớn là bụi mịn, tức là dưới 2,5 micron. Nhưng trong khí phát thải của xe cộ thì có hai loại mà ít người để ý đến, trong khoa học người ta mới nghiên cứu sâu. Thứ nhất là hạt do xe cộ trực tiếp phát ra, dưới 2,5 micron, thậm chí dưới 1 micron, chủ yếu là những hạt từ động cơ, cháy không hết nên phát ra, trong đó có những hạt rất độc, như là carbon đen, mà người Việt hay gọi là bồ hóng, đặc biệt là từ những xe chạy bằng dầu diesel.

Ngoài ra, khi xe chạy thì lốp xe bào mòn và từ đó phát ra những hạt khác, rồi bụi đất ở trên đường, có những loại bụi mịn vẫn theo xe tung lên. Nhưng cái mà ít người để ý, đó là nó phát ra những khí rất độc, trong đó có NO2, hay là NOx, SO2, CO và các khí hữu cơ, dễ bốc, trong đó có benzene. Benzene là chất phụ gia người ta đưa vào trong xăng, thay cho chất chì (nay đã bị cấm), và cũng là một chất gây mầm mống ung thư. Một hàm lượng lớn benzene trong không khí có thể là nguy hiểm.

Những khí độc ấy là một bộ phận rất lớn do xe cộ vận hành phát ra. Vấn đề là các khí đó, sau một thời gian lan truyền trong khí quyển, sẽ trở thành hạt. Những hạt đó phần lớn rất là bé, phần lớn là dưới 1 micron, người ta gọi đó là hạt thứ cấp. Những hạt đó là một bộ phận rất lớn trong hạt bụi mịn, nguy hiểm hơn vì mịn hơn, nó đi sâu hơn (vào cơ thể), để lại nhiều độc tố trong phổi".

Nhưng theo giáo sư Phạm Duy Hiển, ngoài xe cộ, tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội còn, xuất phát từ nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như than tổ ong mà người dân còn sử dụng rất nhiều :

"Ví dụ như ở Hà Nội thì người ta vẫn thường dùng than tổ ong. Khi đun (than tổ ong) thì nó phát ra một lượng tro bay tương đối khá. Rồi bao nhiêu những nguồn khác nữa, ví dụ như là đốt sinh khối. Ngay cả những chuyện mà chúng ta không để ý là, cứ tới ngày lễ, ngày giỗ thì người ta đốt rất nhiều vàng mã. Ở Hà Nội thì việc này rất phổ biến chung quanh các nhà chùa. Đó là những loại bụi do đốt sinh khối. Nghiên cứu kỹ người ta còn thấy có bụi từ biển, chứa muối biển, cũng bay vào Hà Nội.

Mỗi nguồn như thế thì có những thành phần nguyên tố, phải làm thế nào xác định được thành phần nguyên tố của bụi ở tại một điểm, xong rồi từ đó mới truy ngược lại là có những nguồn gì. Phải phân định mỗi một nguồn đóng góp bao nhiêu vào khối lượng bụi quan trắc được tại một điểm.

Như vậy, vấn đề tương đối phức tạp, không phải nhìn vào là nói ngay được, mà phải làm nghiên cứu khoa học. Chúng tôi đã có nhiều công trình nghiên cứu như thế, ví dụ như là có một nghiên cứu gần đây cho thấy là ở một khu đô thị ở Nghĩa Đô, nồng độ bụi mịn là khoảng hơn 40 microgram/m3, tính trung bình cả năm, nhưng có những ngày tăng vọt trên 100. Trong 40 microgram đó, có một nửa là thành phần bụi do xe cộ, mà trong một nửa đó thì có 15% là trực tiếp phát ra từ ống xả, 15% là bụi lơ lửng do xe cộ tung ra từ mặt đất và 20% là bụi thứ cấp, tức là từ các khí phát ra. Ngoài ra, bụi từ các bếp than tổ ong cũng chiếm đến 15%, còn lại là các thứ khác".

Ở những nước khác, giao thông vẫn là nguyên nhân chính gây ô nhiễm, nhưng riêng Hà Nội lại có những đặc điểm khiến thành phố này không giống những nơi khác, như phân tích của giáo sư Phạm Duy Hiển :

"Thứ nhất, thành phần xe cộ ở Hà Nội, đa số 85% là xe máy, mà xe máy thì chất lượng phát thải không tốt, xe công cộng thì rất là ít. Đặc điểm thứ hai : diện tích mặt đường ở Hà Nội quá bé so với tổng diện tích, có nghĩa là diện tích dành cho xe cộ chạy thì rất ít. Trước những năm 2005, diện tích này chỉ chiếm 1,9% trong vùng nội thành, rất thấp so với thế giới, do đó xe cộ cứ phải chen chúc nhau.

Đặc điểm thứ ba là, trong cấu trúc đô thị của Hà Nội, có rất ít khoảng trống dành cho cây xanh, hồ nước, còn tất cả đều là bê tông nói chung là rất chật chội. Các nghiên cứu của thế giới, cũng như của chúng tôi, đều cho thấy là nồng độ ô nhiễm phụ thuộc rất nhiều vào mật độ dân cư. Khu nào càng đông dân cư thì ô nhiễm càng cao. Dân cư đông thì xe cộ nhiều, nhất là mỗi người dân lại có 1 hoặc 2 xe máy. Mật độ dân số cao thì nhà cửa chật chội, đường xá chật chội, không có khoảng trống để các chất ô nhiễm phát tán.

Cũng vì tất cả đều là bê tông, nên có một hiện tượng là ban ngày ánh nắng mặt trời đốt nóng mặt đất, tối đến thì xảy ra hiện tượng nghịch nhiệt : nhiệt độ của lớp không khí sát mặt đất tăng lên theo độ cao, trong khi bình thường thì nó phải giảm theo độ cao. Cho nên, ô nhiễm không phát tán ra được, mà nó cứ ở lại trong khoảng vài trăm mét trên mặt đất. Đó là một yếu tố rất quan trọng làm cho Hà Nội có rất nhiều bụi vào đầu mùa khô.

Một hiện tượng nghịch nhiệt nữa, tức là nhiệt độ không giảm mà lại tăng theo độ cao, khoảng 500 mét trên mặt đất, thường xảy ra vào mùa hơi ẩm một chút, sau tháng Giêng, tháng Hai, liên quan đến khái niệm gọi là mù. Có hai loại mù. Đầu tiên là loại bụi mù mà tôi nói ở trên và thứ hai là loại mù khí tượng. Loại mù thứ hai này thường dày đặc đến mức máy bay không lên xuống được. Những yếu tố thời tiết và địa hình có ảnh hưởng rất lớn, làm cho nồng độ tăng lên. Như vừa rồi, đầu tháng 12, từ 7 cho đến 14, gần như là 7 ngày liên tục, hàm lượng bụi ở Hà Nội đã tăng lên sau giờ chập tối, trên 200 microgram/m3, thậm chí có nơi trên 300. Mãi đến khuya, hàm lượng này vẫn còn cao, rồi đến sáng mới bớt dần. Cho nên nhiều người không hiểu tại sao ban đêm xe cộ không chạy nhiều mà ô nhiễm không khí lại cao hơn ban ngày".

Trước tình trạng này các cơ quan hữu trách phải có giải pháp nào cho Hà Nội ? Theo giáo sư Phạm Duy Hiển, vẫn có một quan điểm sai lầm cho rằng ô nhiễm không khí là trách nhiệm của riêng bộ Tài Nguyên Môi Trường, trong khi đây là vấn đề mà toàn bộ chính quyền phải ra tay giải quyết, mà giải quyết không phải chỉ là bằng việc trang bị thật nhiều trạm quan trắc. Tuy nhiên, tìm ra những giải pháp hữu hiệu không phải là đơn giản :

"Đó là vì những giải pháp nào cũng đụng chạm đến người dân, nhưng chung quy lại, muốn giải bài toàn ô nhiễm không khí ở Hà Nội và các thành phố khác, thì phải đánh đổi những khó khăn của người dân với việc tăng chất lượng không khí lên. Muốn như vậy thì phải có những giải pháp tương đối mạnh.

Ví dụ như tại Hà Nội, những khu mà ô nhiễm tương đối cao nhất là các cụm đại học, bệnh viện. Mỗi khu đại học như thế hàng ngày thu hút hàng chục nghìn người, thậm chí nhiều hơn, mà mỗi người đều đi xe máy. Thế thì liệu chúng ta dám làm một việc là dời các cụm đại học đó ra vùng ngoại vi, ví dụ như trên đường Thăng Long ? Mà giải tỏa khu đó thì không phải là để làm nhà cao tầng, mà là xây các công viên, các hồ nước, v.v…, để cho khí ô nhiễm phát tán.

