Tự
Tự tin vì nhân vị * Tự chủ vì nhân trí * Tự trọng vì nhân phẩm * Tự do vì nhân quyền
Tự tin vì nhân vị
Tự tin là rễ của tự do, khi tự tin là phải ngẩng đầu mà không cúi đầu nữa, phải thẳng lưng mà không khom lưng nữa, là phải cứng cườm tay mà không khoanh tay nữa, mà phải đứng lên để đi tới và không chấp nhận quỳ gối nữa. Tự tin đứng dậy để đi về phía nhân vị mà nhận nhân phẩm, thì tự tin là nội lực làm thay đổi não trạng nô lệ, nô bộc, nô dịch ; có tự tin vùng lên mà chặt xiềng mới có não bộ tự do giải phóng chính nhân kiếp của mình, mà đi về phía chân trời của nhân quyền, để nhân bản được thăng hoa.
Không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh.Tự tin đứng lên chặc xiềng để chế tác ra tự do biết tự giải phóng chính nhân kiếp của mình, thì tự tin được vận hành trong ý nguyện của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, quỷ quyền ngu dân trị…
Không nên ngừng ở quan niệm tự tin chỉ là rễ của tự do, mà hãy đi thêm bước nữa để thấy tự tin là nội lực để tự do có hùng lực mà đòi hỏi công bằng, mà đấu tranh vì công lý. Nơi đây, tự tin chính là nội công tự biết sạch hóa não bộ, trong lành hóa não trạng để đi tới mà tiếp nhận những vùng ánh sáng mới của tri thức, nơi mà tự do mở ra hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức. Tự tin đi tìm tự do chính là nội lực làm thăng hoa cá nhân, làm thăng tiến tập thể, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.
Tự tin ngay trong não bộ chế tác ra hành vi trong sáng ngay trong não trạng. Khi chúng ta là những Việt kiều xa quê hương nhưng không bao giờ quên quê hương, lại bị các công an cùng hải quan đã có lý lịch của chúng ta là những chủ thể yêu đa nguyên, quý dân chủ, trọng nhân quyền, thì sẽ bị bọn này chặn hỏi ta ngay những bước đầu tiên của chúng ta ngay tại phi trường : "Anh về Việt Nam làm gì ? Ở đâu ? Bao giờ rời Việt Nam ?". Thì câu trả lời tự tin vì nhân vị để tự do nói lên tiếng nói của nhân quyền : "Tôi là người Việt Nam như anh, anh biết anh phải làm gì, và tôi biết tôi phải làm gì ! Tôi cũng như anh, đều là người Việt Nam trên đất Việt, tôi cũng có quyền làm người Việt Nam như anh vậy ! Còn bao giờ tôi rời Việt Nam, thì tôi cũng có quyền đi và ở đúng theo quy định của luật pháp !".
Tự tin xây lên tự do là trụ cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ cá tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, hành động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân trong đạo đức với xã hội. Và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội có văn minh, quý dân chủ, trọng nhân quyền. Cụ thể là khi chúng ta giảng trong các đại học công lập hoặc dân lập tại Việt Nam, thì cuối giảng đường là đám công an văn hóa ngồi chực, canh, núp, rình, để nghe ta nói gì với sinh viên và đồng nghiệp những điều gì mà còn về báo cáo với bạo quyền độc đảng công an trị.
Chính sự tự tin làm nên niềm tin vì tự do sẽ giúp ta chuyển hóa não trạng để thay đổi giáo khoa vì sự thật khoa học biết làm nên lẽ phải trong đạo lý. Ta phải giảng như bơi ngược chiều để chống lại cái não trạng vô minh của tuyên truyền trị, vì ta muốn trao gởi những thông điệp của chân lý khoa học khách quan, để não bộ của sinh viên, của đồng nghiệp được mới, để não trạng của họ được sạch hóa. Để thầy trò cùng nhau đi từ kiến thức tới tri thức để đối kháng lại với ngu dân trị của bạo quyền vô tri. Cũng để đi tiếp thêm một bước nữa từ ý thức tới nhận thức để chống đối vô minh trị của cực quyền, vô tri trị của cuồng quyền, chóng chầy sẽ dẫn dân tộc và giống nòi tới vô học trị, đây chính là vực thẳm của vô hậu trị. Lõi tự tin làm nên lực tự do, nếu muốn vừa vững, vừa bền thì liên minh tự tin-tự do phải là không gian của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
Tự tin để nắm lấy tự do chính là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào quỹ đạo trong cá nhân sẽ là động cơ của dân tộc, là động lực của đất nước. Các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam độc đảng trong vô minh, độc quyền trong vô tri, độc tài trong vô học, rồi độc tôn trong vô hậu, thì làm sao có chủ trương về hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) như các lãnh đạo của các quốc gia láng giềng : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, cũng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam.
Tệ hại hơn nữa khi ta vận dụng các phương pháp nghiên cứu và khảo sát của ngôn ngữ học tri thức, cùng với chính tri học nhận thức và xã hội học quyền lực để tìm hiểu về các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kết quả tới từ điều tra và điền dã của ba chuyên ngành đã phân tích và giải thích được não bộ sơ sài cùng não trạng thô sơ của các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể nhất là ba nhân vật chóp bu lãnh đạo từ Bộ Chính trị tới hành pháp và lập pháp, đó là Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Khi họ phát biểu ta sẽ nhận ra là tin tức trong truyền thông của họ không có lý luận ; rồi nội dung trong truyền thông của họ không có lập luận ; và tư tưởng trong truyền thông của họ không có giải luận.
Cụ thể là phương trình tin tức-nội dung-tư tưởng trong truyền thông của họ không có một giá trị diễn luận gì cả. Ngoài khẩu lệnh tuyên huấn để ép ra khẩu hiệu tuyên truyền, thì ngữ vựng của họ không có kiến thức, ngữ văn của họ không có tri thức, ngữ pháp của họ không có nhận thức. Tất cả làm nên một loại "lời ra tiếng vào" trống lý trí, vắng trí tuệ, rỗng tuệ giác. Một đẳng cấp lãnh đạo như vậy đã làm nên thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam trước nhân lộ đi tìm tiến bộ vì văn minh. Chính thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang là thảm họa của Việt tộc, nơi mà tuyên truyền trị sinh đôi với ngu dân trị, nơi mà vô tri trị sinh đôi với độc đảng trị. Ba chuyên ngành kể trên : ngôn ngữ học tri thức, chính trị học nhận thức, xã hội học quyền lực đã xác chứng là chỉ có hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) mới chính là hùng lực để chống lại vô tri trị, vô minh trị, đồng hội để đồng thuyền với ngu dân trị đã và đang đi ngược lại hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến).
Khi có tự tin tạo sáng kiến vì tập thể, cộng đồng, dân tộc, thì sẽ có tự do sáng tạo để kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng gần xa, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại. Đây là ý chí làm sáng não bộ thụ động để làm sạch não trạng tiêu cực, sau bao năm, qua bao thế hệ phải nhận lãnh bao tà nạn của ngu dân trị bằng tuyên truyền trị của độc đảng u mê trong độc tài nhưng lại bất tài trong quản lý đất nước, thậm chí đã đưa dân tộc ngày càng xa nhân lộ của tiến bộ vì văn minh.
Tự tin vào hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) với tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân. Tự tin để làm người một cách liêm sỉ nhất, tự tin để làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất. Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm minh, liêm sỉ) đã thật sự vắng bóng tới biệt dạng từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cướp được chính quyền để độc quyền cho tới nay 2020, khi Đảng cộng sản Việt Nam kỷ niệm 90 năm thành lập của họ, thì quá trình độc trị của họ chỉ cho thấy họ là những lãnh đạo không hề biết quản trị đất nước.
