Tương lai học của khoa học luận dự phóng
Một tương lai học biết nhìn xa trông rộng qua những chứng từ của hiện tại để chuẩn đoán chỉnh lý cho mai sau bằng xác chứng của khoa học luận dự phóng không giới hạn trong lãnh thổ một quốc gia, mà có tầm nhìn toàn cầu, với tầm vóc của các chính sách là cứu cho bằng được trái đất là nơi độc nhất hiện nay trong vũ trụ mà con người đã sống, biết sống và quen sống :
- Từ đây, tầm cỡ của tương lai học song hành cùng tầm nhìn toàn cầu của cả nhân loại đang chịu sự biến đổi hệ sinh thái của trái đất, từ môi trường tới môi sinh, từ nguồn nước tới không khí, với sự tăng vọt không ngừng nghỉ của than khí CO2, tạo biến đổi khí hậu trực tiếp đe dọa sự sống của nhân loại.
- Khi nghiên cứu về trái đất, thực sự ta chỉ nghiên cứu về mặt đất, là một lớp rất mỏng của quả địa cầu, nơi tập trung mọi sự sống, các sinh vật cùng con người đã sống và sẽ sống. Còn bề dầy của trái đất cũng như trung tâm của nó, thì sự sống không có mặt, và con người cũng sẽ không sống được. Và chính lớp mỏng của quả địa cầu là nơi tập trung mọi sự sống hiện đang : "có phản ứng không chấp nhận con người đã đối xử với nó bằng ô nhiễm", "có phản xạ không cam chịu cách tàn phá thiên nhiên của con người với nó".
- Khi đặt vấn đề "có phản ứng không chấp nhận", "có phản xạ không cam chịu", thì các nhà khoa học, từ địa chất học tới khoa khí tượng học, từ sinh học tới môi trường học đã phải công nhận trái đất này là : một sinh thể ! Có sự sống, nên có phản xạ, có phản ứng với các tác nhân là con người đang sống nhờ nó. Và có các nhà khoa học đã tới kết luận là trái đất đã "nổi dậy chống con người" qua thiên tai, bão lụt, cháy rừng… Đây là một định đề mới cho nhân sinh, và các lãnh đạo chính trị có lương tri trong chính sách bảo vệ môi trường, có lương tâm quyết sách bảo trì môi sinh, không thể không hợp tác với các chuyên ngành đang nghiên cứu những biến đổi của trái đất. Những biển đổi của trái đất tạo chuyển hóa não bộ của các lãnh đạo chính trị yêu dân chủ thì phải bảo vệ môi trường, trọng nhân quyền thì phải bảo trì môi sinh.
- Khi Galilée đưa khám phá vào thiên văn học, với khẳng định là : trái đất tròn chớ không phẳng, trái đất xoay quanh mặt trời, trái đất chỉ là một hành tinh trong một vũ trụ bao la, Galilée đã đưa tương lai luận nhập nội vào tương lai học. Chân lý khoa học này đã gặp bao chướng ngại từ giáo hội thủ cựu tới chính quyền cực đoan, chính chân lý "trái đất tròn" này đã là chuyện long trời lở đất cho những kẻ có não bộ xơ cứng, những ai thời đó có não trạng thô sơ. Và chân lý khoa học này đã thắng toàn bộ, trên ba khu vực kiến thức rộng lớn của nhân tri, vì nó đã làm thay đổi cùng lúc bộ ba : nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan. Một chính quyền quý văn minh của dân chủ, trọng văn hiến của nhân quyền là một chính quyền có nội công, bản lĩnh và tầm vóc thay đổi đúng lúc nhân sinh quan, thế giới quan và vũ trụ quan. Đây là quá trình chuyển biến não bộ, chuyển hóa não trạng toàn bộ và thực tiễn nhất.
- Khi hiện nay thì chúng ta cũng đang đứng trước quá trình thay đổi cùng lúc bộ ba : nhân sinh quan, thế giới quan và vũ trụ quan, trước các biến đổi tác động không những lên trái đất mà cả sức sinh tồn của nhân loại với : vận tốc kinh khủng cùng khối lượng kinh hoàng về CO2 đang thải ngay trong không khí cùng nhiều ô nhiễm từ nguồn nước tới thiên nhiên. Nếu Galilée đã tạo ra quá trình chuyển biến não bộ, chuyển hóa não trạng bằng chân lý khoa học tới từ thiên văn học, thì hiện nay chân lý khoa học của địa chất học, môi trường sinh thái và sinh học đã báo động cho chúng ta là đang đứng trên bờ vực thẳm, vì chính con người đang diệt trái đất cũng như đang hủy chính sinh tồn của mình. Một chính quyền quý văn minh của dân chủ, trọng văn hiến của nhân quyền là một chính quyền có các quốc sách bảo vệ cho bằng được thiên nhiên, môi trường, môi sinh. Chính quyền đó không bó tay sau bao năm bạo quyền độc đảng toàn trị đã biến quê hương gấm vóc của tổ tiên Việt thành một bãi rác cho công nghệ bẩn của Tàu họa. Một chính quyền không bó tay không bỏ cuộc, mà luôn hợp tác thường trực và sát sao với các quốc gia văn minh và tiến bộ để cùng nhau bảo vệ trái đất này.
- Một chính quyền quý văn minh của dân chủ, trọng văn hiến của nhân quyền nhập nội vào tri thức của tương lai luận, rồi hội nhập vào nhận thức của tương lai học là mọi sinh vật, từ động vật tới thực vật, từ các sinh vật nhỏ bé nhất tới các sinh vật to lớn đang cùng chung sống với con người, đều đang và sẽ "đồng hội đồng thuyền" với con người. Cụ thể là chia ngọt sẻ bùi rồi đồng cam cộng khổ với nhau để nhận ra chân lý là tất cả sự sống đều có chung một dòng sinh mệnh. Nơi mà con người phải là chủ thể để cứu sống mọi sinh vật bằng hệ thức của nhân tri : kiến thức đúng, tri thức rộng, ý thức xa, nhận thức vững. Như vậy, một chính quyền quý văn minh của dân chủ, trọng văn hiến của nhân quyền là một chủ thể quốc gia, có quốc sách từ quản lý môi trường để bảo trì môi sinh, lại có giáo dục nhân trí song hành cùng luật pháp nghiêm minh trong nhân sinh. Cùng lúc phải là một chủ thể quốc tế, nhận ra đồng minh của mình là những chính quyền quý thiên nhiên, yêu môi trường, trọng môi sinh để có liên minh vững, bền, trên nhân lộ biết cứu vãng nhân sinh như biết cứu độ muôn loài.
- Anthropocène chính là phạm trù tri thức để tạo ra một nhận thức sống còn, đây là lần đầu tiên của một quá trình mà chính con người qua sinh hoạt của mình, đã khai phá vô tội vạ thiên nhiên, vơ vét môi trường, nạo càng môi sinh, để chính trái đất bị thay đổi từ khí hậu tới các sinh vật bị sát phạt tới diệt chủng. Anthropocène còn đi xa hơn nữa trong luận định cho tương lai học, nơi mà con người đã tác động trực tiếp và làm thay đổi từ nội chất đến tuổi thọ của trái đất này. Anthropocène còn đưa các luận định rộng và cao hơn nữa khi nghiên cứu trái đất như một sinh thể sống, và chính sinh thể này được cấu trúc trong phức hợp và có phản ứng chống đối cùng phản xạ đối kháng với con người, nếu con người cạn tàu ráo máng với môi trường, nếu con người ăn ở không có hậu với môi sinh.
- Sẽ không một chính quyền nào yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền mà không chú tâm để chú trọng vào các thông báo, các báo động của khoa học về sự biến đổi của trái đất ngày càng rất xấu từ môi trường bị hủy diệt tới môi sinh đang cạn kiệt. Liên minh giữa chính trị và khoa học phải là một hợp tác vừa chặc chẽ, vừa thường xuyên, xa hơn nữa phải vừa khắng khít trong chính sách chữa trị ô nhiễm, vừa sát sao trong các quyết sách quốc tế dài hạn. Chặc chẽ, thường xuyên, khắng khít, sát sao không còn là những tĩnh từ, mà đã thành nhân kiếp, đồng hội đồng thuyền giữa chính trị và khoa học, nếu hai giới này còn lương tri, còn liêm sỉ, còn đạo đức. Chính tương lai luận đưa lên các định đề để hai giới này so sánh mà biết đường đi nước bước trong những ngày, tháng, năm tới. Cụ thể là hai cuộc thế chiến trong thế kỷ XX gây bao thảm họa cho nhân loại nhưng hậu quả của nó rất hạn chế, chủ yếu khung trong Âu châu và một phần châu Á Thái Bình dương. Ngược lại, hiện nay với tổng lượng CO2 mà con người đang gây ra cho trái đất này, thì cả trái đất lẫn nhân loại đều bị đe dọa bởi cửa tử. Biến đổi khí hậu đã song hành cùng bao thiên tai về thời tiết, giết hại từ thiên nhiên tới mùa màng, cùng lúc gây ra bao thiên tai trên tất cả các châu lục, thì đây đã là vấn đề toàn cầu, nơi mà hai sinh mạng : trái đất và con người đang thật sự bị đe dọa.
- Ý thức toàn cầu về hai sinh mạng : trái đất và con người, mà sự sống cùng tuổi thọ đã và đang đe dọa, thì chính các định đề dựa vào nghiên cứu định lượng đã được tương lai học đưa ra ánh sáng. Cụ thể là sinh hoạt xây cất, tạo dựng, bối đắp… của con người là đào đất chỗ này để đắp đập chỗ kia, diệt rừng lấy gỗ chỗ này để xây dựng chỗ kia, moi móc tài nguyên, quặng mỏ chỗ này để sử dụng chỗ khác… trong thống kê hằng năm trong thế kỷ XXI này bằng cả một thế kỷ xây cất, tạo dựng, bối đắp của các thế kỷ xưa. Cụ thể hơn nữa là cách sử dụng bừa bãi các bao bọc nhựa phải để nhiều trăm năm mới tự phân hóa được (mà thí dụ chính là Việt Nam hiện nay đã và đang bị chỉ tên là quốc gia tự tàn phá môi trường của mình). Nếu lấy thời điểm nhân loại bắt đầu sử dụng các bao bọc nhựa tới sức tiêu thụ hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, thì thống kê tính theo diện tích là chất nhựa tạo ô nhiễm này đã bọc được cả diện tích của trái đất, nơi mà chính nhân loại đang sống nhờ trên đó. Hãy hình tượng hóa cách sử dụng vô tội vạ các bao bọc nhựa này, để nhận ra tương lai luận của câu chuyện : chính các bao bọc nhựa này là hình ảnh của nhiễm ô đang ngầm diệt nhân sinh, đã trùm phủ rồi bao ngộp chính sự sống của trái đất và con người, mà thủ phạm lại là con người đang diệt trái đất trước, rồi tự diệt nó sau đó.
- Nhận thức toàn cầu về hai sinh mạng : trái đất và con người sẽ đòi hỏi những lý luận trong tương lai học hoàn toàn mới và thậm chí còn ngược chiều với những gì mà nhân loại đã có trong thói quen của mình từ bao thế kỷ qua là tìm mọi cách để liên tục tăng trưởng trong sản xuất, với khối lượng tới ngày càng nhiều. Đã đến lúc các chủ thể lãnh đạo có liêm sỉ vì có lương tri đại diện cho văn minh dân chủ, và văn hiến nhân quyền, biết quý môi trường và trọng môi sinh phải tìm mọi phương pháp rồi biến thành chính sách bảo vệ trái đất và con người. Bằng bước thứ nhất là ngừng, ngăn, chặn mức độ ô nhiễm trầm trọng hiện nay, để đi tiếp bước thứ hai là giảm, bớt, ít lại cường độ nhiễm ô trầm kha trong bao năm qua. Khi đưa lên cân, đo, đong, đếm trước hiểm họa của biến đổi khí hậu lại song hành với ô nhiễm môi trường, thì các chủ thể lãnh đạo quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền phải có nhận thức sắc nhọn là : giảm-bớt-ít lại mật độ ô nhiễm là chính sách thông minh trong tỉnh táo, minh triết trong sáng suốt. Và chính sách này phải được quốc tế hóa, vì nó là con đường sống của nhân loại, nó ngược lại não trạng u minh trong vô tri với loại não bộ lúc này cũng toan tính tăng-nhiều-thêm trong sản xuất, trong tiêu thụ.
Tương lai học của phương pháp luận dự phòng
Tương lai luận đề nghị mọi công dân Việt xem lại hiện trạng của não trạng đang phải nhận bao thảm nạn do bạo quyền độc đảng toàn trị tạo ra với một Việt tộc đi làm mướn cấp thấp nhất cho các nước láng giềng, trai lao nô, gái nô tỳ, cùng lúc phải nhận bao định kiến xấu nhất, tồi nhất, dở nhất, tục nhất như một đám người di cư sẵn sàng phạm pháp. Từ đây, tương lai học đề nghị mọi chủ thể Việt nhận lại bổn phận của mình với dân tộc, nhận lại trách nhiệm của mình với đất nước dựa trên cơ sở được xây dựng trong tiểu luận này với các hệ cốt lõi sau đây, sẽ thay dời đổi kiếp Việt tộc theo hướng thăng hoa, về các chân trời của tiến bộ trong văn minh :
- Thức (kiến thức đúng, tri thức rộng, ý thức xa, nhận thức vững).
- Tự (tự tin vì nhân vị, tự chủ vì nhân trí, tự trọng vì nhân phẩm, tự do vì nhân quyền).
- Thông (thông minh biết trưởng thành, thông thái biết văn minh, thông thạo để tiến bộ).
- Sáng (sáng kiến thường nhật, sáng tác thường xuyên, sáng tạo thường trực).
- Đa (đa nguyên vị nhân bản, đa tri vị nhân trí, đa dũng vị nhân quyền, đa luận vì nhân phẩm).
- Nhân (nhân lộ sạch, nhân đạo thật, nhân tri rộng, nhân trí mở, nhân bản lớn).
Một chính quyền yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền khi ra đời để thay thế bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay, thì chính quyền này phải có đầy đủ nội công của lương tâm, bản lĩnh của lương tri để thông báo tất cả các hiện trạng của con người và trái đất. Từ đó giáo dục hóa song hành cùng quốc sách hóa được trợ lực bởi trong quá trình đôi vừa là nền, vừa là khung cho tương lai đó là đạo lý hóa và công pháp hóa với quyết tâm của dân tộc là bảo vệ cho bằng được môi sinh và môi trường như bảo vệ chính sinh mạng và tương lai của mình :
- Thông báo đầy đủ để giáo dục sát sao về thảm họa môi trường và khí hậu đang và sẽ tới cho thế hệ tương lai, để các thế hệ này ý thức về các hậu nạn, có nhận thức về các bổn phận, các trách nhiệm mà các thế hệ này phải nhận lãnh. Cùng lúc vận dụng sử tính học vào lý luận của tương lai học, cụ thể là thông hiểu những sai lầm của nhân sinh trong lịch sử của nhân loại, và sẽ không bao giờ lập lại các sai lầm này trong những ngày tháng tới. Cụ thể là có kiến thức đúng từ khoa học tới môi trường để có ý thức xa cho tương lai, một sử tính học tỉnh táo trong sáng suốt để bảo vệ nhân sinh mà trước mắt là bảo vệ sự sống của trái đất này.
- Kiến thức đúng với ý thức xa, phải hiện hình trong não bộ như một nhận thức về thảm họa môi trường và khí hậu, nơi mà các thế hệ hiện nay và mai hậu phải nhận những thử thách mới về chính trị. Từ quyết định sinh hoạt chính trị dựa vào văn minh của dân chủ, tại đây dân sẽ không thật sự làm chủ nếu không có môi trường mà dân sống được, sống bền, sống lâu trên trái đất này. Cho tới đời sống chính trị của xã hội dân sự đặt trên nền tảng của văn hiến vì nhân quyền, tại đây nhân quyền sẽ không còn, không có, không sống sót được nếu trái đất đang sắp ngộp thở và sẽ bị xiết ngộp cho đến chết nếu nhân loại không biết ngừng, ngăn, chặn nhiễm ô từ thiên nhiên tới khí hậu.
- Khi dân tộc và xã hội cùng nhau đưa vấn đề môi trường thành vấn đề sinh tử của nhân loại, thì vấn đề môi trường không còn thuần túy là vấn đề môi trường nữa mà nó đã là sự tồn vong của cả nhân sinh. Từ đây, chính sách bảo vệ môi trường trong sinh hoạt chính trị có liêm minh của dân chủ, có liêm chính vì nhân quyền là ưu tiên hàng đầu cho mọi chính khách, mọi chính giới muốn tồn tại trong liêm sỉ của đa nguyên. Từ đây, các thế hệ chuẩn bị "về hưu", không thể giữ loại não trạng "sau khi chúng tôi về hưu, thì chúng tôi xin giao vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước và trái đất lại tất cả cho thể hệ mới". Nếu giao những tai họa do chính thế hệ mình làm ra, để các thế hệ mai hậu phải nhận hậu nạn, rồi "phủi tay" ra đi mà "hưởng nhàn" thì đây là một loại não trạng vô liêm sỉ !
- Cả nhân loại hiện nay đã nhận thức về cái chết của một trái đất bị ô nhiễm trong ngộp thở, thì đây cũng là điềm báo tử chính xác nhất cho con người đang sống nhờ trên trái đất này. Đây là một vấn đề hệ trọng cho một tương lai không xa về sự chọn lựa giữa cái sống và cái chết. Nên chính tại đây một chính quyền đại diện cho văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền là một chính quyền có lương tri trong liêm sỉ để "chọn bạn mà chơi" trong các liên hiệp, liên minh trên chính trường quốc tế. Đây chính là "sân chơi" mang hệ nhân (nhân lộ sạch, nhân đạo thật, nhân tri rộng, nhân trí mở, nhân bản lớn), trong là "trò chơi" mang hệ thức (kiến thức đúng, tri thức rộng, ý thức xa, nhận thức vững), cùng "luật chơi" mang hệ thông (thông minh biết trưởng thành, thông thái biết văn minh, thông thạo để tiến bộ).
- Áp dụng chính trị học tri thức khi "chọn bạn mà chơi" với tiêu chuẩn chọn bạn khôn ngoan :
"Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa ra tới biển đã dò nông sâu",
mà trong thực tiễn là không "nô lệ" bất cứ một ý thức hệ, một chủ thuyết, một cường quyền nào cả. Việt tộc đã và đang lãnh chịu các hệ quả đau xót tới từ não trạng ký sinh của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trước Đảng cộng sản Trung Quốc để được tồn tại như "gà què ăn quẩn cối xay" từ ý thức hệ bạo quyền độc đảng toàn trị tới vô tri luận tà quyền độc đảng man trị, mà đích xác là : "hèn với giặc, ác với dân". Chính trị học tri thức bắt đầu bằng khách quan hóa sự thật qua "cân, đo, đong, đếm", đi tiếp đến kiểm chứng hóa chân lý qua "so ra mới biết ngắn dài". Chưa hết, chính trị học tri thức khi thấy được sự liêm minh trong hành động chính trị khi được song hành cùng xã hội học quyền lực để thấu được sự liêm chính trong hành tác lãnh đạo, thì sẽ nhận ra một định đề của lẽ phải trong chính trị là : không bao giờ vô điều kiện với bất cứ liên minh, liên hiệp nào, và nếu cần phải có thái độ và hành tác vô điều kiện thì chỉ vô điều kiện với hệ liêm (liêm khiết, liêm minh, liêm sỉ) với chính mình.
- Nói gần nói xa không qua nói thật, như trường hợp của tổng thống đương nhiệm của Hoa Kỳ là D.Trump là lãnh đạo hàng đầu đã vạch mặt chỉ tên tà quyền Tàu gian, cho cả thế giới biết về bản chất Tàu tà là trộm, cắp, cướp, giật từ trí tuệ trong khoa học kỹ thuật tới lãnh thổ cùng tài nguyên của các nhiều quốc gia. Nhưng khi D.Trump tự ý rút ra khỏi hiệp định quốc tế bảo vệ môi trường sau khi nhận chức tổng thống rồi để mặc cho các quốc gia khác phải đấu tranh chống ô nhiễm để bảo vệ trái đất và con người, thì đây là loại não trạng mà nhân tri có nhân phẩm không thể ủng hộ được. Không vô điều kiện với bất cứ ai, nhất là với kẻ mang não bộ tư lợi cùng não trạng ích kỷ, một chính quyền có hệ liêm (liêm khiết, liêm minh, liêm sĩ) với chính mình, còn phải được trợ lực bởi hệ tự (tự tin vì nhân vị, tự chủ vì nhân trí, tự trọng vì nhân phẩm, tự do vì nhân quyền), được trợ trí bởi hệ thông (thông minh biết trưởng thành, thông thái biết văn minh, thông thạo để tiến bộ).
- Toàn cầu hóa hiện nay, có khi tiến, có khi lùi ; khi tiến theo hướng thăng hoa là chia sẻ những tiến bộ khoa học kỹ thuật để củng cố văn minh của dân chủ, khi lùi thì có não trạng lui rút về bản sắc dân tộc, run sợ trước cạnh tranh quốc tế, từ đó tạo ra chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi sinh đôi cùng các phong trào kỳ thị giữa các sắc tộc. Nhưng khi toàn cầu hóa là chung lưng đấu cật, cùng nhau kiểm định lại sản xuất và tiêu thụ để ngăn, chặn, giảm biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường không hề là tiêu cực, không hề là bước lùi, không hề là tụt hậu trong phương trình bảo vệ môi trường và bảo quản môi sinh.
- Tương lai học về sự sinh tồn của trái đất song lứa còn sự tồn vong của nhân loại thì tương lai học vận dụng tất cả các ngành khoa học từ dữ kiện tới chứng từ để mô thức hóa các hiện trạng mà trái đất cùng môi trường đang lãnh chịu để mô hình hóa các phương thức giải quyết. Hiện nay, tương lai học không phải là toán học với các chứng minh trực tiếp bằng thuận lý của tính toán, mà là sự tổng hợp từ tất cả khoa học, từ khoa học thực nghiệm tới khoa học toán, từ khoa học nhân văn tới khoa học xã hội. Chính trên thực tiễn này, thì một chính quyền có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền phải là một chính quyền mang tổng lực của hai hệ, hệ sáng (sáng kiến thường nhật, sáng tác thường xuyên, sáng tạo thường trực) và hệ đa (đa nguyên vị nhân bản, đa tri vị nhân trí, đa dũng vị nhân quyền, đa luận vì nhân phẩm). Khi các khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm, khoa học toán cùng khoa học nhân văn và xã hội cùng đưa ra các khám phá tự định lượng tới định chất, thì tương lai học là tụ điểm của các sự thật khoa học, các chân lý khách quan.
- Khi tất cả các chuyên ngành khoa học này sẽ lập được một liên minh tri thức, sẽ dựng được một liên hiệp nhận thức để tư vấn và hướng dẫn các chính quyền có liêm minh trước môi trường và thiên nhiên. Vì các chính quyền này đều sẽ phải có liêm sỉ về sự sống còn của trái đất và sự tồn vong của con người, cụ thể là biết sẽ vận dụng hai hệ -sáng và đa- để có các chính sách thích hợp. Và thử thách lớn nhất hiện nay của Việt tộc là bứng, nhổ, rứt, bỏ cho bằng được bản chất của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay là bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị. Cùng với thực chất của tổ chức nội bộ của độc đảng toàn trị là nội bộ bè phái trị, nội bộ đồng lõa trị, nội bộ thanh trừng trị, luôn song hành với quái thai của nó là tuyên truyền trị, ngu dân trị, bạo lực trị, với trình độ thê thảm của các lãnh đạo độc đảng toàn trị hiện nay là vô minh trị, vô tri trị, tạo ra vô hậu trị.
Trực diện với tương lai
Nhìn về tương lai bằng tương lai học của khoa học luận dự phóng song hành cùng phương pháp luận dự phòng, chuyển biến não bộ để chuyển hóa não trạng, cụ thể là tạo não bộ chủ tri để xóa não trạng bị trị, rồi đón đa nguyên như đón một tiến bộ, tiếp dân chủ như tiếp một văn minh, nhận nhân quyền như nhận một văn hiến.
Tại đây, các chủ thể có quyết tâm tạo dựng đa nguyên-dân chủ-nhân quyền, trên nền tảng của cộng hòa (tự do-công bằng-bác ái), là những chủ thể lãnh đạo dân tộc, quản lý đất nước, bảo vệ giống nòi trong tương lai sẽ là những lãnh đạo tuyệt đối rũ, rứt, xóa, nhổ đi mọi tàn tích của bạo quyền độc đảng toàn trị gần một thế kỷ qua (1930-2020) từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền để tham quyền trong lạm quyền cho tới ngày nay.
Chuyển biến não bộ tích cực và chuyển hóa não trạng tối đa để tuyệt đối xa, tránh, lánh, rời thảm cảnh của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam khi hấp hối, chuẩn bị lìa đời để nhập mộ, họ đều có chung một thảm kịch để cảm nhận thảm bại sâu xa nhất của họ, với não bộ độc tài nhưng bất tài đã làm ra não trạng độc trị nhưng không biết quản trị, và khi họ nhìn về phía quan tài của họ trước khi nhập mộ, họ sẽ tự nghĩ :
- Họ chỉ là một tập đoàn tội phạm trời không dung đất không tha, cướp giật chính quyền để trộm cắp tiền của, tài nguyên, sinh lực, xương máu của dân tộc ; một tập đoàn tham quan vừa cướp giật ban ngày, vừa trộm cắp ban đêm, mang sinh hoạt quyền lực của bọn âm binh không đạo lý.
- Họ chỉ là một tập đoàn sâu dân mọt nước từ tham quan tới tham ô, tham nhũng vì tham tiền, từ mua bằng cấp tới mua chức bán quyền. Đã giả hóa giáo dục với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, với khuyết não của học vị giả cùng khuyết tật của học hàm giả, cho tới lúc lâm chung không biết hoc lực thật là gì cả !
- Họ chỉ là một tập đoàn buôn dân bán nước cho Tàu tặc đã và đang tạo ra bao hiểm nạn Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu nạn, Tàu gian trên quê hương gấm vóc của tổ tiên Việt, trong đám này đã có bọn sẳn sàng phản dân hại nước để mại quốc cầu vinh.
- Họ chỉ là một tập đoàn đâm thuê chém mướn tạo ra nội chiến huynh đệ tương tàn (1954-1975) để quy phục cho đám đàn anh là Liên Xô và Trung cộng. Cũng chính họ đã khom lưng, cúi đầu nghe lời quan thầy Trung cộng để tàn sát đồng bào trong Cải cách ruộng đất, kể cả khoanh tay, quỳ gối mà nghe Tàu tặc mà ô nhiểm hóa quê hương gấm vóc của tổ tiên.
- Họ chỉ là một tập đoàn lòng lang dạ sói, cực quyền ham thích thanh trừng lẩn nhau hơn là hợp tác với dân tộc, cuồng quyền mê chuộng thanh toán lẩn nhau hơn là hợp lực với xã hội, tham quyền rồi lạm quyền nhưng chưa bao giờ được dân tộc bầu ra, chưa bao giờ được xã hội tuyển chọn.
Họ chỉ là một tập đoàn sâu dân mọt nước từ tham quan tới tham ô, tham nhũng vì tham tiền, từ mua bằng cấp tới mua chức bán quyền.
***
Các chủ thể lãnh đạo của tương lai luận vị Việt tộc, biết quản lý đất nước, biết bảo vệ giống nòi trong tiến bộ đa nguyên, trong văn minh dân chủ, trong văn hiến nhân quyền, phải chuyển hóa não bộ ngay bây giờ, phải chuyển biến não trạng ngay tức khắc tất cả vì Việt tộc.
Cụ thể là bỏ não trạng cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối trong kiếp bị trị, mà phải mở sáng mắt, rồi đứng thẳng lên, mà đi tới để nhận một não bộ mới, não bộ của một minh tộc, não trạng của một dũng tộc !
Sống không cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối, cho tới khi lìa đời, nhìn quan tài, nhận mộ phần mà biết thẳng đầu-thẳng lưng-thẳng tay- thẳng gối, luôn đi tới vì nhân vị, để bảo vệ nhân phẩm !
Lê Hữu Khóa
(12/12/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng
Kịch bản đa chiều * Mâu thuẫn đa phương * Ung thư nội bộ
Hãy nhận định hiện tại của lãnh dạo bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay tại Việt Nam, đâu là bản chất của nó :
- Bản chất của chế độ độc đảng toàn trị hiện nay là gì ? Đó là :
- Thực chất của tổ chức nội bộ của độc đảng toàn trị hiện nay là gì ? Đó là :
- Thực tế của tổ chức xã hội do độc đảng toàn trị hiện nay là gì ? Đó là :
- Trình độ của các lãnh đạo độc đảng toàn trị hiện nay là gì ? Đó là :
Khi kết hợp tất các yếu tố từ bản chất, thực chất của tổ chức nội bộ, thực tế của tổ chức xã hội, trình độ của các lãnh đạo của chế độ độc đảng toàn trị, thì phải tới phân tích và giải thích các kết quả thực nghiệm :
Từ đây phải tới kết luận : Đảng cộng sản Việt Nam là một tập đoàn tội phạm, ăn trên ngồi trốc để vơ vét ngân sách, nạo vét tài nguyên, sẵn sàng để mất đất, biển, đảo trước Tàu tặc, chọn giặc làm bạn, không hề đặt ưu tiên cho tiền đồ dân tộc, gia sản tổ tiên, đạo lý quốc gia, giá trị giống nòi…
Kịch bản đa chiều
Khi các kết luận này làm gốc, rễ, cội, nguồn cho thảm cảnh đất nước, họa cảnh dân tộc như hiện nay, thì tương lai luận nhân tri song hành cùng tương lai học nhân trí, phải đi sâu vào các kịch bản khả thi và khả dĩ có thể xẩy ra trong những năm tháng tới. Chính những kịch bản này sẽ cụ thể hóa quá trình chuyển hóa não trạng, chuyển biến não bộ, để mỗi công dân Việt là một chủ thể Việt nhận trách nhiệm đúng lúc với đất nước, nhận bổn phận đúng chỗ với đồng bào. Nơi mà chủ thể Việt có sáng kiến kịp thời, có sáng tạo hợp thời để làm cuộc thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa cho mình và cho dân tộc cùng đất nước :
* Kịch bản thứ nhất nơi mà dân tộc Việt là chủ thể Việt với xã hội dân sự có thông minh biết dấn thân, với quần chúng có can đảm biết thay đổi vận mệnh của chính mình :
a. Bất công xã hội vượt mật độ cùng cường độ, mà nhân dân không chấp nhận được nữa phải đứng lên lật đổ chính quyền và thay đổi chế độ.
b. Biến loạn tới từ một chính sách bán nước, như biến nhiều vùng của đất nước thành đặc khu mà chính Tàu tặc sẽ tới để tiến hành hệ xâm (xâm chiếm, xâm lấn, xâm lăng, xâm lược).
c. Biến động tới từ khủng hoảng môi trường, mà kinh nghiệm đau thương của ô nhiễm Formosa đã thành dấu ấn kinh hoàng trong tâm não của người Việt, nơi mà giờ đây ai cùng biết quê hương gấm vóc của tổ tiên nay chỉ là bãi rác cho Tàu họa sử dụng.
d. Biến thái nặng nề về môi sinh, nơi mà các thành phố lớn bị xem là các nơi giết người dần mòn bằng bụi mịn, với nhiệt điện than trùm phủ thần chết lên nhiều triệu người, nhiều thế hệ.
e. Bạo lực tràn lan của công an trị, tạo nên phẫn uất không kìm được của dân chúng, của xã hội, nơi mà chỉ một vụ giết một người già, rồi phanh thây mổ bụng tại Đồng Tâm đã thành dấu chàm lở của một chế độ bạo trị sẵn sàng giết dân. Và, chỉ thêm một vài vụ Đồng Tâm nữa thôi thì lòng dân sẽ chuyển tự than oán đến vùng lên.
f. Tuổi trẻ đứng lên vì nhân quyền và dân chủ, trong đó có hai lực lượng : sinh viên tại các đại học cùng các lực lượng thanh niên tại các thành phố lớn, công xưởng lớn, là hai lực lượng yêu tự do, quý dân chủ, trọng nhân quyền, sẽ ra tuyến đầu làm sức bật cho toàn bộ giới trẻ đang là nạn nhân của bất công và thất nghiệp, hợp sức để tụ quần hùng, làm dàn phóng cho phong trào xã hội, có đình công, có bãi thị, có đòi hỏi, có đề án về công bằng, có phương án về đấu tranh đa nguyên, tất cả sẽ thăng hoa từ gốc tới ngọn hùng lực của xã hội dân sự.
g. Trí thức tiến bộ đấu tranh bằng tri thức, với kinh nghiệm bằng báo chí lẫn bằng truyền thông, trực diện vạch mặt chỉ tên bạo quyền độc đảng công an trị, tham nhũng trị, ma tiền trị. Các cựu tù nhân lương tâm có dày dạn kinh nghiệm cùng tri thức đấu tranh chống bạo lực, chống tham quan, chống "mưu hèn kế bẩn" của đảng thống trị. Những đứa con tin yêu này của Việt tộc sẽ tìm ra minh sư để một minh chủ xuất hiện trong khi cho thực thi đa nguyên vì dân chủ và nhân quyền.
h. Các lực lượng tôn giáo liêm chính, không những với số đông của các Phật tử liêm sỉ trực diện tố cáo bọn ma tăng quốc doanh, ma sư công an ; được phối lực với đông đảo tín đồ Thiên Chúa giáo. Cùng đứng lên các giáo phái liêm khiết như Hòa Hảo, Cao Đài trong bao nhiêu năm đã là nạn nhân của bạo quyền độc đảng toàn trị tất cả bảo vệ những giá trị của chính đạo cùng lúc bảo vệ tiền đồ của tổ tiên Việt.
k. Các nạn nhân trực tiếp của tham nhũng trị, có dân lành đã bị bọn tham quan và trọc phú một sớm một chiều biến thành dân oan, ngày ngày phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Có cả dân đen, đầu tắt mặt tối trong lầm than, đầu đường xó chợ trong đói nghèo, với nông dân miền Bắc bị cướp đất canh tác, với ngư dân miền Trung dở chết dở sống sau hiểm họa môi trường Formosa, với nông dân miền Nam phải bỏ đất bị ngập mặn, phải bỏ làng xóm với đồng bằng sông Cửu Long ngày càng hạn, ngày càng cạn, bởi các đập nước do Tàu tà xây hàng loạt trên thượng nguồn để khốn cùng hóa đồng bào nông dân ta.
Mâu thuẫn đa phương
Khi tương lai luận nhân tri tổng kết được các kịch bản khả thi và khả dĩ sẽ xẩy ra trong tương lai gần hoặc tương lai xa, thi tương lai học nhân trí phải đi sâu vào nội bộ của bạo quyền độc đảng toàn trị để thấy cho thấu các mâu thuẫn, các xung đột, các tranh giành quyền lực chỉ vì quyền lợi để bồi đắp cho tư lợi nhóm, bè, phái, đám. Các mâu thuẫn, các xung đột, các tranh giành bắt buộc phải dẫn tới : thanh trừng nội bộ, thanh toán đồng chí, nơi mà bạo lực mang sắc diện của ám sát, của đầu độc, của khủng bố, của thủ tiêu… Tại đây, tương lai luận nhân tri dựa vào các kết quả về đấu đá quyền lực, chụp giựt quyền lợi, vơ vét tư lợi của nhóm, bè, phái, đám sẽ giúp cho tương lai học nhân trí hiểu sâu xa những đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong hệ thống độc đảng toàn trị, để thấy sự truy diệt nhau trong Đảng cộng sản Việt Nam là phản xạ, rồi tiêu diệt nhau trong Đảng cộng sản Việt Nam là phản ứng sinh tồn với lý lẽ của âm binh là một sống một còn giữa những tội phạm ngày ngày gọi nhau là đồng chí. Có những kịch bản gì sẽ xẩy ra :
* Mâu thuẫn tột cùng giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng vì tư lợi là "ăn chia không đều", cộng với khác biệt kiểu dị ứng nhau về quan niệm quốc phòng chống an ninh, và an ninh cản quốc phòng. Trong đó, sẽ lộ ra chân tướng của bọn mại quốc cầu vinh, theo Tàu tặc để phản dân hại nước, sẽ lộ thêm tà diện của bọn "đã chuẩn bị cao bay xa chạy, đã chuyển tiền của qua phương Tây, mà trong túi của chúng đã có quốc tịch ngoại".
* Mâu thuẫn đột biến giữa lập pháp và hành pháp ; với những nhân tố hiện nay đang rất thiểu số nhưng thực tập làm trọn nhiệm vụ dân biểu lại được xã hội dân sự hỗ trợ, cùng lúc được sự ủng hộ của các nạn nhân từ dân đen tới dân oan, sẽ tạo được phong trào xã hội. Chỉ cần vài dân biểu, một phong trào xã hội đứng vững trong nhiều tuần, nhiều tháng trong các thành phố lớn, làm nền cho các phong trào của nông dân, đòi hỏi không những công bằng, mà trực diện để yêu cầu hành pháp phải đứng về phía dân từ thượng tôn pháp luật tới cải cách dân sinh, nhất là trong giáo dục và y tế. Chính lập pháp khi lên tiếng nói của quốc hội biết đại diện cho quốc dân có thể đấu tranh làm thay đổi chính phủ, chính là bước đầu làm thay đổi cơ chế, rồi định chế, và cuối cùng là chế độ.
* Mâu thuẫn bất chợt giữa quốc hội và Đảng cộng sản Việt Nam ; là khả năng hiếm hoi, thật hiếm có với các đại biểu quốc hội là đảng viên trong tà thuật đểu cáng "đảng cử dân bầu". Nhưng khả năng hiếm hoi có thể trở thành khả năng hiếm muộn trong sinh hoạt xã hội được chính trị hóa nhờ quá trình nhận thức của các chủ thể sáng suốt trong quốc hội, không còn muốn ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu với đám nghị gật, cúi đầu để bấm nút theo lệnh của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi các chủ thể nhận thức này đang là đại biểu lại có cùng khuynh hướng cải tiến để tiến bộ, lại biết hợp lực với các chủ thể đang có mặt trong chính quyền hoặc trong thượng tầng lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng lúc, lại được trợ lực bởi những phong trào xã hội tiến bộ, song hành cùng một xã hội dân sự có mong cầu đưa dân tộc sớm vào nhân lộ văn minh cùng nhân loại. Tất cả sẽ tạo lực đấu tranh mới, làm xoay chuyển tình hình theo hướng nhân tri sáng suốt, nhân trí tỉnh táo để vô hiệu hóa ngu dân trị của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ung thư nội bộ
Thay đổi từ nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam luôn là giả thuyết khả thi nhất để hiểu các chuyển biến về vận mệnh của một dân tộc trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị. Chính tình hình Đông Âu dưới loại chế độ này, cùng với vai trò cá nhân như GorbaChep đã làm sụp đổ cả một hệ thống cộng sản cuối thế kỷ XX là định đề cần đào sâu trong tương lai học. Nhưng định đề này sẽ gặp ít nhất ba loại trở lực trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay :
- Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có loại minh chủ như GorbaChep, rồi minh chúa cũng không có bóng dáng hoặc diện mục trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Minh chủ xoay chuyển tình hình để thay đổi số kiếp một dân tộc, luôn có nội cộng chính trị, bản lĩnh chính khách, tầm vóc chính tri để thấy được lối ra cho giống nòi.
- Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có chính khách đúng nghĩa trong định nghĩa về nhân tri chính trị, nhân trí chính trường với kỹ năng đối thoại với thực năng kiến thức để thuyết phục xã hội và dân tộc bằng các chính sách nhìn xa trông rộng.
- Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không có các chủ thể biết chọn đối thoại để đối luận bằng lý luận chỉnh lý, bằng lập luận hợp lý, bằng giải luận toàn lý, lấy lý trí cá nhân để xây trí tuệ tập thể, để dựng tuệ giác cho lãnh đạo chính trị.
Bi kịch vắng bóng nhân tài, biệt tăm minh chủ, biệt dạng chủ thể lãnh đạo, có chủ quyết sáng suốt làm nên quốc sách vị Việt tộc, chỉ vì các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, vừa không phải là chính trị gia theo nghĩa thông thường, vừa không phải là những lãnh tụ quốc gia dám kham, lãnh, nhận, cõng các quốc sách làm được chuyện thay đời đổi kiếp cho Việt tộc. Bi kịch làm bi đát não trạng, bi thảm cho não bộ của họ.
Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không hề là :
"Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa ra tới biển đã dò nông sâu",
họ lại càng không chịu học hỏi để nắm chân lý của sinh hoạt chính trị là thường xuyên phải : "So ra mới biết ngắn dài " qua ứng cử-bầu cử-đắc cử theo phương cách đa nguyên. Họ tầm thường trong ích kỷ của những kẻ "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau". Họ vô tri vì không biết là trí thức Việt tộc nhìn họ (như không nhìn họ) và ngượng vì họ : "Đứa ngu cởi truồng, người khôn mất mặt". Và "nói gần nói xa không qua nói thật" là trong âm giới của bạo quyền độc tài toàn trị của họ, thì họ không có tư cách liêm khiết đường đường chính chính, không có phong cách quang minh chính đại.
Nên họ không có nhân cách, mà không có nhân cách thì đừng làm lãnh đạo ! Và tà cách của họ đã lộ qua điếm cách của bọn cướp ngày là quan thôi ! Thậm chí đang là lãnh đạo từ lập pháp tới hành pháp, là trong túi đã có quốc tịch ngoại, tiền đã chuyển ra ngoài, và con cái đã qua phương Tây từ lâu. Phân tích sâu như vậy để thấy thật rõ họa cảnh tối tăm của một dân tộc nạn nhân của ngu dân trị tới từ một đảng cầm quyền mang cốt, lõi, cội, rễ của ngu trị não trạng (vắng kiến thức, rỗng tri thức, trống trí thức).
Khi các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam lập ban cố vấn, tìm tư vấn, thì những chuyên gia làm việc cận kề các lãnh đạo này cũng không có lý trí khoa học, trí tuệ văn minh, tuệ giác minh triết. Từ lý lịch đến hồ sơ cá nhân, từ bản lai diện mục tới phương pháp luận đề ra đường lối chỉ đạo, các chuyên gia quốc tế không thấy nội công chính sách, bản lĩnh chính trị, tầm vóc quốc sách của các lãnh đạo lẫn các cố vấn của họ. Rốt cuộc, thì "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", nên "âm binh tìm âm binh" để lập cuộc sống chung "cá mè một lứa" trong đặc quyền, đặc lợi, đặc ân mà thôi. Ngày tàn của bạo quyền độc đảng toàn trị dễ thấy qua tương lai luận tri thức làm nên cho tương lai học nhân thức, trong đó ngày tận thế của độc quyền tà trị Đảng cộng sản Việt Nam đã bị dân tộc vạch mặt chỉ tên :
* Hèn với giặc, ác với dân trong hiểm họa trước Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu gian, Tàu nạn, Tàu thâm, Tàu hiểm, Tàu độc, Tàu ác) ; cùng lúc lại lao lý hóa các đứa con tin yêu của Việt tộc, biến họ thành tù nhân lương tâm, để truy cùng diệt tận với các hành động bất nhân thất đức của công an trị.
* Mưu hèn kế bẩn bằng tà quyền tham quan trị, bằng ma quyền tham nhũng trị, biến dân lành thành dân oan, trong màn trời chiếu đất, biến dân tộc thành dân đen một cách điếm nhục nhất là làm nô bộc cho các quốc gia láng giềng, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ.
Tương lai luận nhân tri, tương lai học nhân trí
Những nguyên tắc giải thích của chính luận vì dân chủ, của chính thể vì nhân quyền
Vậy mà trong con đường hầm tối tăm này của Đảng cộng sản Việt Nam, tương lai học tri thức biết dựa vào chính trị học trí thức, xã hội học kiến thức và sử học ý thức, thấy được sự chuyển biến của não bộ, chuyển hóa của não trạng trong quá trình trành giành quyền lực giữa các thế hệ lãnh đạo. Khi bốn chuyên ngành này (tương lai học tri thức, chính trị học trí thức, xã hội học kiến thức, sử học nhận thức) hợp lực để chung sức phân tích rồi giải thích con đường hầm đen nghịt dẫn tới ngõ cụt của bạo quyền độc đảng toàn trị, thì các lối ra để sống còn là đường đi nẻo về của bạo lực, mà những kẻ có phản xạ chuyên chính, có phản ứng chuyên quyền luôn sử dụng trong môi trường nội bộ của mọi đảng cộng sản, và Đảng cộng sản Việt Nam không hề là một ngoại lệ :
- Sinh hoạt bầy đàn, nơi mà nội bộ giữa các lãnh đạo của phản xạ chuyên chính, của phản ứng chuyên quyền là sinh hoạt bản năng của bầy đàn, với bản năng đói ăn khát uống quyền lực không đạo lý, với trực năng ăn tươi nuốt sống quyền lợi.
- Quan hệ bầy đàn, theo bản năng, là tên lãnh đạo chóp bu là đầu đàn áp lệnh trấn quyền bằng bạo lực của bạo hành qua bạo quyền mạnh được yếu thua, nơi mà phản xạ súc sinh, phản ứng súc vật hiện hình trong bạo luật rừng : cá lớn nuốt cá bé.
- Đời sống bầy đàn, dựa trên so sánh lực lượng, thì các tham vọng về quyền lực để thành đầu đàn là mọi cơ hội, chờ đục nước béo cò để hãm hại nhau, chờ thừa gió bẻ măng để truy diệt nhau. Trong khi chờ đợi cướp được quyền, thì sống còn nhờ phản xạ ký sinh trùng là chờ sung rụng, muốn rình rập ngày đêm để chụp giựt quyền lực và quyền lợi của đầu đàn thì cứ giữ phản xạ súc vật ăn nhờ ở đậu, ngày ngày đóng trọn vai đúng bản chất của mình là : gà què ăn quẩn cối xay.
Khi liên minh lý luận của bốn chuyên ngành này (tương lai học tri thức, chính trị học trí thức, xã hội học kiến thức, sử học nhận thức) lập xong thì phải đưa tâm lý học xã hội cùng xã hội học quyền lực vào để thấy được những giải luận mới của hậu quả cùng hậu nạn của sinh hoạt bầy đàn, quan hệ bầy đàn, đời sống bầy đàn qua hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) trong độc hại của độc lộ, nơi mà độc ác vừa là phản ứng bản năng, vừa là phản xạ bản thể :
- Tham quyền cố vị của đầu đàn, như Nguyễn Phú Trọng hiện nay vừa là Tổng bí thư vừa là Chủ tịch nước, hai quyền lực cao nhất, nhưng hoàn toàn bị tật nguyền trong nan bịnh, không đủ sức xuất hiện trong các sự cố có tầm vóc dân tộc. Tật nguyền trong thể lực thành khuyết tật trên thân thể, và không có thể lực thì làm sao có trí lực để điều hành, quản trị, lãnh đạo. Nhưng sinh hoạt bầy đàn trong độc đảng luôn biến bạo quyền thành tà quyền khi thủ tướng đại diện cho hành pháp lại ra lệnh thành luật trong đầu tháng Chín năm 2020, hồ sơ bịnh lý cùng lý lịch sức khỏe của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam là bí mật quốc gia, kiểu tối ma. Nên bạo quyền khi trở thành tà quyền rồi, thì chỉ cần bước thêm bước nữa là thành ma quyền : cấm dân tộc biết rõ về thể lực của các lãnh đạo, là để lấp liếm trí lực đầy khuyết tật, là để che phủ tâm lực đầy tật nguyền.
- Ăn chực nằm chờ, của đám đàn em giả vờ thăm hỏi, nhưng vây bủa bên đầu đàn, và chỉ chờ tên đầu đàn là đảng trưởng chỉ ngọng, què, chột, lăn ra một chút thôi là chúng vồ vào xé xác. Quy luật ăn thịt lẫn nhau để sống còn, thanh trừng đồng chí trong truy cùng diệt tận là phản xạ của bầy đàn, là phản ứng của dã thú, có dã tâm nhưng không hề có ý thức về chính sự dã tâm trong giả nghĩa của mình. Chỉ có thanh trừng nhau bằng bạo lực giết người mới ăn no ngủ yên được chính là tâm lý cá nhân và tâm trạng thú tính làm nên não trạng bạo động của sinh hoạt bầy đàn.
- Lòng lang dạ sói, với kẻ ác nhất tin là mình sẽ sống còn nhờ chà đạp và thủ tiêu nhân tính của tha nhân thì mình sẽ độc quyền. Với kẻ độc nhất chắc bẩm là mình sẽ sống sót nếu mình truy lùng và truy diệt được nhân lý của cộng đồng thì mình sẽ độc trị. Với kẻ hiểm nhất mơ mòng là mình sẽ sống lâu nếu mình truy quét và giết sạch được nhân bản của dân tộc thì mình sẽ độc tài. Với kẻ thâm nhất thầm nhủ là mình sẽ sống mãi nếu mình diệt nhiều giết lắm nhân tâm của giống nòi thì mình sẽ độc quyền. Tất cả những cái thâm, độc, ác, hiểm khi xuất hiện với súc dạng bầy đàn thì chuyện nhân tâm, nhân từ không hề có chỗ dứng ghế ngồi với chúng, nên nhân phẩm và nhân đạo luôn phải nhận kiếp bụi đời rồi phận oan hồn ngay trong nhân sinh nếu chúng còn tiếp tục đi trên lưng, trên vai, trên đầu nhân kiếp.
Nhưng ai học được chữ "ngờ" ! Chính liên minh giải luận của bốn chuyên ngành này (tương lai học tri thức, chính trị học trí thức, xã hội học kiến thức, sử học nhận thức) khi hợp trí cùng tâm lý học xã hội và xã hội học quyền lực, tất cả cho sinh ra một diễn luận có cơ sở thực tiễn, có nguồn cơn thực tế :
- Tham quyền cố vị của đầu đàn trong sinh hoạt đầu đàn luôn là nguyên nhân và lý do làm ra những cuộc thanh trừng đẫm máu đến triệt để, tới từ bọn đàn em ăn chực nằm chờ có cơ hội là thủ tiêu đầu đàn hay đảng trưởng của chúng. Trong hiện cảnh này, tạo ra một sự thay đổi cực độ làm tình hình chính trị, bối cảnh xã hội thay đổi theo, đây là lúc các phong trào tiến bộ phải đứng lên nhận bổn phận với dân tộc để đưa dân tộc vào minh lộ của nhân bản.
- Ăn chực nằm chờ chức quan đầu đàn hay đảng trưởng là tư thế của bọn, bè, phái, nhóm, chúng rất khác nhau về toan tính quyền lợi nên dị ứng nhau về tính toán quyền lực. Cụ thể là chúng chung sàn dị mộng, nên giữa chúng sẽ xâu xé nhau tối đa trong quy luật súc sinh của ăn gan uống mật lẫn nhau để được ăn no ngủ yên khi cướp được quyền. Chính đây là giai đoạn nồi da xáo thịt giữa chúng với nhau, nhưng lại là cơ hội thuận lợi để xã hội dân sự nhân đạo hóa đường đi nẻo về của nhân lộ văn minh vì Việt tộc, là phải dẹp hết dã thú ra khỏi nhân sinh, để nhân tâm được đầu tư vào nhân từ mà xây dựng nhân phẩm.
- Lòng lang dạ sói của đầu đàn trong sinh hoạt đầu đàn cộng với cấp số nhân của lòng lang dạ sói của bọn đàn em, có bè, phái, nhóm sẽ nhân quá trình bạo lực của ăn tươi nuốt sống lẫn nhau tới cực độ, sẽ nhân quá trình bạo hành của ăn trơn nuốt trọn lẫn nhau tới cực điểm. Trong bối cảnh nhiễu nhương của bạo quyền đã thành tà quyền đang biến dạng thành ma quyền, rồi biến chất thành quỷ quyền chỉ vì tư lợi, thì các lực lượng đại diện cho văn minh và tiến bộ phải sẵn sàng. Từ trí thức tới sinh viên, từ thanh niên tới phụ nữ, các minh sư cùng các nhà khoa học phải có mặt đúng lúc để não bộ nhân từ thay đổi được não trạng vô cảm, từ đó nhận trách nhiệm thay đời đổi kiếp đưa Việt tộc theo hướng thăng hoa.
Khi kết hợp các phân tích về ba hiểm họa gây ra hậu nạn, cùng lúc là cơ may cho các lực lượng tiến bộ, các phong trào xã hội tạo được những hùng lực mới mà đấu tranh vì lý trí đa nguyên, trí tuệ dân chủ, tuệ giác nhân quyền, thì tương lai luận tri thức sẽ đi tới tương lai học trí thức để nhận ra hai hiểm họa khác, mà cũng là hai cơ may mới nếu Việt tộc vừa là một minh tộc lại vừa là một dũng tộc, đó là hai kịch bản vẫn còn xa lạ trong não trạng hiện nay của quần chúng :
- Các tập đoàn bất chính "sân sau" của các lãnh đạo đã ăn nằm với chúng qua từ tham nhũng trị tới tham tiền trị, tìm mọi cách để thao túng giật dây, cạm bẫy hóa quyền lực đương nhiệm để tạo ảnh hưởng quyền lực ngầm ngày càng lớn trong sinh hoạt lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Bọn âm binh này hít thở bằng lợi nhuận, ăn tươi nuốt sống bằng vơ vét tiền của, nạo vét tài nguyên, làm giàu bằng phản xạ trộm, cắp, cướp giật từ đất đai tới rừng núi, chúng có tay sai là bọn tham quan, tham quyền vì tham tiền, một sớm một chiều, biến dân lành thành dân oan. Bọn âm binh này có phản xạ quỷ quyền của "có tiền mua tiên cũng được", có phản ứng ma quyền của "đục nước béo cò", với não trạng giếng sâu nước đục của "lòng tham không đáy" sẽ tìm mọi quỷ kế, ma sách để công cụ hóa các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Từ là "sân sau" của các lãnh đạo tham ô trong "sâu dân mọt nước", các tập đoàn bất chính này luôn muốn trở thành "sân trước" của mọi "sân chơi", từ quy hoạch hóa tới chính sách hóa. Bọn âm binh này, chính là bọn trọc phú, có tiền mà không có văn hóa, có của mà vắng đạo lý, trống luân lý, vắng đạo đức, và chúng chỉ biết vơ vét rồi bỏ chạy khi đất nước gặp nguy biến. Tại đây, các chủ thể yêu nước có vai vóc của minh sư, có bản lĩnh của minh chủ, có nội công của minh tướng phải nhập nội càng sớm càng hay vào tương lai luận tri thức để xây dựng một tương lai học trí thức với các sách lược chống đầu cơ quỷ quyền, các chiến lược chống khai thác ma quyền. Khi bọn này "giở trò giật dây" các tham quan lãnh đạo chém giết nhau cho chúng hưởng lợi, với toan tính "quơ nhanh vét trọn" của tính toán "cao bay xa chạy" ra nước ngoài của chúng, thì các phong trào dân chủ, các lực lượng nhân quyền phải sẵn sàng vạch mặt chỉ tên bọn âm binh này luôn chui luồn trong bóng tối âm giới ma quyền tham tiền của chúng. Chính các chủ thể yêu nước thương dân hiện nay là Việt kiều tại ba châu lục : Mỹ, Âu, Úc cũng phải tham gia vào quá trình nhập nội vào tương lai luận tri thức để xây dựng một tương lai học trí thức trước các diễn biến lớn của Việt tộc. Khi bọn tham quan phản dân hại nước cùng bọn trọc phú sâu dân mọt nước tẩu tán tiền, vàng, bạc của chúng tới ba châu lục : Mỹ, Âu, Úc, thì chúng ta hãy vì dân, vì nước mà đấu tranh rộng rãi nhất trên bình diện công pháp quốc tế để lấy lại tiền của mà bọn này đã trộm, cắp, cướp, giật được của dân ta.
Tàu tặc là Đảng cộng sản Trung Quốc-đảng cộng sản Trung Quốc, đã có thói quen Tàu họa, phản xạ Tàu hoạn, phản ứng Tàu tà là luôn xen vào nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam mà chúng vừa xem là đàn em nô bộc về ý thức hệ, vừa là tôi tớ nô lao về chính trị của chúng. Tàu tặc cũng là Tàu nạn khi chúng luôn tìm mọi cách để tác động vào chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, cùng lúc trực tiếp xen vào nội bộ ngay trong bố trí nhân sự ở cấp cao nhất từ Bộ Chính trị tới Trung ương đảng, từ chính phủ tới Quốc hội. Tàu tà cũng là Tàu gian với mạng lưới gián điệp cùng nội gián được cài đặt tự trung ương tới địa phương, từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an, từ cán bộ cấp thành phố tới cán bộ cấp tỉnh, sẵn sàng mại quốc cầu vinh, sẵn sàng mang voi dày mả tổ, sẵn sàng cõng rắn cắn gà nhà, bọn này được công nhận bởi nhiều chủ thể lãnh đạo, trong đó có tướng Trương Giang Long, xác nhận là chúng không ít, chúng ngày càng nhiều, trăm này sinh ra trăm kia. Chúng chính là âm binh trong âm giới, đang lẩn trốn và luồn lách trong mọi cơ chế chỉ chờ cai chủ của chúng là Cục tình báo Hoa Nam ra lệnh là chúng sẽ rời kiếp âm hồn để hiện nguyên hình buôn dân bán nước, để thò nguyên dạng phản dân hại nước của chúng.
Chính Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc đã điều hành để điều khiển nhiều kịch bản do Cục tình báo Hoa Nam soạn ra. Những kịch bản này là chuyển ý đồ hãm hại Việt Nam thành thực tiễn xâm lược, cụ thể là những kịch bản về đảo chính ! Trực tiếp can thiệp bằng xâm lăng qua quân đội, qua công an, qua nội gián, qua gián điệp. Nếu các chủ thể lãnh đạo thật sự yêu nước, thương dân đang có mặt trong Bộ Quốc phòng và Bộ Công an phải thật tâm cật lực soạn ra nhiều kịch bản chống đảo chính, chống xâm chiếm, chống xâm lấn, chống xâm lược, chống xâm lăng… Những chủ thể lãnh đạo thật sự yêu nước thương dân phải nhập nội càng sớm càng hay vào tương lai luận tri thức để xây dựng một tương lai học trí thức với các sách lược tỉnh táo, các chiến lược sáng suốt, các quyết sách thông minh, các quốc sách sáng tạo để vượt thoát rồi vượt thắng hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu gian, Tàu nạn) mà tổ tiên Việt đã để lại rất nhiều kinh nghiệm để thắng Tàu thâm, Tàu hiểm, Tàu độc, Tàu ác.
Chúng ta gọi tên Trung Hoa vì biết đây là đất nước có văn minh, và ta sẵn sàng xem Khổng Tử, Lão tử, Trang Tử, Mạnh Tử là những người thầy đáng kính mà chúng ta học được nhiều bài học cho nhân bản. Chúng ta gọi tên Trung Quốc vì ta ta quý dân tộc này, thương họ cũng có những nỗi khổ niềm đau như ta, cá nằm trên thớt, trong bạo quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc. Chúng ta gọi tên Trung Cộng là để vạch mặt chỉ tên một ý thức hệ đã mạt vận hóa nhân cách Trung Hoa, điếm lận hóa nhân dạng Trung Quốc. Và chúng ta gọi tên Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu gian, Tàu nạn, Tàu thâm, Tàu hiểm, Tàu độc, Tàu ác) là vì chúng ta đã và đang là nạn nhân của các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc, chúng bất nhân thất đức trong quỷ quyền mạc kiếp của chúng. Đây là tri thức luận ngôn ngữ giúp chúng ta nhập nội vào tương lai luận tri thức một cách tỉnh táo nhất để hình thành một tương lai học trí thức một cách sáng suốt nhất.
Tương lai luận của trí tuệ, tương lai học của tuệ giác.
Những nguyên tắc hành tác của chính quyền vì dân chủ, của chủ thể vì nhân quyền
Bạo quyền độc đảng toàn trị đã sai đường lạc lối trong ý thức hệ, độc tài nhưng bất tài không đưa dân tộc đến được với văn minh, độc trị nhưng vô minh trong quản trị nên không dẫn đất nước tới phát triển. Bạo quyền độc đảng toàn trị đã giành độc quyền nên đã thành tà quyền trong tham nhũng, ma quyền vì tham tiền, đang đẩy quê hương, giống nòi đến bên vực diệt vong trước hiểm nạn hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu gian, Tàu nạn, Tàu thâm, Tàu hiểm, Tàu độc, Tàu ác). Tương lai luận của trí tuệ, tương lai học của tuệ giác có gốc của tri thức luận, có rễ của khoa học luận, có cội của phương pháp luận, có nguồn của nhân quyền luận đề nghị những nguyên tắc hành tác của chính quyền vì dân chủ, của chủ thể vì nhân quyền sau đây :
- Chính quyền vị lai, chủ thể tích cực, trong tương lai khi bạo quyền độc đảng toàn trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền vì tham tiền trị cuốn gói vĩnh viễn ra đi thì chính quyền vị lai là một chính quyền biết lập ra một chính thể biết đầu tư thâm đậm và lâu dài vào tương lai các thế hệ mai hậu. Chỉ có cách này Việt tộc mới "hoàn hồn lại" sau bao năm là nạn nhân của cùng với vô minh trị, vô hậu trị, ngu dân trị của bạo quyền độc đảng toàn trị, tại đây mỗi công dân sẽ là một chủ thể ngày ngày đóng góp tích cực vào giáo dục, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội… Chính quyền vị lai nhìn xa trông rộng bằng đường dài bằng quốc sách trường kỳ, chủ thể tích cực luôn năng động hóa sự tham gia của mình vào các quốc sách cho tương lai, vì nhiều thế hệ mai sau.
- Quan hệ quốc tế kiên trì trong minh bạch, thị trường quốc tế kiên nhẫn trong liêm chính, nơi mà quan hệ quốc tế không hề bị đóng khung trong ngoại giao và quốc phòng với quan niệm quốc gia nhỏ bé. Mà quan hệ quốc tế toàn diện kiên trì trong minh bạch, lấy quanh minh chính đại của nhân cách làm nên đường đường chính chính, thẳng lưng mà bước để ngẩng đầu mà đối thoại với mọi đối tác. Cởi, rũ, bỏ, buông các điếm lận hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam : "hèn với giặc, ác với dân", mà hèn với giặc là Tàu tặc thì bị Tàu khinh, mà ác với dân thì thế giới bên ngoài càng khinh. Mà họ cành khinh, thì họ càng lánh, càng tránh, càng xa, vì các quốc gia và các châu lục có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, họ chỉ muốn giao thiệp về ngoại giao và chính trị, họ chỉ muốn giao tế về kinh tế và thương mại với người chớ không phải với tà. Vì tà quyền là tà ma trong công pháp quốc tế, một chính quyền vị dân chủ vì nhân quyền trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa vì nhân phẩm phải là một chính quyền kiên trì trong minh bạch, kiên nhẫn trong liêm chính trên chính trường quốc tế.
- Tương lai luận của trí tuệ có dự báo, tương lai học của tuệ giác có dự phóng, với một chính quyền quý văn minh của dân chủ, trọng văn hiến của nhân quyền không mơ hồ là tương lai của thế giới, vị lai của nhân loại sẽ thái hòa trong êm ấm. Mà ngược lại phải có dự báo tỉnh táo để có dự phóng sáng suốt, thứ nhất là bạo động còn thì chiến tranh còn, bọn cực đoan còn thì hành động quá khích còn, từ chính trị tới tôn giáo. Ngoài các dự báo về hành vi cực đoan, hành động quá khích, hành tác cướp của giết người để chụp giựt từ quyền lực tới quyền lợi, thì một chính quyền nhìn xa bằng tương lai luận của trí tuệ, trông rộng tương lai học của tuệ giác còn phải tư duy sâu để lý luận đúng, lập luận trúng mà giải luận rõ về các hiểm họa mới. Sau đại dịch cúm Tàu năm 2020 đã tạo ra bao xáo trộn cho nhân sinh với tử xuất cao, lây lan rộng cùng kinh tế toàn cầu khốn đốn, sản xuất của mỗi quốc gia thụt lùi mà không biết bao giờ lên được trở lại như cũ. Thì bản thân một tương lai luận trí tuệ, tương lai học tuệ giác phải chuẩn bị là sẽ có các đại họa mới sẽ tới : biến đổi khí hậu tạo đại họa cho nhân loại, ô nhiễm môi trường sinh hiểm nạn của nhân sinh…
- Vô hiệu hóa đạo giáo cuồng tín, bất lực hóa các ý thức hệ bạo động, trong đó các đạo giáo cuồng tín cổ súy bạo động, để cổ động bạo lực không có chỗ đứng, ghế ngồi trong một thể chế tôn vinh dân chủ, thăng hoa nhân quyền trong hòa bình của nhân ái. Và phải đi xa hơn nữa trong giáo dục, nếu có tôn giáo này khuyên người nên cúi đầu-khoanh tay chấp nhận sinh, binh, lão, tử, thì chính các công dân là những chủ thể có độc lập suy nghĩ, có tư duy văn minh, thì cứ tiếp tục nhận sinh, bịnh, lão, tử là chân lý, nhưng không còn cúi đầu-khoanh tay nữa. Mà phải khuyến khích mọi người là nếu chỉ có một cuộc đời, một kiếp sống, trước khi chết, thì phải sống về hướng hay, đẹp, tốt, lành của nhân phẩm, thì phải sống bên phía cao, sâu, xa, rộng của nhân quyền. Không cúi đầu- khoanh tay để không khom lưng-quỳ gối trước các ý đồ thâm độc của các ý thức hệ cổ súy cho bạo lực chuyên chính trong ngu dân, mà hậu quả là vô học trong vô hậu. Chúng hứa hẹn thiên đường cộng sản, thiên đường xã hội chủ nghĩa, nên chính quyền tới tự đa nguyên, yêu dân chủ, trọng nhân quyền sẽ không hứa hẹn thiên đường trong tương lai, mà ngược lại tạo điều kiện cụ thể cho mọi công dân trong vị thế chủ thể được sống trọn vẹn với các dự phóng liêm chính của mình. Xa hơn nữa trong cùng một cuộc sống, chỉ có một kiếp người, chuyện thiên đường là hư ảo cũng như chuyện đầu thai lên thiên đường cũng ảo ảo luôn, thì hãy trao tới chủ thể mọi diều kiện liêm sỉ nhất để họ sống thật với dự án, dự phóng của họ.
- Thích ứng nhưng không xuôi tay cam chịu, nếu hôm nay có một ổ đại dịch tại đây, ngay mai có một cuộc động đất lớn chỗ kia, ngày nọ có một vùng ô nhiễm rộng chỗ khác, thì những thiên tai cùng đại họa này không bắt buộc chúng ta phải xuôi tay cam chịu, mà quên sống. Không quên đấu tranh vì nhân sinh, không ngừng sáng tạo vì nhân trí để luôn thích ứng mà không cắn răng cam phận trước các rủi ro, từ nhiều nơi ập tới. Tự chuyển hóa não bộ, tự chuyển biến não trạng, cùng với tất cả thế hệ, để không ai bỏ rơi ai trong đại họa, cùng lúc chúng tay góp sức trong quan hệ sâu, trên sinh hoạt rộng với toàn cầu để cùng nhau bảo vệ trái đất, là căn nhà độc nhất của nhân loại hiện nay có thể sinh sống và sinh tồn được.
- Hợp tác rộng thay cạnh tranh hẹp, không những qua chính trị, ngoại giao, văn hóa, nghệ thuật mà luôn cả trong kinh tế, thương mại và nhất là trong ba lĩnh vực làm nên linh hồn của một thể chế mới vì nhân lộ văn minh, đó là : dân chủ, đa nguyên, nhân quyền. Không mơ hồ trong lý luận về tương lai, nơi mà thị trường của tự do cạnh tranh, hệ của toàn cầu, dân chủ, đa nguyên, nhân quyền hiện vẫn là thức thể của địa phương, của quốc gia, của châu lục. Nhưng chính khi các chính thể liêm chính biết hợp tác cao, sâu, xã, rộng với nhau, thì chính "sân chơi, trò chơi, luật chơi" quang minh chính đại của dân chủ sẽ công pháp hóa được thị trường bằng nhân lộ của công bằng, trong đó không ai bóc lột ai, không ai là nạn nhân của ai cả.
- Tha nhân cùng ta có chỗ trung tâm trên con đường mưu cầu hạnh phúc, nơi mà cơm no áo mặc được chung sống trong trong ấm ngoài êm, để nhân loại phải nhận ra là mọi hạnh phúc tới từ ích kỷ, chỉ thấy tư lợi nhỏ bé trong hèn mạt, mà quên công ích chính là nền tảng của hạnh phúc có ta mà cũng có tha nhân, và vị kỷ cá nhân không hề là hạnh phúc thực sự trong thái hòa. Từ đây, nhân loại được quyền và có quyền mong cầu về một chính thể toàn diện và phổ quát nơi mà nhân quyền là trung tâm, là nơi ăn chốn ở của dân chủ, có đa nguyên luôn vận động vì hợp tác, không vì tranh giành quyền lực hay quyền lợi.
- Dấn thân vì nhân phẩm, nhập cuộc vì nhân quyền, chọn một cuộc đời có nội dung của nhân bản, có giá trị của nhân văn, có tư tưởng của nhân đạo, nơi mà đồng bào và đồng loại được chung chia trong cùng hưởng. Có nhân tri của sự hiểu biết về nhân tính, có nhân trí của sự thông minh về nhân tâm làm nên nhân từ trong một nhân sinh không còn những người phải đầu tắt mặt tối trong một nắng hai sương, không ai phải cày sâu cuốc bẩm trong thức khuya dậy sớm, mà cả đời, qua nhiều thế hệ không đủ ăn, không đủ mặc.
- Cá nhân đặc thù, cá thể đặc trưng, chủ thể đặc sắc, nơi mà một chính quyền thực sự quý đa nguyên, yêu dân chủ, trọng nhân quyền là một chính quyền tôn trọng đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu… Chính quyền này biết tạo ra một chính thể trong đó các chế tự giáo dục tới xã hội biết công nhận và biết giáo dưỡng mỗi cá nhân là một cá nhân độc nhất trong đặc tính duy nhất của nó. Nơi mà, cá nhân là một đặc thù, cá thể là một đặc trưng, chủ thể là một đặc sắc, không ai giống ai nên không ai phải vào khung, vào khuôn để chỉ thành một thành phần, một giai cấp, một tầng lớp. Mà ngược lại mỗi cá nhân có nhân sinh quan của mình dựa trên lý tưởng của mình ; mỗi cá nhân có thế giới quan của mình dựa trên dự phóng của mình ; mỗi chủ thể có nhân sinh quan, có thế giới quan, có cả vũ trụ quan, dựa trên nhân quyền làm nên nhân phẩm của mình.
- Tạo kháng lực chống bạo quyền độc đảng, tạo kháng trí chống tà quyền toàn trị, đây là kinh nghiệm quá đau thương của Việt tộc từ thế kỷ XX qua tới thế kỷ XXI với Đảng cộng sản Việt Nam, từ chia cắt đất nước tới nội chiến Nam Bắc (1954-1975), từ trại cải tạo tới cao trào thuyền nhân vượt biển. Vẫn chưa dứt, từ nợ công tới dân oan lên hằng triệu, một Đảng cộng sản Việt Nam cướp của giết người, hằng trăm ngàn nạn nhân trong Cải cách ruộng đất (1954-1960) tới các vụ trộm, cắp, cướp, giựt trên quy mô cả nước từ Thủ Thiêm tới Đồng Tâm. Một Đảng cộng sản Việt Nam cướp của giết người, rồi bày biện trong man trá các phiên tòa như tháng 9 năm 2020, biến các nạn nhân bị chúng cướp của giết người, thành những tội phạm giết người, mà chứng cớ của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm trò cười cho các quan sát viên quốc tế. "Một đi không trở lại" của Đảng cộng sản Việt Nam, là điều kiện tiếp đón nhân quyền, tiếp nhận dân chủ trong công bằng và tự do, khi Việt tộc biết tạo được hùng lực cho một xã hội dân sự, với các phong trào văn minh song hành cùng một tuệ giác đa nguyên, để Việt tộc vĩnh viễn tiễn biệt một bạo quyền độc đảng toàn trị chỉ dùng bạo lực để hiếp đáp dân lành, để truy cùng diệt tận tự nhân tri tới nhân trí, tự nhân bản tới nhân văn, tự nhân quyền tới nhân phẩm.
- Chuyển hóa não bộ vì tiến hóa, chuyển biển não trạng vì văn minh, nơi mà chân trời trước mặt là nhập nội vào văn minh dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền) để tới chân trời xa hơn nữa là tiến bộ của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái). Vẫn không ngừng ở thể chế dân chủ, chính thể cộng hòa, mà đi hơn nữa với tương lai luận của cuộc sống văn minh có đồ án ngắn hạn, có phương án trung hạn, có dự phóng dài hạn là bảo vệ trái đất mà cụ thể là bảo vệ môi trường và bảo trì môi sinh. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật cùng các tiềm năng mới của não bộ học, của khoa học thần kinh, của tri thức học, tạo hưng lực cho tương lai học biết, hiểu, thấy, thấu những kiến thức mới để phục vụ nhân sinh từ giáo dục tới y tế, từ kinh tế tới văn hóa. Sống trong chuyển biến linh hoạt của não bộ ngày càng thông minh, sống trong chủ động chuyển hóa linh động não trạng vì nhân quyền biết tôn vinh nhân phẩm.
Giữ quyết tâm để vĩnh viễn đưa vào mộ huyệt : bạo quyền toàn trị độc đảng, tà quyền tham nhũng độc trị, ma quyền tham tiền trị độc tài, quỷ quyền ngu dân trị độc quyền, cuồng quyền vô nhân trị cùng cực quyền vô học trị độc tôn. Tất cả bọn âm binh này phải vào huyệt sâu để nhân loại được chôn cất trong "biền biệt miệt âm phần", với ý lực của chuyển hóa não bộ vì nhân quyền, với nguyện lực chuyển biến não trạng vì nhân phẩm. Cùng lúc thấy sáng suốt, thấu sáng suốt hiện cảnh của xã hội Việt hiện nay là thảm nhân, nơi còn người không còn nhận ra nhân cách lẫn nhân phẩm của mình nữa.
Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm nên thảm họa của Việt tộc là :
Áp đặt bằng bạo quyền lên một Việt tộc đã cúi đầu.
Đè nén bằng bạo lực lên một Việt tộc đã khom lưng.
Còng siết bằng bạo hành lên một Việt tộc đã khoanh tay.
Truy hãm bằng bạo động lên một Việt tộc đã quỳ gối.
Giúp đồng bào chuyển biến não bộ, để trợ lực Việt tộc chuyển hóa não trạng để nhận lại nhân cách dũng tộc như tổ tiên Việt thủa nào quyết giữ nước cho bằng được : đứng thẳng lên... duỗi mạnh tay... gồng cứng lưng... ngẩng cao đầu... mà đi về hướng nhân phẩm !
Lê Hữu Khóa
(08/12/2020)
Nhân
Nhân lộ sạch * Nhân đạo thật * Nhân tri rộng
Nhân trí mở * Nhân bản lớn * Nhân vị cao
Nhân lộ sạch
Khi chế độ độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam bị bứng đi, thì chính quyền trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, cùng lúc phải trong môi sinh, cụ thể là có một quốc sách với quyết tâm trọn vẹn lấy lại sự thật và biểu tượng : Việt Nam, quê hương gấm vóc. Một sự thật và một biểu tượng đã bị mất từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền và đã ô uế hóa môi trường, đồi bại hóa môi sinh, biến đất Việt thành bãi rác của Tàu nạn, với các hiểm nạn của khai thác bốc xít tại Tây Nguyên, nhà máy thép Formosa tại Hà Tĩnh, tới mạng lưới nhiệt điện than trùm phủ lên cả nước, gây hiểm họa môi trường từ không khí tới đất, nước, biển.
Lập lại tên gọi Việt Nam, quê hương gấm vóc với các kinh nghiệm thành công về môi trường của nhiều quốc gia, trong đó không những có kinh nghiệm của các quốc gia từ Tây Âu tới Bắc Mỹ, mà nhất là các quốc gia láng giềng ngày tại Á châu trọng đa nguyên, yêu dân chủ, quý nhân quyền, biết bảo vệ môi trường, biết bảo trọng môi sinh. Và ta không quên sự thành công của Costa-Rica, quý tài nguyên, trọng thiên nhiên, yêu môi trường, đã biến môi sinh thành sức mạnh của chính mình không những về du lịch mà cả về quan niệm đạo đức trước mỗi sinh vật, một quan niệm nâng nhân trí và nhân tri.
Nhìn ra nhân lộ tương lai cho dân tộc vẫn chưa đủ, mọi công dân Việt còn phải hành động ngay trên nhân lộ này, để thay đời đổi kiếp của mình theo hướng tiến bộ nhân tri, pháp triển nhân trí để tiếp nhận văn minh cho nhân bản và nhân vị cho mình và cho dân tộc của mình. Cụ thể là đặt hoài bão của mình vào các phương án trực tiếp phục vụ tiến bộ nhân tri, pháp triển nhân trí để trực tiếp thăng hoa nhân quyền ngay trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, với cơ chế của thật sự cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) với định chế của thật sự dân chủ (đa nguyên, đa đảng, đa trí).
Khi chữ sạch là gốc, rễ, cội, nền cho mọi quốc sách để nhận trở lại quốc hiệu Việt Nam, quê hương gấm vóc, thì phải sạch từ trên xuống dưới, định chế sạch với lãnh đạo sạch, nơi mà tà quyền trong phản xạ quan hệ-hậu duệ-tiền tệ không có chỗ đứng trong một chế độ mới trọng đa nguyên vì trọng đa tài, yêu dân chủ để bảo vệ cộng hòa, quý nhân quyền để giữ nhân phẩm. Trong chế độ mới này, "luật chơi dân chủ-sân chơi nhân quyền-trò chơi đa nguyên" không có ghế ngồi cho sinh hoạt bạo quyền, thanh trừng giữa các đồng chí bằng các thủ đoạn man rợ, hoàn toàn với tiến bộ nhân trí và văn minh nhân tri trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau để cùng hợp tác mà tạo sức bật cho dân tộc, tạo dàn phóng cho các thế hệ mai hậu.
Sạch trong du lịch để sạch thực phẩm, sạch dịch vụ, sạch nhân cách khi phục vụ khách du lịch quốc nội và quốc tế. Sạch trong não bộ biết "ăn ở có hậu" với đồng loại và nhân loại để có não trạng sống mà "biết người biết ta", không buôn gian bán lận. Sạch trong ăn hiền ở lành với đồng bào cũng như với đồng loại, với thân bằng quyến thuộc cũng như với tha nhân người xa kẻ lạ.
Học thật kỹ kinh nghiệm lao động với lương tâm, sản xuất với lương tri, quan hệ trong thương mại cũng như trong đối ngoại, trong kinh tế cũng như trong xuất nhập khẩu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, buôn thật, bán thật. Biết tránh xa buôn giả, bán giả của Tàu nạn, biết xua đi mọi hiểm họa môi trường của Tàu họa, biết gạt đi mọi hậu nạn của công nghiệp bẩn, như nhiệt điện than của Tàu hoạn, và đuổi cho bằng được Tàu tặc ngày đêm cướp đất, biển, đảo của Việt tộc. Quê hương phải sạch bóngTàu tà, quét sách tà quyền hèn với giặc, dọn sạch bạo quyền ác với dân.
Cụ thể là trạng từ sạch không hề là một ngữ vụng suông, mà là :
- Một thượng tầng kiến trúc sạch từ định chế tới cơ chế, có "sân chơi", "trò chơi", "luật chơi" rành mạch của tam quyền phân lập, có lập pháp biết giữ sạch, có hành pháp biết làm sạch, có tư pháp biết xử sạch.
- Một hạ tầng kiến trúc sạch, từ kinh tế tới lao động, có sinh hoạt xã hội biết tự giữ sạch, có quan hệ xã hội biết tự dọn sạch, có đời sống xã hội biết tự lau sạch. Từ bạo quyền công an trị tới tà quyền tham nhũng trị bị quét sạch, từ ma quyền tham tiền trị tới quỷ quyền ngu dân trị bị xua sạch.
Sạch là thuật ngữ làm nên tổng tri để tạo điều kiện cho xuất hiện :
- Một nhân sinh quan sạch có chỗ dựa của nhân phẩm nơi con người đi nhận ra nhân bản sạch làm nên nhân văn đẹp, nơi nhân lý sạch làm nên nhân tính tốt, nơi nhân tâm sạch làm nên nhân từ cao.
-Một thế giới quan sạch có chỗ dựa của nhân quyền nơi con người đi nhận ra nhân trí sạch làm nên nhân tri đẹp, nơi nhân nghĩa sạch làm nên nhân đạo lành, nơi nhân lộ sạch làm nên nhân vị cao.