Còn về xe cộ, thì tại những nước văn minh, người ta có dùng xe máy nhiều như thế đâu ? Trung Quốc ngay từ hàng chục năm trước đây đã cấm xe máy. Cái này chúng ta phải suy nghĩ. Ban đầu có thể là giảm đăng ký xe mới. Bây giớ cứ mỗi một năm lượng xe đăng ký trong nội thành lại tăng 15-17%, như thế thì chịu sao nổi ? Sau đó, tiến đến cấm xe máy ở một số khu, rồi cấm hẳn và như vậy thì Hà Nội sẽ trở thành một đô thị hiện đại như những nơi khác.

Một yếu tố cũng rất quan trọng và Hà Nội cũng từng làm rất nhiều, đó là vỉa hè. Vỉa hè của Hà Nội thì lởm khởm, bụi đất nhiều, nhìn không tươm tất, cho nên phải cương quyết dẹp chuyện chiếm dụng vỉa hè, để làm sạch vỉa hè. Rồi phải cấm sử dụng than tổ ong, thay bằng bếp gaz chẳng hạn.

Thật ra, trong vấn đề ô nhiễm không khí do xe cộ ở Hà Nội, có vấn đề chất lượng phát thải, chất lượng xăng dầu. Ở phương Tây và các nước khác người ta đã theo tiêu chuẩn khí thải euro, tiến tới euro 6, còn mình thì vẫn lẹt đẹt theo sau. Như vậy là các xe cộ phải được kiểm tra rất kỹ về chất lượng phát thải. Xăng dầu cũng vậy : xăng của mình thì có lượng benzen hơi cao, trong dầu thì cũng có nhiều lưu huỳnh. Bây giờ phải tính tới chuyện đưa lên đến mức ngang bằng với Singapore. Trên bản đồ chỉ số ô nhiễm của cả Châu Á, Singapore bao giờ cũng rất là sạch, thường là màu xanh, trong khi chung quanh đó thì Jakarta, Kuala Lumpur thường là màu đỏ, màu vàng".

Tuy nhiên, giải pháp hạn chế dần, rồi tiến tới cấm xe máy ở Hà Nội chắc chắc sẽ gây nhiều tranh cãi, chưa chắc là khả thi, vì đây vẫn là phương tiện di chuyển chủ yếu của đa số dân thủ đô, cũng như ở Việt Nam nói chung.

Vấn đề ô nhiễm còn liên quan chặt chẽ đến quản lý đô thị và phát triển đô thị. Cho nên, theo giáo sư Phạm Duy Hiển, muốn giải quyết tốt nạn ô nhiễm không khí ở Hà Nội, biện pháp trước mắt cũng như lâu dài là kiểm kê các nguồn ô nhiễm, tức là kiểm kê phát thải như nhiều nước đang làm :

"Việc kiểm kê đó không những giúp cho nhà khoa học biết nguồn bụi đó là như thế nào, nhưng quan trọng hơn là cho các nhà quản lý biết năm nay, tại Hà Nội, ở khu này có bao nhiêu xe máy, sang năm sẽ là bao nhiêu, rồi dùng than là bao nhiêu, dùng diesel là bao nhiêu. Các nhà quản lý có thể nhìn vào bài toán kiểm kê, có số liệu hàng năm được cập nhập.

Rồi con người cũng phải bỏ đi những tập quán không tốt, không thích hợp với cuộc sống ở những đô thị văn minh. Ở các đô thị văn minh, người ta đi bộ rất nhiều, rồi lên các xe bus, metro, còn người Việt Nam thì cứ có thói quen đi xe máy. Rồi khi nào thấy có chỗ nào xây đường thì mọi người xông ra mặt tiền, gây ra sốt đất. Đó là những thói quen của người Việt từ một xã hội thủ công nghiệp trước đây. Chất lượng không khí là thể hiện một thành phố văn minh hiện đại".

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 06/01/2020

Published in Diễn đàn

Một trong những sự kiện đáng chú ý nhất trong thời sự Việt Nam năm 2019, đó là áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Việt Nam trên Biển Đông, thể hiện qua vụ Bắc Kinh đưa tàu khảo sát xâm nhập khu vực Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

bd0

Trong năm 2019, Trung Quốc ngày càng tăng áp lực với Việt Nam trên Biển Đông

Trong khoảng thời gian từ ngày 04/07 đến 24/10/2019, Trung Quốc đã điều tàu Hải Dương Địa Chất 8 đến tiến hành bốn cuộc khảo sát địa chất trong vùng biển 200 hải lý của Việt Nam, có lúc tiến gần bờ biển tỉnh Phú Yên khoảng hơn 65 hải lý. Trong cùng thời gian đó, tàu Hải Cảnh 35111 của Trung Quốc quấy nhiễu hoạt động của giàn khoan Nhật Bản Hakyryu-5 do một công ty liên doanh Việt - Nga sử dụng tại Lô 06.01 nằm cách bờ biển Việt Nam 190 hải lý.

Đối với Hà Nội, rõ ràng đây là một mưu toan của Bắc Kinh nhằm biến "vùng biển không tranh chấp" thành "vùng biển tranh chấp", lấy cớ để ngăn chặn các nước ven bờ hợp tác với các công ty dầu khí quốc tế trong khu vực này.

Căng thẳng chỉ giảm bớt sau khi Trung Quốc cho rút tàu khảo sát ra khỏi vùng biển Việt Nam hôm 23/10. Sau đó, vào cuối tháng 11, một phái đoàn do thứ trưởng ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu đã qua Bắc Kinh để thảo luận về những vấn đề quan hệ song phương, trong đó có Biển Đông. Bản thông cáo cho biết là phía Việt Nam đã "nêu rõ lập trường" của mình về Biển Đông, nhưng xác định rằng hai bên nhất trí "xử lý thỏa đáng các bất đồng" để duy trì ổn định trong khu vực. Bản thông cáo cũng không đề cập đến vụ Bãi Tư Chính.

Trong bài viết đề ngày 06/12/2019, đăng trên trang mạng East Asia Forum, ông Đỗ Thanh Hải, Học viện Ngoại giao Việt Nam, nhận định về căng thẳng Biển Đông năm 2019 :

"Việt Nam chưa bao giờ loại trừ giải pháp quân sự để phòng thủ, nhưng rõ ràng dùng đến vũ lực có nghĩa là thất bại về ngoại giao. Mặc dù lực lượng quốc phòng đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhưng chính sách của Hà Nội là tận dụng các biện pháp hòa bình. Các quan chức Việt Nam đã gởi hàng chục công hàm phản đối cho phía Trung Quốc. Trong khi các đối tác ASEAN im hơi lặng tiếng về mặt ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra 4 tuyên bố công khai lên án Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển UNCLOS".

Về đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc trong vụ Tư Chính, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore nhận định :

"Nhiều người cho rằng trong trường hợp này, Việt Nam tương đối đã kiềm chế và phản ứng có vẻ yếu ớt hơn rất nhiều so với vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014. Cũng đã có những chỉ trích nhất định đối với cách ứng xử của Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào phản ứng của hai bên và so sánh với năm 2014, chúng ta có thể hiểu được ít nhiều tại sao lần này Việt Nam lại hành xử như vậy và không có những phản ứng quyết liệt như vào năm 2014.

Trong trường hợp này, chúng ta có hai lựa chọn. Thứ nhất là điều các tàu Việt Nam ra ngăn chặn, cản trở các hành vi vi phạm của phía Trung Quốc, như trong trường hợp năm 2014. Thứ hai là dùng các biện pháp phản đối ngoại giao và kiên nhẫn chờ Trung Quốc rút tàu vì một lý do nào đó. Có lẽ Việt Nam đã cân nhắc thiệt hơn và cho rằng chọn phương án thứ hai thì hợp lý hơn, vì những lý do như sau :

Nếu sử dụng phương án thứ nhất thì sẽ đẩy căng thẳng lên cao và có thể dẫn tới các phản ứng tiêu cực, như các cuộc biểu tình, bạo loạn chống Trung Quốc năm 2014. Đây là điều Việt Nam rất muốn tránh.

Thứ hai là, trong trường hợp Việt Nam đưa các tàu ra đâm, va vào tàu của Trung Quốc, do tương quan lực lượng thì Việt Nam yếu hơn, số lượng tàu ít hơn, cho nên có thể gây ra các thiệt hại cho lực lượng Việt Nam, mà lại không nhất thiết dẫn đến các kết quả mà Việt Nam mong muốn.

Thứ ba, tôi nghĩ cũng là nguyên nhân quan trọng, đó là so với vụ Trung Quốc năm 2014 hạ đặt giàn khoan trên vùng biển của Việt Nam, trường hợp tàu khảo sát của Trung Quốc, mặc dù đi ra đi vào rất là ngang nhiên, trắng trợn, nhưng hành động khảo sát ấy không nghiêm trọng bằng việc hạ đặt giàn khoan, không tới mức mà Việt Nam phải hành động cứng rắn.