Quê hương gấm vóc của tổ tiên trong tay họ giờ thì trở thành bãi rác của Tàu tặc, với không khí bị nhiễm ô của Tàu họa, với môi trường bị ô nhiễm từ Tây Nguyên tới Formosa. Bỉ ổ nhất là con dân Việt sa vào xuất khẩu lao động, với con đường làm thuê trong nhục kiếp, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, ngày càng sinh ra bao kỳ thị khinh miệt người Việt trên các châu lục. Trong tay Đảng cộng sản Việt Nam, Việt tộc đã bị mất nhân vị ngay trong nhân sinh quan của các lãnh đạo đảng lấy bạo quyền công an trị để nuôi nấng tà quyền tham nhũng trị, lấy ma quyền tham tiền trị để nuôi dưỡng âm binh trị chính là bọn xã hội đen, với côn đồ, lưu manh, du đảng đang ung nhọt hóa đời sống xã hội. Bài học của triết học đạo đức có bạn đồng hành là tâm lý học xã hội đã giải luận rõ : kẻ mất niềm tin sẽ mất tự tin, kẻ không tự tin thì khó tìm được niềm tin. Chẳng lẽ đây là nhân kiếp hiện nay của Việt tộc sao ?
Tự tin vào một nhân lộ văn minh luôn biết lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn). Tự tin khi mình trực diện đấu tranh chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức, tham ô, tham những, tham tiền) khi dân tộc đã bị tước đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Tự tin vào tự do là trụ cột của cộng hòa có công bằng và bác ái, sẽ đưa tự tin tới gặp dân chủ, để khám phá thêm hai định luận làm nên hai đạo đức cho nhân sinh, đó là đa nguyên vì nhân quyền. Khi có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc. Từ đây một tự tin mới sẽ ra đời, đó là sự tự tin diệt bọn "sâu dân, mọt nước", đám "phản dân hại nước", lũ "buôn dân bán nước", bè "mại quốc cầu vinh" đang lúc nhúc như sâu, như mọt trong mạng lưới quan hệ-tiền tệ-hậu duệ-đồ đệ, đã và đang ngày ngày điếm nhục hoa trí tuệ, ô uế hóa mọi nguyên khí của quốc gia.
Tự tin vào tự do là vốn liếng, mà cũng là kháng thể để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên nhân lộ tiến bộ vì văn minh... Một hệ độc rất độc đoán trong độc hại đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên. Hãy xác chứng tự tin vì tự do để vĩnh viễn gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của giống nòi này ! Một công hai việc, hãy tự tin vào nhân vị chính là sung lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn Tàu tặc, đám lãnh đạo Bắc Kinh, với ý đồ muôn thuở xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Hãy tự tin để bảo trì chủ quyền, tự tin để bảo đảm độc lập, tự tin để bảo quản đất nước. Có tự tin để chuẩn bị thật tỉnh táo trong sáng suốt trước bọn Tàu tặc chỉ biết luật rừng của kẻ mạnh là trộm, cắp, cướp, giật.
Nhưng đâu là vai trò của tương lai học trong các định đề mới về tự tin trước bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phức tạp ? Tự tin có cơ sở của tương lai học là sự sáng suốt trước các hậu quả cùng hậu nạn về cách đối xử của con người đối với con người, và của con người đối với thiên nhiên, môi trường, trái đất… Tại đây, tính ràng buộc vào nhau rồi lệ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố và các yếu tố tới từ thiên nhiên, môi trường, trái đất tác động trực tiếp lên nhau, từ cơ chế chính trị, tới đời sống xã hội, cả tới tâm lý cá nhân :
- Biến đổi khí hậu với quá trình tăng nhiệt độ trong bao năm qua sẽ tiếp tục trong sinh hoạt của con người, khi thiên tai truy bức môi trường, truy hiếp con người, từ hạn hán tới bão lụt, từ ô nhiễm không khí tới nhiễm độc nguồn nước… ngày càng bất ngờ hơn, ngày càng dữ dội hơn, tất cả sẽ tác động lên trực tiếp và thấm đậm lên quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Các chính quyền đứng không vững trước các tai họa tới từ các thiên tai là những chính quyền không biết tương lai học của khoa học luận dự phòng, vì không có chuẩn bị bằng tương lai học của phương pháp luận dự phóng. Cụ thể là các chính quyền đang nằm trong tay của các lãnh đạo vô minh trước các chỉ báo của khoa học, vô tri trước các báo động của các khám phá mới nhất của khoa học về các dữ kiện về môi trường, về các dữ liệu được cập nhật thường xuyên. Đó là thực trạng hiện nay của chính quyền độc đảng toàn trị của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà vô tri trị, vô minh trị sẽ làm ra vô học trị, để rồi sẽ dẫn dắt tới : vô hậu trị, nơi mà thảm bại của Đảng cộng sản Việt Nam làm nên thảm họa ngay trên giòng sinh mệnh của Việt tộc.
- Thiên tai vừa bất ngờ hơn, vừa thường xuyên hơn, lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa từ khoa học, kỹ thuật tới kinh tế, thương mại, có kẻ thua người thắng, với quy luật mạnh được yếu thua, cho sinh ra quan hệ bạo hành của loại cá lớn nuốt cá bé. Từ đây, phản xạ co cụm vào bản sắc quốc gia với loại não bộ kín cổng cao tường, tạo ra phản ứng của não trạng bế môn tỏa cảng, để rồi sinh ra hành động phản kháng thụ động trong tiêu cực của ngăn sông cấm chợ. Đây chính là chỉ báo của sự thiếu tự tin, sự mất niềm tin, trống sự vận não, vắng sự vắt não, từ đây sẽ sinh ra các hành vi tiêu cực. Từ kỳ thị chủng tộc tới phân biệt đối xử giữa các sắc tộc, rồi sau đó là giữa các thành phần xã hội, và sau cùng là nội loạn xã hội, với phản xạ phòng ngự tạo ra bạo động, với phản xạ đề kháng tạo ra bạo hành. Các chính quyền không biết chuẩn bị bằng khoa học luận dự phòng của tương lai học, và không sẵn sàng với phương pháp luận dự phóng của tương lai học. Cụ thể là không có sự trợ lực của các dự án cho tương lai với các dữ kiện, dữ liệu khách quan của mọi ngành khoa học sẽ lúng túng rồi sa vào ngõ cụt mà tự sụp đổ.
- Khi nhập nội vào khoa học luận dự phòng của tương lai học, để đi tới phương pháp luận dự phóng của tương lai học, thì phải rời bỏ "não trạng coi bói" song hành cùng "não bộ đoán mò" lúc thì dựa trên họa luận của bất ngờ, lúc thì bám vào hoạn luận của ngẫu nhiên. Vẫn chưa xong, chúng ta phải cẩn trọng luôn cả với nhân quả luận, nhân nào quả nấy, đây chỉ là loại "não trạng khái quát" song cặp với "não bộ tổng quan". Tương lai học đúng danh nghĩa của nó, là một chuyên ngành có trí năng, có tiềm năng, có khả năng tập trung được đầy đủ từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, từ lý luận tới lập luận của rất nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau, nơi mà tương lai học là chân trời hội tụ của tất cả chuyên ngành cùng nhìn về một hướng là : tương lai sinh tồn của con người trên trái đất này.