-Một vũ trụ quan sạch có chỗ dựa của nhân sinh quan biết yêu thiên nhiên, quý môi trường, trọng môi sinh, nơi con người đi nhận ra một thế giới quan sạch tha nhân có đường đi nẻo về trên hành tinh này, nơi đồng bào và đồng loại chỗ đứng, ghế ngồi cùng quyền tự do đi lại trong sự tôn trọng lẫn nhau bằng cách giữ sạch những nơi mình sống và những nơi người khác đang sống.
Nhân đạo thật
Khi nhìn lại thế kỷ XX vừa qua, các sử gia quốc tế đã đưa ra hai nhận định qua hai giai đoạn lịch sử khác nhau, trái nghịch nhau :
- Giai đoạn đầu thế kỷ, trước 1910, với vô số phát minh khoa học và kỹ thuật, trên các châu lục tiên tiến, được thừa hưởng hơn nửa thế kỷ không chiến tranh, không thế chiến. Nơi mà năng suất kinh tế, hiệu suất canh nông, cùng các bước dài của khoa học kỹ thuật, tất cả trong bối cảnh hợp tác giữa các quốc gia, với tinh thần hội nhập để cùng tham gia vào tiến bộ chung của nhân loại. Thủa ấy, nhân loại không biết các tên sát nhân kiểu Hitler, Stalin, Mao, Musolini là ai cả, một nhân loại sống trong thái hòa
- Giai đoạn sau đầu thế kỷ, sau 1910, với chủ nghĩa quốc gia quá khích, với chủ thuyết bản sắc cực đoan, nhân loại đã phải nhận hai cuộc thế chiến, với số tử vong quá mức tưởng tượng, cùng sự tàn sát trong chương trình diệt chủng của Hitler truy diệt người Do Thái. Cùng lúc với chủ nghĩa quốc gia quá khích, với chủ thuyết bản sắc cực đoan, là sự xuất hiện của ý thức hệ cuồng bạo cộng sản chủ nghĩa, với thanh trừng, trại cải tạo, trại học tập… Mà chỉ hai ý thức hệ này thôi, một là Đức quốc xã, hai là cộng sản chủ nghĩa, số nạn nhân tử vong đã vượt ngoài sức tưởng tượng.
Nhưng nhân đạo không chỉ là con đường đúng dẫn tới một chân trời đẹp cho tương lai, mà ngay bây giờ nhân đạo là sự xuất hiện của nhân lý hay có nội công làm nên nhân tính lành trong một nhân tri tốt. Cụ thể trong nhân đạo, nhân loại thấy được sự đoàn kết trong đồng lòng giữa đồng loại, và cụ thể hơn nữa trong hiện cảnh của Việt Nam, nhân đạo là nơi mà đồng bào thấy được sự tương trợ như tương thân của một dân tộc. Tại đây với trí khôn của nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự tiến hóa không ngừng nghĩ của các khám phá khoa học, thì khi bạo quyền độc đảng ngu dân trị ra đi, thì các lãnh đạo của Việt tộc tới từ lý trí của đa nguyên, trí tuệ của dân chủ và tuệ giác của nhân quyền phải nhận ra ít nhất là năm kim chỉ nam sau đây để không bị lầm đường lạc lối trước nhân lộ văn minh của nhân loại :
- Đa, phải nằm lòng và thuộc lòng chữ đa như định nghĩa của thông minh, hơn nữa của thông minh của mọi thông minh, vì kẻ thực sự thông minh là kẻ hiểu chữ đa, để được đi trong đa chiều, để hiểu trong đa dạng. Đa chuyển trong đa động của một chủ thể luôn có tự do học hỏi trong đa kiến thức, để có đa tri thức, để thấy đa phương trong đa hướng, khi phải chọn chỉ một chân trời, trong đa tương lai. Một kẻ tự kiêu, tự đại trong độc đảng để độc tài, độc tôn để độc trị, độc quyền trong độc ác để độc hại từ đất nước tới dân tộc, kẻ đó không khôn ngoan, không thông minh, mà ngược lại là vô minh trong vô tri, vì vô giác trong vô cảm trước chữ đa. Ngay trong chữ đa, ta thấy đa tài, đa trí, đa hiệu, đa năng, đa lực làm nên đa đảng, thì ta phải thấy luôn đa phương pháp, đa tiếp cận, đa kỹ thuật làm nên đa ứng dụng trước các thử thách của nhân sinh, đa hội nhập trước các thăng trầm của nhân loại.
- Nội, có nội công làm nên nội lực, một sức mạnh bên trong tạo nên bản lĩnh có tự tin nên có tự chủ, làm nên tầm vóc biết đấu tranh vì tự do để bảo vệ cho bằng được công bằng và bác ái. Nội không phải của một cá thể ích kỷ để vụ lợi, cá nhân vị kỷ để trục lợi, mà là nội chất của một chủ thể có bổn phận với đồng bào, nhận trách nhiệm với đất nước. Mà không quên nhân loại, nơi mà tha nhân được đón, tiếp, nhận, giúp với tình động loại, trong sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau, đây là sự thông minh đi trên lưng cái cá nhân chủ nghĩa hạn hẹp, đi trên vai cái ích kỷ chủ nghĩa thấp hèn, đi trên đầu cái vụ lợi thui chột chỉ biết khai thác, bóc lột tha nhân.
-Người, là người ta trong cái người của mẫu số chung là nhân, nhân của nhân lý trong nhân tính, nhân tình trong nhân tâm, nhân ái trong nhân từ. Biết người biết ta trong nhân tri, nhưng cũng biết đi thêm bước nữa là thương người như thể thương thân của nhân trí, biết ăn đời ở kiếp với nhân đạo, biết trao thân gởi phận với nhân phẩm trong nhân loại có chung để chia, có chia vì biết chung. Hiểu được tha nhân, nên thương được tha nhân, biết suy bụng ta ra bụng người thì cũng phải biết hiểu ngược lại để khôn ra là suy bụng người để hiểu người, thông cảm với người, để yêu thương người hơn. Vì không sống với người thì sống với ai, nên tự chối truy, diệt, hủy, giết người như để bảo vệ nhân phẩm của chính mình.
- Chung, không phải chỉ để cho vô điều kiện, tặng trong mù quáng, trao trong vô điều kiện, biếu trong phản xạ một chiều, mà chung trong chia, để chia tiếp tục được sống trong chung, với chung. Để mọi bên đều sống, được hưởng, lao động trong hợp tác, sản xuất trong tình thần tập thể có đồng đội cùng đồng lòng trong tương lai. Các chung tạo nên đội, nên đoàn, nên tổng lực của một nhân loại biết hợp sức để hợp tác, không cạnh tranh trong thô thiển, không tranh giành trọng hoạn lộ, không so sánh lực lượng để đe nẹt nhau mà biết cùng nhau nhìn về một chân trời, để cùng nhận mọi ánh sáng hay, đẹp, tốt, lành cho nhân quyền, mọi hào quang cao, sâu, xa, rộng cho nhân phẩm.
- Chia, mà không ngừng ở chia ăn chia uống, hoặc chia lời chia lợi, mà chia theo chiều cao của tri thức mà cụ thể là chia kiến thức để cùng nhau có chung một ý thức, có cùng nhau một sức mạnh của nhận thức trước các thăng trầm của nhân sinh. Chia tri thức rồi chia kiến thức, chia ý thức rồi chia nhận thức để cùng nhau chia giáo dục, chia văn minh, trẻ học già, nhưng già cũng phải học trẻ, nhất là về các kiến thức mới về tin tức, về truyền thông, về vi tính, về các khoa học và kỹ thuật mới ra đời. Đây là quá trình cùng giáo dục nhau, với tên gọi là giáo dục song đôi để hai chiều xuyên thế hệ, để không ai bỏ rời ai, không có thế hệ này loại ra thế hệ kia.
- Đạo của đạo lý trong nhân bản hay, nhân vị đẹp, nhân tâm tốt, nhân đạo lành, chớ không phải đạo của đạo giáo, mà đạo ở đây là đạo đức, của nhân đức làm nên nhân từ để chế tác ra nhân tâm. Khi nhân sinh biết ăn hiền ở lành, khi nhân gian biết ăn ở có hậu, thì đạo lý sẽ là chủ trì để chủ luận trong chủ đạo mà làm nên luân lý, nơi mà cá nhân biết mình còn là công dân có bổn phận với đồng bào, đồng loại, có trách nhiệm với đất nước, với trái đất từ môi trường tới môi sinh. Chưa hết, chính công dân sẽ trở thành chủ thể làm việc với sáng chế, hợp tác với sáng kiến và hành động với sáng tạo để thăng hoa nhân sinh, nhân loại.
Bi kịch của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã làm nên thảm kịch cho Việt tộc từ hơn nửa thế kỷ qua là họ vô minh trong vô tri về 5 chữ : đa, người, chung, chia, đạo, và họ đã vô học trong vô hậu khi họ biến con dân nước Việt thành những loại người vô giác trong vô cảm trước nỗi khổ niềm đau của đồng bào, đồng loại.
Nhân tri rộng
Khi chế độ độc đảng toàn trị không biết tự thay đổi để cứu nguy cho Việt tộc, thì chính nó sẽ bị lật đổ, hoặc chính nó phải rút lui khi nguy biến mất giang sơn đã tới mà bản thân nó không kham, gánh, gồng, cõng nổi. Với một chế độ mới có cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) song hành dân chủ (đa nguyên, đa đảng, đa trí) trên cơ sở văn minh vì nhân quyền, thì chế độ mới này phải biết đưa ngay nhân tri rộng của nhân loại không những vào hệ thống giáo dục quốc gia, mà còn phải có giáo khoa thường nhật về nhân tri rộng của nhân loại này.
Chỉ vì không có một nhân tri thuần Việt, nếu hiểu nhân tri là lực hiểu, sức biết của một dân tộc, thì phải nhận ra các luồng tư tưởng, văn hóa… đã ảnh hưởng tới dân tộc này. Chỉ vì chế độ độc đảng toàn trị đã bưng bít bằng che giấu cũng như xuyên tạc trong bao năm về nhân tri rộng của nhân loại này. Chỉ vì khi rời khỏi chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, thì Việt tộc làm một dân tộc bị chậm tiến bởi bạo quyền độc đảng công an trị từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền, nên chuyện học các quốc gia, các châu lục có tiến bộ khoa học, có phát triển kinh tế lại có văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền là chuyện dễ hiểu.
Nhưng phải thực hiện chuyện học lại-học thêm-học nữa-học nhiều trong khiêm tốn, trong nhún nhường, trong tự trọng với trình độ thiếu-khuyết-vắng-trống của mình để thiên hạ cùng tha nhân trợ tri cho ta không mất nhiều thời gian trong chuyện học này. Vẫn chưa đủ phải có quyết tâm bằng quốc sách loại, cởi, bỏ, trừ cho bằng được quá khứ đang là hiện tại của xã hội Việt với một hệ thống giáo dục tạo ra học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Trong chế độ độc đảng toàn trị hiện nay, ta thấy có bằng cấp tiến sĩ mà không học trung học, có cao học mà không hề học mẫu giáo, có học hàm lẫn học vị mà không có học lực và học thuật.
Nhận bằng cấp tiến sĩ mà không biết sinh hoạt chuyên ngành, quan hệ chuyên khoa, đời sống chuyên môn, lách hội luận, trốn hội thảo, luồn hội nghị. Có bằng cấp tiến sĩ mà chưa hề nghiên cứu trong một trung tâm hoặc một viện nghiên cứu nào, có bằng cấp tiến sĩ mà chưa hề có thông báo khoa học trên các tập san chuyên môn, tạp chí chuyên ngành. Có bằng cấp tiến sĩ mà không có công trình nghiên cứu, và hoàn toàn vắng mặt trong các công bố kết quả nghiên cứu qua ấn bản, xuất bản…
Khi đi vào quy trình học lại-học thêm-học nữa-học nhiều về nhân tri rộng của nhân loại từ các quốc gia và châu lục có cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) song lứa cùng dân chủ (đa nguyên, đa đảng, đa trí) trên cơ sở văn minh vì nhân quyền, thì chính ta sẽ hiểu sâu giáo lý "biết người để biết ta" của tổ tiên Việt mà nhận ra một cách sâu sắc một minh lý khác của tổ tiên Việt là "qua sông thì phải lụy đò". Từ đây nhận ra một nhân tri mới của nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi mà có rất nhiều chương trình cùng rất nhiều quá trình mà ta phải xuất ngoại, ra khỏi quê nhà để đến học nơi quê người. Vì có rất nhiều phương án quốc tế, cùng với các phương pháp toàn cầu mà ta phải biết, không biết thì lỡ tầu, và bi thảm hơn là không biết thì sẽ thua trận.
Cũng có rất nhiều tính toán trong toàn cầu hóa hiện nay, giữa các cường quốc, giữa các châu lục đã có văn minh dân chủ, gữa các quốc gia đã có văn hiến nhân quyền, họ đang tính toán gì ? Họ đang toan tính gì, thì đây chính là nguồn, cơn, gốc, cội của nội chất nhân tri rộng của nhân loại. Và tại đây khi nhận các chức năng cùng nhiệm vụ tư vấn quốc tế ta mới nhận ra là nơi "quần hùng kiếm hội quốc tế" là nơi quyết định nhiều chuyện về mệnh số của nhiều quốc gia mà trong đó chính các lãnh tụ lẫn lãnh đạo của các quốc gia này cũng không biết. Cụ thể là có nhiều quyết sách quốc tế từ kinh tế tới thương mại, từ chính trị tới quân sự, từ giáo dục tới văn hóa mà các quần thể chính sách quốc tế trong và ngoài Liên Hiệp Quốc luôn ở thế thượng phong để áp đặt lên mệnh số cô lẻ của các quốc gia chỉ biết đóng cửa để thực thi bạo quyền độc đảng toàn trị. Các bạo quyền độc đảng toàn trị, trong đó có Việt Nam đang bị nhục hình của độc tài công an trị của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà các lãnh đạo có ít nhất là bốn khuyết tật trong hành tác ngoại giao quốc tế :
- Khôn nhà dại chợ, trong chính trường quốc tế tự hành động tham gia tới hành tác tham dự vào các công trình lớn của nhân tri rộng của nhân loại.
- Gà què ăn quẩn cối xay, giấu cái vô tri của mình bằng cách tránh đối thoại và hợp tác với nhân tri rộng của nhân loại, ăn bám sống nhờ qua tiền của cùng tài nguyên của dân tộc lại bắt buộc dân tộc mang ơn đảng.
- Khôn (nhà) quá hóa dại (người), nên cúi đầu-khoanh tay trước Tàu tặc cướp đất, biển, đảo quê hương Việt trong mọi thương lượng song phương, nên tiếp tục khom lưng-quỳ gối trước Tàu tặc tại Liên Hiệp Quốc, tại các Liên Minh quốc tế hiện nay.
- Vắng mợ chợ vẫn đông, nơi mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không có mặt trong các "sân chơi quốc tế" có văn minh của dân chủ, trong các "trò chơi quốc tế" có tiến bộ của nhân quyền. Với láng giềng Tàu nạn đã đè đầu cỡi cổ các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vì các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã mại quốc cầu vinh với phản xạ cúi đầu-khoanh tay, với phản xạ khom lưng-quỳ gối trước Tàu họa, nhận Tàu tà là bạn vàng, láng giềng tốt, nên hiện nay trên chính trường quốc tế, các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam không có bạn tốt, không có láng giềng thật.
Khi bạo quyền độc đảng toàn trị sụp đổ hay bị lật đổ, thì một chính quyền mới phải biến giáo dục, đào tạo, huấn nghiệp nhân tri rộng của nhân loại thành quốc sách tức khắc và đề ra đoạn đường một thế hệ để có các chuyên gia và cố vấn dặc biệt về không gian nhân tri rộng của nhân loại -vô dạng nhưng vô song về quyền lực. Cùng lúc phải ngừng tức khắc các chính sách xuất khẩu lao động, mà thực chất là chính sách nô lệ không nhân cách, với trai làm lao nô, gái làm nô tỳ.
Ngược lại, phải hành động đúng về nhân vị để được tha nhân có cư xử đúng mà tôn trọng chúng ta. Các quốc gia láng giềng lại cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, họ đào tạo những chủ-thể-làm-chủ từ khoa học tới kinh tế, từ ngoại giao tới thương mại, nên họ không hề bị khinh, coi rẻ như các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã biến Việt tộc thành tôi đòi cho thiên hạ, tự điếm nhục hóa dân tộc mình chỉ vì tham quyền trong vô học, nên vô hậu trong vô tri.
Nhân trí mở
Hiện nay, sự vận hành của nhân loại ra sao, trong thế kỷ XXI ? Trong thế kỷ này chúng ta đang sống từng ngày với ít nhất bốn cuộc cách mạng lớn trong hàng chục cuộc cách mạng hiện nay có ngay trong nhân sinh sau đây :
- Cuộc cách mạng thông tin và truyền thông, nơi mà toàn cầu hóa có ngay trong internet, được sử dụng theo nhu cầu cá nhân hóa, nơi mà tri thức luôn ở dạng mở, mà không bị đóng khung bởi một hệ thống chính quyền hoặc giáo dục nào. Chiêu trò luật an ninh mạng của chế độ công an trị chỉ làm thế giới quý nhân quyền, trọng dân chủ xa lánh.
- Cuộc cách mạng y khoa và nhân khẩu, với những khám phá liên tục từng ngày, từng tuần, từng tháng của y học, vừa tăng khả năng chữa trị các nạn bịnh, vừa tăng tuổi thọ không những của dân chúng các nước có tiến bộ khoa học, có phát triển kinh tế, mà còn làm tăng tuổi thọ ngay trên các quốc gia hiện nay bị xem là chậm phát triển
- Cuộc cách mạng năng suất và hiện suất, từ canh nông tới công nghiệp, nơi mà sự đóng góp trực tiếp của khoa học kỹ thuật đã liên tục làm tăng năng suất và hiệu suất trong quá trình sản xuất, cùng lúc các khâu vận chuyển cùng phân phối cũng không ngừng tăng hiệu năng và tác động tích cực vào thương mại và tiêu thụ.
- Cuộc cách mạng thông minh nhân tạo, với sự tham dự trực tiếp của robot vào cuộc sống thường nhật, từ tổ chức hành chính tới sinh hoạt kinh tế, từ chuyển đổi giáo dục tới quản lý các kỹ năng y khoa… nơi mà máy móc tự động không những phụ lực sinh hoạt nhân sinh mà còn đóng luôn vai trò thăng tiến nhân trí.
Bốn cuộc cách mạng lớn này song hành cùng nhiều cuộc cách mạng khác, yêu cầu các chuyên gia quốc tế suy tính lại các con tính định lượng đang có để nhân ra các tính toán định lượng cùng định chất sẽ tới trong tương lai :
- Dân số hơn 7 tỷ người trên trái đất này sẽ là 9 trong 20 năm nữa với sự phân phối lại về nhân khẩu học trong từng quốc gia, trên từng châu lục.
-Dân số của Ấn Độ sẽ vượt dân số của Trung Quốc trong 20 năm nữa, gia tăng nhân số dẫn tới các chính sách kiểm soát sinh đẻ, các chính sách này sẽ trực tiếp hay gián tiếp sinh ra sự mất cân đối giữa nữ và nam, rồi sẽ tạo ra những vấn đề xã hội mới cho các gia đình đã thực hiện các chính sách này.
-Dân số của Châu Phi sẽ vượt gấp đôi trong 20 năm nữa, cụ thể là sẽ vượt 2 tỷ người, với các vấn đề nhân sinh mới, gây ra di dân, tạo ra xuất khẩu lao động, cùng các luồng người đột nhập một cách bất hợp pháp vào các quốc gia tiên tiến, từ đó sinh ra các vản đề xã hội mới về di dân, nhập cư, hội nhập cùng với các phong trào kỳ thị, bài xích…
Tất cả các cuộc cách mạng nhân sinh trong lịch sử của nhân loại đều có nguyên nhân ngay thượng nguồn tới từ các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đây là thực chất làm nên định nghĩa hai từ : cách mạng. Còn các cuộc cướp chính quyền được trá hình bởi các ý thức hệ, thì chúng không phải là cách mạng, vì chúng không làm thay đời đổi kiếp nhân sinh theo hướng thăng hoa.
Tại đây, ta có thế ngừng lại ở trường hợp bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay sinh cùng lứa với tà quyền độc tôn ngu dân trị, đã dựa cái vô học sinh ra cái vô hậu ngay trong nhân kiếp của Việt tộc. Với những tên lãnh đạo vô tri trong vô minh cứ leo lẻo trên báo đài về cuộc "cách mạng bốn chấm không" mà không dám đối thoại với xã hội, cụ thể là đối luận với trí thức để nêu rõ nội dung cùng ý nghĩa của loại tên gọi vô cùng sáo rỗng này.
Khi bạo quyền độc đảng toàn trị hành tác trong ma quyền vô tri vì vô minh, nên ngày chúng ra đi hãy bị xóa tên, chúng ta nên đưa ngay vào giáo dục trung học, sau đó đào thật sâu trong giáo dục đại học, với giáo khoa khách quan, có giáo trình chỉnh lý, với giáo án thuyết phục về các cuộc cách mạng này. Từ đó xây dựng gốc, rễ, cội, nguồn cho một nhân trí mở về sự vận hành cũng như những hiệu quả và hậu quả tới tự các cuộc cách mạng này, trong đó chính quyền mới, quý dân chủ, trọng nhân quyền, nâng đa nguyên phải nhận ra hệ liên kết giữa ba định đề đang chi phối ngay trên tương lai của nhân loại :
- Sinh hoạt dân chủ đã là nền tảng cho tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế đã cõng, bồng, bế, ẵm sinh hoạt thị trường, có tự do cạnh tranh trong hơn hai thế kỷ qua không chỉ có quan hệ tương tác lẫn nhau, mà hiện nay đang có quan hệ đối kháng, kình chống, nghịch chiều nhau. Nhận thức sáng suốt để có phân tích tỉnh táo về quan hệ mâu thuẫn giữa dân chủ và thị trường giúp ta thấy để thấu mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay.
- Trong lịch sử của thế kỷ qua, khi Hoa Kỳ ủng hộ Trung Quốc vào Tổ chức thương mại quốc tế, với giả thuyết trung tâm là qua phát triển kinh tế thì Trung Quốc sẽ có cải tổ xã hội để đi đến dân chủ với nhân quyền được tôn trọng. Nhưng chính các lãnh đạo của Hoa Kỳ đã công nhận ngay trong 2020 này là họ đã tính toán sai, toan tính lầm, vì thương mại qua thị trường đã không xóa được bạo quyền độc đảng công an trị của Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc- hiện nay. Mà ngược lại độc quyền đảng trị của Đảng cộng sản Trung Quốc đang ngày ngày đe dọa vừa thị trường, vừa văn minh dân chủ của các quốc gia tiên tiến.
- Khi có sinh hoạt dân chủ, song hành cùng sinh hoạt thị trường, với các định đề đạo đức về đoàn kết quốc tế, tương trợ giữa các quốc gia để cùng nhau bảo vệ nhân quyền vì một nhân loại có tự do, công bằng và bác ái. Thì ngược lại, thực tế của nhân loại hiện nay là tự do được vận dụng vào phạm trù và không gian của tự do cá nhân, một loại tự do mang nội chất cá nhân chủ nghĩa, mang thực chất ích kỷ chủ nghĩa.
Khi nối lại ba thực tế này cùng chung sống với nhau trong một thời điểm và không gian của thế kỷ XXI này, thì ta sẽ nhận ra uy quyền của của thị trường, vì lợi nhuận, vì quyền lợi, có thể đe dọa dân chủ, lũng đoạn nhân quyền. Và thị trường có thể ở "thế thượng phong" khi thị trường được "hà hơi tiếp sức" bởi tự do cá nhân, với động cơ ích kỷ biến quyền lực thành quyền lợi, rồi biến quyền lợi thành tư lợi. Từ đây, các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền phải luôn tỉnh táo để sáng suốt trong lý luận là hai mệnh đề văn minh nhất của nhân loại hiện nay là cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và dân chủ (đa nguyên, đa đảng, nhân quyền) luôn mong manh, luôn bị đe dọa, như nhân phẩm luôn bị truy hiếp bởi bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cực quyền, cuồng quyền.
Nhân bản lớn
Trong nhân bản, người ta nhận ra các căn bản như gốc, rễ, cội, nền làm nên nhân tính, dựng lên nhân lý, trong đó thấy đường đi nước bước của nhân đạo, để nhận ra nhân vị, rồi để chế tác nhân văn. Nhân bản luôn là câu hỏi trùm phủ lên nhân kiếp của mỗi người, mỗi dân tộc, và cả nhân loại, mỗi lần có những khủng hoảng lớn tới từ chiến tranh, hay tới từ suy thoái kinh tế. Những chủ thể của Việt tộc muốn xây dựng một đất nước Việt có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, khi bạo quyền độc đảng toàn trị cộng sản đã ra đi, thì phải có sáng suốt trong tỉnh táo để nhìn xa trông rộng vào các cuộc khủng hoảng lớn đang tới và sẽ tới.
Chính chủ thể Việt tộc này phải có nhận thức hoàn toàn ngược lại với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, với phản xạ vô minh vì vô tri, với phản ứng vô giác trong vô cảm. Cụ thể là chính sách xuất khẩu lao động, trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, và trong khi cả một dân tộc bị rơi xuống vượt thẳm, với Tàu tặc ngay ngày vẫn đạp trên lưng, dẫm lên vai, đi trên đầu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, mà ông Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước lại tuyên bố dân chúng là : "Đất nước ta chưa bao giờ được như ngày hôm nay !". Đây là loại tuyên bố không những vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm, mà nó còn là loại man trá trong tư duy, gian xảo trong ngôn ngữ của loài trống nhân bản, vắng nhân phẩm, trống nhân vị, vì đã tự xóa nhân tâm.
Một chính quyền mới với các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền phải tuyệt đối xa lánh để loại bỏ các thể loại tư duy man trá, ngôn ngữ gian xảo, để tự bảo vệ nhân bản của mình một nhân bản có chỗ đứng trong sự thật, có chỗ ngồi trong chân lý, có chỗ dựa chính là lẽ phải. Một chính quyền mới quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền với các chủ thể lãnh đạo là những đứa con tin yêu của Việt tộc biết nhìn xa trông rộng của người thông minh :"Người khôn chưa đắn đã đo/ Chưa ra tới biển đã dò nông sâu" thấy các biến động lớn đang tới với đồng bào, động loại, nhận ra các tai biến lớn sẽ tới với dân tộc, với nhân loại. Cụ thể là nợ công đang chồng chất lên lưng, lên vai, lên đầu của các dân Việt, gây ra bởi một bạo quyền độc đảng toàn trị, độc tài nhưng bất tài trong quá trình phát triển đất nước, độc trị nhưng không biết quản trị các giai đoạn tiến bộ của nhân loại.
Một chính quyền mới với các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền, nhận trọn vẹn bổn phận với dân tộc, nhận đầy đủ trách nhiệm với giống nòi là : thiếu nợ thì phải trả nợ ! Không rơi vào thói tham quan thô bỉ của tham quyền thô tục trong chế độ độc đảng trị tham nhũng trị là vơ vét của cải tiền tài của dân tộc cùng tài nguyên, quặng mỏ của đất nước, và khi Tàu tặc giở trò thôn tính, xâm lăng, đồng hóa Việt tộc, thì bọn tham ô này sẽ cao bay xa chạy qua các nước phương Tây. Các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền trong chính quyền mới có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với giống nòi cũng phải tập xa lánh luôn thái độ ích kỷ trong vô trách nhiệm, hành vi vị kỷ trong vô minh của một số chính quyền phương Tây. Họ mang tiếng là quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền với nan bịnh : "Không muốn có bịnh, không muốn chữa bịnh, không muốn bị lây bịnh ngay bây giờ". Đây là chuyện mà ta thấy rất rõ trong nửa thế kỷ bị nợ công của Tây Âu và Bắc Mỹ, không nhận nợ công, giả và không muốn nợ công, làm bộ không bị lây nợ công, nhưng thật ra nợ công đã nhiều nên đã nặng trên vai bao thế hệ trẻ đã và chưa ra đời. Không xem nợ công là khủng hoảng, là nạn bịnh để thật long mà chữa cho hết bịnh thì đừng mong nói chuyện, bàn chuyện, khơi chuyện về nhân bản.
Nhân bản lớn của các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền trong chính quyền mới không chỉ là chuyện nhìn xa trông rộng, mà còn là chuyện nhìn sâu trông thẳm, ngay vào nội tâm của mỗi con dân Việt, với các thế hệ lớn tuổi đã quá mệt mỏi, đã quá rã rời vì chiến tranh, bạo sát, đổ vỡ, tan nát từ sinh mạng tới đất nước, từ thể lực tới tâm hồn, nên họ "được quyền mệt mỏi"và "được quyền chán ghét" các cuộc đổi đời mệnh danh là cách mạng để đưa, để đẩy Việt tộc tới những tai họa cho dân tộc, thảm họa cho đất nước.
Nhân bản lớn của các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền là không hô hào : "cách mạng", "chiến tranh", "giải phóng"… mà hãy thuyết phục dân tộc bằng lý luận chính lý, lập luận hợp lý, giải luận toàn lý bằng một công cuộc chuyển hóa não trạng một cách tích cực toàn diện. Không có mặt của hệ bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành, bạo trị), bất bạo động nên không có máu đổ đầu rơi, bất bạo lực nên không có ngục tù cải tạo. Nhưng có đạo lý dân tộc, đạo đức tổ tiên, luân lý giống nòi song hành cùng luật pháp công minh được trợ lực bởi công pháp quốc tế vì nhân quyền mà tra, xét, xử, phán bằng nhân vị vì nhân phẩm.
Nhân vị cao
Từ đây, các chủ thể Việt tộc quý văn minh dân chủ, trọng văn hiến nhân quyền trong một chính quyền mang nhân lý cộng hòa (tự do, công, bằng, bác ái) phải tỉnh táo để sáng suốt là trên dưới 100 triệu dân Việt, thì có bao nhiêu thiểu số đã chung chia rồi chung chạ với bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam với trên dưới 5 triệu đảng viên. Mà chỉ có bọn có chức, có quyền để vơ vét qua tham nhũng, còn lại là bao nhiêu phần trăm các đảng viên không rơi vào quá trình chấm mút tham quyền để tham ô. Từ đây, khi sử dụng xã hội học phân tầng để phân loại, ta thấy xuất hiện các thiểu số sau đây :
- Thiểu số công an trị, con số là bao nhiêu đang và đã ăn dầm ở dề để trục lợi trong hệ thống đàn áp, trấn lột, truy diệt này ?
- Thiểu số quốc phòng trị, con số là bao nhiêu với các tướng tá lấy đất quốc phòng bán cho bọn con buôn đất, cũng là chúng đã tổ chức các đường dây đánh bạc, với mạng lưới có thuộc hạ là côn đồ, du đảng, lưu manh của xã hội đen.
- Thiểu số tham nhũng trị, con số là bao nhiêu với bọn tham quan cấp từ trung ương tới địa phương, các cấp tỉnh, thành phố, huyện, xã đang và đã vơ vét muôn chiều, muôn hướng bằng tham ô qua tham quyền để vơ vét, cào nạo tiền của dân tộc và tài nguyên đất nước ?
- Thiểu số tham tiền trị, con số là bao nhiêu đang và đã ăn tươi nuốt sống bằng cách cướp đất, phá nhà biến dân lành thành dân oan, chúng là bọn trọc phú sẵn sàng làm âm binh cướp đêm đã liên minh với bọn tham quan cướp ngày ?
- Thiểu số địa phương trị, con số là bao nhiêu đang và đã với quan dưới địa phương uống máu ăn phần biến dân đen thành dân bụi, đã thông đồng cùng quan của chúng trên trung ương, lại có âm loại là cán bộ địa phương tham ô, cùng âm binh là bọn xã hội đen, côn đồ, đu đảng, đầu trộm đuôi cướp ?
-Thiểu số quan hệ trị, con số là bao nhiêu đang và đã ăn chực nằm chờ để vụ lợi bằng đặc lợi trong hệ quả quan hệ-hậu duệ-tiền tề-đồ đệ, ngày ngày, tháng tháng, năm năm đã truy diệt bao trí tuệ, bao nhân tài, bao nguyên khi của quốc gia.
Còn nhiều thiểu số khác phải nghiên cứu cho rõ, phải khảo sát đúng, phải điều tra trúng, phải điền dã cho sâu để thấy mà thấu là : những thiểu số này không nhỏ ! Nếu một dân tộc có 100 triệu dân mà các thiểu số này, có thể vượt 10 triệu thì không còn là một thiểu số của thiểu sự, mà là một thật sự của thiểu số.
Hãy dùng nhân bản lớn để cải tà, quy chính các thiểu số bất chính để văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền luôn là những giá trị vựa phổ quát, vừa vĩnh hằng. Tại đây, xã hội học thực nghiệm song hành cùng chính trị học tri thức khi đi sâu vào điền dã sẽ giúp cho các chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền thấy để thấu một thực tế xã hội vô cùng phức tạp của Việt Nam hiện nay, nơi mà mâu thuẫn xã hội có ngay trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội :
- Học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả đã biến tri thức thật thành thiểu số trước trí thức giả, và chính loại trí thức giả này sẽ tạo ra kiến thức giả-tri thức giả-ý thức giả-nhận thức giả
- Đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của Đảng cộng sản Việt Nam từ bổng lộc tới tư lợi được ban phát và rơi rớt không chỉ cúng quanh Đảng cộng sản Việt Nam mà có lúc cũng vào các thành phần xã hội ngoài Đảng cộng sản Việt Nam.
- Mua quyền bán chức được tổ chức bởi hệ thống tà quyền độc đảng toàn trị, từ tuổi trẻ qua quá trình học vấn với mua bằng bán chức, tới mọi lứa tuổi trong xã hội, nơi mà tham nhũng để trực lợi là phản ứng tự nhiên đã biến thành phản xạ của toàn xã hội.
Nên khi xã hội học thực nghiệm và chính trị học tri thức đi sâu vào khảo sát thực địa qua điền dã trong mọi tầng lớp xã hội, thì chính khảo sát tại chỗ, ta mới nhận ra các nghịch lý sau đây :
- Gặp một sinh viên chưa là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam mới nhập vào sinh hoạt đoàn thanh niên thôi, nhưng khi bị tuyền truyền ngập não thì sẽ có thái độ quá khích, hành vi cực đoan để bảo vệ Đảng cộng sản Việt Nam một cách vô điều kiện, hơn cả một đảng viên kỳ cựu với trải nghiệm cùng tuổi đời đã hiểu bộ mặt thật của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Gặp được một chân tu trong Phật giáo hiện nay với Phật học vững và Phật tâm thật trong các nơi có chùa chiền là phải gặp cùng lúc hằng chục, nếu không khẳng định là hàng trăm sư giả, nếu không là sư quốc doanh thì sẽ là sư công an, với rất nhiều ma tăng khai thác cửa Phật để trục lợi.
- Gặp một doanh nhân gốc miền Nam đang thành công trên thương trường mặc dầu trước đó không lâu gia đình của doanh nhân này đã là nạn nhân của Đảng cộng sản Việt Nam từ trại cải tạo tới kinh tế mới. Nhưng doanh nhân này lại ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam một cách thẳng thừng hơn là một doanh nhân miền Bắc có gia đình lẫn quen biết với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, và rất cẩn thận trước sự tráo trở khó lường của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
- Gặp một người tài xế cho một tham quan đã giàu nhờ tham ô, khi tham quan chỉ các mánh lới cho người tài xế để mua được các mảnh đất trước khi tham quan này cùng đồng bọn quy hoạch. Và khi giàu nhờ mánh mung đất, thì người tài xế này ủng hộ chế độ của Đảng cộng sản Việt Nam vô điều kiện trước một trí thức đã là đảng viên, nhưng thấy rất nhiều sai phạm trong quy hoạch của tham quan này.
-Gặp một người gác cổng tại một đại học tư, biết rất rõ là tên hiệu trưởng là chủ của mình là kẻ mua bằng bán cấp, giờ đây mượn giáo dục để vơ vét qua học giả-thi giả-điểm gia-bằng giả. Nhưng khi tên hiệu trưởng này lại cho phép người gác cổng đưa gia đình vào trường này để mở quán mà có thêm lợi tức, thì người gác cổng này ủng hộ chế độ của Đảng cộng sản Việt Nam hơn một giảng viên có lương đủ sống nhưng đã thấy được mọi hiểm họa và hậu nạn của mua bằng bán cấp do tên hiệu trưởng này chủ mưu.
-Gặp một người Hoa miền Nam đã từng là nạn nhân của chế độ của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1979, mà cha mẹ của người này đã mất hết cơ nghiệp. Nhưng hiện nay người Hoa miền Nam này đang chung vốn và thành công với một quan tham ô trong xuất nhập khẩu, thì người Hoa miền Nam này bảo vệ chế độ của Đảng cộng sản Việt Nam hơn cả những doanh nhân gốc miền Bắc biết rất rành bản chất tham nhũng để tham tiền của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đang cùng chung ngành xuất nhập khẩu với người Hoa này.
-Gặp một người Việt đã thập tử nhất sinh trên đường vượt biên sau 1975, vì cả gia đình ba đời bị chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị trù dập, và khi qua được Hoa Kỳ thì thành công và trở thành doanh nhân. Khi về lại đất nước, thì mua được nhiều đất đai, kẻ này có phản xạ binh vực ra mặt chế độ chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị, hơn tất cả doanh nhân khác, không phải Việt kiều như hắn.
-Gặp một ký giả có chức trong một tòa báo được nổi tiếng nhờ chống tham nhũng, rồi mượn tiếng tăm chống tham những để nhận tiền viết mà cho những bè, đám, nhóm, phe đang đánh nhau qua chuyện chụp mũ nhau là tham nhũng, tham ô, tham quan. Ký giả này không phải lãnh đạo, cũng chẳng là đảng viên, nhưng là loại đục nước béo cò ngoài đảng giàu nhờ viết mướn trong điêu ngoa. Hắn tự nhiên giàu lên với nhà cao cửa rộng, nhờ nhận được nhiều tiền viết mướn, kể cả chuyện hắn tống tiền bằng cách đe dọa với các nạn nhân của hắn, thì bọn bút nô đâm thuê qua viết mướn này là bọn ký sinh bẩn sống nhờ nên ngấm ngầm ủng hộ cho bằng được chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị…
Chính trị học nghiên cứu về quyền lợi và xã hội học khảo sát về tư lợi, khi phối hợp với nhau trong điều tra sẽ đưa ra các kết quả cùng các kết luận ngay trong định chế và cơ chế do Đảng cộng sản Việt Nam sinh ra :
-Khi quan sát trực quan ngay trong hệ thống nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, thì ta thấy đảng viên lạm quyền để trục lợi đông lúc nhúc như kiến rừng trong luật rừng. Và, ta sẽ không còn gặp các người cộng sản thật sự với kiến thức, với lý tưởng, vì loại người này đã vĩnh viễn tuyệt chủng miệt thiên thu, từ khi khối cộng sản Đông Âu đưa nhau vào mộ phần cuối thế kỷ XX vừa qua.
- Khi khảo sát thực địa ngay trong định chế do Đảng cộng sản Việt Nam phân quyền ta thấy đầy dẫy tham quan đông nghẹt như sâu đang mọt rừng. Chúng rành "sân sau", chúng nắm "ô dù", chúng có "chống lưng", chúng lại tổ chức "đảng cử dân bầu", theo cách âm binh gian lận trong âm giới gian trá của chúng. Tại đây, những ai là không tham ô, không hối lộ như chúng ; không ăn nhậu trác táng như chúng, thì chúng sẽ không cho ứng cử, mà muốn ứng cứ thì chúng cũng không cho bầu.
- Khi điều tra trực tiếp vào ngay trong hệ thống khoa học và giáo dục thì ta gặp thường xuyên bọn học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả ngập tràn như bèo cho lấp mặt sông làm ngộp thở cả nước. Và bọn lãnh đạo giả, trí thức giả này không hề nghiên cứu, và học thuật đối với chúng là truyện "ăn cơm nhà, cõng ngà voi", không có lời lại chẳng sinh lợi cho đám "gà què ăn quẩn cối xay này". Nên những ai lương thiện trong học thật, có lương tâm trong công việc thật, có lương tri trong trí thức thật thì chóng chầy sẽ bị bọn lãnh đạo giả, trí thức giả này hãm hại rồi truy diệt.