Như chúng ta đã thấy, sau hơn 3 tháng thì Trung Quốc đã rút tàu khảo sát và tình hình đã trở lại nguyên trạng như lúc trước khi xảy ra vụ việc. Mặc dù vậy, rất có nhiều khả năng là trong thời gian tới, phía Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động gây hấn, xâm phạm vùng biển Việt Nam. Việt Nam cũng phải suy nghĩ thêm những cách đối phó khác hiệu quả hơn những sự vi phạm trở lại của Trung Quốc đối với các vùng biển của Việt Nam".

Căng thẳng Việt Trung đã lên cao đến mức mà vào đầu tháng 11/2019, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã tuyên bố, nếu các nỗ lực ngoại giao thất bại, chính phủ Việt Nam có thể sẽ sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế để ngăn chặn đà bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây cũng là đòi hỏi của công luận Việt Nam trong những tháng qua. Thế nhưng, vì sao Hà Nội chưa đưa vấn đề ra trước tòa án quốc tế, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp giải thích :

"Đưa Trung Quốc ra một tòa trọng tài quốc tế để phân xử vẫn là lựa chọn mà Việt Nam đang suy nghĩ, cân nhắc và tôi hiểu là cũng cần có một sự chuẩn bị nhất định. Tuy nhiên, trong vụ Tư Chính cũng như trong các vụ việc khác, Việt Nam vẫn kiềm chế và chưa áp dụng biện pháp này.

Thứ nhất, kiện về vấn đề nào, kiện ở tòa án nào vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi và có thể là chưa có sự đồng thuận trong phía Việt Nam để làm sao phương án này mang lại hiệu quả tối ưu cho Việt Nam, đồng thời giảm thiểu những hệ lụy về mặt chính trị, về mặt pháp lý mà Việt Nam có thể phải gánh chịu.

Thứ hai, biện pháp pháp lý, cho dù có thể mang lại chiến thắng cho Việt Nam, nhưng tác dụng thực tế có thể không như mong đợi. Chúng ta có thể nhìn vào vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mặc dù Philippines thắng kiện, nhưng điều đó không mang lại tác dụng tích cực, tức thì cho phía Philippines và Trung Quốc vẫn tiến hành các vi phạm như chưa từng có phán quyết đó.

Trong trường hợp của Việt Nam cũng vậy, nếu Việt Nam thắng kiện thì chưa chắc đã đảo ngược được tình thế và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm ngơ phán quyết đó và tiếp tục vi phạm các vùng biển của Việt Nam. Trong khi đó, nếu Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ khiến quan hệ song phương xấu đi rất nhiều. Tôi nghĩ phía lãnh đạo Việt Nam chưa sẵn sàng chấp nhận quan hệ căng thẳng hơn với Trung Quốc, vì nó có thể gây ra nhiều hệ lụy, nhiều tác động, mà có thể phía Việt Nam chưa lường trước được hoặc chưa sẵn sàng để đối phó.

Việt Nam vẫn tiếp tục cân nhắc hành động pháp lý, nhưng đang trì hoãn thời điểm để thực hiện biện pháp đó và có thể sử dụng trong tương lai, khi mà thời điểm đã chín muồi hoặc là khi mà Việt Nam không có lựa chọn nào khác khả dĩ hơn để đối phó với các vi phạm của Trung Quốc".

Sách trắng Quốc phòng mới của Việt Nam được công bố vào tháng 11 cũng phản ánh mối lo ngại về nguy cơ Trung Quốc xâm lăng, như nhận định của chuyên gia phân tích cao cấp Lê Thu Hương, thuộc Viện Chính Sách Chiến Lược Úc (ASPI) trong một bài viết đăng trên trang mạng Foreign Policy ngày 06/12/2019.

Theo nhận xét của bà Lê Thu Hương, Sách trắng Quốc phòng đầu tiên từ 10 năm qua không nêu chi tiết về những thay đổi trong cơ cấu và tổ chức lực lượng quân sự Việt Nam, nhưng điều đáng quan tâm nhất đó là Sách trắng này nói rõ về bối cảnh chiến lược và chiến lược quốc gia để bảo vệ Tổ quốc.

Sách trắng Quốc phòng 2019 của Việt Nam nhấn mạnh tranh chấp Biển Đông là một trong những yếu tố đe dọa đến ổn định, hòa bình và thịnh vượng của khu vực. Chuyên gia Lê Thu Hương còn ghi nhận một điểm mới trong Sách trắng Quốc phòng 2019 : "Việt Nam không chấp nhận hợp tác quốc phòng dưới áp lực hoặc dưới những điều kiện áp đặt nào".

Điều này có nghĩa là Việt Nam bác bỏ mọi quan hệ đối tác bất lợi cho mình và khẳng định quyền tự chủ trong quyết định về các mối quan hệ quốc phòng và về các lợi ích an ninh, nhưng vẫn để mở cửa cho các hợp tác thân thiện để bảo vệ biên giới trên biển cũng như trên bộ. Lập trường này ngầm bác bỏ lập trường của Trung Quốc về Biển Đông, vốn chỉ muốn giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương, không chấp nhận các giải pháp đa phương, cũng như sự can dự của một nước thứ ba, như Hoa Kỳ.

Việc Trung Quốc gia tăng áp lực lên Việt Nam càng khiến Hà Nội xích gần lại Washington, nhưng Việt Nam trong thời gian tới sẽ vẫn duy trì chính sách "ba không" (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác), theo nhận định của nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp :

"Theo tôi, Việt Nam vẫn kiên trì chính sách "ba không", như Sách trắng Quốc phòng 2019 vừa đề cập. Nhưng đó là về mặt chính thức, còn trên thực tế Việt Nam không để cho chính sách "ba không" ràng buộc, trói tay mình trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác khác, để giúp Việt Nam có một ưu thế chiến lược tốt hơn trên Biển Đông và có thể cân bằng lại các sức ép của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong thời gian qua, một mặt Việt Nam vẫn duy trì và tuyên truyền chính sách "ba không", mặt khác vẫn kiên trì mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác quốc phòng với một số cường quốc chủ chốt, có chung các lợi ích chiến lược với Việt Nam trên hồ sơ Biển Đông, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Cả hai nước này đều đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc xây dựng năng lực hàng hải để giúp Việt Nam đối phó tốt hơn với Trung Quốc trên Biển Đông. Những nước này cũng hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trên mặt trận ngoại giao, cung cấp cho Việt Nam những sự hỗ trợ cần thiết khi Trung Quốc o ép Việt Nam trên Biển Đông.

Tôi nghĩ là trong thời gian tới, xu hướng này sẽ tiếp tục. Việt Nam sẽ cố gắng thúc đẩy hơn nữa hợp tác chiến lược với các cường quốc này, đặc biệt Nhật và Mỹ. Tuy nhiên, do Việt Nam vẫn muốn giữ sự cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ và các cường quốc khác, cũng như do các cam kết của Việt Nam với chính sách "ba không", mặc dù thúc đẩy quan hệ với các cường quốc, nhưng Việt Nam sẽ cố gắng thận trọng về tốc độ, cũng như phạm vi hợp tác, để làm sao vừa nâng cao vị trí chiến lược của mình, đặc biệt là trên Biển Đông, vừa bảo đảm là không bị Trung Quốc nhìn nhận là đã từ bỏ chính sách "ba không" hoặc chọn nghiêng về phía Mỹ và các đồng minh để chống lại Trung Quốc.

Đây sẽ là xu hướng tiếp diễn trong những năm tới và là một sự lựa chọn không hề đơn giản, sẽ có nhiều khó khăn, thử thách đối với Việt Nam trong thời gian tới".

Nhưng Hà Nội cũng ngày càng gặp khó khăn trong việc giữ thế cân bằng giữa hai siêu cường quốc đối địch, đó là nhận định của tờ Asia Times trong một bài viết đăng ngày 04/12/2019.

Lý do là vì, theo Asia Times, Trung Quốc rõ ràng là gây áp lực ngày càng mạnh để buộc Việt Nam từ bỏ các yêu sách chủ quyền trên Biển Đông, và ngưng thăm dò dầu khí tại các vùng đang tranh chấp. Nhưng đồng thời, Hoa Kỳ cũng phản ứng mạnh mẽ hơn trước những mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh ở khắp vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Trong các Sách trắng Quốc phòng do Lầu Năm Góc công bố, Trung Quốc ngày càng bị chỉ đích danh là kẻ thù của Mỹ.

Nếu Hà Nội không còn giữ tư thế trung lập và ngả theo Trung Quốc nhiều hơn thì họ gần như chắc chắn là sẽ phải từ bỏ một số yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, và đổi lại Bắc Kinh chắc là sẽ hứa gia tăng đầu tư và trao đổi mậu dịch với Việt Nam.