Tự chủ vì nhân trí
Tự chủ xác nhận tự do là tôn vinh cái đúng, mong cầu cái đẹp, là trân quý cái cao, trong đó ham muốn cũng như đam mê không còn lẫn trốn trong ích kỷ, mà là động lực của đạo lý có nhân lý, động cơ của đạo đức có nhân phẩm. Một tự chủ muốn xác nhận tự do trong xã hội Việt Nam hiện nay là phải xác minh nguồn gốc của bất bình đẳng mang nội chất của bất công, tới từ một bạo quyền đang cai trị đồng bào, đất nước, xã hội, bằng độc trị qua độc đảng, mà không hề biết quản trị đất nước.
Tự chủ vì nhân trí là khả năng biến nổi giận thành nổi dậy nhưng nổi giận mà đưa đến nổi loạn thì có thể giết chính nghĩa của tự do. Biết bảo vệ chính nghĩa của tự do là biết đấu tranh bền vững vì tự do, đây là sự trưởng thành sáng suốt và tỉnh táo của các phong trào dân chủ và nhân quyền của Việt Nam trong những năm qua. Chọn bất bạo động song hành cùng đấu tranh ôn hòa, chọn đối thoại để tranh luận, chọn đàm thoại để đàm phán, chính là nội chất thông minh của hành động tự do, vừa có chính nghĩa, vừa có lý trí, vừa có trí tuệ trao luận, vừa có tuệ giác truyền luận. Sự thông minh của nhân loại tới từ sức mạnh của lý trí tự chủ, được chế tác ra từ các kinh nghiệm, các thử thách, các thăng trầm mà lý trí đã tiếp thu được qua sự thực để nắm chân lý mà biết lẽ phải. Chính lý trí đã dắt tư duy, đã đưa suy quyết vào sung lực của tự chủ ; vì lý trí của tự chủ luôn biết đi tìm sự thật.
Tương lai luận vị Việt tộc phải mang sự sáng suốt của tự chủ muốn thay đời đổi kiếp dân tộc, biết chuyến biến não bộ tích cực trong giáo dục, chuyến hóa não trạng từ văn hóa tới xã hội, từ luật pháp tới định chế… Biết rời bỏ ích kỷ để tiếp nhận nhân trí, rời bỏ cái tôi tự cung tự cấp để đón nhận cái chung trong công ích trong tổ chức xã hội, biết chia sẻ công bằng để sống chung trong công lý. Tự chủ vì nhân trí là tiền đề sáng tạo ra phạm trù tự do từ đó đề nghị các sinh hoạt chính trị phải được đúng hơn, tức là phải được đạo đức hóa hơn, để các lãnh đạo chính trị phải làm việc trong luân lý của trách nhiệm và bổn phận, và sống trong đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cùng với đồng bào mình.
Tại đây, quyền lực chính trị phải nhận trọng trách là phát huy tự chủ cho mọi công dân, nếu quyền lực không làm được chuyện này thì nó chỉ là tà quyền. Tự chủ vì nhân trí thấy để thấu trong sinh hoạt chính trị với chuyện lạ là tự do trở nên sắc nhọn ngay trong các thể chế độc tài, ngay trong các chế độ độc đảng toàn trị, nơi mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm. Chuyển biến não bộ để chuyển biến hóa não trạng là tiếp nhận quá trình tương lai luận vị nhân phẩm để cởi bỏ nhục thế của nhân dân bị trị, mà đón nhận nhân vị của công dân chủ trị.
Bi hài kịch hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam với Ban Tuyên giáo của nó chính là thảm kịch cho học thuật và trí thức hiện nay phải sống trong cơ chế của bạo quyền độc đảng toàn trị. Tháng chín, năm 2020, trưởng ban Tuyên giáo trung ương cho ra đời viện Triết học, với nhiệm vụ ý thức hệ là bảo vệ triết học Marx-Lenin, cùng với lời ăn tiếng nói của vô tri trong vô minh đã vô tình vạch trần cái vô học trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông trưởng ban Tuyên giáo loạn-ngôn-trong-đần-ngữ để đưa vào bài tham luận của ông là "phải bảo vệ triết học Marx-Lenin vô địch… để chống lại các triết học thù địch". Cái vô học trị trong điên-ngôn-trong-lận-ngữ đã hiện hình ngay trong cái vô hậu trị từ chính sách tới hành động ; vì một lý luận bình thường sẽ nhận ra lối lập luận dị-ngữ-trong-man-ngôn của ông trưởng Ban Tuyên giáo, vì nếu đã là "vô địch" rồi thì đâu còn "đối thủ" để sinh ra "thù địch".
Vẫn chưa xong, nếu phân tích nội dung bài tham luận của ông trưởng Ban tuyên giáo là một cuộc hoảng-ngữ-trong-tán-ngôn, tới từ vắng kiến thức, trống tri thức, rỗng trí thức, mà các chuyên gia ngôn ngữ học đã phân tích là trình độ của ông không vượt được mức độ tú tài của các học sinh trong các quốc gia có văn minh, có văn hiến nhân quyền. Vì trong bài tham luận của ông có những ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp bị lắp ráp kiểu ung thư đại tràng về thuật ngữ, ông rỉ rả với thật ngữ : tư tưởng triết học. Trong học thuật, thì tư tưởng và triết học là hai phạm trù tri thức hoàn toàn khác nhau, được phân biệt rất rõ trong khoa học xã hội và nhân văn, nhất là trong triết học.
Sự khác biệt làm nên sự tách biệt giữa tư tưởng và triết học là dặm trường "thiên sơn vạn thủy" vì phải "lội suối trèo đèo" qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận). Sự khác biệt không sao khỏa lấp được giữa tư tưởng và triết học, nơi mà tư tưởng là một hệ thống phân tích các giá trị và được giải thích theo thứ tự ưu tiên của nó. Còn triết học thì cân, đo, đong, đếm để xem, xét, tra, nghiệm các giá trị, nơi mà các mâu thuẫn giữa các giá trị phải được gạn lọc qua đối thoại bằng đối luận, đối trọng trong đối kháng, nơi mà các mâu thuẫn giữa các giá trị vừa là nội lực lý luận, vừa là sung lực giải luận làm nên sự trưởng thành của triết học bằng hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng).
Nếu viện Triết học của Ban Tuyên giáo có ông trưởng ban tới từ học thật-thi thật-điểm thật-bằng thật, với học vị thật làm nên học hàm thật nhờ có học lực thật, chớ không phải như nhân dân Việt ngày ngày phải thấy nhan nhản các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, cùng học vị thật giả, học hàm giả qua học lực giả, thì ông trưởng Ban tuyên giáo phải bắt đầu xây dựng viện Triết học bằng nhân lộ học thuật thật qua :
* Lý thuyết luận của hệ thức (kiến thức thật, tri thức thật, trí thức thật, ý thức thật, nhận thức thật).
* Phương pháp luận của hệ đối (đối thoại, đối luận, đối trọng, đối kháng).
* Khoa học luận của hệ nhân (nhân tính, nhân lý, nhân tri, nhân trí, nhân bản, nhân văn, nhân vị, nhân đạo, nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân quyền).
Vì không có học thuật thật để cõng nghiên cứu thật, để bồng khảo sát thật, để điều tra thật, cùng lúc song hành để so sánh cùng học triết học thế giới hiện nay, thì viện Triết học của ông trưởng ban Tuyên giáo chỉ tái đào tạo loại bồi bút chuyên nghề "chém sau lưng", loại bồi chữ chuyên nghiệp "chó cắn trộm", nơi mà nhân dân đã mô thức hóa rất thật qua hình ảnh "mưu hèn kế bẩn". Để ông trưởng ban Tuyên giáo cùng các cộng tác viên của viện Triết học này thấy-cho-thấu là chỉ trên mặt trận triết luận thì : triết học của Marx là loại triết học đã quá thô sơ so với các chuyên ngành triết hiện nay, còn Lenin thì không có một công trình triết nào của riêng ông.