- Khi xã hội học thực nghiệm phân định được sự phức hợp của các thiểu số hiện nay, song lứa cùng chính trị học nhận thức khi đi sâu vào điền dã sẽ nhận ra khi quyền lực biết "bố thí " quyền lợi cho những kẻ ngoài xã hội, mà ý đồ cùng thâm ý là để những kẻ ngoài xã hội này giúp chúng trực tiếp bảo vệ tà quyền trong toàn quyền của chúng.
Đây là khúc quanh của xã hội học quyền lực và xã hội học thiểu số khi điều tra về đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong Đảng cộng sản Việt Nam, tại đây phải thấy cho thấu là hơn bốn triệu đảng viên, thì không tới phân nửa là bọn sâu dân mọt nước, nhưng phân nửa kia chưa chắc là nhận được bổng lộc của Đảng cộng sản Việt Nam, mà vào đảng để được yên thân. Ngay trong số lượng đảng viên hiện nay, thì xã hội học định lượng phải điều tra cho ra các thành phần đảng viên nhưng chống đối đảng, và có những nạn nhân trong thiểu số này, là đảng viên nhưng ở trong bí thế cùng phận và có thể bị triệt sát bất cứ lúc nào, như trường hợp của cụ Lê Đình Kình, xã Đồng Tâm, tháng Giêng năm 2020.
Sự thật này sẽ giúp cho các chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền thấy để thấu một thực tế xã hội phức tạp của Việt Nam hiện nay. Và sẽ yêu cầu chúng ta vận não để chuyển hóa não bộ, động não để chuyển biến não trạng của những nạn nhân là đồng bào của chúng ta không đủ nhận thức để tự thấy họ chính là nạn nhân của tà quyền có toàn quyền này.
Lê Hữu Khóa
(05/12/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Đa
Đa nguyên vị nhân bản * Đa tri vị nhân trí
Đa dũng vị nhân quyền * Đa luận vì nhân phẩm
Đa nguyên vị nhân bản
Khi mong muốn đa nguyên thì mọi người thường nghĩ ngay tới đa đảng, nhưng đa đảng trong hỗn loạn định chế, trong bất an xã hội, thì đa đảng không triệu tập được sung lực của đa nguyên là tổng hợp được : đa tài, đa trí, đa dũng, đa năng, đa hiệu… Và khi xem xét lại các định chế tồn tại được với thời gian trong đa nguyên với kinh nghiệm của các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, thì kinh nghiệm đa đảng chỉ là sự vận hành cụ thể của một đa nguyên bảo đảm được nhân bản (căn bản của nhân lý, nhân tri, nhân tính), luôn được bảo trì từ đạo lý tới luật pháp. Tại đây, đa nguyên nhân bản có :
- Gốc của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái).
- Nền của dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền).
Từ vốn tri thức này, đa nguyên nhân bản trải qua những kinh nghiệm đã thành kiến thức đa nguyên rất đa dạng trong lịch sử nhân loại các thế kỷ qua :
- Kinh nghiệm lưỡng đảng của Hoa Kỳ
- Kinh nghiệm đa đảng của Anh quốc
- Kinh nghiệm đa đảng của Đức quốc
- Kinh nghiệm đa đảng của Pháp quốc…
Từ Bắc Mỹ tới Tây Âu, tính đa dạng của đa nguyên mang những đặc thù riêng tới từ văn hóa và giáo dục của mỗi quốc gia, các quốc gia Địa Trung Hải (Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp) sinh hoạt trong đa nguyên bằng đối lập ; nhưng các quốc gia Bắc Âu (Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển) có đa nguyên khi thì đối lập, khi thì liên minh, để cùng nhau quản lý đất nước. Tại đây, Đức quốc có truyền thống đa nguyên liên minh, phối hợp, hợp tác giữa các đảng rõ nét hơn Anh, Ý, Pháp… Khi công nhận về sự đa dạng này trong kinh nghiệm dân chủ của nhân loại, từ cổ sử văn minh dân chủ Hy Lạp của tới các thể chế đa nguyên đã hiện hình rất khác nhau qua các châu lục. Trong đó kinh nghiệm đa nguyên của các quốc gia láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Sinpapour vẫn là những kinh nghiệm quý báo, vì tính thiết thực và cận kề của nó đối với Việt Nam.
Nhưng thảm trạng của bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam từ thế kỷ XX qua tới thế kỷ XXI của Việt Nam là một trường hợp đặc thù đòi hỏi các chủ thể đấu tranh cho đa nguyên, dân chủ và nhân quyền phải có những phân tích sắc trong chính trị học, nhọn trong luật học và bén trong xã hội học. Tại đây, ta phải nhận ra đa hậu nạn của đa bản chất của bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, từ đó lập ra một hệ thống đa giải luận để thấy những thử thách lớn đang chờ Việt tộc trên con đường đa nguyên để đi tới văn minh của dân chủ, văn hiến của nhân quyền trước các hậu nạn của :
- Bạo quyền công an trị
- Tà quyền tham nhũng trị
- Ma quyền tham tiền trị
- Quỷ quyền ngu dân trị
- Cuồng quyền vô minh trị
- Cực quyền tuyên truyền trị…
Khi ba chuyên ngành này (chính trị học, luật học, xã hội học) liên minh trong học thuật, nghiên cứu để liên kết trong khảo sát, điều tra với các chuyên ngành khác (sử học, nhân học, tâm lý học…) để hợp tác sâu đậm và chặc chẽ thêm với các chuyên ngành mới xuất hiện như tội phạm học, kinh tế tri thức… những chuyên ngành mới này đã có các đóng góp với các khám phá chủ yếu về các bạo quyền độc đảng toàn trị (Cuba, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam). Khi các chủ thể lãnh đạo đa nguyên bắt đầu tháo gỡ các cấu trúc của bạo quyền độc đảng toàn trị, thì các móc xích của nó sẽ để lộ ra các khuyết tật trầm kha của nó là phản văn minh, ngược văn hiến :
- Bạo quyền công an trị thì bè phái cùng xã hội đen.
- Tà quyền tham nhũng trị thì sinh đôi với mua quyền bán chức.
- Ma quyền tham tiền trị thì có bè cánh là trọc phú sân sau.
- Quỷ quyền ngu dân trị thì gian trá trị qua mua bằng bán cấp.
- Cuồng quyền vô minh trị thì song hành cùng vô học trong vô hậu.
- Cực quyền tuyên truyền trị thì phải ăn gian nối dối.
Đây là bọn âm binh trong định đề của âm giới của sinh hoạt chính trị, cụ thể là chúng sẽ lẩn trốn để luồn lách, tránh đối thoại để né đối luận với xung lực của đa nguyên. Chúng sẽ không trực diện để trực luận mà chúng sẽ tiếp tục phá hoại đa nguyên để diệt dân chủ, để hủy nhân quyền. Vạn sự khởi đầu nan, mọi thay đổi về hướng tiến bộ, vế phía văn minh, đều gặp phải các trở lực, trong đó âm binh với ý đồ xấu sẽ khai thác mọi cơ hội để phá hoại dân chủ, quấy nhiễu đa nguyên. Nhưng phải thấy rõ thực chất của chúng :
- Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam là sinh hoạt phản chính trị tri thức, tại đây không có chính giới lẫn chính khách, vì chúng không có tri thức chính trị căn bản của hai hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) và hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng, đối lập). Hai hệ này vừa giúp nhau trong phản biện đa nguyên, vừa tương trợ nhau để xây dựng dân chủ.
- Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam không có chính giới với quan hệ chính trị đối lập, với sinh hoạt chính trị đối kháng, với đời sống chính trị có đối thoại, biết vận dụng lý để luận, biết tận dụng luận để phân tích và giải thích, với dữ kiện của khoa học, với chứng từ của pháp lý.
- Bạo quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam không có chính khách với đối thoại qua kiến thức chính trị để đối luận qua tri thức chính trị, không có chính khách với đối trọng bằng giải luận chính trị để đối kháng bằng diễn luận chính trị.
Lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vô minh nên có phản xạ của bạo lực với chính dân tộc, vô tri nên có phản ứng với bạo hành với chính xã hội. Lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam còn mang phản xạ tuyên truyền, phản ứng tuyên giáo, mà không tự có một hệ đủ trình độ tri thức để dẫn dắt một lý luận chỉnh lý tới một lập luận hợp lý để kết cuộc đi tới một giải luận toàn lý để thuyết phục đối tác hay đối phương. Các chính khách, các chuyên gia, các lãnh đạo của các đảng phái yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền của phương Tây biết rất rõ là các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không có nội công chính trị của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) cũng không có luôn bản lĩnh của hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng, đối lập). Nên các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thường tránh họp báo với ký giả quốc tế, và nhất là lẩn trốn các trí thức và chuyên gia trên chính trường quốc tế.
Nhưng phương pháp đa nguyên để đấu tranh chống bọn lãnh đạo bất tài này sẽ ra sao ? Đó là quá trình áp dụng hệ liên (liên kết, liên minh, liên hiệp) từ trong ra ngoài, từ quốc nối tới quốc ngoại, trong đó có :
- Liên kết giữa cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) và dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền) với "sân chơi, trò chơi, luật chơi" minh bạch nhất từ hiến pháp tới luật pháp ngay trên đất Việt.
- Liên minh với các quốc gia yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền trên toàn diện quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa vị đạo lý dân làm chủ từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động.
- Liên hiệp với các quốc gia yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền trong cùng một khu vực, trong cùng một châu lục, nơi mà kinh nghiệm quý báu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Sinpapour được nghiên cứu kỹ lưỡng, mà không quên khảo sát sâu đậm kinh nghiệm gần đây của Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan…
Ba hệ liên (liên kết, liên minh, liên hiệp) trên còn cần phải được cũng cố với một xã hội dân sự Việt có :
- Nông dân và công nhân vì dân chủ và nhân quyền.
- Trí thức với đầy đủ tri thức của dân tộc và nhân loại.
- Phụ nữ với các phong trào vì bình đẳng và bình quyền.
- Thanh niên với các cao trào vì văn minh và tiến bộ…
Khi bị sụp đổ thì bạo quyền độc đảng toàn trị phải ra đi, nhưng ý đồ phá hoại bằng bạo lực, thâm ý quấy rối bằng tà kế sẽ còn ở lại và ẩn nấp để sẽ lộ nguyên hình qua các sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội. Nên các chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền không nên "rơi ngay" vào hai cạm bẫy của "ơn đền, oán trả" :
- Loại thứ nhất là bị ám ảnh bởi quá khứ tàn khốc, nên muốn "ăn miếng trả miếng" là đòi hỏi phải xét xử rồi hành quyết ngay các lãnh đạo của bạo quyền độc đảng toàn trị, muốn xét xử chúng như các tội đồ.
- Loại thứ nhì cũng bị ám ảnh nhân ái quá trớn, nên muốn"hòa hợp trong tức khắc, hòa giải trong tức thì", dễ dãi trong "huề cả làng", vì vội vã trong "đề huề ngay", nên vô tình đã trẻ dại hóa trong "giải tán để giải oan".
Nên từ dân tộc tới xã hội nên tỉnh táo trong sáng suốt, theo lời dạy của ông bà là : "chuyện đâu còn có đó", nếu muốn "trong ấm ngoài êm" thì phải có :
- Tâm bình trong cảnh bình, với đạo lý tổ tiên song hành cùng công luật nghiêm minh trong hệ công : có công tâm, trọng công bằng, quý công lý.
- Tâm an trong cảnh an, lấy gốc của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) cùng nền của dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền) làm kim chỉ nam trong hành động phân xử, hành tác phán xét, với những kinh nghiệm quốc tế anh minh để tránh rơi vào cuộc nồi da xáo thịt một lần nữa.
Thảm họa kỳ thị của hai chủng tộc trắng và đen kéo dài trong sắc máu qua bao thế kỷ tại Nam Phi, vậy mà khi dân chủ xuất hiện thì minh triết chính trị của Mandela đã thắng. Ông vừa biết lập ra tòa án nhân quyền để tội phạm học cùng luật học làm rành mạch hóa mọi chuyện. Và khi mọi chuyện được minh bạch hóa thì chuyện hòa hợp hòa giải sẽ tới với lòng dân tỉnh táo, với lòng tin sáng suốt, mà tội phạm sẽ được xử đúng tội. Khi nền của dân chủ (đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền) trụ được gốc của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) qua tiến bộ ngay trong xã hội và văn minh ngay trong giáo dục, thì nhân tâm sẽ mở cửa để nhân từ đón nhân tính và nhân lý, mà chọn chữ thái hòa để đi trên lưng mọi bạo quyền phi nhân, mọi tà quyền thất đức, mọi ma quyền bất nhân…
Đa tri vị nhân trí
Đa nguyên không phải là một hệ thống chính trị máy móc để các đa đảng có chỗ đứng ghế ngồi trong tam quyền phân lập, mà đa nguyên có thượng nguồn và hạ nguồn đều là đa tri. Nơi mà đa tri là sự hiểu biết trên nhiều phương diện, trên nhiều lãnh vực, trên nhiều sinh hoạt, trong đó sinh hoạt chính trị không hề là sinh hoạt độc nhất mà chỉ là một trong những sinh hoạt xã hội, nên xã hội dân sự sinh hoạt bằng đa tri. Nơi mà đa tri có thượng nguồn là đa phương và đa dạng, có hạ nguồn là đa năng và đa hiệu.
Nếu đa đảng là hùng lực của đa nguyên, thì đa tri là nội lực của đa kiến thức, sung lực của đa ý thức và là mãnh lực của đa nhận thức, toàn diện trên nhân sinh, chớ không hề tự giới hạn trong đa đảng của sinh hoạt chính trị. Các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải tâm niệm được điều này, khi nhận trách nhiệm mới với đất nước, bổn phận mới với dân tộc, nhiệm vụ mới với giống nòi vì một tương lai tiến bộ trên nhân lộ của văn minh.
Một đa tri thông minh là một đa nguyên được thiết thực hóa ngay trong bối cảnh hiện nay với thực trạng toàn cầu hóa, nơi mà biên giới và lãnh thổ giữa các quốc gia đã được rộng mở. Một đa tri sáng suốt là một đa tri được truyền thông hóa cấp vĩ mô toàn cầu nơi mà tự do thông tin cùng khoa học truyền thông biết trực tiếp chuyển tải tin tức thì mọi khám phá khoa học, mọi ứng dụng kỹ thuật để tiến bộ có mặt trong đời sống hàng ngày vì nhân sinh. Từ thực tế này, các giá trị và nội dung của đa tri phải được vận hành trong bối cảnh toàn cầu hóa với các khám phá hằng ngày của mọi chuyên ngành khoa học, nơi mà mạng xã hội trực tiếp tham dự và tham gia vào sinh hoạt đa nguyên.
Thực trạng toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi đa tri luận phải thích ứng với thế giới hóa, tại đây một quốc gia đã có một chính thể đa nguyên và muốn bền trong dân chủ, muốn vững trong nhân quyền thì phải nắm được các quy luật của kinh tế luận tòan cầu :
- Rời bỏ phản ứng kinh tế trước mắt, sản xuất tức khắc, tiêu thụ tức thì.
- Buông đi phản xạ kinh tế bản năng, làm ngay ăn chóng, làm đâu ăn đó.
- Loại ra hành tác kinh tế sống còn, mai làm mai ăn, không nhìn xa trong rộng.
Từ đây, các phương án rộng, các đề án mở, xuất hiện ngay trong lý luận mới vì một não trạng mới, có tương lai luận cụ thể, có tương lai học thiết yếu :
- Nhập nội vào kinh tế vị nhân sinh, biết đầu tư vào giáo dục và y tế phục vụ dài lâu nhân loại, dự phòng sáng suốt trước mọi đại dịch, ô nhiễm, biến đổi khí hậu…
- Xây dựng kinh tế vị môi sinh, bảo vệ môi trường để bảo trì môi sinh, lấy môi sinh sạch song hành cùng môi trường sáng làm kim chỉ nam, biến thành quốc sách, để đi đường trường vì tiền đồ tổ tiên, và vì các thế hệ mai hậu của một Việt tộc, biết bảo trọng quê hương gấm vóc.
- Sáng tạo kinh tế vị giáo dục, trong đó khoa học không những phục vụ từ giáo dục lẫn y tế, mà cả môi trường, môi sinh, mà không quên phát triển truyền thông, lấy tiến bộ thông tin và tri thức, tất cả được giáo dưỡng để trợ lực cho đa nguyên, dân chủ và nhân quyền.
- Đầu tư vào kinh tế vị văn hóa, với ý thức của gốc văn minh, của cội văn hiến, lấy tinh hoa của văn hóa để phát triển du lịch và vận dụng văn hóa như cột trụ để chuyển hóa não bộ, chuyến biến não trạng để loại đi các kinh tế của công nghệ bẩn (luyện thép, nhiệt điện than, khai thác mỏ quặng…) mà Việt tộc đã phải trả những giá quá đắc từ Bốc xít tới Formosa… với bao cạm bẫy của Tàu tặc.
- Tạo dựng kinh tế vị nhân thọ, nơi mà nhân loại không còn lãnh chịu những nan bịnh như ung thư tới từ ô nhiễm nguồn nước, thực phẩm, không khí. Nơi mà nhân thọ có thể lực vững, có trí lực bền, cùng tâm lực sáng suốt để hữu ích cho dân tộc, cho đất nước. Nên nhân thọ không hề là tuổi già của sự lệ thuộc toàn bộ từ y khoa tới trợ cấp xã hội.
Năm định đề : kinh tế vị nhân sinh, kinh tế vị môi sinh, kinh tế vị giáo dục, kinh tế vị văn hóa, kinh tế vị nhân thọ làm nên định luận để chỉ đạo từ sản xuất tới tiêu thụ, từ xuất khẩu tới nhập khẩu… Nơi đây, tương lai học đề nghị ta phải có tương lai luận -có nền móng và có cơ sở- "biết phòng xa" vì đây là đường đi nẻo về của các chủ thể, các đảng phái, các lãnh đạo yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền :
- Dự án là dự phòng, để đối phó đúng lúc, kịp thời với các đại dịch, như đại dịch cúm Tàu tới từ Vũ Hán, năm 2020, cụ thể là không thiếu khẩu trang, không thiếu bịnh viện cùng các y cụ cần thiết…
- Dự phòng phải dự phóng, nhận định hiểm họa tới từ dịch bịnh, mà hiểm họa tới từ ô nhiễm môi trường, biến đổi khi hậu, động đất, kể cả chiến tranh giữa các châu lục hay thế chiến. Nơi đây, một chính quyền đa nguyên sáng suốt biết đầu tư vào các khoa học trực tiếp nghiên cứu và đề nghị các phương án phòng chống, mà không dựa hoàn toàn vào tri thức khoa học quốc tế.
Tránh bi kịch hôm nay sẽ thành thảm kịch ngày mai, với một Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có bạo quyền độc đảng toàn trị mà không hề có một vốn liếng khoa học cũng như các chính sách đầu tư vào các chuyên nghành khoa học phòng chống hiểm họa. Năm định đề : kinh tế vị nhân sinh, kinh tế vị môi sinh, kinh tế vị giáo dục, kinh tế vị văn hóa, kinh tế vị nhân thọ có khả năng loại trừ kinh tế man trá kiểu Tàu cộng hiện nay :
- Kinh tế độc tài gian lận từ sản xuất gian tới xuất khẩu lậu.
- Kinh tế độc trị biển lận trong trộm, cắp, cướp, giật trí tuệ khoa học kỹ thuật của người khác.
- Kinh tế độc tôn tráo lận từ nợ công trong nước tới tạo bẫy nợ ngoài nước.
Kinh tế man trá kiểu Tàu cộng hiện nay là loại kinh tế diệt đa nguyên, vì nó chỉ muốn truy cùng diệt tận văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền. Đây là loại kinh tế buôn gian bán lận của âm binh, và Đảng cộng sản Việt Nam đi theo loại âm giới của kinh tế kiểu Tàu cộng hiện nay thì chắc chắn sẽ trở thành âm binh trong điếm kiếp như Tàu, trong hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu gian, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…).
Năm định đề : kinh tế vị nhân sinh, kinh tế vị môi sinh, kinh tế vị giáo dục, kinh tế vị văn hóa, kinh tế vị nhân thọ, sẽ đưa đường dẫn lối cho đa nguyên của Việt tộc, trong đó nhân tâm quý dân chủ, trọng nhân quyền sẽ tạo dựng được một não trạng mới vì nhân tri biết bảo vệ tự do, vì nhân lý biết bảo trọng công bằng, vì nhân tính biết bảo hành nhân phẩm.
Chính năm định đề : kinh tế vị nhân sinh, kinh tế vị môi sinh, kinh tế vị giáo dục, kinh tế vị văn hóa, kinh tế vị nhân thọ sẽ loại được loại kinh tế man trá kiểu Tàu cộng, vì nội chất chính trị của kinh tế kiểu Tàu cộng đã bị thế giới vạch mặt chỉ tên trong các quản lý dại dịch cúm Tàu do chính Tàu cộng gây ra :
- Lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc đã không quản lý đại dịch mà chỉ cai trị dân chúng giữa mùa đại dịch.
- Lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc bất tài trong quản lý đại dịch lại độc tài trong độc trị, nên không chấp nhận đa nguyên trong đa trí, đa tài, từ chính sách tới quản lý.
- Lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc không chấp nhận những sai lầm của chính mình nên không thấy được sức mạnh của đa nguyên trong đa tri, từ phản biện tới phê bình, để thay đổi từ não bộ thủ cựu tới não trạng bại liệt vì gian manh.
Đa dũng vị nhân quyền
Nhân quyền luôn là gốc của đa nguyên, là lõi của đa tri, làm nên đa dũng ngay trong quá trình có can đảm trong chuẩn bị hành trang cho não bộ quyết đoán trong chính sách, quả cảm trong chuẩn bị chuyển hóa não trạng ; biết dự phòng "ăn bữa sáng lo bữa tối" trong quyết đoán "giữ củi khô cho mùa mưa dầm". Từ đây không lập lại sai lầm trong thảm kịch thất bại toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ vì không có tương lai luận với não bộ dự phóng, với não trạng dụ phòng :
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong giáo dục đã điếm nhục hóa giáo khoa thật, giáo trình thật, giáo án thật ra thành quái thai trong học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Nó đã và đang gây hậu nạn cho bao thế hệ, cho cả xã hội hiện nay và mai sau phải nhận lãnh đa ung thư của kiến thức giả, tri thức giả, ý thức giả, nhận thức giả.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trong y tế, đã đồi bại hóa y học thật, y khoa thật, y thuật thật, y sĩ thật, biến hóa cái thật thành quái tướng khám bịnh giả-phẩu thuật giả-y trị giả-thuốc giả. Với bịnh viện bị chuồng trại hóa súc vật giữa nhân sinh, một giường bịnh mà nhiều bịnh nhân, với điều kiện chữa trị phản vệ sinh, cộng với hệ lụy từ tham ô tới tham nhũng biến bịnh viện thành nơi moi móc để vơ vết tiền bạc của người bịnh và gia đình họ.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam về môi trường, đã rác rưởi hóa từ khai thác bừa bãi tài nguyên của đất nước tới ô nhiễm hóa quê hương gấm vóc của tổ tiên, từ nguồn nước tới đất đai, từ thiên nhiên tới không khí. Biến quê hương Việt thành một bãi rác khổng lồ, với công nghiệp bẩn của hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu gian, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…). Không những ô nhiễm hóa toàn bộ đất nước mà còn ô uế hóa ngay trong nội chất của giống nòi Việt, ngày ngày bị nhiễm ô thâm nhập sâu đậm vào thể chất, với thực phẩm bẩn, với môi trường, không khí bẩn, biến cuộc sống thường nhật ngày càng nhớp nhúa.
Ba thảm bại này của Đảng cộng sản Việt Nam có gốc, rễ, cội, nguồn sâu xa trong các thảm bại khác rộng hơn, lớn hơn :
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tài nhưng bất tài, từ kinh tế tới thương mại, từ sản xuất tới tiêu thụ, từ xuất nhập khẩu tới đầu tư vào các cơ sở hạ tầng…
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc trị nhưng không biết quản trị, từ văn hóa tới nghệ thuật, từ chủ trương sáng tác tới tổ chức sáng tạo trong văn học, âm nhạc, hội họa… cho tới định hướng bảo vệ thủ công nghệ tới quá trình đầu tư vào các chuyên ngành mũi nhọn từ thông tin tới truyền thông.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền nhưng độc đoán trong độc hại, tự tạo đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong nội bộ đảng, mà không hề có kiến thức gì về công ích xã hội làm chỗ dựa cho bình đẳng xã hội, tạo nên công bằng xã hội, với quyền lợi công dân song hành cùng bổn phận công dân.
- Thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn và không biết tôn trọng tổ tiên và dân tộc, vô minh về văn hiến của Việt tộc, vô tri về văn minh của tổ tiên Việt, tạo ra vô giác trong thương nước yêu nòi, nên vô cảm trước nỗi khổ niềm đau của Việt tộc, nên sẽ vô hậu trong tương lai, vì ăn ở không có hậu với tổ tiên, dân tộc, giống nòi.
Chính tương lai luận chuyển hóa não trạng dẫn tới tương lai học chuyển biến não bộ, sẽ đề nghị các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải phân biệt :
- Quỷ thuật của Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc, có nội công tổ chức lao động quốc gia để biến thành công xưởng cho cả thế giới. Từ đó có bản lĩnh học hỏi dù qua trộm, cắp, cướp, giựt các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương Tây. Rồi sau đó có tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật không những cho chính mình mà còn biết bán lại cho thế giới hiện nay.
- Tà dạng của Đảng cộng sản Việt Nam, trống nội công tổ chức lao động quốc gia, vắng bản lĩnh học hỏi các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật của phương tây, rỗng tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật. Trống vì vô tri, vắng vì vô minh, rỗng vì vô trí, và quỷ quyền của các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã biết rất rõ trình độ trống, vắng, rỗng của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, nên chỉ xem các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam là đám lãnh đạo : lúc thì tự điếm nhục hóa nhân cách của chính mình trong cố đấm ăn xôi ; lúc thì ký sinh thể trong vị thế chờ sung rụng ; lúc thì ký sinh trùng trong tật nguyền não bộ gà què ăn quẩn cối xay ; lúc thì ký sinh cách trong não trạng thừa nước đục thả câu, lúc thì ký sinh dạng trong não trạng đục nước béo cò.
Khi nghiên cứu về nội dung truyền thông qua chính trị học tri thức được song hành với xã hội học quyền lực về các phát biểu, các nhận định, các phê bình, các đánh giá, thì các chuyên gia quốc tế đã thấy và thấy là các lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhìn thấu mọi nhược điểm cũng như khuyết tật của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ là :
- Bọn bám gót ăn theo, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để dây máu ăn phần.
- Bọn ăn tàn phá sạch, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để ăn hôi uống bẩn.
- Bọn bám gót ăn theo, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để trây máu ăn phần.
- Bọn dựa hơi bám thế, dựa Đảng cộng sản Trung Quốc để bám theo dựa ké.
- Bọn qua sông lụy đò, lụy Đảng cộng sản Trung Quốc để cúi đầu ăn nhặt.
Đa dũng để bảo vệ đa nguyên, để bảo trị đa tri, để bảo hành đa đa đảng trong nhân cách biết tự trọng, với nhân dạng biết tự chủ, cùng nhân diện biết tự tin, tất cả làm nên dũng chất, tạo ra dũng cách hoàn toàn ngược lại với ma cách của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là hèn với giặc, ác với dân. Xa hơn nữa chính đa dũng xác nhận nhân phẩm của mình, xác chứng nhân quyền của mình, xác định nhân vị của mình, có thông minh trong tương lai luận, có sáng suốt trong tương lai học.
Vì đa dũng không hề là sự liều lĩnh vô minh trong liều mạng vô tri, đa dũng khi được trợ lực bằng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức), song hành cùng hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng chế, sáng tạo), và luôn được hành tác trong hệ tự (tự do, tự tin, tự chủ, tự trọng).Từ đây, đa dũng vị nhân quyền đặt các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải quyết đoán :
- Mạnh trong nội công tổ chức lao động quốc gia, vững trong bản lĩnh học hỏi các tri thức và trí tuệ khoa học kỹ thuật ; tầm vóc tự tái tạo và tự tạo khoa học kỹ thuật : biết người biết ta để luôn học người, với não bộ tích cực tầm sư học đạo, với não trạng cầu tiến tôn sư trọng đạo trên tất cả các chuyên ngành đang thống trị toàn cầu hóa hiện nay.
- Khử cho bằng được mọi cái bẩn : công nghệ bẩn, môi trường bẩn, thực phẩm bẩn, nhất là khử tới cùng phản xạ vô luân lý hèn với giặc, ác với dân, triệt tới nơi phản ứng vô đạo lý mưu hèn kế bẩn, từ mại quốc cầu vinh tới phản dân hại nước. Bọn bôi trơn lót tay chính là bọn ăn trơn nuốt trọn từ tài nguyên của đất nước tới nguyên khí của quốc gia, chính chúng đại diện cho cái hèn, ngược chiều vì nghịch lý với cái dũng.
Cái dũng luôn đứng về phía sự thật, về hướng chân lý, để tới với lẽ phải, khi Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc che lấp để che giấu đại dịch cúm tàu tới từ Vũ Hán, thì các quốc gia có đa dũng vì nhân quyền, đã có những quyết định, những chính sách, những hành động phong ngừa rất sớm như Đài Loan, Hàn Quốc, Đức Quốc… Vì họ đã đi guốc trong bụng loại Tàu tà quen thói ăn gian nói dối, nên khi chính cái dũng vì sự thật mà họ đã tự bảo trọng trước đại dịch cúm tàu tới từ Vũ Hán.
Đa luận vì nhân phẩm
Não bộ sáng suốt để não trạng được tỉnh táo trước đại họa, thì các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải thấy cho thấu nếu đại dịch giờ đây đã toàn cầu, thì lối ra từ chữa trị tới thuốc chích ngừa cũng sẽ là đường đi nước bước của toàn cầu, của đa phương, đa diện làm nên đa luận vì nhân loại và nhân phẩm. Não bộ sáng suốt không xé lẻ để chơi riêng, não trạng tỉnh táo không đi đêm để gian lận, như thế giới đã chứng kiến ma dạng trong quỷ mưu của Tàu cộng trong năm 2020, là nguồn gốc của đại dịch, và mượn đại dịch để buôn gian bán lận từ khẩu trang tới y cụ. Nếu định nghĩa đa dũng vị nhân quyền trong quá trình hình thành đa nguyên như một tổng lực của can đảm, can trường, quả cảm, luôn kiên cường vì một đạo lý chính trị loại cho bằng được bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cuồng quyền, cực quyền, thì đa dũng vừa là nội công của đa nguyên, vừa là bản lĩnh của dân chủ, vừa là tầm vóc của nhân quyền. Tại đây, các chủ thể lãnh đạo mới phải vận dụng đa luận vì nhân phẩm để nhận ra hai ung thư vừa sâu đậm trong nội tạng chính trị, vừa rộng đại tràng trong xã hội :
* Xã hội đen, sinh sôi nẩy nở với bạo quyền độc đảng toàn trị, đã ăn cướp chia phần với một hệ thống công an trị, cùng lúc cặp kè với tà quyền tham nhũng trị, nơi mà bọn tham quan vì tham quyền và tham lam đã dựa vào côn đồ, du đảng để trộm, cắp, cướp, giựt đất đai, của cải của dân lành. Xã hội đen là loại ký sinh dựa trên bạo lực, nơi mà côn đồ, du đảng chỉ biết luật rừng của bạo động, chọn bạo hành làm phản xạ, dùng bạo lực để phản hồi. Nhưng đám âm binh này được nuôi dưỡng và giáo dưỡng trong một hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị, mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vừa làm "ô dù", lại vừa "chống lưng" cho xã hội đen. Mà ngay trong bản chất các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ là những thành phần bạo-quyết-trong-vô-tri, chỉ biết phản xạ bằng hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành). Khi bọn cầm quyền có phản xạ bạo lực lại ăn nằm với bọn có phản ứng bằng bạo hành, thì đa luận vì nhân phẩm phải lập cho bằng được liên hiệp giữa luật pháp, đạo lý, giáo dục cùng song hành với văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền. Và không quên công pháp quốc tế với các kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến đã trị được bằng kiến thức rộng, tri thức sâu, nhận thức rộng của rất nhiều chuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn.
* Quyền lực đen, đây là khu vực mà xã hội đen chỉ là âm binh, còn bọn nắm quyền lực đen là những âm tướng, mà có khi chúng tự vỗ ngực là âm chủ, mà hành động luồn lách trong tà quyền, với hành tác chui nhủi trong ma quyền, mà các chuyên gia đã nhận diện ra chúng ngay trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay. Chúng có mặt trong não bộ đen của cực quyền, trong não trạng đen của cuồng quyền, đối với Đảng cộng sản Việt Nam, thì chúng là tác nhân ngay trong cột xương sống hàng dọc : Bộ Chính trị, Ban bí thư trung ương, Ban tổ chức trung ương ; cùng đồng điệu với bộ xương vai hàng ngang : Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Như vậy, trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị này, thì chúng không quá 50 tác nhân, vừa là thủ phạm, vừa là tội đồ của bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, cực quyền bạo lực trị và cuồng quyền thanh trừng trị. Khi đi vào sâu trong khảo sát, để đi rộng trong điều tra, để đi xa trong điền dã, rồi leo ngược lên hệ thống quyền lực đen này, thì ung thư nội tạng ngay nội bộ buôn dân bán nước đã thành đại tràng qua mua chức bán quyền tràn lan ngay trong xã hội. Khi kết hợp được nghiên cứu giữa ba chuyên ngành : chính trị học quyền lực, xã hội học định lượng, tội phạm học chống tham nhũng, thì ta cũng cần sử học cận đại của Việt Nam để kiểm chứng lại là trong thế kỷ XX với hai cuộc chiến tranh do Đảng cộng sản Việt Nam khởi động là chống Pháp và chống Mỹ thì quân đội của Đảng cộng sản Việt Nam không quá 30 tướng, cho tới lúc hết chiến tranh 1975. Hiện nay, thống kê đã cho một số liệu là hơn 800 tướng, trong đó có chuyện là Bộ Công an lại có khoảng 400 tướng, chuyện lạ thấy được trong nghiên cứu là chức tướng phải mua với giá hơn 20 chục tỷ, và có thể lên rất cao tùy vào chỗ mà kẻ mua chức tướng được bổ nhiệm.
Một quân đội không biết bảo vệ đất nước, lại mua chức bán quyền để làm kinh tế quyền lực đen, thương mại quyền lực đen, biến đất quốc phòng thành đất riêng của các tập đoàn ma quyền tham tiền trị. Sẵn sàng mang hằng ngàn công an, cảnh sát giữa đêm truy diệt nông dân đang bảo vệ đất cảnh tác của họ. Giết một đảng viên đã 84 tuổi ngay trên giường ngủ, mà trước đó đã bị hành sát bởi công an, thành người tàn phế, cướp của ban ngày, giết người giữa đêm, lại phanh thây mổ bụng cụ Lê Đình Kình, rồi dùng hình ảnh bạo lực trong bạo quyền để đe nẹt dân tộc. Sau đó lại lập toà án "bỏ túi", mà bọn quan tòa chính là bọn tội phạm thô bỉ nhất đang ngồi đè lên công lý và công luật, để xử 29 nông dân nạn nhân bị cướp đất giờ đây lại mang tội giết người. Và bọn âm binh tà tòa trong tà án đã buộc án tử hình hai người con của cụ Lê Đình Kình là Lê Đình Công, Lê Đình Chức…
Quyền lực đen sẵn sàng cướp ngày, giết đêm mọi công dân nạn nhân đang đấu tranh giữ đất của mình. Bộ Công an ngày ngày có phản xạ cướp đất giết người, là trung tâm tập hợp bọn thích giết người để lấy đất, bọn thích tra tấn nhân dân trong nhục hình để ép cung. Một đất nước mà số tử vong trong đồn công an, trong các trại tù có thống kê cao bất thường bởi cách hành xử bất nhân, cách hành sát thất đức của chúng. Từ Thủ Thiêm tới Đồng Tâm, mọi vùng miền của đất nước đều có dân oan, nơi mà các chuyên gia gọi tên Việt Nam là một cường quốc dân oan. Khi nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về quyền lực đen, thì các chuyên gia phải phân biệt ra hai thành phần, những kẻ mua chức tướng và bọn bán quyền tướng :
* Những kẻ mua chức tướng, chi tiền cho bọn nắm quyền lực đen, vì chỉ muốn mua chức bán quyền, như đầu tự vào đầu mối đen, để khi có chức thì qua tham ô mà trục lợi, với hy vọng sẽ lấy lại vốn từ một tới hai năm, cùng lúc có địa vị tướng cùng danh vị tướng, từ cơ chế bên trong của chính quyền tới danh xưng bên ngoài xã hội. Loại tướng giả này, thì rất dễ lột mặt nạ, không khó gì khi muốn vạch mặt chỉ tên chúng, mà không cần đầu tư vào các quốc sách phức tạp. Cụ thể là chỉ cần dẫn dắt chúng vào ba hệ : hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) song hành cùng hệ giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án) của quân sự qua hệ chuyên (chuyên nghiệp, chuyên môn, chuyên khoa, chuyên nghành) trong quản lý binh sự. Chỉ cần hỏi trực tiếp chúng bằng các giáo trình, giáo án của các trường huấn luyện, huấn nghiệp quân sự của ba câu lục hiện nay là Á châu, Âu châu và Mỹ châu là chúng bị rơi mặt nạ ngay. Từ địa dư luận tới vũ khí luận, tự chiến lược quân sự tới chiến thuật tác chiến là bản chất âm binh của chúng sẽ lộ ra rồi tan biến giữa thanh thiên bạch nhật.
* Bọn bán quyền tướng, đây là bọn đầu sỏ trong âm quyền, có mặt tại các không gian âm giới đầy âm khí của mua bán đen song lứa cùng tham nhũng đen, nơi mà chỉ có tham quyền để tham ô, tham nhũng vì tham tiền. Tại đây, chuyện yêu nước thương nòi, không có chỗ đứng trong não bộ của lòng tham không đáy của bọn đầu sỏ này, không có ghế ngồi trong não trạng vơ vét "không chừa một thứ gì" của bọn đầu nậu này. Đầu sỏ của cột xương sống hàng dọc : Bộ Chính trị, Ban bí thư, Ban tổ chức trung ương ; cũng là đầu nậu của bộ xương vai hàng ngang : Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, thì bọn đầu đàn của quyền lực đen này có âm diện mưu hèn kế bẩn, có âm dạng hèn với giặc, ác với dân, lại có luôn âm cách cao bay xa chạy, khi Tàu tặc chỉ cần đặt vài bước chân xâm lược trên đất nước Việt, là chúng sẽ tẩu tán của cải và tẩu tán như âm binh lánh mặt trời.
Đa dũng vì nhân quyền song hành cùng đa luận vì nhân quyền được chủ trị bởi các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền sẽ phải trực diện đối đầu để đối diện, đối kháng để đối luận, đối nghịch để đối lý với chúng. Nếu chúng là đại diện cho hệ âm (âm binh, âm tướng, âm chủ, âm phần, âm giới) nơi mà bản chất thâm, độc, ác, hiểm đã song sinh cùng bản sắc xấu, tồi, tục, dở của chúng ; thì các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền phải đại diện cho song hệ với hệ : hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) song hành cùng hệ giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án) phải được trợ lực thêm bởi hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ). Vì các chủ thể Việt tộc yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền không bao giờ chấp nhận "ngồi cùng chiếu, ăn cùng mâm" với các tội phạm của hệ âm này.
Lê Hữu Khóa
(29/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Sáng
Sáng kiến thường nhật * Sáng tác thường xuyên * Sáng tạo thường trực
Sáng kiến thường nhật
Trong thế kỷ có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền, thì một chính quyền khi thực hiện được cơm no áo mặc cho dân, chỉ là bước đầu trên con đường đi tìm nhân phẩm. Và con đường này sẽ dài và nếu có các lãnh đạo tinh anh, thì nhân lộ này sẽ vô cùng sáng lạn khi chính quyền thực sự thông minh đi vào hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo). Tại đây mỗi công dân được giáo dục và giáo dưỡng như một chủ thể sáng tạo không những có bổn phận với dân tộc, có trách nhiệm với đất nước, và luôn vận dụng hệ sáng để phục vụ đồng bào và đồng loại.