Cũng theo Asia Times, về mặt chính trị, ngả hoàn toàn theo Trung Quốc sẽ làm xấu đi hình ảnh của đảng đối với người dân, vốn có tinh thần chống Trung Quốc ngày càng mạnh. "Chơi với Mỹ mất chế độ, chơi với Trung Quốc mất nước". Nhưng theo Asia Times, ngả hẳn theo Trung Quốc thật ra sẽ khiến chế độ cộng sản sụp đổ nhanh hơn là ngả hẳn theo Mỹ.

Tuy nhiên, Hà Nội chắc là vẫn nghi ngại không biết Hoa Kỳ có sẽ bảo vệ Việt Nam trong trường hợp xung đột vũ trang với Trung Quốc hay không. Nhiều người trong khu vực vẫn còn nhớ là vào năm 2012, Washington đã không có phản ứng gì khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough từ Philippines, một đồng minh đã ký hiệp định phòng thủ với Hoa Kỳ.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 31/12/2019

Published in Diễn đàn

Một trong những công trình kiến trúc từ thời Pháp ở Sài Gòn suýt nữa đã bị khai tử là Dinh Thượng Thơ, hiện là trụ sở của Sở Thông tin và truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh. Thay vì phá bỏ tòa nhà này, chính quyền thành phố Sài Gòn cuối cùng đã quyết định bảo tồn và đang kêu gọi sự đóng góp của các chuyên gia nước ngoài.

kientruc1

Tòa nhà Dinh Thượng Thơ, nay là trụ sở của Sở Thông tin và Truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh. Phúc Tiến

Dinh Thượng Thơ, nằm tại số 59-61 đường Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, quận 1, là công trình có lịch sử lâu đời của Sài Gòn, nhưng tòa nhà này lại chưa được đưa vào danh mục kiểm kê di tích lịch sử văn hóa.

Công trình do người Pháp xây dựng từ những năm đầu của thời kỳ thuộc địa, hoàn thành vào năm 1864, với chức năng là Nha Giám đốc Nội vụ để điều hành trực tiếp toàn bộ các vấn đề dân sự, tư pháp và tài chính của thuộc địa. Người dân thời đó gọi tòa nhà này là Dinh Thượng Thơ.

Năm ngoái, hàng ngàn người đã ký tên vào kiến nghị yêu cầu chính quyền thành phố không phá bỏ tòa nhà Dinh Thượng Thơ khi nâng cấp trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh. Cuối cùng, chính quyền thành phố đã quyết định không phá bỏ Dinh Thượng Thơ và vào tháng 9/2019, Sở Quy hoạch và kiến trúc đã đề nghị mời chuyên gia nước ngoài hỗ trợ giải pháp kỹ thuật trong việc bảo tồn công trình kiến trúc này.

Theo báo chí trong nước ngày 11/12/2019, chính quyền địa phương vừa quyết định tòa nhà Dinh Thượng Thơ sẽ được tu sửa thành nhà truyền thống Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Trả lời RFI Việt ngữ tại Thư viện François Mitterrand, Paris, nhân dịp ghé qua Pháp giữa tháng 9 vừa qua, ông Phúc Tiến, nhà nghiên cứu về lịch sử Sài Gòn, tác giả hai cuốn sách "Saigon – Hai đầu thế kỷ" (xuất bản năm 2017) và "Sài Gòn không phải ngày hôm qua" (xuất bản năm 2016), nêu suy nghĩ của ông về đề xuất nói trên của Sở Quy hoạch và kiến trúc :

"Đây là một đề xuất rất tốt. Cho đến nay, việc trùng tu di sản, các đền chùa, các công trình theo kiến trúc cổ truyền của Việt Nam thông thường là do các chuyên gia Việt Nam làm. Còn các công trình mang dấu ấn của phương Tây, đặc biệt là của Pháp, thì chúng ta phải có sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài.

Nếu tôi nhớ không lầm thì cách đây 20 năm, khi diễn ra thượng đỉnh khối Pháp ngữ ở Hà Nội, nước Pháp, lúc đó dưới thời tổng thống Jacques Chirac, đã tài trợ cho việc trùng tu Nhà hát lớn, một "báu vật" của Hà Nội cũng như của Việt Nam, một tòa nhà rất đẹp. Kiến trúc sư thực hiện việc trùng tu này là Hồ Thiệu Trị, một Việt kiều ở Pháp.

Mỹ Sơn, nơi đã được xếp là di sản của thế giới, với kiến trúc Champa, thì cũng đã có các chuyên gia Ba Lan đóng góp ngay từ đầu. Cũng như là Huế và Hội An, ngoài các chuyên gia Việt Nam, đều có các chuyên gia của UNESCO và của các nước khác giúp sức. Kinh nghiệm của nước ngoài trong việc trùng tu các tòa nhà phương Tây là rất cần thiết".

Như vậy thì trong việc bảo tồn những công trình như Dinh Thượng Thư, các chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là Pháp, có thể giúp được gì cho chính quyền của thành phố Sài Gòn ? Về điểm này, nhà nghiên cứu Phúc Tiến nêu ý kiến :

"Điều đầu tiên, nhiều tòa nhà ở thành phố này là do Pháp thiết kế và xây dựng trước đây, hồ sơ xây dựng chắc là còn được lưu trữ ở Pháp. Kế đến, những tòa nhà này có kiểu kiến trúc đồng dạng với những tòa nhà ở chính quốc hoặc ở các thuộc địa Pháp, đặc biệt là các xứ nhiệt đới. Để trùng tu một tòa nhà trở lại bản gốc của nó, cũng như hiểu được công năng của nó, thì nên tìm đến những tác giả đầu tiên của nó.

Về việc trùng tu thì ở Việt Nam cũng đang có sự tranh luận. Cũng có nhiều lo âu là trùng tu, làm mới thế nào mà bây giờ nó không còn đẹp như ngày xưa, thậm chí sơn son, thếp vàng, làm cho nó ngược lại với nguyên bản hoặc làm cho nó kệch cỡm… Cho nên cần có những kinh nghiệm.

Ngoài ra, trùng tu ở đây không có nghĩa chỉ là sơn phết hay khôi phục dáng vẻ cũ của nó, mà còn phải nghĩ đến việc trang trí nội thất, sử dụng lại chức năng của tòa nhà, bổ sung những chức năng mới. Chứ nếu chỉ trùng tu để lại làm trụ sở hành chính thì rất là uổng. Mời chuyên gia đến là để có thêm ý kiến làm cho phong phú hơn và tôi nghĩ là nước Pháp có nhiều kinh nghiệm.

Ở Paris tuần này, tôi đã có dự Ngày di sản Châu Âu, đến Tòa Thị Chính của Paris. Tôi thấy Tòa Thị Chính không mang ý nghĩa chỉ là dinh thự hành chính, mà là một dinh thự văn hóa, từ phòng tiếp tân, từng cái sảnh, từng pho tượng của tòa nhà này.

Nếu phía Pháp có thể chuyển giao các tài liệu, kinh nghiệm, cũng như công nghệ để trùng tu thì rất là tốt. Nếu Việt Nam tổ chức đầu thầu, mời gọi thì sẽ nhiều chuyên gia Châu Âu khác đến, chứ không chỉ có Pháp".

Là một trong những quốc gia có rất nhiều kinh nghiệm trong việc bảo tồn di sản kiến trúc, nước Ý cũng rất quan tâm đến mối tương quan giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế tại thành phố Sài Gòn. Đây cũng là chủ đề của cuộc hội thảo do tổng lãnh sự Ý tổ chức trong hai ngày 10 và 11/09 tại Sài Gòn. Cụ thể, hội thảo tập trung vào vấn đề kỹ thuật kiến trúc và kinh doanh bảo tồn di sản, nhằm trao đổi kinh nghiệm của các chuyên gia quốc tế và trong nước.

Là một trong những người trình bày tham luận tại hội thảo, nhà nghiên cứu Phúc Tiến trình bày những vấn đề cụ thể được nêu lên tại hội nghị này :

"Đây là lần đầu tiên có một cuộc hội thảo do một cơ quan ngoại giao của một nước Châu Âu đứng ra tổ chức. Ban tổ chức người Ý bao gồm tổng lãnh sự Ý và công ty SCE, một tập đoàn lớn về thiết kế, quy hoạch ở Milan, và nhiều công ty Ý khác.

Bản thân công ty SCE có một sáng kiến rất là hay : Trước cuộc hội thảo đó, họ đã cùng với tòa tổng lãnh sự Ý tổ chức cho sinh viên của hai trường Đại học Kiến trúc và Đại học Văn Lang, ngành kiến trúc, chia ra làm nhiều đội tham gia cuộc thi "Thiết kế khu phố di sản trong thành phố thông minh".

Chúng tôi rất là mừng khi thấy các em sinh viên đã rất phấn khởi, và đã đưa ra những đề xuất rất là hay. Ví dụ như đề án tạo một dải lụa là một cây cầu cho người đi bộ, bắc từ bên phía bờ Thủ Thiêm sang đến đối diện công trường Mê Linh, chỗ tượng Trần Hưng Đạo, sau đó đi theo con đường Mạc Thị Bưởi đến đường Nguyễn Huệ, tạo ra một con đường như là dải lụa đào trên không.

