Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm : CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ !
Vietnamnet hớn hở chạy tin : "Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024)".
Ôi ! Tưởng chuyện gì lạ, chớ cờ quạt, bích chương, pa nô, áp phích, băng rôn, biểu ngữ, khẩu hiệu (tuyên truyền) thì Hà Nội lúc nào mà không sẵn và... dư ! Hơn nữa, con số hàng chục ngàn người dân Hà Nội túa ra đường hoan hô vẫy chào đoàn quân chiến thắng (hồi bẩy mươi năm trước) là sự kiện hoàn toàn có thật – theo lời của những nhân chứng thế giá :
- Ngày 10/10/1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ (Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi 1954-1991 : Procès d’un intellectual – Kẻ bị mất phép thông công, Hà Nội 1954-1991 : Bản án cho một trí thức, bản dịch Nguyễn Quốc Vĩ).
- Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sĩ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố… (Lê Phú Khải, Lời ai điếu, Nhà xuất bản Người Việt, 2016).
Thiệt là vui hết biết luôn, và vui còn hơn Tết nữa. Niềm vui, tiếc thay, rất ngắn – theo lời của tác giả (và tác phẩm) vừa dẫn :
Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc "đấu tranh giai cấp", của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn "Nhân văn Giai phẩm".
Nguyễn Khải thêm :
Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.
Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm "Nhân văn Giai phẩm". Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận.
Thảm vậy sao ?
Ông nhà văn (e) có hơi quá lời chăng ?
Cũng không quá (lắm) đâu !
Tác giả Nguyễn Văn Luận cũng đã từng tâm sự với nỗi buồn phiền tương tự :
Tết đầu tiên sau "tiếp quản", còn được gọi là "sau hòa bình lập lại", Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ "ít cởi mở", từ "nông thôn" kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và "chỉ thị" : ăn Tết "đơn giản, tiết kiệm". Hàng hóa hiếm dần, "hàng nội" thay cho "hàng ngoại".
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải "cung cấp" một năm theo "từng người trong hộ". Mẹ may thêm chiếc quần "đi lao động" thì con nít cởi truồng…
Cha tôi làm chủ một hãng thầu tại Hải phòng trong khi gia đình vẫn ở Hà Nội. Khi người lính quốc gia cuối cùng rút sang bên kia bờ Bến Hải, cha tôi và gia đình kẹt lại do không hiểu gì về cộng sản và tài sản, cơ ngơi còn đó.
Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hànội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con. Đấu tố, cải tạo, chửi rủa, cha tôi ngày một tiều tụy hơn những người tiều tụy bị qui là tư sản còn lại trong thành phố. Lời trăn trối khi cha tôi khi nằm xuống là "Cha đã bị lừa, con hãy tìm đường vào miền Nam tự do".
Câu hỏi đặt ra là sao có quá nhiều người "bị lừa" đến thế trong khi đã có hằng triệu người đã vội vã, hối hả, hốt hoảng và ùn ùn bỏ của chạy lấy người ngay trước mặt mình :
- Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Geneva trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt.
Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi (Tran Nam Bac, "Le drame des réfugiés catholiques vietnamiens", Agenzia. Internzionale Fides, n°12, 22 Janvier 1955. Bản dịch của Nguyễn Văn Lục).
- Việc di cư ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà không phải đợi đến Hiệp định Geneva, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức "phong trào nhập thành", hay nói nôm na là phong trào "dinh tê". Đã có bao nhiêu người tìm mọi cách dời bỏ khu "an toàn Phát Diệm", thoát đi bằng đường biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950 ?
Và đã có bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp định Geneva chưa thành hình ? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy (Nguyễn Văn Lục, "Nhìn lại cuộc di cư 1954 – 1955 II", Đàn Chim Việt Online – 09/12/2023).