Cho nên nếu ép-ngôn-trong-dồn-ngữ như ông trưởng ban Tuyên giáo muốn : "triết học marx-lenin" thì thiên hạ, nhất là giới trí thức chuyên môn triết học quốc tế họ "cười cho mà chết". Chỉ cần ông trưởng ban Tuyên giáo làm theo lời dạy của tổ tiên Việt là so ra mới biết ngắn dài, là khuyên ông chỉ cần tổ chức hàng loạt hội thảo, hội nghị, hội luận cấp quốc tế có đầy đủ các triết gia quốc tế gần xa với những công trình đồng ý với triết học Marx, mà đối diện là các công trình chống triết học Marx thì ông trưởng ban Tuyên giáo sẽ khám phá ra bài học thứ hai của tổ tiên Việt là sự thật mất lòng, mà trong học thuật thì sợ nhất vẫn là mất lòng trong hỏa hoạn, như một lời dạy khác nữa của tổ tiên Việt là : cháy nhà ra mặt chuột !
Kết cuộc của bài tham luận của ông trưởng ban Tuyên giáo là hậu nạn của quá trình tán loạn tâm tri, từ-điên-dại-tới-điên-rồ, nơi mà tẩu hỏa nhập ma cho tới chuột cũng không có đường chạy, khi ông mong muốn là Viện triết học mới ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ có những công trình ngang tầm với học thuật của thế giới tiên tiến nhất. Não bộ hỏa hoạn của ông đã chớp nhoáng biến thành não trạng hỏa nạn cho thấy là ông không biết gì về triết học, và chắc chắn là ông không biết gì về tổ chức, sinh hoạt, ảnh hưởng, lịch sử của triết học.
Thật là thảm lòng để thông báo cho ông biết rằng, triết học đã sinh ra đời từ rất lâu trong nhân tri lẫn nhân trí của nhân loại, vì nó có trước cả công nguyên. Mà trong lịch sử của nó thì cổ triết của Hy Lạp là nền móng, gốc, rễ, cội, nguồn nhưng trong quá trình phát triển của triết học thì Âu châu thì chỉ có ba đại diện : Anh, Đức, Pháp và thế kỷ XX có Hoa Kỳ trợ lực. Như vậy, nếu triết học là tinh hoa của nhân tri, là đứa con tin yêu của nhân trí, thì trên thế giới này chỉ có vài quốc gia là đất dụng võ của triết, có những quốc gia quý triết như Nhật Bản, có những quốc gia trọng triết như Hàn Quốc, kể cả Trung Quốc đang thèm triết nhưng vẫn không có triết. Sự thật mất lòng là vậy !
Xin được thông báo cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có não bộ vắng nhân tri, nhất là Ban tuyên giáo có não trạng trống nhân trí, về lịch sử của triết học có ngay trong trí lực của giáo dục, một quốc gia xuất sắc về triết học là Pháp quốc, luôn tìm mọi cách để bảo vệ môn triết ngay tại trung học. Khi tất cả các học sinh được chọn chuyên ngành theo ý muốn, nhưng tới năm thi tú tài thì tất cả các chuyên nhành đều phải thi môn triết, nơi mà giáo khoa cùng giáo trình mang nhân lý giáo án là đa dạng triết học song hành đa diện triết gia.
Xin được thông báo cho các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có não bộ vắng nhân bản, nhất là Ban tuyên giáo có não trạng trống nhân văn là quan hệ nhân vị bằng nhân phẩm của các quốc gia quý đa dạng triết học, trọng đa diện triết gia. Hãy lấy thì dụ qua luận thuyết triết của Rousseau khi triết gia này lý luận con người sinh ra với bản chất tốt nhưng khi sống trong quan hệ xã hội thì con người bị đời sống xã hội làm xấu đi, rồi ông lập luận luôn là con người muốn nhận lại nhân cách lành trong nhân vị tốt thì nên trở về với các đẹp của thiên nhiên. Ngoài kiệt tác Công ước xã hội (Contrat social) cùng bao công trình triết học về giáo dục, đạo đức… thì cuối cuộc đời của Rousseau đã để lại hai kiệt tác : Tự xưng (Confessions) và Mộng mỵ của kẻ dạo cô đơn (Rêverie du promeneur solitaire), đây là hai "minh tác" không những cho Triết học mà cho mọi nghành khoa học xã hội và nhân văn.
Hai tác phẩm này được sáng tác trên các nẻo đường đi dạo vào cuối cuộc đời của Rousseau, mà sau khi ông qua đời thì các địa phương từ lãnh đạo tới dân chúng đã cùng nhau biến các địa danh này thành đúng theo ý nguyện của luận thuyết triết là : con người phải nhận lại nhân cách lành trong nhân vị tốt để trở về càng sớm càng hay với các đẹp của thiên nhiên. Câu chuyện nhân sinh văn minh nhờ nhân triết thông minh này chắc chưa có trong não bộ loãng nhân lý các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có, chắc chắn là chưa có trong não trạng nhòa nhân tính của Ban tuyên giáo. Nếu đám người này có não bộ triết biết làm nên não trạng học thì họ hãy bắt ngừng ngay mọi nguồn ô nhiểm từ không khí tới nguồn nước, từ thôn quê tới thành thị, đang giết dần giết mòn Việt tộc, đang ngày ngày hủy diệt gióng nòi Việt.
Hài kịch của Đảng cộng sản Việt Nam chính là bi kịch của trí thức Việt hiện nay trong nước, như cá nằm trên thớt, ngày ngày bị điếm nhục hóa bởi những lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thấy lãnh đạo vô minh mà phải cúi đầu, thấy lãnh đạo vô tri mà phải khom lưng, thấy lãnh đạo vô trí mà phải khoanh tay, thấy lãnh đạo vô luân mà phải quỳ gối. Ngậm oan uất rồi nuốt nước mắt vào tim mà còn thấy tim đen bẩn bởi điếm ngôn xảo ngữ của lãnh đạo âm binh.
Tự chủ là câu chuyện cẩn trọng trước nhân phẩm của chính mình, để tự chủ được chấp đôi, chấp lứa với nhân trí, không những vì nhân lý và còn vì nhân tính nữa. Nếu độc đảng dùng độc quyền qua độc trị trong độc tài để đàn áp, để bắt bớ, để bỏ tù, để tuyên án, để tra tấn, để hủy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ, vì nhân quyền, rồi tiêu diệt quyền sử dụng tự do của họ ; nên tự chủ vì nhân phẩm khi muốn bảo vệ tự do thì phải đứng lên ! Nổi dậy chống lại tham quyền trong lạm quyền, đang ung thư hóa xã hội, đang đưa vi trùng độc hại của độc đảng trong độc tôn để gây trọng bịnh ngay trong đạo đức của Việt tộc, ngày ngày tìm cách xiết cổ các hành vi chân chính, các hành động liêm chính của tự do tự chủ vì nhân phẩm. Nên tại sao ta phải cần chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng càng sớm càng hay.
Bạo quyền độc đảng toàn trị hiểu tự chủ vì nhân phẩm một cách xấu và tục vì nó chỉ biết tham quyền để tham nhũng, đưa đẩy đất nước xuống vực, xô đẩy dân tộc vào cõi diệt vong. Ngược lại, khi hiểu tự chủ một cách cao và đẹp là sử dụng văn minh của nhân loại để củng cố quyền tự do giải phóng số kiếp của mình đang bị bạo quyền độc đảng toàn trị tồi tục hóa, thì câu chuyện tương lai luận dự phóng tỉnh táo vì Việt tộc trong luồng học thuật mới của tương lai học với các chính sách dự phòng sáng suốt là câu chuyện của não bộ linh hoạt luôn tìm cách thích ứng hóa với các tiến hóa của nhân loại để sở hữu hóa các tiến bộ từ khoa học tới kỹ thuật, tự dân chủ tới nhân quyền. Đây chính là một thông minh rất nhạy bén của tự chủ vì nhân trí biết học hỏi để có tự do hiểu biết, biết vận dụng kiến thức để dựng ý thức, để tận dụng tự do đầu tư, tự do sản xuất, tự do thương mại, tự do kinh doanh… Chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng theo hướng tự chủ là để đổi đời, chọn tiến bộ để pháp triển, lấy văn minh để phục vụ nhân phẩm, lấy nhân trí để phụng sự cho nhân vị !