Các bạn còn đề xuất là biến đường Nguyễn Huệ, hiện giờ là phố đi bộ vào cuối tuần, khôi phục lại dòng kênh ở đây. Thời xưa, trước khi Pháp vào, đại lộ Nguyễn Huệ là Kênh Chợ Vải. Các bạn đề nghị khơi lại dòng kênh đó, để trở lại con kênh lịch sử, tạo ra một cảnh quan ngoạn mục, một con kênh uốn lượn ngay giữa lòng thành phố. Như thế nó sẽ làm gia tăng giá trị của những công trình dọc theo con đường đó".

Theo lời ông Phúc Tiến, hiện là giám đốc công ty Hợp Điểm, các ý kiến tại hội thảo còn nêu bật một điều : di sản không phải là một thứ để trang trí, mà có thể sinh lợi, hay nói cách khác phải làm phát triển cái gọi là kinh tế di sản, một khái niệm còn rất mới ở Việt Nam :

"Việc trùng tu di sản thì không nên chỉ được nhìn ở góc độ kỹ thuật, thiết kế, công nghệ, nhưng điều rất quan trọng là hãy nhìn nó ở góc độ kinh tế di sản. Đó là ngành kinh tế liên kết rất nhiều ngành. Nếu người ta nhìn di sản như là một nguồn tài nguyên, không những làm giàu về văn hóa, mà còn làm giàu về kinh tế, thì cách đối xử với di sản sẽ thay đổi rất là lớn.

Ví dụ, họ có đề cập đến trường hợp Roma, Milan, Florence, nơi mà những công trình kiến trúc tiêu biểu của nước Ý từ mười mấy thế kỷ vẫn được giữ gìn tốt, đem lại không những nguồn lợi về du lịch, mà còn là nguồn lợi kích thích các ngành như là xây dựng, kiến trúc, thiết kế, nội thất, kể cả đào tạo. Không chỉ có nhà nước, mà những tổ chức NGO (phi chính phủ), cũng như các doanh nghiệp đều có trách nhiệm làm việc đó.

Thứ hai, khi mọi người đã nhất trí đây là công trình có giá trị di sản rồi, thì cần có những cuộc thi, đấu thầu những dự án, biến nó thành những dự án kinh doanh, nhưng tôi muốn nhấn mạnh là (đấu thầu) phải minh bạch.

Trong cách làm của người Ý, nếu muốn có được nguồn vốn để trùng tu các di sản, thì phải có một cuộc vận động. Thí dụ công ty SCE đang lập một dự án trùng tu Dinh Gia Long, hiện giờ là Viện Bảo tàng Thành phố, không chỉ trùng tu dinh này, mà còn mở rộng toàn bộ khu này thành một khu phố di sản.

Chúng ta có Tòa án, một tòa nhà rất đẹp, được trùng tu gần xong rồi. Dọc con đường Lý Tự Trọng có thư viện, đi lên nữa là Dinh Thượng Thơ. Đường Lý Tự Trọng thì chạy song song với đường Lê Thánh Tôn. Khu đó có thể trở thành một khu phố đi bộ, có hai công viên : Bạch Tùng Dương và Chi Lăng, rồi lại nối kết với khu chợ Bến Thành và đường Đồng Khởi (Catinat), đường Nguyễn Huệ.

Bản thân khu đất chung quanh Dinh Gia Long nếu trở thành một khu phố đi bộ, một khu phố di sản, thì người ta sẽ khống chế, không cho xây các nhà cao tầng, phá tan cảnh quan vốn dĩ rất đẹp của nó. Nếu có sự đồng thuận, dự án này sẽ đem lại một nguồn lợi rất lớn, không chỉ về văn hóa, về kinh tế, mà còn thúc đẩy những ý tưởng sáng tạo.

Ví dụ các bạn tham gia cuộc thi có đề nghị công viên Bạch Tùng Diệp sẽ là không gian co-working về sáng tạo, nơi mà các bạn trẻ khởi nghiệp có thể đến đó cùng làm việc với những trang thiết bị hiện đại, rồi từ đó ra những ý tưởng mới. Cũng như viện bảo tàng không chỉ là một viện bảo tàng, mà ở đó cũng sẽ có gallery, quán cà phê, tiệm sách, không gian để nói chuyện. Người ta có thể đi bộ từ thư viện, qua tòa án, rồi đến Dinh Thượng Thơ để thưởng ngoạn một lịch sử.

Chính người Pháp ngay từ những năm 1860 đã thiết kế khu đó là khu hành chánh. Bây giờ nếu khu hành chánh đó trở thành khu di sản thì rất là hay. Con đường Lý Tự Trọng vào thời Pháp có tên là De La Grandière, tên một đề đốc người Pháp, nhưng trước đó nó có tên là đường Chính Phủ. Như vậy, con đường đó không phải là con đường thương mại, bây giờ nếu được chuyển thành con đường di sản, kết hợp lịch sử văn hóa, hành chánh, thương mại và sáng tạo, thì rất là tuyệt vời.

Tất nhiên, những ý tưởng cụ thể này rất cần sự tham gia của nhiều người. Tôi cho rằng, nếu có một cuộc đấu thầu, những công ty thắng thầu phải là những công ty có kinh nghiệm và có nhiều ý tưởng sáng tạo nhất, đồng thời phải biết huy động được nguồn vốn. Những công ty địa ốc sẽ sẵn sàng nhảy vào trong cuộc chơi này, bởi vì họ biết là sẽ có những cơ hội kinh doanh. Nhưng không thể chỉ nhìn đến kinh doanh đơn thuần, mà phải tính đến lợi ích chung của xã hội".

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 16/12/2019

Published in Diễn đàn

Để đáp ứng đòi hỏi của các hiệp định tự do mậu dịch, Việt Nam đã buộc phải sửa đổi Luật Lao động. Văn bản sửa đổi đã được các đại biểu Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 20/11/2019.

congdoan1

Một nhà máy lắp ráp xe gắn máy tại Hải Phòng. Ảnh chụp ngày 03/11/2018. Reuters

Sẽ có hiệu lực vào năm 2021, luật mới đặc biệt cho phép thành lập các công đoàn độc lập, tức là không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, công đoàn duy nhất hiện nay. Đây được coi là một thay đổi quan trọng nhất trong Luật Lao động của Việt Nam.

Trong thông cáo đưa ra ngày 20/11, Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế ILO Việt Nam, Chang Hee Lee nhận định bộ Luật Lao động sửa đổi vừa được thông qua là "một tiến bộ quan trọng", còn đại sứ quán Mỹ thì xem đây là một "đạo luật lịch sử".

Điểm tích cực

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 04/12, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật, một trong những luật sư chuyên về lao động ở Việt Nam, ghi nhận một điểm tích cực, đó là Việt Nam đã sửa đổi Luật Lao động ngay cả trước khi phê chuẩn Công ước 87 của Tổ chức Lao động Quốc tế, tức là công ước về việc thành lập công đoàn độc lập :

"Thường là người ta phê chuẩn công ước rồi thì mới thực hiện cái sửa đổi. Thường người ta hay kéo dài việc sửa đổi những cái gì mang tính bất lợi. Vấn đề thành lập hiệp hội tự do, ở đây là công đoàn độc lập, vẫn là chuyện nhạy cảm đối với xã hội Việt Nam, cho người ta hay có tâm lý kéo dài. Nhưng ở đây họ lại sửa đổi luật lao động trước, rồi theo lịch trình thì đến năm 2023 mới ký Công ước 87. Đó là một thiện chí, nếu thật sự họ muốn thay đổi".

Tuy nhiên, con đường đi đến việc thành lập thật sự các công đoàn tự do ở Việt Nam hãy còn dài. Luật Lao động sửa đổi đã được thông qua, nhưng còn phải chờ xem luật sẽ được áp dụng trên thực tế như thế nào, cụ thể là các nghị định, thông tư sẽ có nội dung cụ thể ra sao.

Bất hợp lý trong việc ban hành

Về vấn đề này, luật sư Hoàng Cao Sang nêu lên một điểm bất hợp lý trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam :

"Theo luật quy định về việc ban hành các văn bản pháp luật của Việt Nam, thường là sau khi Quốc hội thông qua luật, chính phủ sẽ là bộ phận viết thêm các điều luật cho nó chi tiết để áp dụng. Sau khi chính phủ đã ban hành nghị định rồi, nếu có những cái gì chi tiết hơn nữa, thì một bộ nào đó, ở đây có thể là bộ Lao Động-Thương Binh-Xã Hội, ban hành một thông tư để hướng dẫn thực hiện bộ Luật Lao động này.