Ngay trong khẩu hiệu hiện nay của bạo quyền độc đảng toàn trị, trên đầu dòng trên mỗi văn bản, mỗi tờ giấy hành chính đều có một câu mơ tưởng trong mơ ảo với ba mệnh đề : độc lập - tự do - hạnh phúc. Cả ba khẩu hiệu này đều không có thật trong một chế độ ngày ngày tạo ra bất công, cho sản sinh ra hai quái thai thất nhân bất đức : tà quyền tham nhũng trị và ma quyền tham tiền trị. Hai quái thai này vừa tham tài nguyên, vừa tham đất đai, ăn chia cùng bạo quyền độc đảng toàn trị để một sớm một chiều biến dân lành thành dân đen và dân oan.
Trước Tàu tặc thì cúi đầu để mất đất, khom lưng để mất đảo, quỳ gối để mất biển, nắm quyền mà bị chính dân dán cho khẩu hiệu : "hèn với giặc, ác với dân", mà hèn với giặc thì làm sao có độc lập, mà ác với dân thì làm sao dân có hạnh phúc. Còn tự do thì hoàn toàn là mơ mòng dẫn tới mơ hảo trong một chế độ quỷ quyền công an trị, đã đày ải những đứa con tin yêu của Việt tộc đấu tranh chống bất công vì dân chủ, tự do và nhân quyền. Những đứa con tin yêu đều bị biến thành các tù nhân lương tâm trong vòng lao lý của một nền tư pháp bị âm binh hóa bởi tà pháp của Đảng cộng sản Việt Nam, sau khi ngồi xổm lên hiến pháp, giờ thì ngồi-đè-cho-ngộp luôn cả tư pháp.
Khi một chính thể ra đời từ đa nguyên, có nền là dân chủ, có gốc là nhân quyền, thì chính thể này sẽ dựa trên hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) từ giáo dục tới văn hóa, từ kinh tế tới thương mại, từ chính trị tới ngoại giao… Từ đây đưa dân tộc và đất nước nhập nội một cách sớm nhất, nhanh nhất vào nhân lộ văn minh vì nhân phẩm. Nhưng hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) không khơi khơi trên trời rơi xuống, không tự nhiên dưới đất trồi lên, mà nó là con tính của não bộ, có sáng suốt "nhìn xa trông rộng", có tỉnh táo "biết người biết ta". Đó là một chính quyền sáng tạo biết hành động hợp lý trong bối cảnh văn minh khoa học kỹ thuật nhanh, biết hành tác toàn lý trong hiện cảnh văn minh kỹ năng tin tức và truyền thông rộng, biết hành giả chỉnh lý trong không gian hợp tác quốc tế sâu. Hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) xuất hiện trong đa nguyên của dân chủ, có hiền tài là nguyên khí của quốc gia lãnh đạo một chính quyền liêm chính và thông minh, vì một dân tộc biết sáng tạo để thay đời đổi kiếp cho chính mình :
- Sáng kiến thường nhật, ngược lại với phản xạ làm công như phản xạ cúi đầu chờ lương tháng, hoặc loại công chức sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về, mà với những chủ thể đến với công việc bằng những sáng kiến thường nhật. Hàng ngày, có tự chủ để tạo hiệu năng, có tự tin để tạo hiệu suất, có tự trọng để tạo hiệu quả tăng trưởng ngay trong công việc của mình, mà không cúi đầu chịu đựng công việc, không khom lưng lãnh nhận công tác, không khoanh tay thụ động trong công vụ.
- Sáng tác thường xuyên, không phải là biến nhân kiếp thành bộ máy, biến nhân sinh thành công cụ, biến nhân gian thành vật liệu trong sản xuất, mà chủ động như những chủ thể, có chủ đoán trong chương trình, có chủ quyết trong phương án. Sáng tác trong văn hóa tới nghệ thuật ; sáng lập các năng suất, hiệu suất, hiệu quả mới từ giáo dục tới đào tạo, sáng chế những đồ án, dự án, phương án mới để tập thể, cộng đồng, dân tộc được thăng hoa càng sớm càng hay trên nhân lộ văn minh.
- Sáng tạo thường trực, không những trong khoa học kỹ thuật mà cả trong văn hóa và giáo dục, không những trong văn học và nghệ thuật mà cả trong kinh tế và thương mại… Sáng tạo chính là sự chuyển đời đổi kiếp của quá trình chuyển hóa tích cực não bộ, chuyển biến hiệu quả não trạng ; đó là sự vận não rồi động não, vắt não để thoát khổ, mở não để thoát nghèo. Không chấp nhận số kiếp xuất khẩu lao động, không chấp nhận nhân kiếp trai làm lao nô, gái làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, vì Việt tộc không hề thua kém về thông minh và sáng tạo trước bất cứ một sắc tộc, chủng tộc, dân tộc nào trên hành tinh này.
Chỉ cần một chính quyền có hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng chế, sáng lập, sáng tạo), một chính phủ có quyết sách đường dài với quyết đoán của phương trình sáng kiến thường nhật-sáng tác thường xuyên-sáng tạo thường trực là có thể đưa đồng bào và đất nước từ âm đạo của âm binh tà quyền độc đảng toàn trị vào nhân lộ của văn minh vì nhân phẩm của Việt tộc. Đây không hề câu chuyện lý thuyết viễn vông mà là kinh nghiệm đã có và đã thành công của các quốc gia láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam, đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Mà ta không quên Trung Quốc, chỉ nhờ một minh chủ loại Đặng Tiểu Bình, chỉ trong hơn 20 năm là thoát được nghèo nàn lạc hậu, giờ lại thành một loại cường quốc, chỉ sau Hoa Kỳ.
Bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam là không có bản lĩnh của minh chủ kiểu Gorbachev của Liên Xô cuối thế kỷ XX để từ bỏ ý thức hệ cộng sản và xã hội chủ nghĩa. Lại không có nội công của minh chúa loại Đặng Tiểu Bình để thăng hoa dân tộc qua con đường thương mại đẩy kinh tế, kinh tế đẩy phát triển, phát triển đẩy tiến bộ. Bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam chính là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, một Đảng cộng sản Việt Nam không có tâm với dân tộc nên không có tầm với giống nòi, không có tài lãnh đạo đất nước, nên gây bao hiểm nạn qua nhiều thế hệ.
Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây, từ Âu châu tới Bắc Mỹ, được-hoặc-bị tiếp xúc với các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì tất cả họ đều nhận ra rằng : các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam dù có trọn chính quyền trong tay, họ độc tài nhưng họ lại bất tài, họ độc trị nhưng họ không biết quản trị. Khi các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây tiếp cận để tìm hiểu về nội công chính quyền, bản lĩnh chính phủ, tầm vóc lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì họ nhận ra rằng các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thiếu, vắng, trống, rỗng ba loại kiến thức căn bản sau đây để lèo lái một dân tộc về hướng văn minh vì nhân phẩm :
- Kiến thức tổng quát, từ nhân sinh tới nhân loại, từ nhân tri tới nhân trí có rễ của lịch sử, có gốc của văn hóa, có cội của giáo dục, có nguồn của đạo lý… các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có kỹ năng lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận. Họ không có những tri thức cần thiết trong lãnh đạo trước hiện tình của thế giới và họ có kiến thức mờ nhạt về văn hóa Việt, họ có ý thức lỏng lẻo về văn minh Việt, họ có nhận thức lèo bèo về văn hiến Việt…
- Kiến thức chuyên môn, nơi mà một lãnh tụ hay một lãnh đạo phải là chuyên gia có chuyên môn, được giáo dục qua một chuyên khoa, được đào tạo bằng một chuyên ngành. Lại phải liên tục được huấn nghiệp để có chuyên nghiệp sắc nhọn trước tình hình tiến hóa của nhân loại. Ngược lại các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cạn cợt với sách lược đoản kỳ, họ lạng quạng với chính sách trung kỳ, họ hời hợt với quyết sách trường kỳ.
- Kiến thức hợp tác, nơi mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam tự đóng khung vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa viễn vông, mà không có đồ án về liên minh ngoại giao quốc tế, không có dự án về liên hiệp chính trị quốc ngoại, không có phương án về liên kết kinh tế liên châu lục, với tầm nhìn của một toàn cầu hóa mở, rộng, nhanh…
Đây là câu chuyện hoàn toàn kiểm chứng được, khi ra khỏi Việt Nam, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không dám tới các hội nghị có tầm vóc vĩ mô để đối thoại với các lãnh đạo của các quốc gia tiên tiến có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không dám tới các hội thảo có vai vóc chuyên môn để đối luận với các chuyên gia quốc tế về các hệ vấn đề tự do là tiến bộ, công bằng là nhân quyền và bác ái là dân chủ. Thậm chí, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không có nội lực tự tin để tới các đại học mà đối thoại để đối lý với các sinh viên trong các hội luận như các lãnh đạo của nhiều quốc gia châu Á, châu Phi… Đây là câu chuyện hoàn toàn thể nghiệm được, khi ta vận dụng ba chuyên ngành sắc nhọn của khoa học xã hội và nhân văn hiện nay :
- Chính trị học tri thức, tức là chỉ có tri thức luận của chính khách mới làm nên tri thức học của chính sách. Còn chính khách mà vô minh và vô tri thì chính sách sẽ vô giác và vô cảm.
- Tâm lý học truyền thông, nơi mà nội dung truyền thông của một lãnh đạo có trong ý nghĩa ngôn ngữ mà lãnh đạo đó muốn truyền đạt đã chuyển tải các giá trị nhân bản và nhân văn nào ? Từ đây, nội dung truyền thông, ý nghĩa ngôn ngữ, giá trị nhân bản chỉ là một trong tuyên bố, trong lời ăn tiếng nói của lãnh đạo đó.
- Xã hội học ngôn ngữ, tại đây ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp của một lãnh đạo làm nên thuật ngữ ngay trong chính ngữ của chính khách. Qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp, người nghe khi tiếp nhận tin tức, dữ kiện, chứng từ của lãnh đạo này thấy và thấu được nhân tính, nhân lý, nhân cách của lãnh đạo đó.
Mà nhân tính, nhân lý, nhân cách của lãnh đạo này tới từ nhân tri, nhân trí, nhân văn của hắn, biểu hiện nhân đạo, nhân tâm, nhân nghĩa của hắn trước hằng số của nhân quyền và nhân phẩm của nhân loại. Nên khi ứng dụng ba phương pháp này để xem, xét, tra, kiểm nhân cách, phong cách, tư cách của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thì ta có các kết quả rất cụ thể, mà đây là một thảm kịch cho Việt tộc là từ ông Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam kiêm chủ tịch nước CHXHCNVN, tới thủ tướng đại diện cho hành pháp, qua tới bà chủ tịch Quốc hội thì các chuyên gia quốc tế phải kết luận là trình độ học vấn và học lực của họ không hơn một sinh viên cấp cử nhân của các quốc gia phương Tây có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền.
Các học hàm lẫn học vị của các lãnh tụ hoặc lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là cao học hay tiến sĩ, vì các bằng cấp mà họ trưng ra trong lý lịch và hồ sơ cá nhân của họ không hề là kết quả của học thật. Nên các học hàm lẫn học vị của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đến từ một hệ thống giáo dục học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả. Và chỉ có (sự) thực mới vực được đạo, chỉ có học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật tới từ học thật bằng học lực mới làm nên học vấn của lãnh đạo. Đối với các lãnh đạo cùng các chuyên gia quốc tế của phương Tây thì chuyện đánh lận con đen trong mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền chỉ làm trò hề, trò cười, trò bịp trong hợp tác quốc tế mà thôi !
Sáng tác thường xuyên
Sáng tác trong nghệ thuật, sáng chế trong lao động, sáng lập trong các sinh hoạt của xã hội dân sự, chính là dàn phóng của nhân tri để nhân trí thăng hoa là những chỉ báo cụ thể của một chế độ dân chủ. Mà dân chủ tới từ đa nguyên luôn chuyển tải đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu qua sáng tác, sáng chế, sáng lập tạo chuyển hóa tích cực ngay trong não bộ, tạo chuyển hóa thường xuyên ngay trong não trạng.
Định luật của sáng tác, sáng chế, sáng lập là thay đổi tích cực hiện tại để tương lai được nhập nội vào nhân lộ hay, đẹp, tốt, lành của nhân phẩm. Nhưng ngược lại não bộ là não trạng thì luôn bị tác động bởi quá khứ, bám vào lịch sử nhưng lại bất lực khi phải toan tính cho tương lai gần, sống với ký ức nhưng bất an khi phải tính toán cho tương lai xa. Đây là sự khác biệt một trời một vực của các não bộ tự chủ và tự tin với sáng tác, sáng chế, sáng lập, luôn ngược chiều và luôn đối kháng với loại não trạng tiếc xưa nhớ cũ, quẩn quanh với quen thói đường mòn của ngựa quen đường cũ.
Nhân kiếp nhàm chán trong tẻ nhạt, với sớm, trưa, chiều, tối, chỉ biết lập đi lập lại một cách dễ dãi chuyện thường nhật vô thưởng vô phạt, loại người này, tránh vận não, để lách động não, để trốn vắt não. Một chính quyền thông minh một dân chủ thông thái muốn thay đời đổi kiếp dân tộc theo hướng thăng hoa, biết dứt khoát rời, rũ, buông, bỏ với loại não trạng này chỉ biết mang số kiếp chờ sung rụng, số phần gà què ăn quẩn cối xay. Những động cơ của sáng tác, sáng chế, sáng lập phải dựa trên gốc, rễ, cội, nguồn của tri thức về sự thật, trí thức về chân lý, nhân trí về lẽ phải, đây là những định đề của sự chuyển hóa tích cực của não bộ phục vụ sáng tác, sáng chế, sáng lập :
- Sự chuyển hóa tự nhiên, nơi mà tất cả sinh vật, đều được hoặc chịu sự chuyển hóa tự nhiên, hàng ngày, tất cả đều phải chịu sự chuyển hóa qua thời gian và không gian. Chân lý của định đề sinh, lão, bịnh, tử khi được hiểu đúng rồi, thì mỗi chủ thể phải thấy cho thấu là cuộc đời của mình rất ngắn ngủi, và ta phải làm gì cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, để có một nhân sinh đầy giá trị. Một câu hỏi được thi sĩ Vũ Hoàng Chương mô hình hóa bằng thi luận : "Ta làm chi đời ta ?", đây là thượng nguồn của quy trình sáng tác, sáng chế, sáng lập, cụ thể là đang sinh sống tức là đang sáng chế, tức là đang chủ động chuyển hóa.
- Sự phản chuyển hóa của quá khứ, không ai thay đổi được quá khứ, ký ức, lịch sử, vì ta không thể thay đổi những gì đã xẩy ra : bạo quyền công an trị đã giết người, tà quyền tham nhũng trị đã cướp của, ma quyền tham tiền trị đã phá nhà, cướp đất… biến dân chúng, dân lành thành dân đen, dân oan… Chúng ta không thay đổi được quá khứ của chế độ vô học trị đã ngu dân hóa dân tộc, của ý thức hệ bạo lực trị đã gây bao lầm than cho Việt tộc. Nhưng chúng ta phải học bài học của lịch sử để tái tạo lịch sử tương lai bằng cách nhân tính hóa lịch sử, là làm ngược lại, cụ thể thay bạo quyền bằng nhân quyền, thay ngu dân trị bằng tri thức trị.
- Sự chuyển hóa tất yếu, khi mà chúng ta phải bắt buộc thay đổi để tồn tại, bó buộc chuyển đổi để sinh tồn trong thử thách bịnh tật, thiên tai, trong thăng trầm của nghèo đói, lạc hậu. Trước tất yếu bịnh tật, thiên tai, nghèo đói, lạc hậu, khoa học lẫn kỹ thuật vẫn cung cấp cho nhân sinh một cuộc sống ngày càng nhiều tiện nghi, y khoa vẫn bảo vệ ngày càng tốt hơn sức khỏe của nhân sinh, liên tục làm tăng tuổi thọ của nhân loại
- Sự chuyển hóa tích cực, khi con người nhận ra nếu không chuyển hóa tức thì sẽ bị tai ương hủy diệt, nếu không chuyển biến tức khắc thì sẽ bị bất công nuốt chửng. Lấy sáng kiến để tạo sáng tác, sáng chế, sáng lập chống lại tai ương của dịch bịnh, chống lại bạo hành của bạo quyền. Sự chuyển hóa tích cực chống lại loại triền dốc đi xuống của nhân sinh, đang lao vào vực thẳm, nếu không tỉnh thức thì chắc chắn là thiệt mạng.
- Sự chuyển hóa tích cực đóng dấu hay, đẹp, tốt, lành cho nhân sinh, mang dấu ấn cao, sâu, xa, rộng cho nhân quyền. Nó hoàn toàn ngược lại với sự chuyển hóa tiêu cực đã xấu, tồi, tục, dở rồi, giờ lại lao mình như con thiêu thân để thành quỷ, ma, tà trong thâm, độc, ác, hiểm. Và trong bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay, Việt tộc đang trên triền dốc đi xuống của xấu, tồi, tục, dở, và đang lao thân vào vực thẳm của thâm, độc, ác, hiểm của loại tà quyền buôn dân bán nước.
- Sự chuyển hóa cùng tha nhân, nếu chuyển hóa chỉ một thân thì không sao xoay chuyển được tình hình, nếu chuyển hóa chỉ một mình thì không sao xoay dời được thời cuộc. Khi cùng chuyển hóa với tha nhân thì chính sự hợp tác với tha nhân làm nên cái chung trong đồng cam cộng khổ và cái chung này sẽ là cái chia trong đồng hội đồng thuyền với tha nhân, nơi mà đoàn kết và tương trợ sẽ tạo được thành công.
- Sự chuyển hóa được tuyển chọn, nếu chuyển hóa là tự nhiên, là tất yếu, là hiển nhiên, thì khi cá nhân định vị mình như chủ thể đang làm chủ cuộc đời của chính mình. Chủ thể này phải chọn lựa những quyết định, phải tuyển chọn những hành động, phải tuyển dụng những hành tác hợp với sự thật, chân lý, lẽ phải bằng nhân bản, nhân tri và nhân quyền. Từ đó, chuẩn bị một tương lai ít xấu, tồi, tục, dở, và luôn mong cầu được tiếp cận với nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành. Mà nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành đã có ở thượng nguồn, đó chính là lý tưởng, là hoài bão, là dự phóng về một nhân vị cao, sâu, xa, rộng.
- Sự chuyển hóa sâu rộng vì nhân sinh, nơi mà các chủ thể đại diện cho văn minh dân chủ, văn hiến nhân quyền luôn có mặt trong các lĩnh vực khác nhau từ khoa học tới kỹ thuật, từ chính trị tới kinh tế, từ văn hóa tới giáo dục. Đó là những chủ thể nhìn xa trông rộng, dám nghĩ và dám làm vì mục đích cao cả là phục vụ nhân quyền vì nhân phẩm. Các chủ thể này tổng hợp được công việc chuyên môn của mình để chế tác ra những nhân sinh quan, để chế tạo ra những thế giới quan, để hành tác bằng những vũ trụ quan đứng đắn biết bảo vệ từ môi trường tới môi sinh. Không những biết tự thay đổi cuộc đời của họ mình mà chuyển hóa cả nhân loại theo hướng chuyển hóa sâu rộng qua nhiều thế hệ, qua nhiều thế kỷ.
- Sự chuyển hóa để tìm ra chính mình, khi vào quyết tâm chuyển hóa não bộ, khi vào quyết đoán thay đổi não trạng, trên nhân lộ đi tìm văn minh vì nhân phẩm, thì các chủ thể sẽ tự nhận ra mình. Nhận ra chính mình với ý nguyện sống sao cho có ý nghĩa, làm nên ý lực sống sao cho có trí lực, để đưa cuộc đời của chính mình cùng với tha nhân để vào nhân lộ văn minh. Một nhân lộ có đồng bào, đồng loại cùng với mình, tất cả nhận ra nội công của nhân quyền, bản lĩnh của nhân bản, tầm vóc của nhân vị.
- Sự chuyển hóa biết giữ gìn tiền đồ, trong đó có vốn liếng của dân tộc, có di sản của tổ tiên, có tài nguyên của đất nước không những phải được bảo trì mà phải vận dụng sự chuyển hóa tích cực để bảo quản cho bằng được những gì mình đã có, đang có. Từ đó cái mình sẽ có sẽ bồi đắp, bồi bổ, bồi dưỡng cho những gì mình đã có, đang có. Một chính quyền tới từ sự thông minh của đa nguyên, tới từ sự thông thạo của dân chủ, tới từ sự thông thái của nhân quyền là một tập hợp của các chủ thể biết tiến tới tương lai, biết đi tới chân trời, cùng lúc biết cõng, bống, bế, ẵm một cách nâng niu và trân quý cơ ngơi của tổ tiên, dân tộc, đất nước.
- Sự chuyển hóa cùng các giá trị phổ quát và vĩnh hằng, qua nhân sinh quan cùng thế giới quan của những chủ thể biết tôn trọng các giá trị thiêng liêng của nhân loại, các giá trị tâm linh của dân tộc các giá trị đạo đức của nhân phẩm, mà ta phải giữ cho bằng được các giá trị này trong suốt quá trình chuyển hóa dù phải qua bao thử thách, bao thăng trầm, bao trầm luân. Hãy hiểu tới cùng các cuộc biến thiên, làm thay trời đổi đất, để thấy cho thấu là qua vật đổi sao dời các giá trị nhân bản làm nên nhân vị vẫn luôn tồn tại và được vun đắp ngày càng phong phú hơn.
- Sự chuyển hóa theo ước nguyện ban đầu, với thủa ban đầu của một hoài bão đẹp, một lý tưởng cao, một mong cầu đất nước thanh bình với một dân tộc được sống trong một nhân loại thái hòa. Ước nguyện thủa ban đầu là ước nguyền triền miên của một nhân sinh quan không ích kỷ đóng cửa để thụ lợi, không vị kỷ đóng kín để tư lợi, mà hành động vì đồng bào, hành tác vì đồng loại. Biết hợp tác với tha nhân để làm rộng nhân thế, làm cao nhân bản, làm sâu nhân tâm. Sinh và sống với não bộ luôn ở tuổi thanh niên dù hiện nay đã qua tuổi thanh niên, đã quá tuổi thanh xuân nhưng luôn trẻ trung từ tư duy tới hành động bằng những dự phóng cho tương lai, bằng những dự án cho các thế hệ mai hệ. Trẻ trong não bộ để không già trong não trạng, đây là thử thách thông minh cho một chính quyền sáng tạo, mong muốn có một chính thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền với não bộ của sáng tác, sáng chế, sáng lập.
Sáng tạo thường trực
Sáng tạo thường trực không hề là sáng tạo vô lý trong vô luận, mà sáng tạo trên một hệ lý luận chỉnh lý cho tương lai, khi bạo quyền độc đảng toàn trị sụp đổ, thì một minh chủ tạm thời nắm quyền hay một chế độ dân chủ thật sự ra đời. Muốn não bộ chuyển biến tích cực, não trạng chuyển hóa linh động thì phương pháp luận nhận định tương lai cho dân tộc là tiền đề tiên quyết, nội dung tiền đề này có gì ? Ý nghĩa của nó ra sao ? Tư tưởng của nó thế nào trong những năm tháng trước mắt ?
- Nhận thức về thời gian, mà thời gian tính đã được thay đổi, hàng ngày, bị biến đổi liên tục với những khám phá mới của khoa học, những ứng dụng mau của kỹ thuật. Cùng lúc truyền thông với vận tộc tức thì, trên quy mô toàn cầu hóa, thì cách sống hằng ngày và các tiếp cận với tin tức của con người cũng bị thay đổi với vận tốc khám phá của khoa học, ứng dụng của kỹ thuật.
- Tâm trạng bất an, trong một nhân loại khai thác tối đa năng lượng để sản xuất, tiêu xài năng lượng ngày càng nhiều để xây dựng, cụ thể là hủy năng lượng và cùng kiệt hóa năng lượng thiên nhiên cùng lúc gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Mà trong tương lai không xa, trong 9 tỷ người khoảng 2030, thì có ít nhất 1 tỷ người là nạn nhân và sẽ là lực lượng tị nạn khí hậu, rời bỏ các vùng cận biển đi di dân, rồi nhập cư qua các quốc gia, các châu lục chưa là nạn nhân của mặt biển dâng từ biến đổi khí hậu.
- Thay đổi quan niệm về tiến bộ khoa học, rời bỏ quan niệm khoa học luôn làm nên văn minh cho nhân loại, cũng thay đổi trước các thục tế mới : nỗi lo về chiến tranh nguyên tử, hóa học, cộng thêm nỗi lo về ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh hiện nay… Tất cả sẽ tạo ra một tâm lý tiếp nhận tiến bộ khoa học với sự thận trọng, có sáng suốt trong nhận định, có tỉnh táo trong quyết định. Được hình tượng hóa qua hiện cảnh con người luôn yêu quý thiên nhiên, nhưng cùng lúc biết phòng xa trước các thay đổi khó đoán trước được của thiên nhiên. Vẫn yêu rừng, núi, biển, nhưng vào rừng, leo núi, ra biển với các phương tiện vi tính để định vị, và điện thoại thông minh để liên lạc với các hệ tống cứu nguy và bảo hiểm.
Từ đây, tương lai học có chỗ dựa của các ngành khoa học chính xác và thực nghiệm, cùng các khám phá của các ngành khoa học mới : khoa học não bộ, khoa học thần kinh, đã biết đi tới một khoa học luận có tri thức luận làm nền tảng để tới các lập luận sau đây :
- Phương án dài hạn để cứu nguy, đây là luận điểm của tương lai luận, cụ thể là nhân loại chỉ có thể tự cứu mình với những phương án dài hạn, thay đổi thói quen của não trạng, biến đổi đường mòn của não bộ qua các phương án cứu nguy, đi tới trong thế thăng bằng và đi tới bằng các chương trình dài hạn. Được cụ thể hóa qua biểu tượng của một nhân loại đang chơi các trò chơi thể thao thăng bằng (đi xe đạp, trượt tuyết, trượt sóng, trượt băng) nếu muốn không ngã, không té, không rớt thì phải đi tới, tiến tới với lý trí của chương trình, trí tuệ phương án, tuệ giác của đồ án tới cả phục vụ cho tương lai lâu dài.
- Phương án dài hạn với nhân bản, của một nhân loại có nhân tri sáng suốt, có nhân trí tỉnh táo, trong nhìn xa trông rộng, tiếp nhận khám phá khoa học với sự thận trọng về ý nghĩa của nó có đóng góp gì không cho nhân phẩm, tiếp đón ứng dụng kỹ thuật với sự cẩn trọng về nội dung của nó có trao truyền tích cực gì không cho nhân quyền. Khi con người biết đặt ra các câu hỏi chỉnh lý này để bảo vệ nhân bản và nhân vị, thì con người phải suy nghĩ vè những phương án dài hạn vì nhân bản. Khi Descartes ra luận thuyết con người phải làm chủ thiên nhiên để xây dựng hạnh phúc và tự do của mình bằng các phương tiện của khoa học và kỹ thuật ; thì sau ba thế kỷ tư duy trong não bộ của con người đã thay đổi rất nhiều. Giời đây, con người không muốn làm chủ thiên nhiên để tàn phá thiên nhiên, mà muốn sống chung, cùng lúc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, môi sinh như chính bảo vệ nhân phẩm của mình.
- Phương án dài hạn về nhu cầu cơ bản, chính nhân loại phải có phương án rõ ràng và rành mạch về nhu cầu của mình, đủ xài để đủ sống, chớ không được hoang phí thiên nhiên, lãng phí năng lượng, phung phí tài nguyên. Môt quan niệm đứng về nhu cầu căn bản của mình là một phương án vừa cụ thể cho hiện tại, vừa thiết thực cho tương lai khi các câu trở lời chỉnh lý về nhu cầu sẽ vạch ra nhân lộ mà còn người muốn tới. Một nhân lộ văn minh, không tiêu xài bừa bãi, không thiêu hủy năng lượng lẫn môi sinh một cách vô tội vạ, không vung tay quá trán, không lãng phí lương thực lẫn tài nguyên.
Thảm trạng của Việt tộc hiện nay, thảm kịch của đất nước Việt hiện giờ, là bạo quyền độc đảng toàn trị trong tay Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đi ngược, làm nghịch lại 3 loại phương án này. Cụ thể là không có chính sách cứu nguy dân tộc, không có quốc sách nhân bản vì giống nòi, không có quyết sách về các nhu cầu cơ bản. Mà ngược lại, dân tộc chỉ thấy một tập đoàn lãnh đạo bán tài nguyên cho Tàu tặc ngoại xâm, tiêu hoang thiên nhiên, xài phí môi trường, với cây rừng nguyên sinh thành vật liệu xây cất và trang trí các biệt dinh, biệt phủ, biệt thự của các lãnh đạo, đã vào lộ trình buôn dân bán nước.
Chuyển hóa não bộ là tất yếu, chuyển biến não trạng là tự nhiên, trong quy luật của những ai biết sống còn, sinh tồn, mà còn biết thăng hoa ngay trong kiếp người này, và không đợi một ý thức hệ hứa hẹn ảo để gian trá hóa nhân kiếp, không để một bạo quyền độc đảng toàn trị điếm nhục hóa nhân phẩm của mình mà phải có ít nhất hai định hướng bằng :
- Tương lai luận ngay trên nhân bản, nhân văn, nhân lý, nhân tính của mình bằng những dự án cùng những dự phòng biết bảo vệ nhân tri, nhân trí, nhân vị, nhân quyền của mình.
- Tương lai học ngay trên nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân giáo của mình bằng những phương án cùng những phương sách biết bảo trì nhân đạo, nhân cách, nhân ái, nhân phẩm của mình.
Từ đây chỉnh lý trong đề án, hợp lý trong thảo luận, toàn lý trong quyết định để tìm cho ra một cuộc sống biết vị nhân quyền mà phục vụ cho một cuộc đời biết vị nhân phẩm.
Lê Hữu Khóa
(22/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Thông
Thông minh biết trưởng thành * Thông thái biết văn minh * Thông thạo để tiến bộ
Thông minh biết trưởng thành
Khi bạo quyền độc đảng toàn trị ra đi, Việt tộc phải xây dựng một cơ chế có văn minh dân chủ và có văn hiến nhân quyền nơi mà sự thông minh của công dân, của hội đoàn, của đảng phái trong đa nguyên được sử dụng, vận dụng, tận dụng. Nhưng một loạt các hậu quả cùng các hệ quả của bạo quyền độc đảng toàn trị phải được giải quyết và phải mất thới gian cùng năng lượng để tẩy, xóa, bứng, nhổ đi các hậu nạn mà nó để lại, nhất là trong phản xạ của não bộ, phản ứng của não trạng mỗi người dân già, trẻ, lớn, bé. Đây là một thử thách lớn sẽ sinh ra nhiều thử thách khác khi não bộ cùng não trạng đã bị điều kiện qua nhiều thế hệ bởi tuyên truyền, nơi mà tuyên giáo mang bản chất man trá, nơi mà tuyên huấn mang nội chất gian xảo.
Trong giai đoạn chuyển biến này, một chính quyền có tỉnh táo trong quyết sách, sẽ sáng suốt trong chính sách, nhưng vẫn phải là thêm một giáo khoa luận xã hội để thuyết phục hai loại tâm lý tập thể. Tâm lý thứ nhất là của một cộng đồng đầy bi quan : "tình hình hỗn loạn quá !", "không thay đổi gì được đâu !", "tương lai sao tối tăm thế !"… Tâm lý thứ nhì là của một cộng đồng quá lạc quan : "tình hình chắc chắn sẽ khá hơn", "nhiều chuyện sẽ thay đổi theo hướng tốt", "tương lai sẽ đẹp hơn nhiều so với hiện nay". Cả hai loại tâm lý đều xa lạ với một chính quyền có bản lĩnh dân chủ, có tầm vóc nhân quyền, vì tâm lý bi quan hay khách quan là tâm trạng của những kẻ đứng bên lề, bên ngoại, không muốn dự cuộc, nên sẽ bị loại ra khỏi cuộc thay đời đổi kiếp trước chân trời dân chủ.
Các chủ thể lãnh đạo dân chủ không phải là kẻ đứng bên lề, cũng chẳng phải là người để bên ngoài tác động và ảnh hưởng với hai loại tâm lý ngoại cuộc, bi quan hoặc khách quan. Mà các chủ thể lãnh đạo dân chủ, khi dân bầu với chương trình của mình, thì quyết tâm tạo nên quyết sách của người trong cuộc, chủ động trước hậu quả và hậu nạn mà bạo quyền độc đảng toàn trị đã để lại. Các chủ thể lãnh đạo dân chủ này, tự chính quyền tới chính phủ phải là kẻ ở trong cuộc, thấy dòng nước đen đầy nhiễm ô của hậu quả và hậu nạn mà bạo quyền độc đảng toàn trị đã để lại, thì không đứng trên bờ, mà than vãn bi quan hoặc hô hào lạc quan. Mà phải nhảy xuống dòng nước đen này để bơi qua bờ bên kia.
Khi qua được bờ bên kia, sau khi vượt thoát hậu quả, thì phải tính tới chuyện vượt thắng hậu nạn, cụ thể là không rời dòng nước đen nhiễm ô này, mà phải tổng kết tất cả các kinh nghiệm cụ thể khi vượt dòng nước bẩn này, để tự đó sạch hóa dòng nước này. Trong sạch hóa một thảm kịch của đất nước, trong lành hóa một thảm trạng của một dân tộc bằng tri thức luận của dân chủ, luôn dựa trên tri thức học của nhân quyền. Nơi mà chỉ kiến thức về sự thật mới thoát được những tư tưởng bi quan "bàn lùi", nơi mà chỉ tri thức về chân lý mới thắng được những tư tưởng lạc quan "quá đáng", để cùng nhau đi về phía lẽ phải mà nhận nhân quyền một cách xứng đáng nhất của những kẻ trong cuộc, vì sự thật, chân lý và lẽ phải.
Kant ngay trong thế kỷ ánh sáng là thế kỷ XVIII là nhìn dân chủ và nhân quyền qua những thử thách của sự thật, chân lý và lẽ phải, khi triết gia này phân tích là luôn có hai tâm trạng rất khác nhau khi con người nhận lãnh chính số phận của mình và quyết định từ sinh mệnh tới tương lai của mình. Hai tâm trạng đó là : tâm trạng thứ nhất là lo âu, tâm trạng thứ nhì là giận dữ, hai tâm trạng thật khác nhau, xa lạ nhau, nhưng những kẻ lãnh đạo có thông minh của dân chủ, có thông thái của nhân quyền sẽ thấy đây là hai hùng lực có thể khai thác và khi khai thác được chúng thì nhân sinh sẽ khá lên.
Tâm trạng thứ nhất là lo âu sẽ giúp cho người ta cẩn thận hơn trong nhân thế, cẩn trọng hơn trong nhân gian, và sẽ phòng xa để phòng ngừa các biến nạn cho nhân sinh. Tâm trạng thứ nhì là giận dữ trước các bất công xã hội còn tồn tại, khi người ta bất nhẫn bằng giận dữ trước các hậu quả xấu còn tồn đọng trong xã hội, thì người ta phải chọn thái độ tích cực tham gia để loại bỏ các bất công còn tồn tại, các hậu quả xấu còn tồn đọng. Trực diện để chống lại với cái xấu, tồi, tục, dở, là bản chất của dân chủ, hoàn toàn khác với bạo quyền độc đảng toàn trị là luồn lách để bao che cho những cái cái xấu, tồi, tục, dở, để tiếp tục lũng đoạn xã hội, thao túng quyền lực.
Tocqueville, khi nghiên cứu đặc biệt về sự vận hành của dân chủ thì nhận ra hai giai đoạn của nhân loại : giai đoạn thứ nhất là phải sống dưới bạo quyền độc tài, và giai đoạn thứ nhì là được sống trong cơ chế dân chủ. Giai đoạn thứ nhất trong bạo quyền độc tài được xem như là giai đoạn bị ngu dại hóa bởi bạo quyền, và chính sách ngu dân của bạo quyền là sử dụng bạo lực lẫn tuyên truyền để ngây ngô hóa não bộ của một dân tộc, chính đây là giai đoạn mà bạo quyền độc tài cũng là tà quyền độc trị, với ý đồ tạo ra não trạng không cho phép một dân tộc trưởng thành, không cho phép một giống nòi lớn lên, không cho phép một đất nước phát triển một cách bình thường.
Và giai đoạn thứ nhì là dân chủ thì hoàn toàn ngược lại, dân tộc được ít nhất bốn cơ chế bảo đảm sự trưởng thành của một dân tộc. Một là kiến thức về cộng hòa có tự do, công bằng, bác ái làm dàn phóng giúp một dân tộc trưởng thành từ não bộ tới não trạng. Hai là tri thức về dân chủ, có dân làm chủ từ giáo dục kiến thức tới giáo dục luật pháp ; tự văn hóa tới văn minh. Ba là ý thức về đa nguyên, có đa đảng nên có đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu, đa dụng… bốn là nhận thức về nhân quyền, không chấp nhận bất công để bảo vệ nhân phẩm, không chấp nhận bạo quyền để bảo vệ nhân vị, không chấp nhận tà quyền để bảo vệ nhân bản.
Khi ta đi đào sâu hai tâm trạng lo âu và giận dữ mà Kant, cũng như khi ta khơi rộng hai giai đoạn trẻ dại và trưởng thành do Tocqueville, thì ta phải thấy buổi giao thời tranh tối, tranh sáng trong xã hội. Vì khi dân chủ thể thay thế bạo quyền độc đảng toàn trị, thì luôn còn lại những tàn tích của chế độ cũ, mà bọn bạo quyền, tà quyền, ma quyền giờ đã là âm binh trong thế giới người, chúng sẽ tìm mọi cách khai thác triệt để các bất an của xã hội, "chọc gậy bánh xe" trong mọi thời cơ để khuấy phá dân chủ, để lũng đoạn đa nguyên, để lật ngược nhân quyền.
Trong kinh nghiệm của ba thế kỷ vùa qua tại Tây Âu và Bắc Mỹ với văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền được trợ duyên và trợ lực bởi đa nguyên, thì các phe nhóm cực đoan, cùng các đảng phái quá khích luôn khai thác cái rộng của dân chủ, cái cao của nhân quyền và cái sâu của đa nguyên để quấy rối dân chủ, xáo trộn nhân quyền, lật ngược đa nguyên. Hiện nay, các chủ thể dân chủ cùng các chuyên gia chuyên nghiên cứu về dân chủ luôn xem chế độ, cơ chế, định chế của dân chủ là một bước tiến chủ đạo của nhân loại, nhưng lại luôn bị kéo lùi, giật lùi bởi các lực lượng độc đảng, độc tài, đã bị mất quyền lực lẫn quyền lợi trước dân chủ, cùng lúc mất luôn các đặc lợi, đặc quyền, đặc ân trong chế độ dân chủ. Thì não trạng bịnh hoạn trầm kha của chúng là : "ăn không được thì khuấy cho hôi".
Đâu là lối ra ? Đâu là chính sách liêm chính của dân chủ ? Đâu là quyết sách của nhân quyền ? Đâu là thượng sách của đa nguyên ? Lối ra có tên gọi là : chính sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh ! Một cấu trúc luận có hai phần :
- Phần thứ nhất là chính sách tích cực tham gia với kinh tế tham dự lấy hợp tác là chất xúc tác để có thật nhiều về số lượng với mọi thành phần xã hội của một quốc gia, mà không quên chất lượng là phải quy tụ mọi nguyên khí, mọi tiềm năng để đóng góp cho tiến bộ và văn minh, bằng trí lực, tâm lực, thể lực, với não bộ tỉnh táo, với não trạng sáng suốt, tất cả đồng tình, đồng lực bảo vệ nhân phẩm của nhân quyền. Từ quốc nội tới quốc tế lấy nhiệt tình tham gia để tạo đoàn kết quốc tế, với hiệu nặng của đoàn kết quốc tế là tránh được chiến tranh, chung-chia từ thành quả các tiến bộ với chia-chung mọi bước tiến của văn minh, trên cơ sở của cộng hòa : tự do, công bằng, bác ái.
- Phần thứ nhì là tiến bộ trường kỳ vì nhân quyền, rời xa loại chính quyền bản năng đói ăn khát uống, như chính quyền độc đảng toàn trị hiện nay, tiêu xài tức khắc để đất nước phải lãnh nợ công tức thì rồi không có phương án giải quyết lại đẩy qua các thế hệ trẻ mai hậu phải trả nợ cho phản xạ hư ăn tục uống của loại chính quyền bản năng này. Rời xa luôn các phản xạ của các cơ chế chỉ biết xài ngay, xài liền mà không biết bao giờ mới trả được nợ công. Một chính quyền yêu dân chủ, quý nhân quyền, sẽ tỉnh táo khi có các quyết sách đường dài, các chính sách trường kỳ, nhìn xa trông rộng nhưng đi đường dài thì phải đi cho tới nơi, về cho tới chốn.