Lời khẳng định của Giáo sư Nguyễn Văn Lục, không dưng, khiến tôi nhớ đến mẫu thân – một người Việt Nam quê mùa và thất học. Nói nào ngay thì bà cũng biết đọc biết viết (sơ sơ) nhưng tôi chưa thấy mẹ cầm cây bút lần nào và có lẽ cũng không bao giờ đọc sách báo gì ráo trọi, ngoài vài ba cuốn kinh (Phật) đã rách bìa long gáy từ lâu.
Vậy chớ khi mà tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, thạc sĩ Trần Đức Thảo, kỹ sư Võ Quí Hân, giáo sư Trần Đại Nghĩa… lật đật vội vàng rời nước Pháp để về Việt Nam để phục vụ cho cuộc Cách Mạng Vô Sản Việt Nam (theo lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh) thì bà cuống cuồng bồng bế mấy đứa con thơ bỏ chạy một mạch vô Nam. May mắn là gia đình chúng tôi chạy thoát. Tuy không thoát luôn nhưng cũng được khá lâu : 1954 – 1975.
Hơn hai chục năm trời. Khoảng thời gian đủ dài để tôi được sống hết cả tuổi thơ và tuổi trẻ trong một vùng đất tương đối an bình, phú túc. Mẹ tôi hoàn toàn không có khái niệm chi về học vấn, học đường, hay giáo dục. Vốn chữ nghĩa lại vô cùng giới hạn nên bà rất kiệm lời.
Suốt đời bà chỉ biết "giáo huấn" các con bằng đôi câu ngăn ngắn, giản dị và vô cùng dễ hiểu :
- Đừng bao giờ tin bọn cộng sản, và chớ khi nào dây dưa gì với chúng nó nghe chưa.
- Dạ mẹ !
Tôi luôn "dạ" ngọt như đường cát (mát như đường phèn) nên chắc hẳn là mẹ hiền phải hết sức hài lòng, và an tâm, ngay cả khi đã bước qua bên kia thế giới.
Khi âm dương chưa cách trở – có lần – từ bên này bờ đại dương xa thẳm, tôi đã đọc cho bà nghe đôi câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện :
Thế lực đỏ phải đồng tâm đập nát
Ðể nó hoành hành, họa lớn sẽ lan nhanh
Đó là lần duy nhất trong đời mà tôi nghe mẹ cười, qua điện thoại. Sao tự nhiên mà nhớ cái tiếng cười (khanh khách) của má quá, má ơi !
Tưởng Năng Tiến
Nguồn : RFA, 20/10/2024
Mẹ tôi qua đời ngày cuối năm âm lịch 1975. Từ đó, nhà tôi hầu như không còn Tết nữa. Nếu lấy 75 làm cột mốc để tính, thì bao nhiêu năm tôi mất mẹ cũng là bấy nhiêu năm tôi mất nước. Như tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc đã đưa ra nhận xét : "Bất cứ ký ức nào cũng có tính tương tác. Nhớ, dù là nhớ một kỷ niệm hoàn toàn riêng tư, cũng vẫn liên hệ với một cái gì khác. Qua việc nhớ, do đó, chúng ta nối kết bản ngã và môi trường chung quanh, nối kết quá khứ và hiện tại, cá nhân và tập thể, cái riêng và cái chung". Với tôi, nỗi nhớ mẹ luôn đi kèm với mất nước và mất nhiều thứ.
Mẹ tôi chỉ là một bà mẹ quê dốt nát thất học. Ảnh minh họa
Những năm cuối thập niên 50, ở bậc tiểu học, ngày nào chúng tôi cũng chào cờ, hát quốc ca và cũng "học biết" về chủ nghĩa cộng sản như một chủ nghĩa "tam vô" : vô tôn giáo, vô tổ quốc, vô gia đình. Thời thái bình "cửa còn bỏ ngỏ", tôi chẳng hiểu gì về chủ nghĩa tam vô ấy.