Ở đây có một điều bất hợp lý : luật là ý chí của nhân dân thông qua đại diện là các đại biểu Quốc hội, tuy nhiên, Quốc hội ban hành luật thì chỉ quy định những cái chung nhất còn sau đó các cơ quan hành pháp lại ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn luật này. Trong thực tế lại có những cái hướng dẫn đi sâu hơn hoặc xa hơn, thậm chí còn trái với các điều luật mà Quốc hội ban hành, thường là theo hướng có lợi cho các cơ quan hành pháp, đẩy những cái khó về phía người dân".

Trong thông cáo đưa ra ngày 20/11/2019, đại sứ quán Mỹ cũng đã khuyến cáo chính phủ Việt Nam " củng cố những cải cách trong bộ Luật Lao động, bao gồm cải cách thông qua các văn bản pháp luật sắp được ban hành về thành lập, đăng ký và hoạt động của các tổ chức công đoàn độc lập và sự bảo vệ đầy đủ đối với quyền thương lượng tập thể và quyền đình công".

Về phần Giám đốc ILO Việt Nam, ông lưu ý là quyền tự do hiệp hội trong bộ Luật Lao động sửa đổi hiện chỉ áp dụng đối với người lao động trong doanh nghiệp, nên sẽ cần phải được mở rộng phạm vi trong những năm tới đây "để song hành với những nỗ lực của chính phủ hướng tới phê chuẩn Công ước số 87 của ILO vào năm 2023". Tuy nhiên, theo ông, trước mắt phải giải thích các điều khoản mới, thông qua việc ban hành các nghị định hướng dẫn và thiết lập các thiết chế thực chất để áp dụng và triển khai những điều khoản mới đó.

Phải sửa nhiều luật

Mặt khác, theo luật sư Hoàng Cao Sang, cùng với việc sửa đổi Luật Lao động và việc phê chuẩn Công ước 87, Việt Nam còn phải sửa đổi những luật khác có liên quan đến việc thành lập hội :

"Tôi nghĩ là không chỉ có luật về thành lập hội, mà rất nhiều luật cũng phải được sửa đổi theo tinh thần Công ước 87. Chúng ta thường hay gọi Công ước 87 là công ước về quyền tổ chức công đoàn độc lập trong lao động, nhưng thật ra công ước quy định về quyền tự do hiệp hội, tức là đối với các hiệp hội nói chung, chứ không riêng gì công đoàn".

Vì có những hội khác, cho nên chúng ta cũng phải sửa tất cả những gì liên quan đến hội và các tổ chức cho nó phù hợp với tinh thần của Công ước 87.

Cũng theo tinh thần này thì các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động đều có quyền thành lập các liên đoàn và tổng liên đoàn một cách tự do, có thể thuộc Tổng liên đoàn Việt Nam hoặc không".

The Diplomat : Nên thận trọng

Trên trang mạng The Diplomat ngày 29/11/2019, nhà báo David Hutt cũng đề cập đến sự kiện Quốc hội Việt Nam thông qua bộ Luật Lao động sửa đổi cho phép thành lập công đoàn độc lập. David Hutt trước hết tỏ ra thận trọng khi viết : "Dĩ nhiên chúng ta phải chờ xem có phải đây là một sự thay đổi bề ngoài mà đảng cộng sản Việt Nam vẫn quen làm, trên giấy tờ thì rất là hay, nhưng không bao giờ được thực thi đàng hoàng". Tác giả bài viết đặc biệt ghi nhận Luật Lao động sửa đổi quy định là công đoàn độc lập phải xin phép thành lập từ các cơ quan Nhà nước, như vậy là đảng cộng sản sẽ có thể từ chối cấp phép cho các lãnh đạo công đoàn thẳng thắn và đòi hỏi khắt khe.

Nhà báo David Hutt viết tiếp : "Nếu các công đoàn độc lập thật sự được phép thành lập ở Việt Nam, ta có thể dự báo là đình công sẽ trở nên phổ biến hơn. Công nhân cũng sẽ có một tổ chức đại diện cho họ tốt hơn. Thứ hai, cho phép các công đoàn độc lập hoạt động là một dấu hiệu khác cho thấy Đảng sẵn sàng nới lỏng sự kiểm soát của họ lên xã hội như thế nào để tối đa hóa mức tăng trưởng kinh tế, nay là yếu tố chủ yếu tạo nên tính chính đáng của Đảng".

David Hutt viết tiếp : "Trong những năm 2000, Đảng về cơ bản đã mất sự thống trị đối với công chúng, với sự xuất hiện của Internet và mạng xã hội của Mỹ, chủ yếu là Facebook. Các phương tiện truyền thông do Đảng điều hành hiện đang thất thế, sau khi đã nắm giữ quyền lực đáng kể vào những năm 1990. Khi thoái vốn khỏi các doanh nghiệp Nhà nước và trao quyền lực cho nhiều thực thể ngoài Đảng hơn, đảng cộng sản hiện cũng đang tự mình rời khỏi nền kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng của y tế và giáo dục tư nhân trong thập kỷ này cũng thách thức độc quyền của Đảng về mặt phúc lợi xã hội".

Đảng sẽ công nhận các tổ chức khác ?

Ông David Hutt viết tiếp : "Ta có thể nói, đúng phần nào, rằng ở Việt Nam hiện đang có một cuộc chiến giữa một khối xã hội dân sự, tập hợp các nhóm cộng đồng phi Nhà nước hình thành từ cơ sở, và một khối xã hội "phi dân sự", gồm các tổ chức xã hội của Đảng do Mặt trận Tổ quốc quản lý (…). Khối xã hội phi dân sự thì được nhiều ưu đãi, còn khối xã hội dân sự bên ngoài sự kiểm soát của Đảng hiện còn nhỏ và phân tán, nhưng nó đang phát triển. Và các sửa đổi của bộ Luật Lao động sẽ thêm một yếu tố quan trọng vào xã hội dân sự đó dưới hình thức thành lập công đoàn độc lập. Điều này phải chăng sẽ thúc đẩy đảng cộng sản chính thức thừa nhận các tổ chức ngoài Đảng khác ? Hiện giờ có lẽ là không. Nhưng các tổ chức nhà báo, trí thức, nhà văn, nông dân và phụ nữ "bất hợp pháp và không chính thức" đã mọc lên như nấm trong những năm gần đây, tất cả đều nhằm cạnh tranh với các tổ chức xã hội phi dân sự của Đảng".

David Hutt kết luận : "Bằng cách chấp nhận không còn là tổ chức đại diện cho toàn thể công nhân, đảng cộng sản đã có một sự thừa nhận không thể thay đổi. Vai trò lãnh đạo một nền "chuyên chính vô sản" đã bị khai tử từ cách đây nhiều năm. Bây giờ Đảng nói là họ bảo vệ cho mọi giai cấp, chứ không riêng gì những người bán sức lao động. Nhưng nếu bây giờ họ mất độc quyền đối với các định chế xã hội, giống như họ đã mất độc quyền đối với nền kinh tế và công chúng, liệu tiếp theo đó có sẽ mất luôn cả độc quyền đối với chính trị ? Hãy nhớ rằng chính công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, công đoàn độc lập đầu tiên ở các nước cộng sản Đông Âu, đã là một động lực thúc đẩy các sự kiện năm 1989".

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 09/12/2019

Published in Diễn đàn

Việc Bắc Kinh điều một giàn khoan khổng lồ đến Biển Đông đang gây quan ngại về nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu mới giữa Việt Nam và Trung Quốc tại một vùng biển được xem là rất giàu tài nguyên dầu khí.

gian1

Ảnh minh họa : Một giàn khoan dầu khí trên biểnJoe Raedle/Getty Images/AFP

Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/09/2019, trích dẫn một bài viết trên trang mạng Trường An Kiếm (Chang An Jian) của Ủy Ban Chính Pháp Trung Ương Trung Quốc, cho biết là Bắc Kinh vừa đưa một giàn khoan dầu hỏa nước sâu xuống hoạt động tại Biển Đông. Theo tờ báo Hồng Kông, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 982 (Haiyang Shiyou 982) đã bắt đầu hoạt động từ hôm 21/09 tại một vùng biển sâu đến 3.000 m ở Biển Đông.

Hải Dương 982, cao bằng một tòa nhà 10 tầng, là giàn khoan lớn nhất và hiện đại nhất trong số các giàn khoan cùng loại tại Trung Quốc, có thể khoan ở độ sâu đến 9.000 m.

Việc Bắc Kinh đưa giàn khoan mang tên Hải Dương Thạch Du 982 xuống Biển Đông khiến người ta nhớ lại vụ giàn khoan Hải Dương 981 mà Bắc Kinh đưa vào thềm lục địa của Việt Nam năm 2014, làm dấy lên phản ứng dữ dội từ phía Hà Nội. Người dân Việt Nam vào lúc đó xuống đường biểu tình rầm rộ phản đối Trung Quốc, và đã xảy ra các vụ bạo động nhắm vào các công ty Trung Quốc ở Việt Nam.