Thông thái biết văn minh
Khi các chính khách, các lãnh tụ cùng các chuyên gia đã "dạn dày", đã "lăn lộn", đã "từng trải" cùng dân chủ, khi ngồi lại trong hội nghị, hội thảo, hội luận với nhau đều công nhận các thực tế chính trị về dân chủ sau đây :
- Những chính sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh phải rõ ràng trong chương trình vận động bầu cử, và khi thắng cử rồi thì khi đã hứa hẹn là phải thực hiện, nơi mà chữ tâm và chữ tín chỉ là một.
- Những chính sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh phải thực hiện ngay tức khắc trong những ngày, tháng, năm đầu trong nhiệm kỳ, không dời lại, không trì trệ, không nấn ná, nơi mà chữ tâm, chữ tín, và chữ quyết chỉ là một.
- Những chính sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh đòi hỏi can đảm, đòi hỏi quyết tâm, và đòi hỏi sức "chịu đòn" tới từ các thế lực chống đối, cùng như các thành phần ù lì trong xã hội, vững tâm và vững trí để vững tay chèo, nơi mà chữ tâm, chữ tín, chữ quyết và chữ nhẫn chỉ là một.
"Cây ngay không sợ chết đứng" là tầm vóc của các chính sách dân chủ," so ra mới biết ngắn dài" là bản lĩnh của các lãnh đạo dân chủ, và những chính sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh trong thực tế sẽ loại ra được một loạt những chính khách âm binh đang sống bòn rút giữa nhân sinh, khi thì chúng "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau", khi thì chúng quen trò "thừa gió bẻ măng", khi thì chúng quen thói "đục nước bèo cò", khi thì chúng quen tục "chờ sung rụng"… mà người miền Nam nói huỵch toẹt ra là đám"nhớt thây dầy cốt".
Khi quan sát các châu lục có kinh nghiệm dân chủ, khi so sánh giữa các quốc gia có thực thể dân chủ, thì các chuyên gia nhận ra một thành phần sống nhờ khai thác các trợ cấp xã hội, mà các chuyên gia gọi họ là "sống để xin", biến phản xạ "ngửa tay xin tiền" thành phản ứng thường trực là : "cúi đầu đi xin". Khi các chủ thể dân chủ có chính quyền, cầm chính phủ với quyết sách tích cực tham gia vì tiến bộ trường kỳ nhân sinh thì phải có một giáo dục cấp tiến, trong một giáo khoa dấn thân có giáo trình đạo đức với giáo án chỉnh lý mà giáo huấn rồi giáo dưởng đám người "sống để xin", "ngửa tay xin tiền", "cúi đầu đi xin" ra khỏi nhân kiếp "ăn bám" của chính họ.
Tại đây, ta thấy bi kịch của Viêt tộc hiện nay, trong tay bạo quyền độc đảng toàn trị sinh đôi cùng tà quyền tham nhũng độc trị do Đảng cộng sản Việt Nam chủ xướng. Khi tháng 8 năm 2020, đài truyền hình quốc gia VVT gọi những đồng bào buôn thúng bán bưng, trên các vỉa hè là ký sinh trùng. Nội chất của chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị lấy tiền thuế của dân để tổ chức mọi chi phí cho đại hội Đảng cộng sản Việt Nam tháng Giêng năm 2021. Các lãnh đạo, quan chức của Đảng cộng sản Việt Nam đã bòn rút của cải, tài nguyên, chuyển tiền tài của dân tộc ra qua phương Tây.
Tháng 8 năm 2020, truyền thông quốc tế đã cung cấp đầy đủ mọi tin tức chính xác cho dân tình Việt Nam là có 26 quan chức cấp cao của Đảng cộng sản Việt Nam đã có quốc tịch của hòn đảo bé nhỏ của Âu châu là Chypre, cùng nhiều quan chức đã chuyển vào chỉ một ngân hàng Thụy Sĩ hơn 20 tỷ đô la. Bi kịch của ngữ nghĩa ký sinh trùng giờ đã là thảm kịch của cả một dân tộc ; với bọn "cướp ngày là quan", lại "vừa ăn cướp, vừa la làng", lại cùng lúc "dạy dân phải yêu nước" bằng tuyên truyền, "dạy dân phải yêu đảng" bằng tuyên huấn. Ai mới là ký sinh trùng ?
Những đồng bào buôn thúng bán bưng là ai ? Là những đồng bào "thức khuya dậy sớm", là những người "đội nắng dầm mưa", là những đồng loại "một nắng hai sương", vậy mà vẫn "đầu tắt mặt tối" trong một nhân kiếp mà Kant gọi là lo âu triền miên, Toqueville gọi là không được trưởng thành. Chính những đồng bào này đang là dân lành, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành dân đen, và thảm họa là một sớm một chiều, bị phá nhà cướp đất, trở thành dân oan, trong "màn trời chiếu đất", trong "đầu đường xó chợ".
Còn bọn quan tham ký sinh trùng, bọn lãnh đạo ký sinh vật, bọn cầm quyền ký sinh thể, chúng "ăn trên ngồi trốc", với nhân diện điếm đàng của Mã Giám Sinh : "mày râu nhẳn nhụi áo quần bảnh bao", với nhân dạng điếm chủ của Tú Bà : "đưa người cửa trước, đón người cửa sau", với nhân cách điếm hèn của Sở Khanh : "nói lời rồi lại nuốt lời như chơi". Chúng là bọn ký sinh trùng âm binh trong âm giới địa đạo ma bùn của chúng, chúng tham quyền để tham nhũng, tham ô để tham tiền, và khi bị ra tòa để nhận tội thì chúng mới lộ bản chất ký sinh trùng của chúng. Từ tướng trong quân đội tới tướng công an, từ bộ trưởng này tới ủy viên Trung ương kia, lạy van đảng trưởng của chúng hãy tha tội cho chúng. Loại ký sinh này không biết tự trọng, vì không có được giáo dục với chữ tâm, không hề được giáo dưỡng về chữ nhân.
Khi nhận tội chúng không biết nhân văn, vì chúng không có nhân tính, chỉ quen lân la lui tới trong âm giới để thanh trừng nhau, thanh toán lẫn nhau, vì tư lợi nên chúng không có nhân lý phục vụ nhân sinh. Khi nhận tội là chính chúng đã nạo vét tiền tài của dân, nhưng chúng không hề biết xin lỗi dân, mà chỉ van lạy đảng trưởng của chúng bằng bản chất thấp hèn, tới từ bản năng bầy đàn quy phục đầu đàn, mà chúng không có khái niệm gì về nhân pháp lẫn nhân luật. Chúng không biết gì về nhân quyền, nên đã tự phủ nhận nhân vị của chúng, nên dễ dàng chối bỏ luôn nhân bản của chúng. Vì là ký sinh trùng nên chúng không hề biết gì về nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa làm nên nhân phẩm của mỗi nhân vị biết quý trọng và tôn vinh nhân quyền.
Thông thạo để tiến bộ
Muốn thông thạo nơi hạ nguồn trong lao động, sản suất, sáng tạo, thì phải thông thạo từ hệ thống giáo dục tới thông minh trong giáo khoa, từ thông minh trong giáo khoa phải thông thái trong giáo trình, nơi mà huấn luyện và huấn nghiệp là chìa khóa để định vị ngữ pháp : thông thạo để tiến bộ. Khi những kẻ bi quân cúi đầu chấp nhận làm nạn nhân của bạo quyền độc đảng toàn trị thì họ có hai cách nói rất bi quan, cách thứ nhất là họ không tin vào tương lai, cách thứ hai là tương lai sẽ không đẹp hơn, không khá hơn, không tốt hơn…
Cả hai cách nghĩ và cách nói này đều không có một giá trị gì trong tương lai luận, không có một nội dung gì trong tương lai học. Vì tương lai luận bắt đầu bằng xây dựng các đồ án khả thi cho tương lai, tại đây tương lai học tạo tiền đề để sáng lập, sáng chế, sáng tạo ra tương lai mới. Tương lai luận là lý luận trong sự thay đổi thường trực của cuộc sống tới từ các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bắt buộc chúng ta phải chuyển hóa não bộ, phải chuyển biến não trạng, từ chối sự thay đổi thường trực này là tự sát. Tương lai học không viễn vông tự trời rơi xuống, không mơ hồ từ đất trồi lên, mà nó chính là quá trình giải luận để diễn luận về tương lai luôn có hai chỗ dựa rất cụ thể, dựa trên hai câu hỏi của nhân sinh trước thử thách về nhân quyền và nhân phẩm :
- Giá trị nhân bản, nhân vị, nhân tính, của chúng ta là gì ?
- Ưu tiên nhân lý, nhân tri, nhân tri của chúng ta là gì ?
Khi biết giá trị và ưu tiên là gì rồi thì não bộ sẽ chuyển hóa theo hướng thăng hoa, não trạng sẽ chuyển biến theo hướng tích cực. Từ đây, tương lai học đề ra những định luận chính là những tiền đề cho não bộ chuyển hóa, não trạng chuyển biến, với ít nhất bốn giá trị :
- Trách nhiệm hóa công dân, chuẩn bị thành chủ thể để nhận các trọng trách với đồng bào, đồng loại ; xa hành vi ăn nhờ ở đậu, tránh hành tác gà què ăn quẩn cối xay, loại hành động ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau, cùng nhau đồng kham cộng khổ để có chúng nhân kiếp đồng hội, đồng thuyền, thì bọn ăn bám chờ sung rụng sẽ không có chỗ đứng, ghế ngồi trong tương lai luận.
- Sáng tạo hóa nhân sinh, liên tục trong thường xuyên có cải cách lao động vì năng suất mà cũng vì nhân quyền, có cải tổ giáo dục song hành cùng cải thiện nhân vị biết chia các sáng kiến, để chung các sáng chế, sáng lập, mà nhân cao lên hùng lực của sáng tạo tự khoa học tới kỹ thuật, từ văn hóa tới nghệ thuật, từ công bằng tới tự do, từ nhân quyền tới dân chủ…
- Chung chia trong nhân ái, công bằng trong chung hưởng, công tâm trong chung sức, có bác ái thấy, biết, hiểu tha nhân như đồng loại không thể thiếu trong một nhân sinh quan rộng, một thế giới quan xa, một vũ trụ quan cao. Có đoàn kết thì có tương trợ với miếng khi đói bằng gói khi no, biết chung đôi cùng lứa với thương người như thể thương thân.
- Chia chung trong nhân từ, trong đó có sự thống thái của biết người biết ta để tạo tiền đề cho sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau. Biết suy bụng ta ra bụng người, không phải để vụ lợi trong ích kỷ, mà ngược lại để thấy cho thấu nỗi khổ niềm đau của tha nhân với sự thông minh suy bụng người để thương người, nhận ra tha nhân không phải là kẻ xa người lạ, mà chính là đồng hành cùng nằm gai nếm mật với ta.
Với ít nhất năm ưu tiên :
- Dân chủ tham gia tích cực và toàn diện, mọi nơi, mọi cấp nơi mà mỗi cá nhân là công dân của đất nước và dân tộc của mình, cùng lúc nơi mà mỗi cá thể không còn bơ vơ, lạc lõng mà là chủ thể. Một chủ thể có sáng kiến để nâng trình độ của cộng đồng, có sáng tác trong nghệ thuật và văn hóa, có sáng chế trong lao động và sản xuất, có sáng lập các phong trào xã hội tiến bộ vì văn minh. Biết đấu tranh chống bạo quyền công an trị, chống tà quyền tham nhũng trị, chống ma quyền ngu dân trị. Chính hùng lực của khoa học kỹ thuật truyền thông được thể hiện qua sung lục của mạng xã hội là tiền đề của tương lai học vị dân chủ vì nhân quyền.
- Giáo dục toàn diện, mọi cấp, toàn dân tự dưới lên trên lấy hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) làm gốc, rễ, cội, nguồn ; lấy hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) làm nền, tường, mái, nóc ; lấy hệ sáng (sáng kiến, sáng tác, sáng tạo) làm giáo khoa, giáo trình, giáo án. Loại bỏ cho bằng được chuyện mua bằng bán cấp trong học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả để buôn chức bán quyền.
- Năng lực tái tạo, có liên minh giữa năng lượng gió và năng lực mặt trời biết vận dụng các khám phá mới của thông minh nhân tạo vừa sản xuất năng lượng sạch tự tái tạo này, vừa tận dụng khoa học liên đới để tồn trữ các năng lượng sạch, biết giữ củi khô cho mùa mưa trong sự vận não lấy bảo vệ môi trường, lấy bảo tồn môi sinh làm kim chỉ nam.
- Lương thực toàn diện vì toàn cầu, không chấp nhận cái bất công đến bất nhân là kẻ thì chết đói, người thì phung phí thực phẩm. Công bằng của tương lai luận là chia trong hợp lý để chung trong hợp tình, nơi mà kẻ của người có công, tất cả đều được nuôi dưỡng bằng thực phẩm với nhân bản vì nhân phẩm là nạn chết đói không chấp nhận được khi nhân loại sản xuất đủ lương thực, đủ thực phẩm cho mọi người được ăn, được nuôi. Không chấp nhận các tập đoàn buôn gian bán lận lương thực để làm giàu tức khắc, bằng cách luật hóa bằng công pháp quốc tế để bảo vệ thực lực cho nhân loại.
- Khoa học di truyền thông minh biết thích ứng với sinh hoạt con người, nơi mà các khám phá mới của di truyền học, của sinh học cho xuất hiện các kết quả về sự thích ứng linh hoạt của tế bào, của nội tạng, của thân thể theo nhu cầu sinh hoạt thông minh của con người không bị tâm thần vì sức ép xã hội, biết sống với tuổi thọ cao cùng sức khỏe vững bền, cùng lúc tránh được bịnh tật mà không hao phí bảo hiểm xã hội bởi các bịnh tật tâm thể lực.
Biết người biết ta, luôn luôn học người để tiến như người, bằng người và nếu hơn người thì càng hay cho nhân loại, đây là lý luận tỉnh táo để có lập luận sáng suốt. Cụ thể là những gì người đã thành công, thì ta học người tới nơi tới chốn để hiểu người, thấy người, thấu người và để biết rõ hơn về ta, từ nhược điểm, yếu điểm, khuyết điểm của ta cùng lúc khai quật và khám phá những tiềm năng và tiềm lực còn đang ẩn náu trong ta.
Hãy tỉnh táo và sáng suốt hơn nữa, khi biết công việc này đã có người làm hay hơn ta, thì ta nên để người này làm, mà ta nên đi tìm công việc khác, mà người khác chưa làm tới hoặc chưa tìm ra. Và tại đây ta đưa hết nội lực, sung lực, hùng lực song hành cùng các đặc tính, đặc điểm, đặc thù, đặc sắc của ta, để biến sáng tác thành sở quyền, biến sáng tạo thành chủ quyền. Tìm ra nhiều đồ án, phướng án, dự án trong kiếp người mà thành công trong các lãnh vực mới mà người khác chưa làm, cũng như tổ tiên ta chưa có dịp thành công.
Lê Hữu Khóa
(17/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Tự
Tự tin vì nhân vị * Tự chủ vì nhân trí * Tự trọng vì nhân phẩm * Tự do vì nhân quyền
Tự tin vì nhân vị
Tự tin là rễ của tự do, khi tự tin là phải ngẩng đầu mà không cúi đầu nữa, phải thẳng lưng mà không khom lưng nữa, là phải cứng cườm tay mà không khoanh tay nữa, mà phải đứng lên để đi tới và không chấp nhận quỳ gối nữa. Tự tin đứng dậy để đi về phía nhân vị mà nhận nhân phẩm, thì tự tin là nội lực làm thay đổi não trạng nô lệ, nô bộc, nô dịch ; có tự tin vùng lên mà chặt xiềng mới có não bộ tự do giải phóng chính nhân kiếp của mình, mà đi về phía chân trời của nhân quyền, để nhân bản được thăng hoa.
Không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh.Tự tin đứng lên chặc xiềng để chế tác ra tự do biết tự giải phóng chính nhân kiếp của mình, thì tự tin được vận hành trong ý nguyện của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, quỷ quyền ngu dân trị…
Không nên ngừng ở quan niệm tự tin chỉ là rễ của tự do, mà hãy đi thêm bước nữa để thấy tự tin là nội lực để tự do có hùng lực mà đòi hỏi công bằng, mà đấu tranh vì công lý. Nơi đây, tự tin chính là nội công tự biết sạch hóa não bộ, trong lành hóa não trạng để đi tới mà tiếp nhận những vùng ánh sáng mới của tri thức, nơi mà tự do mở ra hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức. Tự tin đi tìm tự do chính là nội lực làm thăng hoa cá nhân, làm thăng tiến tập thể, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự tin ngay trong não bộ chế tác ra hành vi trong sáng ngay trong não trạng. Khi chúng ta là những Việt kiều xa quê hương nhưng không bao giờ quên quê hương, lại bị các công an cùng hải quan đã có lý lịch của chúng ta là những chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền, thì sẽ bị bọn này chặn hỏi ta ngay những bước đầu tiên của chúng ta ngay tại phi trường : "Anh về Việt Nam làm gì ? Ở đâu ? Bao giờ rời Việt Nam ?". Thì câu trả lời tự tin vì nhân vị để tự do nói lên tiếng nói của nhân quyền : "Tôi là người Việt Nam như anh, anh biết anh phải làm gì, và tôi biết tôi phải làm gì ! Tôi cũng như anh, đều là người Việt Nam trên đất Việt, tôi cũng có quyền làm người Việt Nam như anh vậy ! Còn bao giờ tôi rời Việt Nam, thì tôi cũng có quyền đi và ở đúng theo quy định của luật pháp !".
Tự tin xây lên tự do là trụ cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, hành động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân trong đạo đức với xã hội. Và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội có văn minh, quý dân chủ, trọng nhân quyền. Cụ thể là khi chúng ta giảng trong các đại học công lập hoặc dân lập tại Việt Nam, thì cuối giảng đường là đám công an văn hóa ngồi chực, canh, núp, rình, để nghe ta nói gì với sinh viên và đồng nghiệp những điều gì mà còn về báo cáo với bạo quyền độc đảng công an trị.
Chính sự tự tin làm nên niềm tin vì tự do sẽ giúp ta chuyển hóa não trạng để thay đổi giáo khoa vì sự thật khoa học biết làm nên lẽ phải trong đạo lý. Ta phải giảng như bơi ngược chiều để chống lại cái não trạng vô minh của tuyên truyền trị, vì ta muốn trao gởi những thông điệp của chân lý khoa học khách quan, để não bộ của sinh viên, của đồng nghiệp được mới, để não trạng của họ được sạch hóa. Để thầy trò cùng nhau đi từ kiến thức tới tri thức để đối kháng lại với ngu dân trị của bạo quyền vô tri. Cũng để đi tiếp thêm một bước nữa từ ý thức tới nhận thức để chống đối vô minh trị của cực quyền, vô tri trị của cuồng quyền, chóng chầy sẽ dẫn dân tộc và giống nòi tới vô học trị, đây chính là vực thẳm của vô hậu trị. Lõi tự tin làm nên lực tự do, nếu muốn vừa vững, vừa bền thì liên minh tự tin-tự do phải là không gian của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
Tự tin để nắm lấy tự do chính là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong cá nhân sẽ là động cơ của dân tộc, là động lực của đất nước. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam độc đảng trong vô minh, độc quyền trong vô tri, độc tài trong vô học, rồi độc tôn trong vô hậu, thì làm sao có chủ trương về hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) như các lãnh đạo của các quốc gia láng giềng : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, cũng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam.
Tệ hại hơn nữa khi ta vận dụng các phương pháp nghiên cứu và khảo sát của ngôn ngữ học tri thức, cùng với chính tri học nhận thức và xã hội học quyền lực để tìm hiểu về các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kết quả tới từ điều tra và điền dã của ba chuyên ngành đã phân tích và giải thích được não bộ sơ sài cùng não trạng thô sơ của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể nhất là ba nhân vật chóp bu lãnh đạo từ Bộ Chính trị tới hành pháp và lập pháp, đó là Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Khi họ phát biểu ta sẽ nhận ra là tin tức trong truyền thông của họ không có lý luận ; rồi nội dung trong truyền thông của họ không có lập luận ; và tư tưởng trong truyền thông của họ không có giải luận.
Cụ thể là phương trình tin tức-nội dung-tư tưởng trong truyền thông của họ không có một giá trị diễn luận gì cả. Ngoài khẩu lệnh tuyên huấn để ép ra khẩu hiệu tuyên truyền, thì ngữ vựng của họ không có kiến thức, ngữ văn của họ không có tri thức, ngữ pháp của họ không có nhận thức. Tất cả làm nên một loại "lời ra tiếng vào" trống lý trí, vắng trí tuệ, rỗng tuệ giác. Một đẳng cấp lãnh đạo như vậy đã làm nên thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trước nhân lộ đi tìm tiến bộ vì văn minh. Chính thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang là thảm họa của Việt tộc, nơi mà tuyên truyền trị sinh đôi với ngu dân trị, nơi mà vô tri trị sinh đôi với độc đảng trị. Ba chuyên ngành kể trên : ngôn ngữ học tri thức, chính trị học nhận thức, xã hội học quyền lực đã xác chứng là chỉ có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) mới chính là hùng lực để chống lại vô tri trị, vô minh trị, đồng hội để đồng thuyền với ngu dân trị đã và đang đi ngược lại hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến).
Khi có tự tin tạo sáng kiến vì tập thể, cộng đồng, dân tộc, thì sẽ có tự do sáng tạo để kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng gần xa, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Đây là ý chí làm sáng não bộ thụ động để làm sạch não trạng tiêu cực, sau bao năm, qua bao thế hệ phải nhận lãnh bao tà nạn của ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của độc đảng u mê trong độc tài nhưng lại bất tài trong quản lý đất nước, thậm chí đã đưa dân tộc ngày càng xa nhân lộ của tiến bộ vì văn minh.
Tự tin vào hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) với tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân. Tự tin để làm người một cách liêm sỉ nhất, tự tin để làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất. Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm minh, liêm sỉ) đã thật sự vắng bóng tới biệt dạng từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.
Quê hương gấm vóc của tổ tiên trong tay họ giờ thì trở thành bãi rác của Tàu tặc, với không khí bị nhiễm ô của Tàu họa, với môi trường bị ô nhiễm từ Tây Nguyên tới Formosa. Bỉ ổ nhất là con dân Việt sa vào xuất khẩu lao động, với con đường làm thuê trong nhục kiếp, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, ngày càng sinh ra bao kỳ thị khinh miệt người Việt trên các châu lục. Trong tay Đảng cộng sản Việt Nam, Việt tộc đã bị mất nhân vị ngay trong nhân sinh quan của các lãnh đạo đảng lấy bạo quyền công an trị để nuôi nấng tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi dưỡng âm binh trị chính là bọn xã hội đen, với côn đồ, lưu manh, du đảng đang ung nhọt hóa đời sống xã hội. Bài học của triết học đạo đức có bạn đồng hành là tâm lý học xã hội đã giải luận rõ : kẻ mất niềm tin sẽ mất tự tin, kẻ không tự tin thì khó tìm được niềm tin. Chẳng lẽ đây là nhân kiếp hiện nay của Việt tộc sao ?
Tự tin vào một nhân lộ văn minh luôn biết lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn). Tự tin khi mình trực diện đấu tranh chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức, tham ô, tham những, tham tiền) khi dân tộc đã bị tước đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Tự tin vào tự do là trụ cột của cộng hòa có công bằng và bác ái, sẽ đưa tự tin tới gặp dân chủ, để khám phá thêm hai định luận làm nên hai đạo đức cho nhân sinh, đó là đa nguyên vì nhân quyền. Khi có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc. Từ đây một tự tin mới sẽ ra đời, đó là sự tự tin diệt bọn "sâu dân, mọt nước", đám "phản dân hại nước", lũ "buôn dân bán nước", bè "mại quốc cầu vinh" đang lúc nhúc như sâu, như mọt trong mạng lưới quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, đã và đang ngày ngày điếm nhục hoa trí tuệ, ô uế hóa mọi nguyên khí của quốc gia.
Tự tin vào tự do là vốn liếng, mà cũng là kháng thể để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên nhân lộ tiến bộ vì văn minh... Một hệ độc rất độc đoán trong độc hại đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên. Hãy xác chứng tự tin vì tự do để vĩnh viễn gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của giống nòi này ! Một công hai việc, hãy tự tin vào nhân vị chính là sung lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn Tàu tặc, đám lãnh đạo Bắc Kinh, với ý đồ muôn thuở xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Hãy tự tin để bảo trì chủ quyền, tự tin để bảo đảm độc lập, tự tin để bảo quản đất nước. Có tự tin để chuẩn bị thật tỉnh táo trong sáng suốt trước bọn Tàu tặc chỉ biết luật rừng của kẻ mạnh là trộm, cắp, cướp, giật.
Nhưng đâu là vai trò của tương lai học trong các định đề mới về tự tin trước bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phức tạp ? Tự tin có cơ sở của tương lai học là sự sáng suốt trước các hậu quả cùng hậu nạn về cách đối xử của con người đối với con người, và của con người đối với thiên nhiên, môi trường, trái đất… Tại đây, tính ràng buộc vào nhau rồi lệ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố và các yếu tố tới từ thiên nhiên, môi trường, trái đất tác động trực tiếp lên nhau, từ cơ chế chính trị, tới đời sống xã hội, cả tới tâm lý cá nhân :
- Biến đổi khí hậu với quá trình tăng nhiệt độ trong bao năm qua sẽ tiếp tục trong sinh hoạt của con người, khi thiên tai truy bức môi trường, truy hiếp con người, từ hạn hán tới bão lụt, từ ô nhiễm không khí tới nhiễm độc nguồn nước… ngày càng bất ngờ hơn, ngày càng dữ dội hơn, tất cả sẽ tác động lên trực tiếp và thấm đậm lên quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Các chính quyền đứng không vững trước các tai họa tới từ các thiên tai là những chính quyền không biết tương lai học của khoa học luận dự phòng, vì không có chuẩn bị bằng tương lai học của phương pháp luận dự phóng. Cụ thể là các chính quyền đang nằm trong tay của các lãnh đạo vô minh trước các chỉ báo của khoa học, vô tri trước các báo động của các khám phá mới nhất của khoa học về các dữ kiện về môi trường, về các dữ liệu được cập nhật thường xuyên. Đó là thực trạng hiện nay của chính quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà vô tri trị, vô minh trị sẽ làm ra vô học trị, để rồi sẽ dẫn dắt tới : vô hậu trị, nơi mà thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam làm nên thảm họa ngay trên giòng sinh mệnh của Việt tộc.
- Thiên tai vừa bất ngờ hơn, vừa thường xuyên hơn, lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa từ khoa học, kỹ thuật tới kinh tế, thương mại, có kẻ thua người thắng, với quy luật mạnh được yếu thua, cho sinh ra quan hệ bạo hành của loại cá lớn nuốt cá bé. Từ đây, phản xạ co cụm vào bản sắc quốc gia với loại não bộ kín cổng cao tường, tạo ra phản ứng của não trạng bế môn tỏa cảng, để rồi sinh ra hành động phản kháng thụ động trong tiêu cực của ngăn sông cấm chợ. Đây chính là chỉ báo của sự thiếu tự tin, sự mất niềm tin, trống sự vận não, vắng sự vắt não, từ đây sẽ sinh ra các hành vi tiêu cực. Từ kỳ thị chủng tộc tới phân biệt đối xử giữa các sắc tộc, rồi sau đó là giữa các thành phần xã hội, và sau cùng là nội loạn xã hội, với phản xạ phòng ngự tạo ra bạo động, với phản xạ đề kháng tạo ra bạo hành. Các chính quyền không biết chuẩn bị bằng khoa học luận dự phòng của tương lai học, và không sẵn sàng với phương pháp luận dự phóng của tương lai học. Cụ thể là không có sự trợ lực của các dự án cho tương lai với các dữ kiện, dữ liệu khách quan của mọi ngành khoa học sẽ lúng túng rồi sa vào ngõ cụt mà tự sụp đổ.
- Khi nhập nội vào khoa học luận dự phòng của tương lai học, để đi tới phương pháp luận dự phóng của tương lai học, thì phải rời bỏ "não trạng coi bói" song hành cùng "não bộ đoán mò" lúc thì dựa trên họa luận của bất ngờ, lúc thì bám vào hoạn luận của ngẫu nhiên. Vẫn chưa xong, chúng ta phải cẩn trọng luôn cả với nhân quả luận, nhân nào quả nấy, đây chỉ là loại "não trạng khái quát" song cặp với "não bộ tổng quan". Tương lai học đúng danh nghĩa của nó, là một chuyên ngành có trí năng, có tiềm năng, có khả năng tập trung được đầy đủ từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, từ lý luận tới lập luận của rất nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau, nơi mà tương lai học là chân trời hội tụ của tất cả chuyên ngành cùng nhìn về một hướng là : tương lai sinh tồn của con người trên trái đất này.
Tự chủ vì nhân trí
Tự chủ xác nhận tự do là tôn vinh cái đúng, mong cầu cái đẹp, là trân quý cái cao, trong đó ham muốn cũng như đam mê không còn lẫn trốn trong ích kỷ, mà là động lực của đạo lý có nhân lý, động cơ của đạo đức có nhân phẩm. Một tự chủ muốn xác nhận tự do trong xã hội Việt Nam hiện nay là phải xác minh nguồn gốc của bất bình đẳng mang nội chất của bất công, tới từ một bạo quyền đang cai trị đồng bào, đất nước, xã hội, bằng độc trị qua độc đảng, mà không hề biết quản trị đất nước.
Tự chủ vì nhân trí là khả năng biến nổi giận thành nổi dậy nhưng nổi giận mà đưa đến nổi loạn thì có thể giết chính nghĩa của tự do. Biết bảo vệ chính nghĩa của tự do là biết đấu tranh bền vững vì tự do, đây là sự trưởng thành sáng suốt và tỉnh táo của các phong trào dân chủ và nhân quyền của Việt Nam trong những năm qua. Chọn bất bạo động song hành cùng đấu tranh ôn hòa, chọn đối thoại để tranh luận, chọn đàm thoại để đàm phán, chính là nội chất thông minh của hành động tự do, vừa có chính nghĩa, vừa có lý trí, vừa có trí tuệ trao luận, vừa có tuệ giác truyền luận. Sự thông minh của nhân loại tới từ sức mạnh của lý trí tự chủ, được chế tác ra từ các kinh nghiệm, các thử thách, các thăng trầm mà lý trí đã tiếp thu được qua sự thực để nắm chân lý mà biết lẽ phải. Chính lý trí đã dắt tư duy, đã đưa suy quyết vào sung lực của tự chủ ; vì lý trí của tự chủ luôn biết đi tìm sự thật.
Tương lai luận vị Việt tộc phải mang sự sáng suốt của tự chủ muốn thay đời đổi kiếp dân tộc, biết chuyến biến não bộ tích cực trong giáo dục, chuyến hóa não trạng từ văn hóa tới xã hội, từ luật pháp tới định chế… Biết rời bỏ ích kỷ để tiếp nhận nhân trí, rời bỏ cái tôi tự cung tự cấp để đón nhận cái chung trong công ích trong tổ chức xã hội, biết chia sẻ công bằng để sống chung trong công lý. Tự chủ vì nhân trí là tiền đề sáng tạo ra phạm trù tự do từ đó đề nghị các sinh hoạt chính trị phải được đúng hơn, tức là phải được đạo đức hóa hơn, để các lãnh đạo chính trị phải làm việc trong luân lý của trách nhiệm và bổn phận, và sống trong đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cùng với đồng bào mình.
Tại đây, quyền lực chính trị phải nhận trọng trách là phát huy tự chủ cho mọi công dân, nếu quyền lực không làm được chuyện này thì nó chỉ là tà quyền. Tự chủ vì nhân trí thấy để thấu trong sinh hoạt chính trị với chuyện lạ là tự do trở nên sắc nhọn ngay trong các thể chế độc tài, ngay trong các chế độ độc đảng toàn trị, nơi mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm. Chuyển biến não bộ để chuyển biến hóa não trạng là tiếp nhận quá trình tương lai luận vị nhân phẩm để cởi bỏ nhục thế của nhân dân bị trị, mà đón nhận nhân vị của công dân chủ trị.
Bi hài kịch hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam với Ban Tuyên giáo của nó chính là thảm kịch cho học thuật và trí thức hiện nay phải sống trong cơ chế của bạo quyền độc đảng toàn trị. Tháng chín, năm 2020, trưởng ban Tuyên giáo trung ương cho ra đời viện Triết học, với nhiệm vụ ý thức hệ là bảo vệ triết học Marx-Lenin, cùng với lời ăn tiếng nói của vô tri trong vô minh đã vô tình vạch trần cái vô học trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông trưởng ban Tuyên giáo loạn-ngôn-trong-đần-ngữ để đưa vào bài tham luận của ông là "phải bảo vệ triết học Marx-Lenin vô địch… để chống lại các triết học thù địch". Cái vô học trị trong điên-ngôn-trong-lận-ngữ đã hiện hình ngay trong cái vô hậu trị từ chính sách tới hành động ; vì một lý luận bình thường sẽ nhận ra lối lập luận dị-ngữ-trong-man-ngôn của ông trưởng Ban Tuyên giáo, vì nếu đã là "vô địch" rồi thì đâu còn "đối thủ" để sinh ra "thù địch".
Vẫn chưa xong, nếu phân tích nội dung bài tham luận của ông trưởng Ban tuyên giáo là một cuộc hoảng-ngữ-trong-tán-ngôn, tới từ vắng kiến thức, trống tri thức, rỗng trí thức, mà các chuyên gia ngôn ngữ học đã phân tích là trình độ của ông không vượt được mức độ tú tài của các học sinh trong các quốc gia có văn minh, có văn hiến nhân quyền. Vì trong bài tham luận của ông có những ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp bị lắp ráp kiểu ung thư đại tràng về thuật ngữ, ông rỉ rả với thật ngữ : tư tưởng triết học. Trong học thuật, thì tư tưởng và triết học là hai phạm trù tri thức hoàn toàn khác nhau, được phân biệt rất rõ trong khoa học xã hội và nhân văn, nhất là trong triết học.
Sự khác biệt làm nên sự tách biệt giữa tư tưởng và triết học là dặm trường "thiên sơn vạn thủy" vì phải "lội suối trèo đèo" qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận). Sự khác biệt không sao khỏa lấp được giữa tư tưởng và triết học, nơi mà tư tưởng là một hệ thống phân tích các giá trị và được giải thích theo thứ tự ưu tiên của nó. Còn triết học thì cân, đo, đong, đếm để xem, xét, tra, nghiệm các giá trị, nơi mà các mâu thuẫn giữa các giá trị phải được gạn lọc qua đối thoại bằng đối luận, đối trọng trong đối kháng, nơi mà các mâu thuẫn giữa các giá trị vừa là nội lực lý luận, vừa là sung lực giải luận làm nên sự trưởng thành của triết học bằng hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng).
Nếu viện Triết học của Ban Tuyên giáo có ông trưởng ban tới từ học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật, với học vị thật làm nên học hàm thật nhờ có học lực thật, chớ không phải như nhân dân Việt ngày ngày phải thấy nhan nhản các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cùng học vị thật giả, học hàm giả qua học lực giả, thì ông trưởng Ban tuyên giáo phải bắt đầu xây dựng viện Triết học bằng nhân lộ học thuật thật qua :
* Lý thuyết luận của hệ thức (kiến thức thật, tri thức thật, trí thức thật, ý thức thật, nhận thức thật).
* Phương pháp luận của hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng).
* Khoa học luận của hệ nhân (nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân quyền).
Vì không có học thuật thật để cõng nghiên cứu thật, để bồng khảo sát thật, để điều tra thật, cùng lúc song hành để so sánh cùng học triết học thế giới hiện nay, thì viện Triết học của ông trưởng ban Tuyên giáo chỉ tái đào tạo loại bồi bút chuyên nghề "chém sau lưng", loại bồi chữ chuyên nghiệp "chó cắn trộm", nơi mà nhân dân đã mô thức hóa rất thật qua hình ảnh "mưu hèn kế bẩn". Để ông trưởng ban Tuyên giáo cùng các cộng tác viên của viện Triết học này thấy-cho-thấu là chỉ trên mặt trận triết luận thì : triết học của Marx là loại triết học đã quá thô sơ so với các chuyên ngành triết hiện nay, còn Lenin thì không có một công trình triết nào của riêng ông.
Cho nên nếu ép-ngôn-trong-dồn-ngữ như ông trưởng ban Tuyên giáo muốn : "triết học marx-lenin" thì thiên hạ, nhất là giới trí thức chuyên môn triết học quốc tế họ "cười cho mà chết". Chỉ cần ông trưởng ban Tuyên giáo làm theo lời dạy của tổ tiên Việt là so ra mới biết ngắn dài, là khuyên ông chỉ cần tổ chức hàng loạt hội thảo, hội nghị, hội luận cấp quốc tế có đầy đủ các triết gia quốc tế gần xa với những công trình đồng ý với triết học Marx, mà đối diện là các công trình chống triết học Marx thì ông trưởng ban Tuyên giáo sẽ khám phá ra bài học thứ hai của tổ tiên Việt là sự thật mất lòng, mà trong học thuật thì sợ nhất vẫn là mất lòng trong hỏa hoạn, như một lời dạy khác nữa của tổ tiên Việt là : cháy nhà ra mặt chuột !
Kết cuộc của bài tham luận của ông trưởng ban Tuyên giáo là hậu nạn của quá trình tán loạn tâm tri, từ-điên-dại-tới-điên-rồ, nơi mà tẩu hỏa nhập ma cho tới chuột cũng không có đường chạy, khi ông mong muốn là Viện triết học mới ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ có những công trình ngang tầm với học thuật của thế giới tiên tiến nhất. Não bộ hỏa hoạn của ông đã chớp nhoáng biến thành não trạng hỏa nạn cho thấy là ông không biết gì về triết học, và chắc chắn là ông không biết gì về tổ chức, sinh hoạt, ảnh hưởng, lịch sử của triết học.
Thật là thảm lòng để thông báo cho ông biết rằng, triết học đã sinh ra đời từ rất lâu trong nhân tri lẫn nhân trí của nhân loại, vì nó có trước cả công nguyên. Mà trong lịch sử của nó thì cổ triết của Hy Lạp là nền móng, gốc, rễ, cội, nguồn nhưng trong quá trình phát triển của triết học thì Âu châu thì chỉ có ba đại diện : Anh, Đức, Pháp và thế kỷ XX có Hoa Kỳ trợ lực. Như vậy, nếu triết học là tinh hoa của nhân tri, là đứa con tin yêu của nhân trí, thì trên thế giới này chỉ có vài quốc gia là đất dụng võ của triết, có những quốc gia quý triết như Nhật Bản, có những quốc gia trọng triết như Hàn Quốc, kể cả Trung Quốc đang thèm triết nhưng vẫn không có triết. Sự thật mất lòng là vậy !
Xin được thông báo cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có não bộ vắng nhân tri, nhất là Ban tuyên giáo có não trạng trống nhân trí, về lịch sử của triết học có ngay trong trí lực của giáo dục, một quốc gia xuất sắc về triết học là Pháp quốc, luôn tìm mọi cách để bảo vệ môn triết ngay tại trung học. Khi tất cả các học sinh được chọn chuyên ngành theo ý muốn, nhưng tới năm thi tú tài thì tất cả các chuyên nhành đều phải thi môn triết, nơi mà giáo khoa cùng giáo trình mang nhân lý giáo án là đa dạng triết học song hành đa diện triết gia.
Xin được thông báo cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có não bộ vắng nhân bản, nhất là Ban tuyên giáo có não trạng trống nhân văn là quan hệ nhân vị bằng nhân phẩm của các quốc gia quý đa dạng triết học, trọng đa diện triết gia. Hãy lấy thì dụ qua luận thuyết triết của Rousseau khi triết gia này lý luận con người sinh ra với bản chất tốt nhưng khi sống trong quan hệ xã hội thì con người bị đời sống xã hội làm xấu đi, rồi ông lập luận luôn là con người muốn nhận lại nhân cách lành trong nhân vị tốt thì nên trở về với các đẹp của thiên nhiên. Ngoài kiệt tác Công ước xã hội (Contrat social) cùng bao công trình triết học về giáo dục, đạo đức… thì cuối cuộc đời của Rousseau đã để lại hai kiệt tác : Tự xưng (Confessions) và Mộng mỵ của kẻ dạo cô đơn (Rêverie du promeneur solitaire), đây là hai "minh tác" không những cho Triết học mà cho mọi nghành khoa học xã hội và nhân văn.