Lên trung học, đầu thập niên 60, tôi được xem cuốn phim "Chúng tôi muốn sống", nhớ mãi cảnh đấu tố ngoài Bắc, đoàn người lên tàu há mồm di cư vào Nam và nhứt là hình ảnh cuối cùng khi tài tử Lê Quỳnh bị cá mập cắn đứt chân… Nhưng một giáo sư người Pháp của tôi, không rõ có chịu ảnh hưởng của cánh tả tại nước Pháp vào thời đó không, nói với tôi rằng cuốn phim chỉ là một trò tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa ; theo ông, làm gì có những cảnh khủng khiếp như thế.
Tôi tạm cho rằng bài học sơ đẳng về "Chủ nghĩa Tam vô" và "Chúng Tôi Muốn Sống" là những tuyên truyền cần thiết trong một đất nước đang phải chiến đấu một mất một còn với những người cộng sản. Tuy biến cố 30 tháng Tư 75 xảy đến như một cuộc tận thế, tôi vẫn còn nuôi chút hy vọng rằng cộng sản Miền Bắc khác với cộng sản Miền Nam. Những ngày đầu khi bóng dép râu và mũ tai bèo xâm nhập mọi hang cùng ngõ hẻm, mấy ông cán bộ "Ba Mươi" đi trấn an dân làng chúng tôi rằng làm gì có thứ chủ nghĩa Tam vô. Họ giải thích : "Cứ nhìn chúng tôi đây, chúng tôi cũng có vợ con, cũng đến nhà thờ, cũng đi lễ chùa".
Nhưng quả như cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đã cảnh giác "Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm", có sống với người cộng sản thì mới biết được thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Thật vậy, cứ nhìn vào cuộc bách hại tàn bạo đối với các tôn giáo tại Việt Nam kể từ 75 đến nay cũng đủ để biết mấy ông cộng sản có "vô tôn giáo" hay không ? Về chủ trương tiêu diệt, khống chế hay "công cụ hóa" tôn giáo của các chế độ cộng sản, những chuyện đã và đang xảy ra tại Việt Nam và những chứng liệu lịch sử tại các nước cộng sản là sự thật "hai năm rõ mười" không thể chối cãi được.
Còn chuyện những người cộng sản có "vô tổ quốc" hay không, những khẩu hiệu như "tổ quốc xã hội chủ nghĩa" hay "yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa" là lời tự thú "thưa ông tôi ở bụi này", khỏi cần phải dông dài bàn cãi nữa.
Riêng về chủ trương "vô gia đình" của người cộng sản, điều ấy xem ra cũng rõ như ban ngày. Còn nhớ dạo tháng Giêng năm 2002, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Time, ấn bản Á Châu, khi được hỏi về những đồn đãi rằng ông là con của ông Hồ Chí Minh, tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh liền "phán" rằng : "Ở Việt Nam, mọi người đều là con của Bác Hồ". Tôi tức muốn ói máu khi nghe câu nói xấc xược và mất dạy này. Mẹ tôi có ăn nằm với tên tội đồ của dân tộc ấy đâu mà bảo rằng tôi là con của hắn ta. Khi Hồ Chí Minh viết hồi ký dưới bút hiệu Trần Dân Tiên để tự xưng là "Cha Già Dân Tộc" của cả nước, hẳn ông đã có ý gạt bỏ vai trò làm cha của người đàn ông Việt Nam và xóa bỏ mọi ranh giới và chức năng của gia đình. Hậu quả của chủ trương "vô gia đình" ấy, như ông bà chúng ta đã nói, là tình trạng "con không cha như nhà không nóc" mà chúng ta đang chứng kiến trong xã hội Việt Nam ngày nay.