Tự chủ nhận kiến thức để gầy dựng tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự chủ của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống với chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nề vì các lãnh đạo bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện để chống lại ngu dân chính là sự tự chủ của tri thức. Tất cả chỉ vì dân tộc bị lãnh đạo bởi một Đảng cộng sản Việt Nam rất sợ, rất ngại loại não trạng tự chủ vì nhân trí, với tự do chân chính của nó dựa trên thế kiềng ba chân : sự thực của nhân tri, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo mà không sao ngu dân được qua tuyên truyền sống sượng. Tất cả cái giả tạo sẽ tạo ra một xã hội bị âm binh hóa, vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo bất tài nên bất tín, sẵn sàng bất chính ngay trong hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị của nó.
Tương lai luận vị Việt tộc đề nghị đi tìm gốc tự chủ vị nhân trí, bằng tri thức luận theo quá trình sau đây : ý thức đi tìm lý trí khi đã từng là nạn nhân của bạo quyền độc đảng vô minh. Từ đây, có tâm thức đi tìm nhân tri khi đã từng gánh chịu bất công của tà quyền độc trị vô lương ; để có nhận thức phải đi tìm công bằng khi đã từng cam chịu bao bất đẳng tới từ sự phận biệt đối xử do ma quyền độc trị tham đặc lợi, thèm đặc ân sinh ra chỉ cho riêng chúng. Tự chủ này được triết học chính trị nhận diện qua quá trình sau đây : phải vượt thoát hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo động, bạo hành) ; rồi vượt khỏi hệ độc (độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn, độc đảng), để vượt thắng hệ tham (tham quyền, tham nhũng, tham ô, tam tiền). Tự chủ vì nhân trí còn được xã hội học đàm phán nhận diện qua : khả năng thay đổi hành vi khi biết chuyển hóa hành động trước bạo quyền ; tiềm năng thay đổi hiện tại để chuyển hóa tương lai theo hướng tích cực ; chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng mà thắng bạo quyền độc đảng toàn trị.
Chuyển hóa cấp tiến não bộ để chuyển biến tích cực não trạng bằng tự chủ trong quá trình khai thác ý tưởng bên trong não bộ để biến tự do bên trong thành hành động bên ngoài xã hội. Đó là ý thức đi tìm hạnh phúc khi đã từng chịu đựng khổ đau tới từ bạo quyền ; ý muốn sống trong công bằng vì đã là nạn nhân của bất công ; ý định biến hiện tại xấu thành tương lai tốt ; ý lực đưa hành động tự do của mình vào ngay đời sống xã hội. Tự chủ trong phạm trù của tương lai luận có lõi của quá trình tự sáng tạo để tự hành động : biết chống lại bạo quyền đang đe dọa, khống chế, đàn áp tự do bằng bạo lực, chuyển hóa não trạng ngay trong chính tri thức của tự do, không nhất thiết phải dùng bạo động để giành tự do, mà có thể xua đuổi, xóa bỏ các bạo lực chống lại tự do qua phương trình thông minh của đối thoại-đối chất-đối luận-đối trọng-đối kháng.
Biết chống lại bạo quyền phi nhân tính, vừa tha hóa, vừa đồi trụy, lại vừa vô luân, bằng hành tác tự chủ vì nhân phẩm : bằng tiếng nói, bằng trần tình, bằng biểu tình, bằng đề đạt, bằng đàm phán… để xác nhận nhân quyền, đó là quyền làm người với nhân tính, với nhân đạo. Biết chống lại bạo quyền bằng lý thuần chất của nhân phẩm, vừa dựa trên nhân lý, vừa dựa trên nhân trí, làm nên phương trình hợp lý-chỉnh lý-thuần lý để tự do sánh đôi với công bằng, để tự do bảo đảm được bác ái, trong một nhân tính không bao giờ chấp nhận bạo quyền, tà quyền, độc quyền, tham quyền, lạm quyền, cực quyền, cuồng quyền.
Chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý trí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tôc. Chống lại bạo quyền bằng tự chủ đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả chung chung của hoàn cảnh. Vì tự chủ đến từ tư duy của con người biết dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý và đạo đức của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.
Tự chủ trong một không gian đạo đức của chung sống trong công bằng và bác ái trong đó tự chủ biết nội lực của luân lý chính là ý thức về trách nhiệm và bổn phận ; sung lực của đạo lý chính là ý thức về các hành tác hay, đẹp, tốt, lành ; hùng lực của đạo đức chính là ý thức về nhân phẩm để bảo vệ nhân tính. Tương lai luận biết dự phóng trong tương lai học biết dự phòng thường được bắt đầu bằng trực quan của tri thức, tức là bằng thấy-hiểu-thấu-nhận, với tự chủ hiểu cái tốt để làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, đồng loại. Với tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận hệ luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận). Với tự chủ phải tiếp thâu cái lý để đón tiếp hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức).
Tự chủ trong chủ quyết, từ quyết tâm tới quyết đoán, vì công lý của công bằng, để tự chủ bảo vệ được cái lý đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, để tự chủ bảo vệ được cái đức tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, để tự chủ bảo vệ được cái luật minh, trong nghĩa công minh trong công pháp. Vĩnh viễn dứt bỏ cái tồi bại của các tòa án âm binh hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, với các "án bỏ túi", với đám thẩm phán chỉ cúi đầu theo lệnh của bạo quyền độc đảng, có hậu đài là tà quyền thanh nhũng, ma quyền tham tiền. Với các thẩm phán chính là những tội đồ của dân tộc, với các án oan, với biến nạn nhân thành "kẻ giết người", như vụ án Đồng Tâm năm 2020 ; mà trên cả nước thì bạo quyền độc đảng toàn trị đã biến hằng triệu đồng bào chúng từ dân lành một sớm một chiều thành dân oan.
Tự chủ vì nhân trí có thể được cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được bền vững qua công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận nhân quyền chính là quyền tự do xóa bất công, khử bạo quyền, loại độc quyền. Với tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn, qua xã hội, qua định chế, qua cơ chế... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những định đề về công lý phải mới hơn để đúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm chính trị, trong đó trách nhiệm hàng đầu là lãnh đạo phải liêm chính, phải liêm khiết, phải liêm sỉ khi thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm.
Chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng, xóa não trạng bị trị để xây não bộ chủ tri của quá trình tự chủ vì nhân trí có lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý. Tự chủ vì nhân trí có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm. Tự chủ vì nhân trí có sự sáng suốt tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm. Tự chủ vì nhân trí của tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác. Tự chủ vì nhân trí của nhân quyền biết tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, là nguyên nhân của bất công, là nguồn gốc của khổ đau.