Hai tác phẩm này được sáng tác trên các nẻo đường đi dạo vào cuối cuộc đời của Rousseau, mà sau khi ông qua đời thì các địa phương từ lãnh đạo tới dân chúng đã cùng nhau biến các địa danh này thành đúng theo ý nguyện của luận thuyết triết là : con người phải nhận lại nhân cách lành trong nhân vị tốt để trở về càng sớm càng hay với các đẹp của thiên nhiên. Câu chuyện nhân sinh văn minh nhờ nhân triết thông minh này chắc chưa có trong não bộ loãng nhân lý các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có, chắc chắn là chưa có trong não trạng nhòa nhân tính của Ban tuyên giáo. Nếu đám người này có não bộ triết biết làm nên não trạng học thì họ hãy bắt ngừng ngay mọi nguồn ô nhiểm từ không khí tới nguồn nước, từ thôn quê tới thành thị, đang giết dần giết mòn Việt tộc, đang ngày ngày hủy diệt gióng nòi Việt.
Hài kịch của Đảng cộng sản Việt Nam chính là bi kịch của trí thức Việt hiện nay trong nước, như cá nằm trên thớt, ngày ngày bị điếm nhục hóa bởi những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thấy lãnh đạo vô minh mà phải cúi đầu, thấy lãnh đạo vô tri mà phải khom lưng, thấy lãnh đạo vô trí mà phải khoanh tay, thấy lãnh đạo vô luân mà phải quỳ gối. Ngậm oan uất rồi nuốt nước mắt vào tim mà còn thấy tim đen bẩn bởi điếm ngôn xảo ngữ của lãnh đạo âm binh.
Tự chủ là câu chuyện cẩn trọng trước nhân phẩm của chính mình, để tự chủ được chấp đôi, chấp lứa với nhân trí, không những vì nhân lý và còn vì nhân tính nữa. Nếu độc đảng dùng độc quyền qua độc trị trong độc tài để đàn áp, để bắt bớ, để bỏ tù, để tuyên án, để tra tấn, để hủy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ, vì nhân quyền, rồi tiêu diệt quyền sử dụng tự do của họ ; nên tự chủ vì nhân phẩm khi muốn bảo vệ tự do thì phải đứng lên ! Nổi dậy chống lại tham quyền trong lạm quyền, đang ung thư hóa xã hội, đang đưa vi trùng độc hại của độc đảng trong độc tôn để gây trọng bịnh ngay trong đạo đức của Việt tộc, ngày ngày tìm cách xiết cổ các hành vi chân chính, các hành động liêm chính của tự do tự chủ vì nhân phẩm. Nên tại sao ta phải cần chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng càng sớm càng hay.
Bạo quyền độc đảng toàn trị hiểu tự chủ vì nhân phẩm một cách xấu và tục vì nó chỉ biết tham quyền để tham nhũng, đưa đẩy đất nước xuống vực, xô đẩy dân tộc vào cõi diệt vong. Ngược lại, khi hiểu tự chủ một cách cao và đẹp là sử dụng văn minh của nhân loại để củng cố quyền tự do giải phóng số kiếp của mình đang bị bạo quyền độc đảng toàn trị tồi tục hóa, thì câu chuyện tương lai luận dự phóng tỉnh táo vì Việt tộc trong luồng học thuật mới của tương lai học với các chính sách dự phòng sáng suốt là câu chuyện của não bộ linh hoạt luôn tìm cách thích ứng hóa với các tiến hóa của nhân loại để sở hữu hóa các tiến bộ từ khoa học tới kỹ thuật, tự dân chủ tới nhân quyền. Đây chính là một thông minh rất nhạy bén của tự chủ vì nhân trí biết học hỏi để có tự do hiểu biết, biết vận dụng kiến thức để dựng ý thức, để tận dụng tự do đầu tư, tự do sản xuất, tự do thương mại, tự do kinh doanh… Chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng theo hướng tự chủ là để đổi đời, chọn tiến bộ để pháp triển, lấy văn minh để phục vụ nhân phẩm, lấy nhân trí để phụng sự cho nhân vị !
Tự chủ nhận kiến thức để gầy dựng tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự chủ của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống với chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nề vì các lãnh đạo bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện để chống lại ngu dân chính là sự tự chủ của tri thức. Tất cả chỉ vì dân tộc bị lãnh đạo bởi một Đảng cộng sản Việt Nam rất sợ, rất ngại loại não trạng tự chủ vì nhân trí, với tự do chân chính của nó dựa trên thế kiềng ba chân : sự thực của nhân tri, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo mà không sao ngu dân được qua tuyên truyền sống sượng. Tất cả cái giả tạo sẽ tạo ra một xã hội bị âm binh hóa, vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo bất tài nên bất tín, sẵn sàng bất chính ngay trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị của nó.
Tương lai luận vị Việt tộc đề nghị đi tìm gốc tự chủ vị nhân trí, bằng tri thức luận theo quá trình sau đây : ý thức đi tìm lý trí khi đã từng là nạn nhân của bạo quyền độc đảng vô minh. Từ đây, có tâm thức đi tìm nhân tri khi đã từng gánh chịu bất công của tà quyền độc trị vô lương ; để có nhận thức phải đi tìm công bằng khi đã từng cam chịu bao bất đẳng tới từ sự phận biệt đối xử do ma quyền độc trị tham đặc lợi, thèm đặc ân sinh ra chỉ cho riêng chúng. Tự chủ này được triết học chính trị nhận diện qua quá trình sau đây : phải vượt thoát hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành) ; rồi vượt khỏi hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc đảng), để vượt thắng hệ tham (tham quyền, tham nhũng, tham ô, tam tiền). Tự chủ vì nhân trí còn được xã hội học đàm phán nhận diện qua : khả năng thay đổi hành vi khi biết chuyển hóa hành động trước bạo quyền ; tiềm năng thay đổi hiện tại để chuyển hóa tương lai theo hướng tích cực ; chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng mà thắng bạo quyền độc đảng toàn trị.
Chuyển hóa cấp tiến não bộ để chuyển biến tích cực não trạng bằng tự chủ trong quá trình khai thác ý tưởng bên trong não bộ để biến tự do bên trong thành hành động bên ngoài xã hội. Đó là ý thức đi tìm hạnh phúc khi đã từng chịu đựng khổ đau tới từ bạo quyền ; ý muốn sống trong công bằng vì đã là nạn nhân của bất công ; ý định biến hiện tại xấu thành tương lai tốt ; ý lực đưa hành động tự do của mình vào ngay đời sống xã hội. Tự chủ trong phạm trù của tương lai luận có lõi của quá trình tự sáng tạo để tự hành động : biết chống lại bạo quyền đang đe dọa, khống chế, đàn áp tự do bằng bạo lực, chuyển hóa não trạng ngay trong chính tri thức của tự do, không nhất thiết phải dùng bạo động để giành tự do, mà có thể xua đuổi, xóa bỏ các bạo lực chống lại tự do qua phương trình thông minh của đối thoại-đối chất-đối luận-đối trọng-đối kháng.
Biết chống lại bạo quyền phi nhân tính, vừa tha hóa, vừa đồi trụy, lại vừa vô luân, bằng hành tác tự chủ vì nhân phẩm : bằng tiếng nói, bằng trần tình, bằng biểu tình, bằng đề đạt, bằng đàm phán… để xác nhận nhân quyền, đó là quyền làm người với nhân tính, với nhân đạo. Biết chống lại bạo quyền bằng lý thuần chất của nhân phẩm, vừa dựa trên nhân lý, vừa dựa trên nhân trí, làm nên phương trình hợp lý-chỉnh lý-thuần lý để tự do sánh đôi với công bằng, để tự do bảo đảm được bác ái, trong một nhân tính không bao giờ chấp nhận bạo quyền, tà quyền, độc quyền, tham quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền.
Chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý trí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tôc. Chống lại bạo quyền bằng tự chủ đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả chung chung của hoàn cảnh. Vì tự chủ đến từ tư duy của con người biết dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý và đạo đức của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.
Tự chủ trong một không gian đạo đức của chung sống trong công bằng và bác ái trong đó tự chủ biết nội lực của luân lý chính là ý thức về trách nhiệm và bổn phận ; sung lực của đạo lý chính là ý thức về các hành tác hay, đẹp, tốt, lành ; hùng lực của đạo đức chính là ý thức về nhân phẩm để bảo vệ nhân tính. Tương lai luận biết dự phóng trong tương lai học biết dự phòng thường được bắt đầu bằng trực quan của tri thức, tức là bằng thấy-hiểu-thấu-nhận, với tự chủ hiểu cái tốt để làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, đồng loại. Với tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận hệ luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận). Với tự chủ phải tiếp thâu cái lý để đón tiếp hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức).
Tự chủ trong chủ quyết, từ quyết tâm tới quyết đoán, vì công lý của công bằng, để tự chủ bảo vệ được cái lý đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, để tự chủ bảo vệ được cái đức tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, để tự chủ bảo vệ được cái luật minh, trong nghĩa công minh trong công pháp. Vĩnh viễn dứt bỏ cái tồi bại của các tòa án âm binh hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, với các "án bỏ túi", với đám thẩm phán chỉ cúi đầu theo lệnh của bạo quyền độc đảng, có hậu đài là tà quyền thanh nhũng, ma quyền tham tiền. Với các thẩm phán chính là những tội đồ của dân tộc, với các án oan, với biến nạn nhân thành "kẻ giết người", như vụ án Đồng Tâm năm 2020 ; mà trên cả nước thì bạo quyền độc đảng toàn trị đã biến hằng triệu đồng bào chúng từ dân lành một sớm một chiều thành dân oan.
Tự chủ vì nhân trí có thể được cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được bền vững qua công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận nhân quyền chính là quyền tự do xóa bất công, khử bạo quyền, loại độc quyền. Với tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn, qua xã hội, qua định chế, qua cơ chế... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những định đề về công lý phải mới hơn để đúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm chính trị, trong đó trách nhiệm hàng đầu là lãnh đạo phải liêm chính, phải liêm khiết, phải liêm sỉ khi thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm.
Chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng, xóa não trạng bị trị để xây não bộ chủ tri của quá trình tự chủ vì nhân trí có lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý. Tự chủ vì nhân trí có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm. Tự chủ vì nhân trí có sự sáng suốt tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm. Tự chủ vì nhân trí của tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác. Tự chủ vì nhân trí của nhân quyền biết tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, là nguyên nhân của bất công, là nguồn gốc của khổ đau.
Tự chủ vì nhân trí với quyền bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng đã là gốc, rễ, cội, nguồn của bất tài, bất tín, bất chính, bất lương. Tự chủ vì nhân trí với quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa tri của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng vì nhân quyền và dân chủ. Tự chủ vì nhân trí biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như bảo vệ để chính cuộc sống của mình. Chống ô nhiễm môi trường cùng lúc chống ngay trên cấu trúc của các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ, với hậu quả khủng khiếp của tập đoàn âm binh khai thác bốc xít tại Tây nguyên, của Formosa tại Hà Tĩnh, với bao nhà máy nhiệt điện than, bao năm qua đã cấu kết với bọn lãnh đạo âm binh từ trung ương đến địa phương của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tự trọng vì nhân phẩm
Tự trọng vừa là quyền chọn lựa, vừa là là quyền quyết định để có quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta.
Từ đây tự trọng vì nhân phẩm còn là quyền hành động, hành động để tha nhân phải tôn trọng nhân phẩm của chúng ta, vì tự trọng vì nhân phẩm biết đi tìm lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, mà kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác liêm khiết đều có cái giá của nó. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật.
Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự trọng vì nhân phẩm. Chúng ta được quyền "rợn người tới lợm giọng " trước bọn quan chức lãnh đạo cao cấp hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, viết sách rao giảng để rao lận các luận điệu chống tự chuyển biến tư tưởng, để kiên định với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Nhưng chính chúng là bọn sâu dân mọt nước, đã vơ vét bao tiền của, vàng bạc, đã có quốc tịch ngoại, nhà cửa tại phương Tây, và khi bị lột mặt nạ, trước tòa án thì chúng khóc lóc với não bộ sâu mọt, với não trạng sâu rụt, để nhân dân phải thấy rõ âm dạng sâu mọt của chúng.
Tự trọng vì nhân phẩm đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thử thách tới từ các khó khăn mà ta gặp ngay trong cuộc sống, giải quyết các khó khăn, bằng lòng tự trọng của chính mình, tự chọn lựa cách giải quyết tới quyết định các phương tiện để vượt thoát (và vượt thắng) các khó khăn. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng trong cần lao để phát triển, để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên biến ngày mai phải đẹp hơn, hay hơn, tốt hơn, lành hơn hôm nay.
Tự trọng vì nhân phẩm có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong qua nội hàm của chủ thể luôn có ý thức, một ý thức tới từ tha nhân, tới từ lịch sự, tới từ xã hội, tới từ dạo lý… Một ý thức về kinh nghiệm trong thực tế và biết chống lại tất cả phản xạ vô điều kiện của loại não bộ ích kỷ, của kiểu não trạng thụ động trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội. Những phản xạ khuất phục trước bạo quyền độc đảng toàn trị là nhắm mắt-cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối đều đáng chê, đáng khinh, đáng ghét, đáng bỏ, kể cả chuyện loại bỏ não trạng máy móc hóa ngôn ngữ : thưa, bẩm, dạ, vâng trước các tầng lớp lãnh đạo đang bóc lột, đang bòn rút, đang tha hóa đạo đức xã hội, đang đi trên lưng, trên vai, trên đầu nhân dân. Tự trọng vì nhân phẩm là nền, móng, cột, trụ cho bất tuân dân sự, trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, cụ thể là biết tự chuyển hóa não bộ, tự chuyển biến não trạng nếu cuộc đời bị đe dọa, nếu cuộc sống bị tha hóa.
Tự trọng vì nhân phẩm luôn được cụ thể hóa qua ba nội hàm, gầy dựng lên nội chất, đúc kết ra nội dung của tự do : ý thức hiện hữu (có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan). Với ý thức chủ thể (có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan) ; cùng ý thức lý tưởng (có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành) cho mình, cho mọi người ; để chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chớ không phải là chuyện cam chịu.
Tự trọng vì nhân phẩm trao tặng cho ta một uy quyền biết rời bỏ những bữa tiệc trà dư tửu hậu của bọn trọc phú, chỉ biết ăn tục nói phét, tự điếm nhục hóa lời ăn tiếng nói của chúng, làm ta "rợn óc tới lợm giọng". Vì bên đường, ngoài phố thì dân lành bị phá nhà, cướp đất, giờ đã thành dân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, đang lầm than cùng dân đen trong cảnh đầu đường xó chợ. Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong nhân dạng với ý lực của nhân cách là không nhượng bộ những điều xấu, tồi, tục, dở có gốc, rễ, cội, nguồn của đặc quyền ác, đặc ân độc, đặc lợi hiểm
Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong chuyện chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng với nhận thức ra là mỗi công dân đều được đổi vị trí xã hội của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng theo hướng tiến bộ vì văn minh, trước một hệ thống ý thức hệ dựa vào bạo quyền độc đảng toàn trị. Tự trọng vì nhân phẩm có mặt trong đấu tranh vì công bằng xã hội, chống lại chuyện"con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" đẻ ra từ những quái thai vô tài bất tướng từ các "hạt giống đỏ", được tái sản xuất theo kiểu cha truyền con nối. Theo thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan", rồi cho ra đời một quái vật ma hình quỷ tướng trong thể loại dây mơ rễ má chốn âm phủ là quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ, ngày đêm rình rập để tiêu diệt mọi trí tuệ, mọi tuệ giác tới từ các nguyên khí chân chính của quốc gia, của Việt tộc.
Tự trọng vì nhân phẩm không những qua phẩm chất của cá nhân, là đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà còn chủ động để hành động một cách rất cụ thể qua sáng kiến trong tập thể, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Tự trọng vì nhân phẩm luôn bức thiết nên cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi vì công bằng, để đấu tranh vì công lý.
Có tự trọng vì nhân phẩm để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về tự trọng vì nhân phẩm với cá tính biết rời bỏ các biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các tham quan, khi thấy chúng mạ vàng nhà cửa của chúng, khi thấy chúng có nội thất được chế biến từ các gỗ quý của các rừng nguyên thủy, mà chúng đã trộm, cắp, cướp, giật được trên quê hương gấm vóc này. Chúng ta có quyền "lợm giọng đến buồn nôn" để rời bỏ các biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các tham quan này, không những để tự bảo vệ nhân phẩm của chúng ta, mà còn tỏ rõ thái độ là mạ vàng nhà cửa chính là vô minh vì vô học, tàn phá tài nguyên thiên nhiên đốn chặt gỗ quý, nạo vét đá quý chính là vô hậu vì vô tri.
Tự trọng luôn song hành cùng nhân phẩm. Tự trọng song lứa với nhân tính. Tự do song cặp với nhân cách để tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, mà xây lên liêm chính, dựng lên liêm sỉ. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp ngay tự bây giờ bằng cách chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh. Tự trọng vì nhân phẩm có mặt ngay trong hiện tại trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó.
Cùng lúc tự trọng vì nhân phẩm là dàn nhún, dàn phóng để gởi đi những phương án của sự sống đúng vì tương lai tốt đẹp trong nhân cách biết bảo vệ nhân phẩm. Chuyển hóa não bộ tiến bộ, chuyển biến não trạng vì văn minh là biết gởi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự trọng vì nhân phẩm đã có mặt để giúp con người tự biết bảo vệ nhân vị. Tự biết khẳng định nhân phẩm của mình là một hành động thông minh biết vượt thoát các lo âu, sợ hãi tới từ đe dọa, tới từ trù dập của bạo quyền độc đảng toàn trị ; vì tự trọng vì nhân phẩm chính là gốc của sự thông minh biết tự thoát để tự thắng. Tự trọng vì nhân phẩm để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do, một tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó vì dân chủ, diệt sự sáng tạo của nó vì nhân quyền.
Tự trọng vì nhân phẩm còn một động cơ kích thích sự hình thành của tự do trong thực tiễn, động cơ này có thể tới tự ngoại cảnh, chúng ta thấy láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với ta : Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan... có đời sống phát triển, tiến bộ, văn minh... chính đây là ngoại cảnh của láng giềng để giúp ta dấn thân, để thúc đẩy ta có hành động cụ thể vì đời sống văn minh, văn hiến như các láng giềng của ta.
Chính tự trọng vì nhân phẩm giúp ta lấy quyết định để hành động ! Nhưng có kẻ dùng tự do cá nhân để nhậu nhẹt, rượu chè, nghiện ngập... thì khi họ mong muốn có văn hóa, văn minh, văn hiến Mỹ châu, Âu châu, như các quốc gia láng giềng Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, mà bản thân họ không biết "thức khuya dậy sớm", và hằng ngày không chịu được cảnh "một nắng hai sương", mà ngược lại họ còn thiêu hủy kinh tế gia đình qua trác táng, làm khổ vợ con, thì các phát biểu của họ về tự do đi tìm văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ châu, Âu châu... chỉ là chuyện tráo lận truyền thông, nói mà không có luận cứ, vì vô tri nên vô lý, nó hoàn toàn xa lạ với định nghĩa về tự trọng vì nhân phẩm.
Tự trọng vì nhân phẩm vừa chống lại cái sai, vừa tiếp nhận cái đúng ; vừa từ chối cái xấu, vừa gạt bỏ cái ác, vừa đón nhận cái lành ; vừa xóa tan cái độc vừa chào đón cái đẹp, cùng lúc cam nhận cái thử thách. Tự trọng vì nhân phẩm chống lại kiếp "cơm thừa, canh cặn", để chống lại phản xạ thí gì nhận lấy, cho gì ăn nấy, ném gì xài nấy. Tự trọng vì nhân phẩm từ chối luôn kiếp "thiên mệnh đã an bài", để từ chối, không chấp nhận số phận an bài trong hiện tại, cam chịu số kiếp an phận trong tương lai, hứng chịu suốt đời làm nạn nhân.
Tự trọng vì nhân phẩm gạt bỏ luôn kiếp "con sải nhà chùa thì quét lá đa" để gạt bỏ hẳn bạo quyền, cường quyền, lạm quyền, trực diện đấu tranh chống tham quyền, tham nhũng, tham ô. Tự trọng vì nhân phẩm vạch mặt chỉ tên mọi bất công, bất lương, bất tài, bất chính, từ đây biết chuyển hóa não trạng bằng dấn thân để chống lạm quyền trong lãnh đạo, tham nhũng qua quyền lực. Bất tuân bạo quyền để xây dựng công bằng mới để chống bất công ; cụ thể tự trọng vì nhân phẩm là biết nổi dậy để lật đổ bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay.
Tự do vì nhân quyền
Tương lai luận dựa vào tương lai học một định đề là các khuynh hướng nặng chính là các khuynh hướng dài, cụ thể là nhận thức về sự hệ trọng của một vấn đề, của một thử thách, của một thăng trầm làm nên sực nặng rồi biến thành định đề dài lâu cho nhân sinh. Thí dụ như biến đổi khí hậu song hành cùng ô nhiễm môi trường là một sự hệ trọng làm nên khuynh hướng nặng và sẽ biến khuynh hướng dài, cụ thể hơn nữa là biến đổi khí hậu song đôi ô nhiễm môi trường trên toàn trái đất thì hệ trọng, nặng và dài cho con người hơn là sự cố động đất châu lục này, núi lửa châu lục kia.
Chính từ đây, Việt tộc phải nhận ra là tự do vì nhân quyền là hệ trọng, nặng và dài hơn mọi chiều trò tổ chức lại nhân sự của Đảng cộng sản Việt Nam trong đại hội đảng thứ 13, năm 2021, có hay không ý đồ của Đảng cộng sản Việt Nam song hành cùng thâm tính của Tàu tặc là dùng luật đặc khu để xâm chiếm đất nước ta. Vì khi, có được tự do vì nhân quyền là tất nhiên chúng ta có dân chủ để dẹp bạo quyền phản dân hại nước, chúng ta có nhân quyền để khử tà quyền buôn dân bán nước. Khi có nhận thức về hệ trọng làm nên khuynh hướng nặng và sẻ biến khuynh hướng dài cho nhân sinh, thì ta phải có thêm một nhận thức nữa là con đường đi tìm tự do vì nhân quyền càng rộng, càng sâu, càng cao thì bản lĩnh của nhân bản càng lớn, tầm vóc của nhân văn càng đẹp, nội công của nhân tâm càng bền.
Spinoza khi đi sâu thêm khi tìm nội chất của hành động tự do qua sự hợp tác vừa công bằng, vừa liêm chính, qua các thỏa thuận trong xã hội, trong đó khi quyền lợi được tôn trọng ngay trong hợp tác giữa các bên : cá nhân, chính quyền, pháp luật, xã hội, và mọi công dân đều biết tuân thủ sự hợp tác này, thì đây chính là cơ sở để xây dựng tự do. Rousseau còn làm rõ hơn bằng định nghĩa tự do qua hợp đồng xã hội để bảo vệ dân chủ trực tiếp, trong đó mọi người được tự chọn, để tự quyết định cho chính mình, nơi mà bạo quyền, tà quyền không có mặt vì không có chỗ đứng, lẫn chỗ để ngồi trong các cơ chế dân chủ.
Tự do vì nhân quyền kết hợp tất cả nội lực của nhân phẩm để chế tác ra sự tự tin vì nhân lý. Tự do vì nhân quyền mang sung lực của nhân tri để chế tác hùng lực của nhân trí, đó cũng là chặn đường tiến hóa của nhân tính. Hoch, phân tích nếu ta muốn dùng tự do để ngăn chặn bạo quyền, tà quyền, đã cướp tự do của chúng ta, thì chúng ta phải bắt đầu ngay trong não trạng của chúng ta là tìm mọi bằng cách giới hạn cách sống, cách nói, cách làm của bạo quyền, tà quyền. Nếu không thì chính bạo quyền, tà quyền sẽ giới hạn tự do của chính chúng ta bằng cách gây sợ hãi qua khủng bố, gây lo âu áp chế, gây tự kiểm duyệt, tự kiểm tra qua ý thức hệ của bạo quyền, tà quyền.
Qua triết học, Kant đưa ra hai phạm trù để định nghĩa tự do, trước hết tự do là trách nhiệm của ý thức, nhưng tại đây ông đề nghị phải định nghĩa cẩn trọng về tự do, vì tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay. Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng ngày qua bạo lực và qua tham nhũng.Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài vừa làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.
Bằng xã hội học khi phân tích về sinh hoạt xã hội làm nên quan hệ xã hội, thì Werber giải thích tự do đi từ ý muốn vì tự do để tới tự do thực hiện hoài bão, hoặc tới từ đạo lý vì hoài bão tới đạo lý vì trách nhiệm. Chính tự do với nhận thức đôi (hoài bão-trách nhiệm) này là quá trình hoàn thiện hóa xã hội, đạo đức hóa cộng đồng, luân lý hóa cá nhân, vì tự do có quyền hành động để hoàn thiện hóa thế giới, để chỉnh chu hóa thế gian. Ông đề nghị trong đồ hình nghiên cứu về cứu cánh của nhân sinh phải thấy bốn loại cứu cánh : cứu cánh vì quyền lợi, trong đó có tư lợi và có công lợi, cứu cánh vì giá trị, trong đó giá trị tâm linh mang nội chất thiêng liêng, cứu cánh vì truyền thống của tổ tiên,vừa là trí tuệ, vừa là lý trí, cứu cánh vì tình cảm, trong đó cảm xúc có cái lý của tâm giao, đắc khí. Tại đây tự do vì nhân phẩm chính là tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bão đẹp, mang trách nhiệm cao.
Tự do vì nhân phẩm rất cụ thể vì tự do này biết đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các nạn nhân của bất công, của độc tài, của tham nhũng... đứng về phía đồng bào và đồng loại đang khổ đau trong một chế độ lấy bạo quyền, dùng bạo lực để hằng ngày bạo hành đồng bào mình. Từ đây chuyển biến não bộ để chuyển hóa não trạng bằng cách nhận ra tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phụ lão, các trẻ thơ, các người tàn tật, các phụ nữ… hằng ngày là nạn nhân của một chế độ bỏ quên không những an sinh xã hội mà cả an toàn xã hội để bảo vệ kẻ yếu thế, kẻ mang tàn tật… Tự do đứng cạnh tất cả các phong trào đấu tranh liêm chính vì dân chủ, vì nhân quyền để bảo vệ cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, ít nhất là bắt buộc bạo quyền phải tôn trọng các quyền đã được ghi trong hiến pháp.
Tự do đứng cạnh các tù nhân lương tâm hoàn toàn vô tội đang trong vòng lao lý vừa vô nhân đạo, vừa vô nhân tính của bạo quyền vừa đang vùi dập nhân cách bất khuất của dân tộc, đang tha hóa phẩm chất của Việt tộc. Phải khẳng định tự do vì nhân quyền bằng não bộ trong sáng, bằng não trạng tích cực để đứng cạnh tất cả dân đen trong cảnh đầu đường xó chợ và dân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, mất đất, mất nhà nạn nhân của các lãnh đạo ma đất đã cấu kết với bạn các nhà thầu ma xây cất, đang khổ nhục hóa các nạn nhân này ngay trên mảnh đất của họ. Tự do đứng cạnh các phong trào yêu nước đang đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, từ biển đảo tới đất liền, từ môi trường tới môi sinh, đang bị tiêu hủy hằng ngày bởi Tàu họa, thông đồng với các lãnh đạo đang bán nước.
Tự do vì nhân quyền để đứng cạnh cho đa nguyên mở cửa cho đa tài, đa năng, đa hiệu, để chống độc tài, độc trị, độc quyền qua độc đảng, từ đó tạo dựng lên khối đại đòan kết trong đa dạng tư duy, đa thể lý luận, có đa lực tiếp nhận văn minh của nhân loại. Tự do vì nhân quyền để cận kề với quyết tâm giải phóng chính mình qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức,ý thức,nhận thức) cùng lúc giải phóng gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, dân tộc mình ra khỏi nhà tù ngu dân của độc đảng.
Tự do đẩy cửa, đạp tường, phá rào, đập tan nhà tù của một chế độ sống nhờ công an trị, đã cai trị rồi vùi dập lương tri của Việt tộc chỉ muốn sống là một dân tộc tốt. Tự do vì nhân quyền chính là tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực trạng của độc đảng sinh ra độc quyền, để tham quyền đẻ ra tham nhũng trong toàn bộ lãnh đạo chối từ đối thoại để đối luận với trí thức là chúng ta thấy Nhân luận của chính chúng ta bị thiêu hủy. Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến bi kịch của cả dân tộc đang bị bần cùng hóa, cả một xã hội đang bị đồi trụy hóa, cả một đất nước đang bị đe dọa xâm lược bởi Tàu tặc là chúng ta thấy nhân quyền của chính chúng ta bị bức tử.
Sartre trong quá trình xây dựng chủ thuyết hiện sinh, đã vượt qua hai trở lực có mặt trong hệ thống tư tưởng của phương Tây : cuộc sống có từ nội chất của nhân sinh (essence) và có từ sự tồn tại (existence) của nhân sinh, mà cả hai thường được giải thích bằng sự có mặt của một đấng tối cao là thượng đế, đã sáng tạo ra nội chất và sự tồn tại của nhân thế. Chủ thuyết hiện sinh thì khẳng định ngược lại : nội chất của sự sống có thể tới từ ngẫu nhiên và sự tồn tại của nhân sinh là do con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo. Chủ thuyết này thoát khỏi mọi định đề được định vị bởi một đấng tối cao, qua hiện hữu của niềm tin trong tôn giáo, tác động lên các hệ thống siêu hình học (linh hồn, tâm linh, thiên đường, địa ngục…) và ít nhiều đã làm nền cho tư tưởng và cho cả gốc của triết học Âu châu.
Từ đây, tự do vì nhân quyền là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do vì nhân quyền là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới từ thái độ biếng lười của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vì nhân quyền vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện. Tự do vì nhân quyền đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục. Tự do vì nhân quyền có không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do vì nhân quyền chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.
Tự do vì nhân quyền [1] đã xuất hiện ngay trong phân tích của Descartes : "Tôi biết thế giới chưa hoàn thiện, bản thân tôi cũng chưa hoàn thiện, nhưng tôi có tự do trong cuộc sống này để hoàn thiện thế giới, để hoàn thiện bản thân tôi". Phạm trù tự do vì nhân quyền không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhân phẩm hóa nhân loại. Tự do vì nhân quyền có trong khẳng định Balsac : "Tôi có tự đo đứng về phía đối kháng chống bất công, tôi tự đặt tên cho nó là cuộc đời", và đứng về phía đối kháng là đứng về phía của kẻ yếm thế trước bạo quyền ; là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có trong luận điểm của Arendt : "Tự do đặt quyền lực vào đúng chỗ nó để nó dùng công lý mà xử bất công". Chính tự do giúp công dân phải nghĩ xa hơn các tư lợi ngắn hạn của chính trị. Cũng chính tự do giúp công dân tự do trong tư duy để có tự do vận não với các hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa.
Tự do vì nhân quyền có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội có nhân quyền và dân chủ, để đi ngược lại các sinh hoạt chính trị luôn là đoản kỳ trong nhiệm kỳ. Tự do có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội không có nhân quyền và không có dân chủ, để đi ngược lại các ý định của bạo quyền, ý muốn của độc tài, ý đồ của tham nhũng.Tự do sống trong di động để chủ động, chống lại bị động vì thụ động của cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trong khuất phục, trong tủi nhục, trong cam chịu ; vì tự do trước hết là tự do đi lại ; đi lại để được sống trong dòng chảy của nhân tính, trong trào lưu của nhân phẩm, trong phong trào của nhân đạo.
Tự do vì nhân quyền biết vượt khó khăn trong cuộc sống như vượt thắng chính mình, từ đó tự tin của tư duy làm sáng ra ba quá trình của tự do là phải trực diện để đấu tranh vì tự do. Tự do cần tự tin để đấu tranh, nhưng tự do cũng giúp tự tin phải tự giải phóng mình trước khi hành động vì tha nhân, vì đồng loại. Tự do đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi là : ta đang có hay ta không có tự do ? Tự do lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý. Tự do vì nhân quyền tạo nên một quá trình chuyển biến não bộ tiên tiến, chuyển hóa não trạng cấp tiến, thay đời đổi kiếp bằng cách vật sụp bạo quyền độc đảng toàn trị là đây !
Tự do vì nhân quyền đi từ không đến có, khi con người tiếp nhận một chân lý bình đẳng qua quan niệm về bình đẳng với mọi người, để có công bằng trong xã hội, để yêu cầu công lý dùng pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng bằng pháp luật vừa công minh, vừa liêm chính. Tự do trực diện đấu tranh với mọi bạo quyền, mọi tà quyền, mọi cường quyền bằng chính liêm sỉ của mình, đây là định nghĩa nguồn của nhân cách. Đó là các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do.
Trong cuộc sống hằng ngày, tự do vì nhân quyền là sự hình thành một ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền với tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công, đồng hành cùng tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, và bổn phận trong hiện tại và trước tương lai, như vậy tự do luôn mang ba quá trình chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng trước tương lai với tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế. Tự do vì nhân quyền biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công, vì tự do vì nhân quyền là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lực của bạo quyền.
Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, nếu tới từ phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trình của tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động. Tự do vì nhân quyền có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm trong hai chiều : có hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội, và có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể của tự do sẽ rất chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi : Tự do vì nhân quyền biết tự hỏi : tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ? Biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia ! Hiểu phương trình dấn thân-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.
Từ thầy Platon tới trò Aristote đều công nhận tự do mang lý lẽ của nhân lý, nhưng nó rất tự nhiên vì nó có ngay trong nhân tính, với thói quen của nhân sinh biết đấu tranh vì nhân quyền, theo nghĩa nhân có quyền (định đoạt-chọn lựa-quyết định-hành động) vì các định hướng mà nhân sinh thấy đúng cho công lý của nhân lý. Nên tự do vì nhân quyền dám đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Và tự do có ngay trong não bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng.
Cụ thể tự do vì nhân quyền là tự do chặt xiềng, tự do phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vỡ bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnh của lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, chấm dứt kiếp nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng..
Chuyển hóa não bộ để mời tự do chặt xiềng, chuyển biến não trạng để tiếp tự do phá nhà tù, có mặt trong quyền công dân của một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù ngay trong xã hội bên ngoài.
Tự do vì nhân quyền hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có mặt trong đấu tranh, khi thành công lúc thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do vì nhân quyền sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoanh tay mà thẳng lưng, không quỳ gối mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mãnh lực để nhảy vọt thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân quyền.
Lê Hữu Khóa
(12/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Thức
Kiến thức đúng * Tri thức rộng * Ý thức xa * Nhận thức vững
Kiến thức đúng
Khi bạo quyền độc đảng toàn trị ra đi, và văn minh dân chủ cùng văn hiến nhân quyền chỉ tới với một chính quyền liêm chính luôn có kiến thức đúng về các dữ kiện hiện tại của dân tộc và của nhân loại. Giả thuyết thứ hai là khi văn minh dân chủ cùng văn hiến nhân quyền chưa tới, nhưng dân tộc được lãnh đạo bởi một chủ thể minh với minh chủ, minh chúa, minh quân, được trợ lực bởi những minh sư, thì yêu cầu luôn có kiến thức đúng về các dữ kiện hiện tại của dân tộc và của nhân loại cũng hoàn toàn không thay đổi. Các dữ kiện trước mắt trong tương lai gần của nhân loại, cũng như tương lai xa của nhân sinh phải dựa trên các chỉ báo giúp ta nhận ra các kiến thức chỉnh lý, giúp ta thấy được các kiến thức đúng :
- Chỉ báo nhân khẩu học, thế giới đang có hơn 7 tỷ người năm 2020, và năm 2030, trong chỉ 10 năm, trái đất sẽ có 9 tỷ người, với nhân số của Ấn Độ sẽ vượt dân số của Trung Quốc, và 1 tỷ người tại Châu Phi sẽ thành 2 tỷ người. Vấn đề di dân và nhập cư trở nên vấn đề toàn cầu, với hơn 2 tỷ người sống trên các quốc gia không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Và cũng sẽ có khoảng 2 tỷ người luôn trong quá trình tha phương cầu thực, di chuyển thường trực, di chuyển để kiếm ăn, di dịch để kiếm đường sống.
- Chỉ báo tuổi thọ, với nhân số của thế giới tăng cùng với tuổi thọ của con người cũng tăng, kể cả các nước đang nghèo nhưng đã thoát nạn đói, tuổi thọ cũng tăng, và tăng liên tục với các quốc gia phát triển có hệ thống y khoa tiên tiến cùng mạng lưới bảo hiểm xã hội chặc chẽ. Trong bối cảnh tăng dân số lẫn tăng tuổi thọ thì sẽ dẫn đến quá trình tăng mật độ nhân khẩu trong các thành phố nhất là các đô thị lớn, với những làn sóng của dân chúng rời nông thôn ra thành phố để có công ăn việc làm lại được mạng lưới y tế bảo đảm về sức khỏe.
- Chỉ báo phân tầng nhân sinh, sẽ xuất hiện ra thành phần xã hội siêu thượng lưu, một thiểu số không vượt quá 1 triệu người nhưng có mọi điều kiện y khoa để tránh được bịnh tật, mọi điều kiện y tế để được bình an sống lâu, với tuổi thọ rất dài. Trong cùng nhân sinh này, có nhiều tỷ người không có thực phẩm để sinh tồn, khi sự phân tầng mới này xuất hiện với khoảng cách giàu nghèo đến cực độ, thì bất công giữa các thái cực giàu nghèo sẽ sinh ra những xung đột xã hội, kinh tế, vật chất… vô cùng gay gắt.
- Chỉ báo truyền thông trong kinh tế, với sự hiện diện và đóng góp của khoa học truyền thông từ internet qua mạng xã hội. Sinh hoạt kinh tế bằng kỹ thuật thông tin toàn cầu hóa sẽ làm thay đổi và rồi dần dà sẽ tổ chức lại sinh hoạt thương mại, xuất nhập khẩu cùng như sản xuất và tiêu thụ theo hướng hiện đại hóa. Sau chỉ báo truyền thông trong kinh tế là những khám phá mới của khoa học chế tạo người máy (robot), nơi mà quá trình tự động hóa đã tới kỹ năng của thông minh nhân tạo, nơi mà tại đây, người máy và con người sẽ đối thoại thường xuyên để chỉnh lý hóa sản xuất, hợp lý hóa tiêu thụ, toàn lý hóa quan hệ xã hội ngày một phức tạp giữa người thật và người máy.
Khi khoa học kỹ thuật hiện diện để cách mạng hóa sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội từ sản xuất tới tiêu thụ, từ kinh tế tới chính trị, từ văn hóa tới giáo dục, thì một chính quyền mới cho Việt tộc với văn minh dân chủ, và văn hiến nhân quyền dựa tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế và nhân sinh không được vắng mặt. Như ta đang thấy hiện nay cả một một hệ thống lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ được dựng lên bởi Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn vô minh trước các tiến bộ khoa học, vô tri trước các ứng tiên tiến của truyền thông trong phát triển kinh tế.
Ngược lại, chính sự vô minh rỗng trí tuệ, sự vô tri trống tuệ giác đã làm chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam co cụm trong phản xạ công an trị qua bộ luật về mạng xã hội, co giật trong phản ứng ngu dân trị trước nhiều bước tiến của khoa học luôn là sự khai trí cho nhân sinh. Hãy cùng lấy ra những kết luận cần thiết để chuẩn bị các bước đi mới cho Việt tộc khi bạo quyền độc đảng tự ra đi hoặc bị sụp đổ trong những ngày tháng tới :
- Vô minh và vô tri của lãnh đạo hiện nay mang tới hậu quả phản tiến hóa trước khoa học và kỹ thuật thì nó cũng mang tính phản động trước tiến trình của nhân loại, và sự tiến bộ của dân tộc.
- Vô minh và vô tri của lãnh đạo hiện nay mang tới hậu nạn chậm tiến của não bộ, làm ra sự lạc hậu của não trạng, sẽ dẫn dân tộc tới nghèo nàn trong bất công, sẽ đưa giống nòi tới vực thẳm của vong quốc.