Tờ International Business Times của Mỹ hôm qua nhận định là có hai yếu tố giải thích hành động lần này của Trung Quốc. Thứ nhất là Bắc Kinh muốn tranh giành nguồn dầu khí tại Biển Đông để đáp ứng nhu cầu năng lượng của nước này. Thứ hai, là Bắc Kinh không bao giờ tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng như Việt Nam, thậm chí đã bác bỏ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.

Bắc Kinh cũng không chấp nhận việc Việt Nam hợp tác với các nước khác trong các dự án thăm dò dầu khí ở Biển Đông. Theo lời chuyên gia người Hàn Quốc Yun Sun, Giám đốc Chương trình Đông Á tại Viện chính sách Stimson, Washington, việc đưa giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông rất có thể không chỉ là nhằm củng cố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, mà còn nhằm phá hoại nỗ lực của Việt Nam cùng thăm dò và khai thác dầu khí với các nước khác.

Về phần Alan Chong, giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, ông tin rằng Hà Nội sẽ kháng cự mạnh hơn nếu Trung Quốc khiến Việt Nam tức giận với việc triển khai giàn khoan mới.

Trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cuối tháng 9 vừa qua, bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã cảnh báo về những hành động có thể làm gia tăng căng thẳng ở vùng Biển Đông đang tranh chấp. Tuy ông Phạm Bình Minh không nêu tên Trung Quốc, nhưng đây có thể được là lời cảnh cáo trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.

Theo nhận định của International Business Times, việc điều giàn khoan Hải Dương 982 đến Biển Đông cũng nhằm gởi một thông điệp đến Hoa Kỳ rằng Trung Quốc đang củng cố sự kiểm soát của họ trên các vùng biển tranh chấp, xem đây là "mặt trận thứ hai" trong cuộc đối đầu với Mỹ. Giáo sư khoa học chính trị Herman Kraft, Đại học Philippines cho rằng Bắc Kinh cũng muốn gửi đến Manila thông điệp là họ sẵn sàng thăm dò dầu khí chung nếu Philippines bỏ qua một bên phán quyết 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực.

Theo một số chuyên gia, hành động của Trung Quốc cũng là nhằm gia tăng kiểm soát quần đảo Trường Sa, nơi mà họ có thể tiến hành một chiến dịch quân sự dưới vỏ bọc thăm dò dầu khí và điều này tạo cho họ một lợi thế chiến lược so với Hoa Kỳ ở Biển Đông.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 02/10/2019

Published in Diễn đàn

Trong một bài báo đề ngày 22/09/2019, tờ nhật báo Anh Financial Times đề cập đến nguy cơ thiếu hụt đang đe dọa nền kinh tế Việt Nam, một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á.

nang1

Nguy cơ thiếu hụt năng lượng đe dọa sinh hoạt kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Ảnh minh họa

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo là Việt Nam có thể bị thiếu hụt năng lượng ngay từ năm 2021 và ông đã ra lệnh đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy điện mới. Đây là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam, một nền kinh tế dựa rất nhiều vào ngành sản xuất rất hao tốn năng lượng. Nền kinh tế này cũng đang thu hút thêm các nhà đầu tư quốc tế, vì Việt Nam là nơi mà họ có thể chuyển cơ sở sản xuất đến để tránh những ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ-Trung.

Theo Financial Times, Việt Nam có nguy cơ gặp khủng hoảng năng lượng ở cả hai mặt cùng một lúc : ngoài việc Việt Nam thiếu khả năng sản xuất điện, còn có việc Trung Quốc gây áp lực mạnh lên các hoạt động dầu khí trên Biển Đông. Đối với một quốc gia vẫn cố gắng giữ thế cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cả về mặt ngoại giao lẫn kinh tế, Việt Nam đang đối diện với những chọn lựa về năng lượng trong ngắn hạn, nhưng cũng sẽ có những tác động địa chính trị trong những năm tới.

Tờ báo trích lời chuyên gia Andrew Harwood, công ty tham vấn năng lượng Wood Mackenzie, cho biết nguồn cung từ trữ lượng dầu khí của Việt Nam đã gặp nhiều thách thức và bị chậm trễ, một phần là do tập đoàn dầu khí quốc gia không có đủ khả năng tài chính để phát triển các nguồn tài nguyên đó, và một phần là do các căng thẳng chính trị và tranh chấp chủ quyền biển đảo. Theo ông, thật sự đang có mối quan ngại về khả năng của Việt Nam đáp ứng các nhu cầu về năng lượng trong tương lai.

Financial Times nhắc lại là cho tới nay, Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều vào than đá, dầu hỏa và thủy điện để sản xuất điện, tuy nhiên, nhiều dự án như vậy đã bị chậm trễ. Vào năm 2016, chính phủ Hà Nội cũng đã từ bỏ chương trình phát triển điện hạt nhân. Trong khi đó, theo lời ông Gavin Smith, giám đốc phát triển sạch của công ty Dragon Capital ở Sài Gòn, chưa biết là sự phát triển nhanh chóng về năng lượng tái tạo kể từ năm 2018 ở Việt Nam có đủ để đẩy lui nguy cơ thiếu hụt điện trong 3 năm tới hay không.

Nhu cầu về điện của Việt Nam hiện tăng khoảng 9% mỗi năm, nhanh hơn tăng trưởng kinh tế, đã đạt hơn 7% trong năm 2018. Vấn đề nhạy cảm đến mức không một quan chức nào của chính phủ Việt Nam trả lời báo Financial Times. Tuy nhiên, một quan chức xác nhận là có nguy cơ thiếu hụt điện "trong những trường hợp xấu nhất và không dự đoán được", chẳng hạn khi mực nước các hồ chứa của những đập thủy điện xuống quá thấp.

Theo Financial Times, để ra gia tăng nguồn cung cấp năng lượng, Hà Nội đang nhập khẩu thêm nhiều điện từ Lào. Các quan chức cũng đang thảo luận về khả năng nhập điện từ Trung Quốc, cho dù đây có thể là một vấn đề rất nhạy cảm về chính trị do tâm lý chống Trung Quốc vẫn rất phổ biến ở Việt Nam và càng được thể hiện rõ qua những căng thẳng gần đây trên Biển Đông.

Khả năng của Việt Nam khai thác khí đốt ngoài khơi nước này nay cũng đang được đặt lại, nhất là kể từ tháng 7, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 tiến hành thăm dò ngoài khơi bờ biển miền nam Việt Nam, gần một mỏ dầu khí mà tập đoàn PetroVietnam và tập đoàn Rosneft của Nga đang liên doanh khai thác.

Financial Times cũng nhắc lại thông tin chưa được xác nhận về về tập đoàn Mỹ Exxon Mobil rút ra khỏi dự án Cá Voi Xanh. Exxon đã từ chối bình luận điều mà họ gọi là "tin đồn", còn phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thi Thu Hằng, trích dẫn PetroVietnam, đối tác của Exxon, khẳng định dự án "vẫn được tiến hành theo dự kiến".

Thanh Phương

Nguồn : RFA, 24/09/2019

Published in Diễn đàn

Ngày 05/07/2019, tổ chức UNESCO đã ghi vào danh sách các di sản thế giới thành phố cổ Babylon của Iraq, quốc gia đã bị tàn phá nặng nề sau 40 năm chiến tranh và bị quân thánh chiến Hồi giáo phá hoại nhiều di tích quý giá.

babylon0

Thành cổ Babylon, ở Iraq, được UNESCO ghi vào danh sách các di sản thế giới. Reuters/Thaier Al-Sudani

UNESCO đã thông qua quyết định nói trên trong một cuộc bỏ phiếu tại Baku, thủ đô Azerbaidjan. Theo lời ông Qahtan al-Abeed, giám đốc đặc trách cổ vật của viện bảo tàng Basra và là người đã nộp hồ sơ Babylon lên UNESCO, Babylon được xem là thành phố có đông dân nhất vào thời cổ đại, ra đời từ cách đây hơn 4000 năm, nằm cách thủ đô Baghdad 100 km về phía nam. Nếu như Iraq tự hào là cái nôi của chữ viết, thì Babylon là biểu hiện của nền văn minh của chữ viết, của cơ quan hành chính và của khoa học.

Nói chung Babylon có một vị trí đặc biệt trong lịch sử nhân loại và trong thần thoại thế giới, nổi tiếng với Cổng Ishtar, các vườn treo và tháp Babel, cho tới nay vẫn gây nhiều tranh cãi về địa điểm chính xác của hai di tích này.

Tuy xếp Babylon vào danh sách di sản thế giới, nhưng UNESCO đã tỏ ra rất quan ngại về tình trạng hiện nay của thành phố cổ này, vì nhiều cấu trúc đang cần được tu bổ ngay lập tức và nhiều cấu trúc khác thì đang sắp bị sập.