Tự chủ vì nhân trí với quyền bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng đã là gốc, rễ, cội, nguồn của bất tài, bất tín, bất chính, bất lương. Tự chủ vì nhân trí với quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa tri của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng vì nhân quyền và dân chủ. Tự chủ vì nhân trí biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như bảo vệ để chính cuộc sống của mình. Chống ô nhiễm môi trường cùng lúc chống ngay trên cấu trúc của các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ, với hậu quả khủng khiếp của tập đoàn âm binh khai thác bốc xít tại Tây nguyên, của Formosa tại Hà Tĩnh, với bao nhà máy nhiệt điện than, bao năm qua đã cấu kết với bọn lãnh đạo âm binh từ trung ương đến địa phương của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tự trọng vì nhân phẩm
Tự trọng vừa là quyền chọn lựa, vừa là là quyền quyết định để có quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta.
Từ đây tự trọng vì nhân phẩm còn là quyền hành động, hành động để tha nhân phải tôn trọng nhân phẩm của chúng ta, vì tự trọng vì nhân phẩm biết đi tìm lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, mà kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác liêm khiết đều có cái giá của nó. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật.
Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự trọng vì nhân phẩm. Chúng ta được quyền "rợn người tới lợm giọng " trước bọn quan chức lãnh đạo cao cấp hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam, viết sách rao giảng để rao lận các luận điệu chống tự chuyển biến tư tưởng, để kiên định với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Nhưng chính chúng là bọn sâu dân mọt nước, đã vơ vét bao tiền của, vàng bạc, đã có quốc tịch ngoại, nhà cửa tại phương Tây, và khi bị lột mặt nạ, trước tòa án thì chúng khóc lóc với não bộ sâu mọt, với não trạng sâu rụt, để nhân dân phải thấy rõ âm dạng sâu mọt của chúng.
Tự trọng vì nhân phẩm đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thử thách tới từ các khó khăn mà ta gặp ngay trong cuộc sống, giải quyết các khó khăn, bằng lòng tự trọng của chính mình, tự chọn lựa cách giải quyết tới quyết định các phương tiện để vượt thoát (và vượt thắng) các khó khăn. Tự trọng vì nhân phẩm chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng trong cần lao để phát triển, để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên biến ngày mai phải đẹp hơn, hay hơn, tốt hơn, lành hơn hôm nay.
Tự trọng vì nhân phẩm có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong qua nội hàm của chủ thể luôn có ý thức, một ý thức tới từ tha nhân, tới từ lịch sự, tới từ xã hội, tới từ dạo lý… Một ý thức về kinh nghiệm trong thực tế và biết chống lại tất cả phản xạ vô điều kiện của loại não bộ ích kỷ, của kiểu não trạng thụ động trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội. Những phản xạ khuất phục trước bạo quyền độc đảng toàn trị là nhắm mắt-cúi đầu-khom lưng-khoanh tay-quỳ gối đều đáng chê, đáng khinh, đáng ghét, đáng bỏ, kể cả chuyện loại bỏ não trạng máy móc hóa ngôn ngữ : thưa, bẩm, dạ, vâng trước các tầng lớp lãnh đạo đang bóc lột, đang bòn rút, đang tha hóa đạo đức xã hội, đang đi trên lưng, trên vai, trên đầu nhân dân. Tự trọng vì nhân phẩm là nền, móng, cột, trụ cho bất tuân dân sự, trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền, cụ thể là biết tự chuyển hóa não bộ, tự chuyển biến não trạng nếu cuộc đời bị đe dọa, nếu cuộc sống bị tha hóa.
Tự trọng vì nhân phẩm luôn được cụ thể hóa qua ba nội hàm, gầy dựng lên nội chất, đúc kết ra nội dung của tự do : ý thức hiện hữu (có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan). Với ý thức chủ thể (có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan) ; cùng ý thức lý tưởng (có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành) cho mình, cho mọi người ; để chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chớ không phải là chuyện cam chịu.
Tự trọng vì nhân phẩm trao tặng cho ta một uy quyền biết rời bỏ những bữa tiệc trà dư tửu hậu của bọn trọc phú, chỉ biết ăn tục nói phét, tự điếm nhục hóa lời ăn tiếng nói của chúng, làm ta "rợn óc tới lợm giọng". Vì bên đường, ngoài phố thì dân lành bị phá nhà, cướp đất, giờ đã thành dân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, đang lầm than cùng dân đen trong cảnh đầu đường xó chợ. Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong nhân dạng với ý lực của nhân cách là không nhượng bộ những điều xấu, tồi, tục, dở có gốc, rễ, cội, nguồn của đặc quyền ác, đặc ân độc, đặc lợi hiểm
Tự trọng vì nhân phẩm có ngay trong chuyện chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng với nhận thức ra là mỗi công dân đều được đổi vị trí xã hội của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng theo hướng tiến bộ vì văn minh, trước một hệ thống ý thức hệ dựa vào bạo quyền độc đảng toàn trị. Tự trọng vì nhân phẩm có mặt trong đấu tranh vì công bằng xã hội, chống lại chuyện"con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" đẻ ra từ những quái thai vô tài bất tướng từ các "hạt giống đỏ", được tái sản xuất theo kiểu cha truyền con nối. Theo thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan", rồi cho ra đời một quái vật ma hình quỷ tướng trong thể loại dây mơ rễ má chốn âm phủ là quan hệ-hậu duệ-tiền tệ-đồ đệ, ngày đêm rình rập để tiêu diệt mọi trí tuệ, mọi tuệ giác tới từ các nguyên khí chân chính của quốc gia, của Việt tộc.
Tự trọng vì nhân phẩm không những qua phẩm chất của cá nhân, là đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà còn chủ động để hành động một cách rất cụ thể qua sáng kiến trong tập thể, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Tự trọng vì nhân phẩm luôn bức thiết nên cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi vì công bằng, để đấu tranh vì công lý.
Có tự trọng vì nhân phẩm để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về tự trọng vì nhân phẩm với cá tính biết rời bỏ các biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các tham quan, khi thấy chúng mạ vàng nhà cửa của chúng, khi thấy chúng có nội thất được chế biến từ các gỗ quý của các rừng nguyên thủy, mà chúng đã trộm, cắp, cướp, giật được trên quê hương gấm vóc này. Chúng ta có quyền "lợm giọng đến buồn nôn" để rời bỏ các biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các tham quan này, không những để tự bảo vệ nhân phẩm của chúng ta, mà còn tỏ rõ thái độ là mạ vàng nhà cửa chính là vô minh vì vô học, tàn phá tài nguyên thiên nhiên đốn chặt gỗ quý, nạo vét đá quý chính là vô hậu vì vô tri.
Tự trọng luôn song hành cùng nhân phẩm. Tự trọng song lứa với nhân tính. Tự do song cặp với nhân cách để tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, mà xây lên liêm chính, dựng lên liêm sỉ. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp ngay tự bây giờ bằng cách chuyển hóa não bộ, chuyển biến não trạng theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh. Tự trọng vì nhân phẩm có mặt ngay trong hiện tại trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó.
Cùng lúc tự trọng vì nhân phẩm là dàn nhún, dàn phóng để gởi đi những phương án của sự sống đúng vì tương lai tốt đẹp trong nhân cách biết bảo vệ nhân phẩm. Chuyển hóa não bộ tiến bộ, chuyển biến não trạng vì văn minh là biết gởi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự trọng vì nhân phẩm đã có mặt để giúp con người tự biết bảo vệ nhân vị. Tự biết khẳng định nhân phẩm của mình là một hành động thông minh biết vượt thoát các lo âu, sợ hãi tới từ đe dọa, tới từ trù dập của bạo quyền độc đảng toàn trị ; vì tự trọng vì nhân phẩm chính là gốc của sự thông minh biết tự thoát để tự thắng. Tự trọng vì nhân phẩm để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do, một tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó vì dân chủ, diệt sự sáng tạo của nó vì nhân quyền.