Nhưng điều đáng nói nhứt trong chủ trương "vô gia đình" của chủ nghĩa cộng sản chính là hoàn toàn chối bỏ thiên chức của người mẹ trong gia đình. Trong tuyển tập "Nước Mỹ lạnh lùng", tác giả Huy Phương đã giải thích : "Tự trong tiềm thức, Mẹ là nơi tìm về cuối cùng cũng là nơi yên bình nhất của cuộc sống, vì vậy mà phần đông người ta khi gặp hoạn nạn hay trước giờ phút lâm chung, một cách vô thức, đều bật ra tiếng kêu "Mẹ". Mẹ là tiếng bập bẹ đầu lòng với âm môi "m" trong miệng đứa bé, nên tiếng "mẹ, má, mạ (Việt), mẫu mù (Hoa), mom, mother (Anh), maman, mère (Pháp), mama, madre (Tây Ban Nha)… và tất cả ngôn ngữ trên thế giới đều bắt đầu bằng âm môi bập bẹ đầu tiên là "m". Thật là lạ lùng và nghịch lý vì sao con cái và dòng họ "nhà thơ vĩ đại Tố Hữu" lại bật ra tiếng nói đầu đời là Staline được ?".
Quả thật, trong xã hội cộng sản, tiếng gọi thân thương "Mẹ" đã hoàn toàn biến mất khỏi tự điển và văn chương. Ở Miền Bắc, kể từ khi những người cộng sản áp đặt chủ trương "vô gia đình", theo tác giả Huy Phương, "Tính từ năm 1945 cho đến năm 1975, không có một khoảng đất trống nào dành cho Mẹ, vì văn nhân thi sĩ bận lo ca tụng Đảng, ca tụng Bác. Đó là sự thật, Miền Bắc có thể hãnh diện có 365 bài thơ, nhạc ca tụng Bác và Đảng nhưng không hề có một dòng ca tụng Mẹ. Nếu có Mẹ là Mẹ chở bộ đội sang sông, mẹ bắn máy bay Mỹ, chứ không có mẹ mang nặng đẻ đau, cù lao chín chữ (1).
Trong đợt "cải cách ruộng đất" ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa năm 1948, khi cần đấu tố thì những thằng con hoa chân múa tay có thể lý luận rằng "chúng mày ngủ với nhau mà sinh ra thằng tôi chứ đâu có ơn nghĩa gì". Trong khi cả nước theo Đảng tiến lên giành thắng lợi, Mẹ vẫn là một điều gì xa xỉ, xa vời và tiểu tư sản". Dĩ nhiên, mẹ bị khinh thường thì cha cũng bị chối bỏ. Cố Giám mục Lê Đắc Trọng, giám mục phụ tá tổng giáo phận Hà Nội, có kể lại chuyện xảy ra trong thời Cải Cách Ruộng Đất như sau : "Một phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố : "Ông có biết tôi là ai không ?". Người cha ngậm ngùi trước nhìn đứa con dứt ruột của mình mà nói : "Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ". Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế ? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng" (2).
Trước năm 1945 ở Miền Bắc và trước năm 1975 ở Miền Nam, đứa trẻ Việt Nam nào cũng thuộc lòng bài học đạo đức vỡ lòng :
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như suối trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Sau năm 1945 ở Miền Bắc và sau năm 1975 ở Miền Nam, trẻ con Việt Nam chỉ còn biết có "5 điều Bác Hồ dạy" :
Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh tốt
Khiêm tốn thực thà dũng cảm"
(Dĩ nhiên khiêm tốn và thực thà như Hồ Chí Minh - Trần Dân Tiên !)
Công ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên được thay thế bằng "ơn Bác và Đảng" ! Trẻ con được dạy "căm thù" và noi gương thứ đạo đức "dối trá" của người muốn làm "cha thiên hạ".
Mỗi dạo Tháng Tư Đen, tôi nhớ ngày mất nước, tôi nhớ mẹ tôi và tôi cũng nhớ đến bao nhiêu nỗi mất mát mà người Việt Nam phải hứng chịu trong chế độ cộng sản. Ngày nay, kinh tế có phát triển, những tiện nghi vật chất có được nâng cao, nhưng cái chủ nghĩa "tam vô" mà tôi đã học được ở bậc tiểu học ngày xưa vẫn còn đó. Không có chiếu chỉ cấm đạo, nhưng tự do tôn giáo hiểu theo đúng nghĩa của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước quốc tế về các quyền tự do cơ bản của con người, vẫn chưa được nhìn nhận và tôn trọng đầy đủ ; các tôn giáo vẫn còn bị kìm kẹp và biến thành công cụ trong tay những kẻ vô đạo.