Khi nhận ra nội chất của ngữ văn : phản động là chống tiến hóa, khử tiến trình, loại tiến bộ của nhân tri làm nên nhân trí, thì chính bạo quyền độc đảng công an trị, thì chính tà quyền quyền tham nhũng trị, thì chính ma quyền độc tôn ngu dân trị, mới là phản động ! Mới là lực lượng thù địch đang đi ngược lại với quá trình văn minh của nhân loại, văn hiến của Việt tộc.
Một chính quyền mới có sáng suốt trước văn minh của khoa học, tỉnh táo trước các tiến bộ trong toàn cầu hóa, khi thay thế thì bạo quyền độc đảng công an trị, tà quyền quyền tham nhũng trị, ma quyền độc tôn ngu dân trị thì phải bắt đầu đặt khoa học vào trung tâm các quyết sách, đưa tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào quốc sách, và chỉ có các chủ thể có đầy đủ tri thức luận trong chính quyền mới làm ra những chính sách có tri thức học, đây là tiền đề tiên quyết sinh thành công của một chính quyền mới với một minh chủ thông minh hoặc một dân chủ thông thái mới đưa được Việt tộc khỏi họa cảnh chỉ mành trên chuông trước họa Tàu tặc sẽ làm ra Tàu nạn !
Tri thức rộng
Đây là sự hiểu biết của các chủ thể có mặt trong một chính quyền biết nhìn xa trông rộng, khi thấy các chỉ báo nhân khẩu học, chỉ báo tuổi thọ, chỉ báo phân tầng nhân sinh, chỉ báo truyền thông trong kinh tế… thì chính quyền phải đo ra mới biết ngắn dài các hậu quả mới sau đây để có các chính sách hợp thời mà ứng phó với tình hình ngày càng toàn cầu hóa, ngày càng thế giới hóa :
- Biến đổi khí hậu, với mặt nước biển dân cao tạo ra các cuộc di dân của những vùng cận biển về các vùng cao, và cuộc di dân này nếu đặt vào phân tích định lượng vĩ mô trên dân số của thế giới thì cho tới 2050, con số sẽ lên hằng tỷ. Con số này nếu đặt vào phân tích định lượng quốc gia như Việt Nam là đất nước có chiều dài tiếp xúc với biển thì nó sẽ rất cao, tức là có hàng triệu người phải rời đất đai, nhà cửa, công việc cận kề với biển để di dân đến các vùng khác, cao hơn. Nếu một chính quyền liêm minh mà không có quyết sách phòng xa về các hậu quả và hậu nạn của biến đổi khí hậu, thì chính quyền này thuộc loại vô tri trong bất chính.
- Ô nhiễm môi trường, luôn tăng không ngừng tại các quốc gia có bạo quyền độc đảng vô liêm sỉ buôn bán quặng mỏ, có tà quyền tham nhũng trị để các công nghiệp bẩn từ luyện thép kiểu Formosa tới khai thác bốc xít tại Tây Nguyên, có ma quyền tham ô trị với các nhà máy nhiệt điện than, lẳng lặng biến quê hương gấm vóc của tổ tiên thành bãi rác. Với ô nhiễm nhiều tầng : không khí, đất đai, mạch nước… biến quê hương thành đất chết với thống kế hơn hàng trăm ngàn người thiệt mạng hằng năm vì ung thư. Các thành phố lớn của đất nước là những thành phố bị xếp hạng là ô nhiễm nhất, một không gian giết dần giết mòn con người. Nếu một chính quyền liêm chính mà không có quốc sách giải trừ các hậu quả và hậu nạn của ô nhiễm môi trường, thì chính quyền này thuộc loại vô minh trong thất đức. Loại tội đồ phải bị xử nghiêm minh từ pháp lý tới đạo lý.
- Không gian không luật, với các hành vi phạm pháp, từ buôn lậu ma túy, thuốc phiện tới buôn vũ khí, hiện vật quốc cấm, kể cả buôn người, buôn nội tạng, đang và sẽ phát triển như luồng nước ngầm đầy tội ác trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngày càng nhiều kẻ phạm pháp trong các đường dây quốc tế ngày càng tinh vi với mạng lưới tham ô mãi lộ, tham nhũng liên minh với bọn cướp bóc giết người… Mà hiện nay với hai đứa con quái thai sinh ra bởi bạo quyền độc đảng toàn trị là : tà quyền tham nhũng trị và ma quyền tham tiền trị, Việt Nam đang và sẽ rơi vào danh sách của quốc gia cất, giấu, che, đậy những thành phần phạm pháp, những lực lượng bất chính. Nếu một chính quyền liêm khiết mới ra đời mà không có quyết tâm khử trừ các tệ nạn này, thì chính quyền đó thuộc loại vô minh bất nhân thất đức. Đồng lõa với tội ác là đồng chí với tội phạm, công pháp cùng đạo đức phải đưa loại chính quyền vào loại tội hình sự cao nhất.
Một toàn cầu hóa tự do trao đổi sản xuất để phát triển thương mại được vinh danh, thì toàn cầu hóa này phải kèm theo toàn cầu hóa pháp quyền, có công pháp quốc tế chỉnh chu để chống lại, để xử cho tới nới tới chốn các cá nhân, các bè đảng, các chính quyền bất chính và phạm pháp. Từ chính kiến để trở thành chính sách, thì một chính quyền liêm chính, có liêm sĩ sẽ là một chính quyền thượng tôn pháp luật ngay trong nền tảng xây dựng của chính quốc gia mình trong đó giáo dục cộng đồng vì một dân tộc liêm khiết có chỗ dựa là văn minh dân chủ, và văn hiến nhân quyền. Đâu là nội dung của giáo dục cộng đồng vì một dân tộc liêm khiết :
- Tự do cá nhân không phải là ích kỷ cá nhân bất chính, đây là vấn đề lớn của nhân loại, ngay tại các quốc gia có văn minh dân chủ, và văn hiến nhân quyền. Cụ thể là khi cá nhân sử dụng tự do của mình để bất chính ngay trong lời hứa, ngay trong hợp đồng, ngay trong quan hệ xã hội, sẵn sàng thất hứa, dù bị mang tiếng là thất đức, chỉ biết chạy theo lợi nhuận trước mắt, tư lợi tức thì mà bất chấp đạo lý cộng đồng, bất kể đạo đức xã hội. Không những chỉ có cá nhân mà loại tự do thất hứa, tự do thất đức này có trong quan hệ giữa các xí nghiệp, giữa các chính quyền, giữa các quốc gia.
- Tự do làm giàu không phải là tự do bóc lột đồng loại, trong khuynh hướng bất chính kẻ có của, có vốn thì được làm chủ và lạm dụng quyền làm chủ để bóc lột các nhân viên, các nhân công của họ. Những người càng cần việc làm, vì hoảng sợ trước hiểm họa thất nghiệp là những nạn nhân, sẵn sàng cúi đầu chấp nhận bị bóc lột một cách bất nhân nhất để được làm việc, để tiếp tục được nuôi gia đình. Đây là bi kịch của giới công nhân đang bị bóc lột, đày đọa trong những điều kiện vô nhân đạo này trên đất Việt, bởi các tập đoàn quốc gia và quốc tế, với lương bổng mạt vận cùng điều kiện lao động tồi tệ. Đây cũng là một trong những thảm bại lớn nhất về đạo đức của Đảng cộng sản Việt Nam, khi tuyên truyền bằng mồm loa mép giãi là đại diện cho giai cấp công nhân để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng thực chất là đồng lõa và có chung chia với các tập đoàn, các công ty, các doanh nghiệp trong quá trình bóc lột công nhân Việt, lao động Việt.
- Tự do tiến thân không phải là tự do hưởng lợi tức khắc, khi người liêm chính tiếp nhận tự do để xây dựng công bằng, bồi đắp bác ái để thể chế cộng hòa được làm nền tảng cho văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền. Ngược lại, cũng có những kẻ lợi dụng tự do để ăn tươi nuốt sống các quyền lợi, khai thác tự do để trục lợi túc khắc. Phản xạ chụp giật đi cùng với phản ứng vơ vét, kéo chăn về phía mình để che thân, mặc cho tha nhân phải trần thân, phải thiếu ăn thiếu mặc. Chính loại người này đã tạo ra một loại nhân sinh quan nuốt chửng không nhai, dựng lên một thế giới quan ăn đứng nuốt trọn, xây lên một vũ trụ quan vơ ngay nuốt trọn. Và có những loại chính quyền mỵ dân, có những loại chính phủ đạo đức giả, muốn mua phiếu trong dân chủ, muốn lấy lòng loại người quơ tức khắc, vét tức thì, thì chỉ có các sách lược trước mắt trong đoản kỳ để thắng cử mà không có liêm sỉ cùng quả cảm để xây dựng những quốc sách trường kỳ, mà đưa hẳn dân tộc ra khỏi phản xạ vét tức khắc, phản ứng nuốt tức thì.
Nhân sinh quan nuốt chửng không nhai, thế giới quan ăn đứng nuốt trọn, vũ trụ quan vơ ngay xài liền đang là một thảm kịch và dài lâu sẽ thành một thảm họa cho một đất nước đang rơi vào ngõ cụt, bởi một bạo quyền độc đảng toàn trị nhưng vô tri, độc tài nhưng bất tài trong quản lý, độc trị nhưng không biết quản trị. Thí dụ vừa cụ thể và là một trường hợp kinh tế bị thế giới xem là loại sinh hoạt kinh tế quái thai, biến chất, đó là doanh thu của ngành xổ số năm 2020 đứng hạng thứ nhì sau doanh thu của ngành dầu khí, và vượt qua mọi ngành sản xuất khác. Doanh thu của ngành xổ số bất thường đứng hạng thứ nhì đã vạch mặt chỉ tên một chính quyền không có chính sách phát triển đất nước, không có quyết sách đưa dân tộc vào văn minh, không có quốc sách đưa đất nước vào tiến bộ. Chính quyền không chính sách, trống quyết sách, vắng quốc sách đã biến dân chúng thành loại người tìm may rủi trong tức khắc, lùng cơ may tiền bạc trong tức thì, dân chúng thích ăn nhanh nuốt liền, thì vận mệnh đất nước, thì số phận dân tộc sẽ đi về đâu ?
Ý thức xa
Toàn cầu hóa vượt qua biên giới, vượt luôn lãnh thổ của các quốc gia không làm cho trái đất rộng ra, mà trong tương lai lại làm cho trái đất hẹp lại theo nghĩa trái đất như một ngôi làng, hiện nay làng này có 7 tỷ người và 20 năm nữa sẽ có 9 tỷ người. Nơi làng này, có cùng một phương tiện tới từ khoa học truyền thông với các hệ thống vi tính song hành cùng các điện thọai thông minh là cầu nối trực tiếp và tức khắc giữa những người cùng làng toàn cầu. Một toàn cầu như làng hóa với truyền thông trực tiếp và tức khắc đã vượt qua các rào cản kiểm duyệt hành chính của quốc gia, thì sự kết mạng giữa các cá nhân, tập thể, cộng đồng, hội đoàn, phe phái sẽ tạo ra những sinh hoạt dân chủ sôi nổi, nhưng cùng lúc cũng gây ra những bất an tới tự nhũng thành phần có ý đồ xấu, có toan tính gây tai họa cho nhân loại, cho thế giới.
Nếu toàn cầu hóa tạo thuận lợi cho tự do hợp tác, tự do liên minh giup nhân loại đi dễ dàng vào hướng hòa bình cùng chung sống không chiến tranh. Nhưng một chính quyền mới có ý thức dân chủ, có nhận thức nhân quyền, thì phải luôn tỉnh thức là chiến tranh vẫn còn, và có thể ngày càng nhiều, với những loại mâu thuẫn mới, xung đột mới gây ra những đại nạn mới, những hiểm họa mới. Với các nguồn cơn tới từ xung đột giữa các quốc gia, với gốc rễ tới từ mâu thuẫn giữa những tôn giáo, mà ta còn phải thấy cho thấu là chiến tranh sẽ tới với các lực lượng đạo giáo có chủ thuyết quá khích, cực đoan.
Chúng gây ra chiến tranh với tên gọi là thánh chiến, nhưng tâm địa của chúng là quân sự xã hội, công an hóa cộng đồng, với ý đồ là hủy diệt những giá trị phổ quát của nhân loại, đó là văn minh của dân chủ và văn hiến của nhân quyền. Bọn cực đoan, sẵn sàng quá khích bằng bạo lực để xây dựng một loại bạo quyền mới, trong đó không có nam nữ bình quyền, xã hội bình đẳng mà chúng chỉ muốn thực thi một loại tà quyền mới, nơi mà nhân tính không còn, nhân lý không có để bảo vệ nhân phẩm. Nhưng làm sao thoát được các hiểm họa chiến tranh tới từ các lực lượng cực đoan có ý đồ xây dựng cực quyền bằng các loại ý thức hệ quá khích ? Câu trả lời vẫn ở trong nội lực làm nên bản lĩnh cùng tầm vóc của :
- Cộng hòa với các định đề phổ quát : tự do, công bằng, bác ái.
- Dân chủ với các định luận phổ thông : đa nguyên, bình đẳng, nhân quyền.
Nhưng vẫn chưa đủ, phải thêm vào định đề cộng hòa, định luận dân chủ ít nhất năm quyết tâm làm nên quyết sách để quốc sách được sống bền vững bằng tuổi thọ dài lâu của con người yêu hòa bình, trọng công lý, quý lẽ phải :
- Quốc sách dài hạn bảo vệ các thế hệ mai hậu có xã hội biết giáo dục dân chúng phải đầu tư cho tuổi trẻ, chính là vốn liếng và sức sống của một dân tộc. Tạo nguyên khí quốc gia bằng cách đào tạo nhân tài như những chủ thể yêu dân tộc, quý giống nòi, thương đất nước, nhưng sẵn sàng đi xa để học rộng, đi nhiều đàng để học nhiều sàng khôn.
- Quốc sách dài hạn đào tạo nhân tài, bằng cuộc chuyển biến toàn diện não bộ để thay đổi não trạng của loại đi du học để kiếm bằng tìm chức, tránh luôn loại đi tha phương chỉ để vinh thân phì gia, mà biến thành quốc sách học mọi người khôn để đủ khôn rồi mau khôn rồi thực sự trưởng thành thật khôn. Tức là khôn đúng và không khôn lỏi, mà ta đã mắt thấy tai nghe qua kinh nghiệm của không những của Tây Âu rồi Bắc Mỹ, mà không quên Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan), và lại càng chú tâm học kỹ hiểu sâu kinh nghiệm của các láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour.
- Quốc sách dài hạn về hợp tác toàn quốc với tất cả thành phần trong xã hội với chủ thuyết hợp tác dài lâu thông minh hơn cạnh tranh ngắn hạn. Lập ra liên minh toàn giữa những địa phương vì môi trường, dựng lên những liên hiệp với các vùng cao, vùng xa vì môi sinh. Từ đó đưa khoa học môi trường cùng các kỹ thuật vận dụng năng lượng sách, tái tạo được như năng lượng mặt trời thành một mạng lưới hoàn chỉnh, rồi lần lượt trong quyết tâm loại các công nghiệp bẩn, các nguyên nhân ô nhiễm ra khỏi đất nước.
- Quốc sách dài hạn về hợp tác quốc tế trên bình diện ở mức rộng nhất, thứ nhất là loại ý thức hệ viễn vông, thứ hai là không chỉ thấy thương mại và kinh tế, thứ ba là nhận ra tính đa dạng, đa thể của kẻ xa người gần mà lâu dài là học văn minh của họ để làm giàu cho văn hóa của chính mình, và cụ thể nhất là đưa được những thành quả văn hiến của họ vào nền tảng giáo dục của mình. Luôn lấy hợp tác như chủ sách quốc gia để tìm bạn mới, ngày càng xa về địa dư và luôn có sáng kiến mới về hợp tác với bạn cũ đang gần mình.
Nhận thức vững
Ý thức xa là tri thức thấy sóng to gió lớn, thấu đầu sóng ngọn gió, nhưng vẫn vững tay chèo, thông minh trong thử thách, thông thái trong thăng trầm, đây là kinh nghiệm dày dạn của các quốc gia yêu văn minh dân chủ, quý văn hiến nhân quyền :
- Giữa nội chiến Nam Bắc của Hoa Kỳ, các chính khách sáng suốt đã gặp nhau và viết lên được Hiến Pháp của đất nước này, như khẳng định những giá trị vĩnh hằng của nhân loại vì nhân phẩm.
- Giữa nội loạn trong đảo điên của đầu thế kỷ XX, các chính khách tỉnh táo của Pháp quốc đã viết được văn bản cho Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, làm nền tảng cho văn minh vì nhân phẩm.
- Giữa thế chiến thứ hai làm nhân loại điêu đứng, các chính khách của Âu châu đã hợp tác với các chính khách của Hoa Kỳ để lập ra đồ hình vì nhân vị của nhân loại là thành lập Liên Hiệp Quốc ra đời và tồn tại vì hòa bình cho nhân loại.
Không có ý thức xa nếu ý thức này không biết dự vào nhận thức vững, tới từ bên trong của não bộ tiến bộ vì văn minh biết làm thay đổi não trạng thụ động trong bi quan. Nhưng biến đổi não bộ, thay đổi não trạng ra sao ? Bằng cách nào ? Bằng cách tự chuyển hóa, tự chuyển biến, trong quá trình mà bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay là Đảng cộng sản Việt Nam đang mất ăn mất ngủ : đúng ! Tự chuyển biến ! Tự chuyển hóa ! Bằng lý luận làm nên lập luận, bằng giải luận làm nên định luận :
- Ta sẽ không thay đổi được dân tộc, giống nòi, đất nước, nếu ta không tự thay đổi chính não bộ của ta bằng nhân lộ văn minh vì nhân phẩm, luôn tìm cách đi về hướng chân trời hay, đẹp, tốt, lành, có sự thật làm nền cho lẽ phải. Loại bỏ ý thức hệ, rủ bỏ tuyên truyền, và chỉ đi theo ánh sáng văn minh của nhân loại vì nhân quyền.
- Ta sẽ không thay đổi được tha nhân, đồng loại, thế giới, nếu ta không tự chuyển biến chính não bộ của ta bằng nhân lộ văn minh vì nhân tri vì tiến bộ nhân sinh, vì phát triển nhân trí. Nhận hành trình cao, sâu, xa, rộng của kiến thức để luôn tỉnh thức học người mà vì ta, với ý nguyện của công bằng cùng ý lực của tự do, để loại bỏ bất bình đẳng, khử bỏ bất công.
- Ta sẽ không thay đổi được gia đình, cộng đồng, tập thể, nếu ta không tự chuyển biến chính não bộ của ta bằng cách trừ hoạn bịnh chế độ độc tôn kiểu "con quan thì được làm quan" để bứng ra khỏi não trạng tồi tệ trong tăm tối của loại phản xạ quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ ; đã tận diệt bao trí tuệ của dân tộc.
Chúng ta chuyển hóa não trạng, chuyển biến não trạng theo hai hướng của phạm trù đạo, chúng ta đã có ít nhất định hướng để thăng hoa trong nhân kiếp :
- Đạo đức hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên Việt đã để lại cho chúng ta từ tiền đồ tới giáo dục, có trong văn minh Việt làm nên văn hiến Việt.
- Đạo lý cao, sâu, xa, rộng của cả một nhân loại biết yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền, đã có mặt và sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta muốn học hỏi về nhân quyền biết bảo vệ nhân phẩm.
Lê Hữu Khóa
(08/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Chuyển biến não bộ, chuyển hóa não trạng
Tạo não bộ chủ tri, xóa não trạng bị trị
Việt tộc : dũng tộc ? minh tộc ?
Việt sử đã có những xác chứng Việt tộc là một dũng tộc biết đánh thắng ngoại xâm để giữ nước, để bảo vệ tiền đồ tổ tiên. Việt sử đã có những minh chứng Việt tộc là một minh tộc có thông minh trong chiến lược quân sự để thắng quân xâm lược, có thông thạo trong sách lược ngoại giao giữ vẹn lãnh thổ, có thông thái để giữ gìn độc lập quốc gia. Đó là Việt sử, còn hiện nay trong thế kỷ XXI này, Việt tộc có còn là một dũng tộc không ? Việt tộc có còn là một minh tộc không ? Khi Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền trong độc tài, độc trị trọng độc tôn bằng độc đảng toàn trị đã "hèn với giặc, ác với dân”, đã để Tàu tặc chiếm đất, biển, đảo. Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã cúi đầu-khom lưng trước Tàu họa khi chúng thao túng sinh hoạt chính trị, quyết định nhân sự cho Đảng cộng sản Việt Nam. Và cũng Đảng cộng sản Việt Nam đã khoanh tay-quỳ gối trước Tàu họan khi chúng thao túng kinh tế, tài chính từ sản suất tới tiêu thụ. Rồi cũng Đảng cộng sản Việt Nam đã nhắm mắt-xuôi chân trước Tàu nạn ngày ngày ô nhiễm môi trường, buôn ma túy, buôn người, buôn nội tạng… ngay trên đất Việt.
Từ giai đoạn hình thành Đảng cộng sản Việt Nam 1930, tới giai đoạn cướp chính quyền 1945, cho tới giai đoạn nội chiến Bắc-Nam 1954-1975, và từ 1975 tới gần một phần tư thế kỷ XXI này, hệ độc (độc đảng, độc trị, độc quyền, độc tại, độc tôn) đã cho ra đời một chế độ độc đảng toàn trị, với bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, cực quyền ngu dân trị, cuồng quyền vô học trị. Với tất cả hậu quả cùng hậu nạn gần một thế kỷ mà dân tộc đã, đang, sẽ nhận lãnh qua nhiều thế hệ, dựng lên một hình ảnh một Việt tộc : "cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối-nhắm mắt-xuôi chân". Thì Việt tộc có thật sự là một dũng tộc ? một minh tộc ? Các câu trả lời chủ quan theo bản năng hay cảm tính đều không có một giá trị thuyết phục nào, chỉ còn con đường khách quan hóa dữ kiện để xác minh hóa chứng từ qua học thuật. Một học thuật có cơ sở khoa học, sử dụng nghiên cứu cùng khảo sát, vận dụng điều tra cùng điền dã để tìm cho ra hiện trạng của Việt tộc, để thấy cho thấu tương lai của Việt tộc. Vận dụng tổng lực trong liên minh giữa các ngành khoa học nhân văn và xã hội đã nhận ra sự thật Việt trong Việt sử, thực trạng Việt trong hiện tại để thẩm cho thấm nhân phẩm Việt trong thăng trầm hiện nay, trong thử thách mai hậu.
Tiểu luận này đề nghị song lộ để thấy-thấu-thẩm-thấm tương lai nào nào đang chờ đợi Việt tộc : nội lộ ngay trong Việt sử để hiểu Việt tộc, và ngoại lộ dùng sử nhân loại ngoại Việt sử để nhận ra Việt tộc từ bên ngoài. Từ khoa học luận song lộ nội ngoại, tiểu luận này đề nghị năm tiền đề lý luận như năm định đề phương pháp luận để nhập nội vào Não luận này, nơi mà não bộ là trung tâm cấu trúc tri thức sẽ tổ chức và chi phối từ hành vi tới hành động, từ quyết đoán tới quyết định, từ tự tin tới tự chủ của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc :
* Khi một dân tộc ý thức được hiểm hoạ đang tới với mình, thì nếu dân tộc đó muốn sống còn thì phải vận dụng tri thức luận ngay trên thượng nguồn trước khi hành động để tìm ra giải pháp thoát hiểm, vượt thoát hiểm nạn để vượt thắng hiểm họa. Trong lịch sử của nhân loại, những dân tộc bị xóa tên trên bản đồ là những dân tộc khi có ý thức về hiểm nạn, không có nhận thức về hiểm họa đang tới với mình, và khi họa tới thì mọi sự đã muộn. Đây chính là hiện trạng của Việt tộc hiện nay, nếu Việt tộc không có tỉnh thức đầy đủ và đúng lúc thì hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn, Tàu tà) sẽ dẫn Việt tộc tới diệt vong. Mất bản sắc song hành cùng mất hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến), mất đất nước cùng lúc mất giống nòi, vừa là nô lệ vừa cung phụng nội tạng cho giặc.
* Khi một dân tộc bị một ngoại xâm đe dọa xâm lược thì dân tộc đó sẽ có phản xạ đoàn kết để bảo vệ tổ quốc, nhất là trong quá khứ tổ tiên của dân tộc này đã thành công trong quá trình đoàn kết. Phản xạ đoàn kết chống ngoại xâm khi mang nội lực của tổ tiên sẽ dễ dàng biến thành sung lực trong các phản ứng tổ chức đoàn kết qua các mặt trận tập trung được nhiều thành phần trong xã hội. Khi có nội lực đoàn kết và sung lực tập hợp thành mặt trận thì hùng lực phản hồi trước ngọai xâm bằng khí thế yêu đất nước, thương giống nòi, trọng dân tộc, khí thế này chính là mãnh lực của một dân tộc.
*Khi một dân tộc bị đứng trước thảm họa ngoại xâm, mất nước, mất nòi, mất mạng… thì nội lực đoàn kết biến thành nội lực tương trợ. Chính cái họa làm rõ cái thức ngay trong tri thức của các công dân có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với giống nòi, mà giờ đây các công dân này đã trở thành chủ thể với hệ sáng : có sáng kiến để bảo vệ đất nước, có sáng tạo để bảo trọng dân tộc, có sáng tác trong văn hóa và nghệ thuật cùng có sáng lập các phong trào, các tập thể, các cộng đồng để bảo trì giống nòi.
* Khi một dân tộc phải trực diện trước hiểm họa mất chủ quyền, từ đất nước tới giống nòi, từ văn hóa dân tộc tới mất tiền đồ của tổ tiên, thì dân tộc đó phải có chủ đoán về một niềm tin, dân tộc đó phải có chủ quyết về một lòng tin. Cụ thể là dân tộc đó phải có chủ động về một ý nguyện làm nên ý lực cho mình, với tên gọi là vững tin vì chính nghĩa. Chính ý nguyện bảo vệ đất nước được xác minh như một hành động hay, đẹp, tốt, lành ; và ý lực bảo vệ dân tộc được xác chứng như một ý muốn cao, sâu, xa, rộng cho một nhân vị vì nhân phẩm làm nên sức mạnh biết giữ nước của dân tộc đó.
Khi bốn mệnh đề trên : nhận thức hiểm họa xâm lược, nội lực đoàn kết, sung lực tập hợp, vững tin vì chính nghĩa thì khi đó công dân của dân tộc này đã thực sự là các chủ thể nắm sự thật của hiểm họa, thấy chân lý của tổ tiên, nên các chủ thể này sẽ thấu lẽ phải của giống nòi, để nghị-thảo luận-quyết định-hành động với não luận, tức là với trí thức luận trong thế liên hoàn của các hệ :
- Thức (kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tỉnh thức).
- Tự (tự tin-tự chủ-tự trọng-tự do)
- Thông (thông minh-thông thái-thông thạo)
- Đa (đa nguyên-đa tài-đa trí-đa tri-đa dũng-đa năng-đa hiệu)
- Sáng (sáng kiến-sáng tác-sáng tạo)
- Nhân (nhân lộ-nhân đạo-nhân bản-nhân văn-nhân vị-nhân tính -nhân lý-nhân tâm-nhân từ-nhân nghĩa-nhân phẩm)
Hãy vào Não luận như đặt bước vào nhân lộ văn minh vì Việt tộc, biết quý cơ đồ của tổ tiên, biết trọng cơ ngơi của dân tộc, bằng cách thực hiện cho bằng được : công cuộc chuyển hóa não bộ tích cực trong tuyệt đối trong từng cá nhân, từng công dân như đang đặt chân vào quá trình cứu dân, cứu nòi, cứu nước như cứu chính mình, như cứu mọi con dân của Việt tộc.
Tạo não bộ chủ tri bằng tương lai luận nhận thức
Sáng tạo một não bộ của chủ thể có làm chủ tri thức để dựng kiến thức, xây ý thức tạo nhận thức ; từ đó tìm tới một cuộc sống văn minh, một cuộc đời với đầy đủ văn hóa, với các thế hệ mai hậu được sống trọn vẹn với văn hiến của tổ tiên. Kịch bản này hiện nay không có trong con tính của chế độ độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam lấy bạo quyền công an trị để nuôi tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi cực quyền ngu dân trị, lấy cuồng quyền vô học trị để vô hậu hóa cả một dân tộc trước họa ngoại xâm của hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn, Tàu tà).
Tạo một não bộ chủ tri là chấp nhận thử thách một cách sáng suốt để đi tìm một thể chế có thượng nguồn lẫn hạ nguồn dựa trên hệ nhân (nhân đạo - nhân bản - nhân văn - nhân vị - nhân tính - nhân lý - nhân tâm - nhân từ - nhân nghĩa - nhân phẩm. Tạo một não bộ chủ tri là chấp nhận thứ thách một cách tỉnh táo để nhận ra hệ đa (đa tài, đa trí, đa tri, đa dũng, đa năng, đa hiệu) cùng lúc thấy nội chất của đa nguyên để thấu nội tại của đa đảng. Không rơi vào đa nguyên một cách máy móc, không mất nhiều thời gian với đa đảng như các quốc gia vừa có dân chủ đã lẫn lộn tự do dân chủ với phản xạ tự do. Từ đây, bọn cơ hội có dịp trà trộn vào sinh hoạt chính trị cũng như đời sống xã hội để biến thiện chí đóng góp của công dân yêu dân chủ, quý nhân quyền thành tạp chất để gây hỗn loạn xã hội, để bè đảng trục lợi trong quyền lực.
Tạo một não bộ chủ tri là chấp nhận thử thách một cách chỉnh lý để nhận ra hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo),trong đó tiền đề của dân chủ, và định đề của tự do luôn là không gian để hiền tài của dân tộc lèo lái vận mệnh của đất nước bằng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, bằng văn minh của giáo dục, bằng sự thăng hoa của truyền thông trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, có cơ đồ của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), có cơ sở của dân chủ (đa nguyên vì nhân quyền). Các chủ thể của hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) chính là nội thể của hệ minh (minh quân, minh chủ, minh chúa, minh sư) nhận trách nhiệm thăng hoa dân tộc trên nhân lộ tiến bộ và văn minh, cùng lực bảo đảm từ an ninh xã hội tới an ninh quốc phòng, trong đó trật tự xã hội là gốc, rễ, cội, nguồn của phát triển kinh tế thương mại, tiến bộ khoa học kỹ thuật, với nền giáo dục quốc gia tiên tiến biết dựa lên kinh nghiệm thành công của các quốc gia yêu dân chủ, quý nhân quyền, trọng tiền đồ tổ tiên. Và cụ thể là đã có nhiều quốc gia tự Tây Âu tới Bắc Mỹ, và nhất là các láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đã thành công : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour.
Tạo một não bộ chủ tri biết tiết kiệm thời gian, biết học hỏi tri thức tha nhân đã thành công xuất sắc, đang ở tuyên đầu của toàn cầu hóa từ khoa học tới văn hóa, từ kỹ thuật tới giáo dục. Não bộ chủ tri này bơi ngược giòng mọi chế độ độc đảng toàn trị, đi ngược chiều mọi có chế độc tài đảng trị, vì não bộ này hành động bằng tham gia, hành tác bằng tham dự không chấp nhận bị khuất phục để bị thuần hóa. Một não bộ chủ tri biết chọn lựa tự do để đấu tranh vì công bằng để thăng hoa bác ái, trong chọn lựa một công dân có quyền đeo đuổi một đam mê và một chế độ chính trị thông minh có chủ tri là chế độ có định chế và cơ chế để công dân này thực hiện được đam mê, ước mơ, hoài bảo của mình. Rộng hơn nữa, một công dân có quyền đeo đuổi nhiều đam mê để đa nguyên hóa chính tương lai của mình, trong đó có đam mê phụng sự khoa học, có ước mơ được hành động trong thiện nguyện, có hoài bảo vừa đóng góp cho đất nước và dân tộc, lại vừa tham gia vào các tiến trình văn minh của nhân loại.
Tạo một não bộ chủ tri cho chính mình vì mình và vì tha nhân, trong đó có các giá trị tâm linh song hành cùng lý tưởng vì một nhân loại trong nhân sinh với đầy đủ nhân phẩm. Tạo một não bộ chủ tri không hề là hành động ích kỷ để vụ lợi, vị kỷ để vụ quyền, mà là tạo một nhận thức trong đó lý tưởng làm hay, đẹp, tốt, lành nhân bản là một nhận thức mở, luôn luôn mở để tiếp đón các giá trị thiêng liêng làm cao, sâu, xa, rộng nhân quyền. Tạo một não bộ chủ tri cụ thể là tạo một não bộ luôn ở tuổi thanh niên (dù hiện nay ta đang ở bất cứ tuổi nào trong thực tế) để có đầy đủ nhận thức mà chọn lựa những chân trời sáng, một tương lai sạch, một nhân kiếp đẹp. Tạo một não bộ chủ tri là tạo một tư duy có đường đi nước bước trong tự do, một tự do luôn có dự án tốt trước mắt mà không bị một bạo quyền độc đảng toàn trị nào vùi dập, một tự chủ luôn có phương án lành trước mặt mà không sợ một tà quyền tham nhũng nào nào lũng đoạn. Tạo một não bộ chủ tri là tạo một não bộ có chủ kiến trong cơ chế chính trị, có chủ đoán trong sinh hoạt xã hội, có chủ quyết trong sản
xuất vì kinh tế tích cực biết tham gia thiết thực vào nhân quyền từ vật chất tới giáo dục. Tại đây, tạo một não bộ chủ tri là quá trình sáng tạo rồi tạo dựng qua năm giai đoạn :
- Chống tha hóa tự nhân cách tới nhân phẩm, dù nó tới từ bất công, hủ lậu, hay từ bạo quyền độc đảng hoặc tà quyền toàn trị…
- Tự tôn trọng như tự tính biết đấu tranh vì tự do của mình và tự do của tha nhân, tự tôn trọng mình như tự tôn trọng các lý tưởng chính đáng, các hoài bảo chỉnh lý, các ước mơ có giá trị của nhân bản…
- Ý thức biết tự tồn tại trong cô độc để bảo vệ các giá trị đạo đức, một ý thức tự biết phấn đấu trong cô đơn để bảo vệ các giá trị thiêng liêng, cùng lúc biết tiếp, đón, nhận các giá trị cùng sự trợ lực của tha nhân, của cộng động, của xã hội để cùng đồng bào, đồng loại vươn tới các giá trị phổ quát.
- Nhận thức đặc thù mình là một cá nhân độc nhất, và sẽ đóng góp cho tương lai của chính mình cũng như cho dân tộc và nhân loại những thành quả tới từ đặc tính của mình, như sản phẩm đặc sắc tới từ tự giác của chính mình.
- Tỉnh thức là mình có thể hành động không giống như đã đi trước rồi bắt mình làm theo, tỉnh thức sâu sắc hơn nữa là mình có thể hành tác ngoài các ước lệ mà kẻ quyền cao chức rộng, quen thói cả vú lấp miệng em bắt mình làm theo ý kẻ ấy.
Xóa não trạng bị trị bằng tương lai học nhận thức
Chuyển hóa não bộ, để thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa, tìm nhân lộ văn minh mà đi tới nhận nhân phẩm. Chuyển biến não trạng để cởi bỏ mọi phản ứng khuất phục của những con người bị bạo quyền thuần hóa, sống trong sợ sệt với phản xạ cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối, chấp nhận bất công như cam chịu một nhân kiếp không nhân phẩm. Chuyển biến não trạng như quyết tâm rũ, cởi, buông, bỏ những cái xấu, tồi, tục, dở, để tiếp, đón, nhận, cầm kết quả của chuyển hóa não bộ, đang mang tới cho mỗi người những cái hay, đẹp, tốt, lành để dựng lại nhân phẩm. Và chuyển hóa não bộ, luôn dựng trên một quá trình của hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên những dữ kiện được xác chứng, những chứng từ được xác minh, đây là quá trình khách quan hóa từ dữ kiện tới chứng từ trên lộ trình đi tìm sự thật và chân lý.
Tương lai học sử dụng, vận dụng, tận dụng những dữ kiện được xác chứng, những chứng từ được xác minh, để xây dựng dự kiến trên dữ kiện, dự báo trên chứng từ, từ đó đưa ra những kịch bản, những đề án giúp nhân sinh nhận ra tương lai gần, tương lai xa trên cơ sở của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) cụ thể là giúp nhân sinh tỉnh thức ! Tương lai học không làm chuyện tiên tri đoán liều, với tri đoán mò, ngược lại tương lai học dựa trên sự vận hành của : khoa học luận trong tương quan giữa hằng số, hàm số, ẩn số trong lý luận và lập luận của khoa học nhân văn và xã hội :
- Hằng số của dữ kiện và chứng từ được lập đi lập lại thường trực trong sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội, đời sống xã hội, được và bị chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục… tác động thường xuyên.
- Hàm số của dữ kiện và chứng từ được xuất hiện qua mật độ, cường độ, với sự vận hành của xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục… tác động thường trực.
- Ẩn số trong các phương trình xã hội, kinh tế, văn hóa giáo dục…mà không quên chính trị, quân sự, ngoại giao, với các hành vi được che giấu, các hành động bị lấp liếm, các hành tác cất kín nơi mà quyền lực và quyền lợi là một để ẩn kín các toan tính của kẻ nắm quyền.
- Phương pháp luận trong tương quan giữa bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh trong phân tích và giải thích của khoa học nhân văn và xã hội :
- Bối cảnh xã hội được cấu trúc bằng các môi trường giáo dục, văn hóa, với vai trò chủ đạo của các sinh hoạt kinh tế, thương mại, nơi mà đời sống xã hội được định chế chính trị và cơ chế hành chính định hình qua quan hệ xã hội. Ngay trong bối cảnh xã hội đã có sự phân cấp các thành phần xã hội, rồi sự phân từng xã hội sẽ để lộ ra sự giàu nghèo, với các thành phần nào được ưu đãi, thành phần nào bị ngược đãi.
- Hoàn cảnh xã hội tùy thuộc vào sự vận hành thành công hay thất bại của cơ chế chính trị, tổ chức kinh tế, hệ thống giáo dục, sinh hoạt văn hóa… Ngay trong hoàn cảnh đã có sự hiện diện của bất công, của bất bình đẳng nếu cơ sở của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) không song hành cùng định chế dân chủ (tự do đầu phiếu trong tổ chức đa nguyên).
- Thực cảnh xã hội chỉ ra mặt nổi lẫn mặt chìm của một tổ chức xã hội trong đó giai cấp hoặc thành phần thống trị có những đặc quyền, đặc lợi, đặc ân đi trên lưng dân tộc, đi trên vai xã hội, kẻ cả đi trên đầu luật pháp. Tái sản xuất công khai hay lén lút các thực cảnh để tái tạo các đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, là trực tiếp tái sản xuất bất bình đẳng, cụ thể là tái sản xuất bất công, rõ ràng hơn là tái tạo bạo quyền, tà quyền, ma quyền đi ngược lại tiến bộ của đất nước, văn minh của dân tộc.
Khoa học luận trong tương quan giữa hằng số, hàm số, ẩn số trong lý luận và lập luận được phối hợp với phương pháp luận trong tương quan giữa bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh trong phân tích và giải thích, thì sự xuất hiện của tương lai luận nhân tri với các định đề có chỗ dựa là các kết luận đã được khách quan hóa trong học thuật, nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn. Các định đề của tương lai luận nhân tri sẽ là nền cho các định luận của tương lai học nhân trí, tuân thủ các kết quả có cội rể của :
- Khoa học lịch sử, nơi mà mọi dữ kiện của nhân sinh đều được định vị chính xác qua không gian và thời gian.
- Khoa học bối cảnh, trong sự phối hợp để phối kiểm toàn diện trên sự tương quan giữa bối cảnh, hoàn cảnh và thực cảnh.
- Khoa học so sánh, các dữ kiện của nhân sinh đều có thể so sánh được trên căn bản của lịch sử và bối cảnh, trên cơ sở của định lượng và định chất, ngay cả trên quan hệ giữa văn hóa, văn minh, văn hiến giữa các sắc tộc, dân tộc.
- Khoa học tổng quan, khi các dữ kiện của nhân sinh đã được so sánh thì phân tích cùng giải thích tổng quan sẽ được vận hành để vừa thấy được các trường hợp cụ thể, riêng rẽ, cùng lúc nhận ra các khuynh hướng từ đa số tới thiểu số để rút ra những kết luận tổng quát.
Khi bốn hành tác khoa học này được vận hành thì từ định đề tới định luận, phân tích và giải thích sẽ đưa ra các kết quả để định giải các chủ đề của tương lai học.
Lê Hữu Khóa
(01/11/2020)
---------------------
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.