Tự trọng vì nhân phẩm còn một động cơ kích thích sự hình thành của tự do trong thực tiễn, động cơ này có thể tới tự ngoại cảnh, chúng ta thấy láng giềng cùng văn hóa tam giáo đồng nguyên với ta : Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan... có đời sống phát triển, tiến bộ, văn minh... chính đây là ngoại cảnh của láng giềng để giúp ta dấn thân, để thúc đẩy ta có hành động cụ thể vì đời sống văn minh, văn hiến như các láng giềng của ta.
Chính tự trọng vì nhân phẩm giúp ta lấy quyết định để hành động ! Nhưng có kẻ dùng tự do cá nhân để nhậu nhẹt, rượu chè, nghiện ngập... thì khi họ mong muốn có văn hóa, văn minh, văn hiến Mỹ châu, Âu châu, như các quốc gia láng giềng Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, mà bản thân họ không biết "thức khuya dậy sớm", và hằng ngày không chịu được cảnh "một nắng hai sương", mà ngược lại họ còn thiêu hủy kinh tế gia đình qua trác táng, làm khổ vợ con, thì các phát biểu của họ về tự do đi tìm văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ châu, Âu châu... chỉ là chuyện tráo lận truyền thông, nói mà không có luận cứ, vì vô tri nên vô lý, nó hoàn toàn xa lạ với định nghĩa về tự trọng vì nhân phẩm.
Tự trọng vì nhân phẩm vừa chống lại cái sai, vừa tiếp nhận cái đúng ; vừa từ chối cái xấu, vừa gạt bỏ cái ác, vừa đón nhận cái lành ; vừa xóa tan cái độc vừa chào đón cái đẹp, cùng lúc cam nhận cái thử thách. Tự trọng vì nhân phẩm chống lại kiếp "cơm thừa, canh cặn", để chống lại phản xạ thí gì nhận lấy, cho gì ăn nấy, ném gì xài nấy. Tự trọng vì nhân phẩm từ chối luôn kiếp "thiên mệnh đã an bài", để từ chối, không chấp nhận số phận an bài trong hiện tại, cam chịu số kiếp an phận trong tương lai, hứng chịu suốt đời làm nạn nhân.
Tự trọng vì nhân phẩm gạt bỏ luôn kiếp "con sải nhà chùa thì quét lá đa" để gạt bỏ hẳn bạo quyền, cường quyền, lạm quyền, trực diện đấu tranh chống tham quyền, tham nhũng, tham ô. Tự trọng vì nhân phẩm vạch mặt chỉ tên mọi bất công, bất lương, bất tài, bất chính, từ đây biết chuyển hóa não trạng bằng dấn thân để chống lạm quyền trong lãnh đạo, tham nhũng qua quyền lực. Bất tuân bạo quyền để xây dựng công bằng mới để chống bất công ; cụ thể tự trọng vì nhân phẩm là biết nổi dậy để lật đổ bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay.
Tự do vì nhân quyền
Tương lai luận dựa vào tương lai học một định đề là các khuynh hướng nặng chính là các khuynh hướng dài, cụ thể là nhận thức về sự hệ trọng của một vấn đề, của một thử thách, của một thăng trầm làm nên sực nặng rồi biến thành định đề dài lâu cho nhân sinh. Thí dụ như biến đổi khí hậu song hành cùng ô nhiễm môi trường là một sự hệ trọng làm nên khuynh hướng nặng và sẽ biến khuynh hướng dài, cụ thể hơn nữa là biến đổi khí hậu song đôi ô nhiễm môi trường trên toàn trái đất thì hệ trọng, nặng và dài cho con người hơn là sự cố động đất châu lục này, núi lửa châu lục kia.
Chính từ đây, Việt tộc phải nhận ra là tự do vì nhân quyền là hệ trọng, nặng và dài hơn mọi chiều trò tổ chức lại nhân sự của Đảng cộng sản Việt Nam trong đại hội đảng thứ 13, năm 2021, có hay không ý đồ của Đảng cộng sản Việt Nam song hành cùng thâm tính của Tàu tặc là dùng luật đặc khu để xâm chiếm đất nước ta. Vì khi, có được tự do vì nhân quyền là tất nhiên chúng ta có dân chủ để dẹp bạo quyền phản dân hại nước, chúng ta có nhân quyền để khử tà quyền buôn dân bán nước. Khi có nhận thức về hệ trọng làm nên khuynh hướng nặng và sẻ biến khuynh hướng dài cho nhân sinh, thì ta phải có thêm một nhận thức nữa là con đường đi tìm tự do vì nhân quyền càng rộng, càng sâu, càng cao thì bản lĩnh của nhân bản càng lớn, tầm vóc của nhân văn càng đẹp, nội công của nhân tâm càng bền.
Spinoza khi đi sâu thêm khi tìm nội chất của hành động tự do qua sự hợp tác vừa công bằng, vừa liêm chính, qua các thỏa thuận trong xã hội, trong đó khi quyền lợi được tôn trọng ngay trong hợp tác giữa các bên : cá nhân, chính quyền, pháp luật, xã hội, và mọi công dân đều biết tuân thủ sự hợp tác này, thì đây chính là cơ sở để xây dựng tự do. Rousseau còn làm rõ hơn bằng định nghĩa tự do qua hợp đồng xã hội để bảo vệ dân chủ trực tiếp, trong đó mọi người được tự chọn, để tự quyết định cho chính mình, nơi mà bạo quyền, tà quyền không có mặt vì không có chỗ đứng, lẫn chỗ để ngồi trong các cơ chế dân chủ.
Tự do vì nhân quyền kết hợp tất cả nội lực của nhân phẩm để chế tác ra sự tự tin vì nhân lý. Tự do vì nhân quyền mang sung lực của nhân tri để chế tác hùng lực của nhân trí, đó cũng là chặn đường tiến hóa của nhân tính. Hoch, phân tích nếu ta muốn dùng tự do để ngăn chặn bạo quyền, tà quyền, đã cướp tự do của chúng ta, thì chúng ta phải bắt đầu ngay trong não trạng của chúng ta là tìm mọi bằng cách giới hạn cách sống, cách nói, cách làm của bạo quyền, tà quyền. Nếu không thì chính bạo quyền, tà quyền sẽ giới hạn tự do của chính chúng ta bằng cách gây sợ hãi qua khủng bố, gây lo âu áp chế, gây tự kiểm duyệt, tự kiểm tra qua ý thức hệ của bạo quyền, tà quyền.
Qua triết học, Kant đưa ra hai phạm trù để định nghĩa tự do, trước hết tự do là trách nhiệm của ý thức, nhưng tại đây ông đề nghị phải định nghĩa cẩn trọng về tự do, vì tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay. Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng ngày qua bạo lực và qua tham nhũng.Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài vừa làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.
Bằng xã hội học khi phân tích về sinh hoạt xã hội làm nên quan hệ xã hội, thì Werber giải thích tự do đi từ ý muốn vì tự do để tới tự do thực hiện hoài bão, hoặc tới từ đạo lý vì hoài bão tới đạo lý vì trách nhiệm. Chính tự do với nhận thức đôi (hoài bão-trách nhiệm) này là quá trình hoàn thiện hóa xã hội, đạo đức hóa cộng đồng, luân lý hóa cá nhân, vì tự do có quyền hành động để hoàn thiện hóa thế giới, để chỉnh chu hóa thế gian. Ông đề nghị trong đồ hình nghiên cứu về cứu cánh của nhân sinh phải thấy bốn loại cứu cánh : cứu cánh vì quyền lợi, trong đó có tư lợi và có công lợi, cứu cánh vì giá trị, trong đó giá trị tâm linh mang nội chất thiêng liêng, cứu cánh vì truyền thống của tổ tiên,vừa là trí tuệ, vừa là lý trí, cứu cánh vì tình cảm, trong đó cảm xúc có cái lý của tâm giao, đắc khí. Tại đây tự do vì nhân phẩm chính là tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bão đẹp, mang trách nhiệm cao.