Trước Babylon, Iraq đã có 5 địa điểm được UNESCO xếp vào danh sách các di sản thế giới hoặc di sản đang bị nguy hiểm. Ngành du lịch nước này hy vọng là việc Babylon được thêm vào danh sách di sản thế giới sẽ giúp thu hút thêm du khách đến các khu di tích cổ của Iraq.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 07/07/2019

Published in Văn hóa

Đúng theo dự kiến, ngày 14/06/2019, Quốc hội Việt Nam vừa thông qua Nghị quyết phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.

conguoc1

Công nhân một xưởng may ở Sài Đồng, Hà Nội, 01/07/2015. Quan hệ giữa người lao động với chủ công ty sẽ có nhiều thay đổi với Công ước 98. Reuters/Kham/Files

Yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do

Để được gia nhập các hiệp định thương mại tự do "thế hệ mới" như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên Hiệp Châu Âu (EVFTA), mà theo dự kiến sẽ được ký kết năm 2019, Việt Nam phải phê chuẩn tổng cộng 8 Công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Trước kỳ họp của Quốc hội vừa qua, Việt Nam đã phê chuẩn 5 trong số 8 văn bản này : Công ước 29 (năm 1930) về lao động cưỡng bức ; Công ước 100 (năm 1951) về trả công bình đẳng ; Công ước 111 (năm 1958) về chống phân biệt đối xử ; Công ước 138 (năm 1973) về tuổi lao động tối thiểu, Công ước 182 (năm 1999) về chống bóc lột lao động trẻ em.

Sau Công ước 98, từ đây đến năm 2023, Việt Nam sẽ còn phải phê chuẩn hai công ước khác của Tổ chức Lao động Quốc tế : Công ước số 87 "về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức" và Công ước số 105 "về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc".

Thật ra, không chỉ có Hiệp định Thương mại Tự do với châu Âu, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam đã chính thức gia nhập vào năm 2018 cũng yêu cầu Hà Nội phải phê chuẩn ba công ước nói trên.

Trước mắt, Hà Nội buộc phải phê chuẩn Công ước 98 nhằm chứng tỏ thiện chí, để Hội Đồng Châu Âu chấp nhận ký kết Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA và đưa hiệp định này ra trước Nghị Viện Châu Âu để phê chuẩn trong năm 2019.

Công ước 98, tên đầy đủ là Công ước về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể 1949, bao gồm có 3 nội dung cơ bản : Bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử, chống công đoàn của người sử dụng lao động ; Bảo vệ tổ chức của người lao động không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động ; Những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện, thiện chí.

Theo nội dung tờ trình của chủ tịch nước về việc gia nhập Công ước 98, xét về mặt kinh tế - xã hội, tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản về áp dụng quyền tổ chức và thương lượng tập thể quy định trong Công ước số 98 "thể hiện giá trị tiến bộ của nhân loại về lao động". Cũng theo tờ tình này, việc gia nhập và thực hiện Công ước số 98 sẽ góp phần "giúp cho thương lượng tập thể được thực chất, hiệu quả hơn trên thực tế".

Việt Nam đang đi ngược ?

Nhưng trước mắt, việc phê chuẩn Công ước 98 sẽ chưa có những tác động nào theo hướng cải thiện điều kiện của người lao động tại Việt Nam, theo nhận định của luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt, Sài Gòn :

"Tôi cho rằng việc Việt Nam phê chuẩn Công ước 98 cũng không có tác dụng gì nhiều đối với quyền của người lao động, cũng như đối với những tổ chức bảo vệ người lao động, bởi vì trên thực tế, Công ước 98 và Công ước 87 là một cặp song sinh, đi liền với nhau. Khi có Công ước 87 thì Công ước 98 mới có hiệu lực.

Công ước 87 là công ước về quyền của người lao động được lập hội, tức là công đoàn độc lập, còn Công ước 98 là công ước quy định các nguyên tắc về các quyền của tổ chức được thương lượng tập thể. Bây giờ Công ước 98 có mà Công ước 87 không có thì cũng không có hiệu quả gì hết và như vậy là giống như mình đang đi ngược. Vì vậy, tôi nghĩ đây chỉ là bước đệm của Nhà nước Việt Nam cho các các công ước tiếp theo : Công ước 105 và Công ước 87.

Công ước 98 hiện chưa có giá trị gì, bởi vì bản thân công ước này cũng mâu thuẫn với Luật Lao động và Luật Công đoàn, và có vẻ như Việt Nam chưa có sự chuẩn bị cho việc áp dụng công ước này".

Những mâu thuẫn với luật hiện hành

Cụ thể có những mâu thuẫn gì giữa Công ước 98 với Luật Công đoàn của Việt Nam hiện nay ? Luật Công đoàn hiện hành quy định người sử dụng lao động, tức là chủ công ty, phải nộp 2% trên tổng quỹ tiền lương cho quỹ công đoàn.

Trong kỳ họp của Quốc hội vừa qua, đại biểu Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, đã đề nghị chính phủ làm rõ là quy định nói trên có bị coi là hành vi can thiệp vào tổ chức công đoàn, theo quy định tại điều 2, Công ước 98, hay không.

Điều 2 của Công ước 98 ghi rõ : "Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại mọi hành vi của những phái viên hay thành viên của mỗi bên để can thiệp vào việc tổ chức điều hành và quản lý nội bộ của phía bên kia".

Mặt khác, cũng theo đại biểu Hồ Sỹ Lợi, Luật Công đoàn hiện hành quy định là cả người sử dụng lao động và người lao động đều được coi là đoàn viên công đoàn, điều này cũng có thể bị xem là hành vi chi phối của người sử dụng lao động, và như vậy là vi phạm Công ước 98 hay không ?

Không chỉ có Luật Công đoàn, mà cả bộ Luật Lao động của Việt Nam cũng cần phải được sửa đổi cho tương hợp với Công ước 98 về thương lượng tập thể.

Công ước 87 : Trì hoãn đến giờ chót ?

Trong số hai công ước mà Việt Nam sẽ phải phê chuẩn từ nay đến năm 2023, quan trọng hơn hết là công ước 87, tức là công ước cho phép tự do thành lập công đoàn, một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với chính quyền Hà Nội, cho nên rất có thể họ sẽ trì hoãn cho đến phút chót mới phê chuẩn công ước này, theo nhận định của luật sư Hoàng Cao Sang :

"Việt Nam là một quốc gia nhỏ và việc chuẩn bị cho hội nhập quốc tế cần có một thời gian nhất định. Tôi thấy Nhà nước Việt Nam ký kết trước những công ước nào có ít ảnh hưởng nhất và đơn giản nhất. Cụ thể là ở đây công ước 98 chỉ mang tính bước đệm, hoặc như một số người nói, chỉ mang tính đối phó, đối phó với Hội Đồng Châu Âu do họ buộc Việt Nam phải thông qua 3 công ước còn lại thì mới cho ký kết hiệp định thương mại tự do Liên Hiệp Châu Âu - Việt Nam.

Việt Nam đang trì hoãn việc ký công ước khó nhất là Công ước 87, vì tinh thần của công ước này là quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận, phải đi liền với thương mại. Theo lộ trình, Việt Nam phải ký Công ước 87 vào năm 2023.

Nhưng tôi thấy Việt Nam dù đã ký kết các văn bản, nhưng thực hiện và sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với những văn bản đó,và thực hiện pháp luật đó thường là chậm trễ so với những lộ trình dự kiến và những gì đã cam kết với quốc tế, như là trong hiệp định thương mại với Liên Hiệp Châu Âu, hay hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP. Việt Nam cũng luôn có nhiều cách để chứng tỏ mình có thiện chí. Tuy nhiên, thiện chí đó luôn được kéo dài. Việt Nam luôn có những động thái từng bước, từng bước, để cho người ta thấy mình có thiện chí, chứ không làm một cách hoàn toàn triệt để".

Cho tới nay ở Việt Nam chỉ có một công đoàn duy nhất là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, được định nghĩa là một tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Nhưng một khi Công ước 87 được phê chuẩn, công đoàn của Nhà nước sẽ không còn nắm độc quyền nữa, mà người lao động sẽ có thể tự mình lập công đoàn hoặc gia nhập bất cứ công đoàn nào họ muốn.

Khi gia nhập CPTPP vào năm 2018, Việt Nam sẽ có tối đa 5 năm chuẩn bị khuôn khổ pháp lý cho phép thành lập các tổ chức đại diện người lao động khác ở cấp cơ sở và 7 năm để cho phép các tổ chức này có thể liên kết với nhau để thành lập tổ chức ở cấp cao hơn. Nếu sau 5 năm Việt Nam chưa cho phép thành lập công đoàn tự do thì Việt Nam có thể sẽ bị các nước thành viên CPTPP trừng phạt thương mại.

Tóm lại, chính áp lực từ những hiệp định thương mại tự do đang buộc Việt Nam phải thay đổi hệ thống luật pháp.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 24/06/2019

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 3