Tổ quốc thân yêu vẫn còn bị những con người "vô tổ quốc" mang ra mặc cả đổi chác với ngoại bang. Nền tảng của gia đình là đạo đức chỉ còn là một lỗ hổng không đáy. Tựu trung, cái mất lớn nhứt của đất nước tôi chính là đánh mất cái linh hồn của dân tộc. Linh hồn ấy đã bị những kẻ chủ trương "tam vô" đem bán đi để đổi lấy quyền lực và tư lợi cá nhân.
Mỗi dạo Tháng Tư Đen, tôi nhớ ngày mất nước, tôi nhớ mẹ tôi và tôi cũng nhớ lời mẹ tôi dạy dỗ. Có lần, một chủ bút của một tờ báo tại London, Anh Quốc gởi đến cho thủ tướng Winston Churchill một danh sách của những người đã từng là thầy dạy ông và xin ông duyệt xét. Trong danh sách ấy, người chủ bút hỏi thủ tướng Churchill ai là người thầy tuyệt vời nhứt của ông. Thủ tướng Anh trả lời : "Người đó là mẹ tôi".
Mẹ tôi không được đạo đức như thánh nữ Monica để suốt một đời ăn chay và cầu nguyện cho con mình là thánh Augustino từ bỏ cuộc sống trụy lạc và trở về với đường ngay nẻo chính.
Mẹ tôi không được mẫn cán như bà mẹ của ông Mạnh Tử : thấy con học thói xấu nơi phố chợ liền dọn nhà về gần trường cho con học đòi nết tốt.
Mẹ tôi không được cương quyết như mẹ của ông Mahatma Gandhi để tuyên bố không nhìn mặt con vì tật nói dối.
Mẹ tôi cũng không được như mẹ của tổng thống Washington để ông luôn tìm đến ngồi bên cạnh mỗi khi gặp khó khăn trong công việc và cuộc sống.
Mẹ tôi cũng không được như mẹ của ông Phùng Quán thời Nhân văn Giai phẩm để có thể khuyên con :
"Con ơi,
Trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật
…
Con ơi, một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu".
Mẹ tôi chỉ là một bà mẹ quê dốt nát thất học. Bà "đạo đức" theo kiểu "kinh kệ suốt ngày" mà tôi không thích mấy. Bà chẳng có lời vàng ngọc nào để lại cho tôi. Tôi chẳng thấy mẹ tôi có tài năng hay nhân đức nào để đề cao. Nhưng với tôi, cũng như với thủ tướng Churchill, mẹ tôi là người thầy tuyệt vời nhứt của tôi, bởi vì tôi biết rằng bà dạy tôi nên người bằng cuộc sống vất vả hy sinh của bà. Cũng như mọi người mẹ Việt Nam bình thường khác, mẹ tôi đã hy sinh cả đời là để cho con cái được nên người.
Mẹ tôi chưa từng biết thế nào là Ngày Hiền Mẫu. Mẹ tôi mất quá sớm để tôi được đền ơn báo nghĩa. Nhưng tôi tin rằng bên kia thế giới, mẹ tôi hẳn phải mỉm cười mãn nguyện mỗi khi thấy tôi cố gắng sống cho ra người "chân thật" : không vì một chút bã quyền lực, danh lợi mà dối trá hay hãm hại người khác.
Chu Văn
(07/05/2020)
(1) Huy Phương, Nước Mỹ Lạnh Lùng, Nam Việt 2006
(2) Lê Đắc Trọng, "Chứng từ của một giám mục", Diễn Đàn Giáo Dân, 2009, trg 383