Tự do vì nhân phẩm rất cụ thể vì tự do này biết đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các nạn nhân của bất công, của độc tài, của tham nhũng... đứng về phía đồng bào và đồng loại đang khổ đau trong một chế độ lấy bạo quyền, dùng bạo lực để hằng ngày bạo hành đồng bào mình. Từ đây chuyển biến não bộ để chuyển hóa não trạng bằng cách nhận ra tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phụ lão, các trẻ thơ, các người tàn tật, các phụ nữ… hằng ngày là nạn nhân của một chế độ bỏ quên không những an sinh xã hội mà cả an toàn xã hội để bảo vệ kẻ yếu thế, kẻ mang tàn tật… Tự do đứng cạnh tất cả các phong trào đấu tranh liêm chính vì dân chủ, vì nhân quyền để bảo vệ cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, ít nhất là bắt buộc bạo quyền phải tôn trọng các quyền đã được ghi trong hiến pháp.
Tự do đứng cạnh các tù nhân lương tâm hoàn toàn vô tội đang trong vòng lao lý vừa vô nhân đạo, vừa vô nhân tính của bạo quyền vừa đang vùi dập nhân cách bất khuất của dân tộc, đang tha hóa phẩm chất của Việt tộc. Phải khẳng định tự do vì nhân quyền bằng não bộ trong sáng, bằng não trạng tích cực để đứng cạnh tất cả dân đen trong cảnh đầu đường xó chợ và dân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, mất đất, mất nhà nạn nhân của các lãnh đạo ma đất đã cấu kết với bạn các nhà thầu ma xây cất, đang khổ nhục hóa các nạn nhân này ngay trên mảnh đất của họ. Tự do đứng cạnh các phong trào yêu nước đang đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, từ biển đảo tới đất liền, từ môi trường tới môi sinh, đang bị tiêu hủy hằng ngày bởi Tàu họa, thông đồng với các lãnh đạo đang bán nước.
Tự do vì nhân quyền để đứng cạnh cho đa nguyên mở cửa cho đa tài, đa năng, đa hiệu, để chống độc tài, độc trị, độc quyền qua độc đảng, từ đó tạo dựng lên khối đại đòan kết trong đa dạng tư duy, đa thể lý luận, có đa lực tiếp nhận văn minh của nhân loại. Tự do vì nhân quyền để cận kề với quyết tâm giải phóng chính mình qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức,ý thức,nhận thức) cùng lúc giải phóng gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, dân tộc mình ra khỏi nhà tù ngu dân của độc đảng.
Tự do đẩy cửa, đạp tường, phá rào, đập tan nhà tù của một chế độ sống nhờ công an trị, đã cai trị rồi vùi dập lương tri của Việt tộc chỉ muốn sống là một dân tộc tốt. Tự do vì nhân quyền chính là tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực trạng của độc đảng sinh ra độc quyền, để tham quyền đẻ ra tham nhũng trong toàn bộ lãnh đạo chối từ đối thoại để đối luận với trí thức là chúng ta thấy Nhân luận của chính chúng ta bị thiêu hủy. Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến bi kịch của cả dân tộc đang bị bần cùng hóa, cả một xã hội đang bị đồi trụy hóa, cả một đất nước đang bị đe dọa xâm lược bởi Tàu tặc là chúng ta thấy nhân quyền của chính chúng ta bị bức tử.
Sartre trong quá trình xây dựng chủ thuyết hiện sinh, đã vượt qua hai trở lực có mặt trong hệ thống tư tưởng của phương Tây : cuộc sống có từ nội chất của nhân sinh (essence) và có từ sự tồn tại (existence) của nhân sinh, mà cả hai thường được giải thích bằng sự có mặt của một đấng tối cao là thượng đế, đã sáng tạo ra nội chất và sự tồn tại của nhân thế. Chủ thuyết hiện sinh thì khẳng định ngược lại : nội chất của sự sống có thể tới từ ngẫu nhiên và sự tồn tại của nhân sinh là do con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo. Chủ thuyết này thoát khỏi mọi định đề được định vị bởi một đấng tối cao, qua hiện hữu của niềm tin trong tôn giáo, tác động lên các hệ thống siêu hình học (linh hồn, tâm linh, thiên đường, địa ngục…) và ít nhiều đã làm nền cho tư tưởng và cho cả gốc của triết học Âu châu.
Từ đây, tự do vì nhân quyền là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do vì nhân quyền là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới từ thái độ biếng lười của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vì nhân quyền vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện. Tự do vì nhân quyền đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục. Tự do vì nhân quyền có không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do vì nhân quyền chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.
Tự do vì nhân quyền [1] đã xuất hiện ngay trong phân tích của Descartes : "Tôi biết thế giới chưa hoàn thiện, bản thân tôi cũng chưa hoàn thiện, nhưng tôi có tự do trong cuộc sống này để hoàn thiện thế giới, để hoàn thiện bản thân tôi". Phạm trù tự do vì nhân quyền không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhân phẩm hóa nhân loại. Tự do vì nhân quyền có trong khẳng định Balsac : "Tôi có tự đo đứng về phía đối kháng chống bất công, tôi tự đặt tên cho nó là cuộc đời", và đứng về phía đối kháng là đứng về phía của kẻ yếm thế trước bạo quyền ; là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có trong luận điểm của Arendt : "Tự do đặt quyền lực vào đúng chỗ nó để nó dùng công lý mà xử bất công". Chính tự do giúp công dân phải nghĩ xa hơn các tư lợi ngắn hạn của chính trị. Cũng chính tự do giúp công dân tự do trong tư duy để có tự do vận não với các hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa.
Tự do vì nhân quyền có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội có nhân quyền và dân chủ, để đi ngược lại các sinh hoạt chính trị luôn là đoản kỳ trong nhiệm kỳ. Tự do có mặt trong nhân sinh trường kỳ trong một xã hội không có nhân quyền và không có dân chủ, để đi ngược lại các ý định của bạo quyền, ý muốn của độc tài, ý đồ của tham nhũng.Tự do sống trong di động để chủ động, chống lại bị động vì thụ động của cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trong khuất phục, trong tủi nhục, trong cam chịu ; vì tự do trước hết là tự do đi lại ; đi lại để được sống trong dòng chảy của nhân tính, trong trào lưu của nhân phẩm, trong phong trào của nhân đạo.
Tự do vì nhân quyền biết vượt khó khăn trong cuộc sống như vượt thắng chính mình, từ đó tự tin của tư duy làm sáng ra ba quá trình của tự do là phải trực diện để đấu tranh vì tự do. Tự do cần tự tin để đấu tranh, nhưng tự do cũng giúp tự tin phải tự giải phóng mình trước khi hành động vì tha nhân, vì đồng loại. Tự do đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi là : ta đang có hay ta không có tự do ? Tự do lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý. Tự do vì nhân quyền tạo nên một quá trình chuyển biến não bộ tiên tiến, chuyển hóa não trạng cấp tiến, thay đời đổi kiếp bằng cách vật sụp bạo quyền độc đảng toàn trị là đây !
Tự do vì nhân quyền đi từ không đến có, khi con người tiếp nhận một chân lý bình đẳng qua quan niệm về bình đẳng với mọi người, để có công bằng trong xã hội, để yêu cầu công lý dùng pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng bằng pháp luật vừa công minh, vừa liêm chính. Tự do trực diện đấu tranh với mọi bạo quyền, mọi tà quyền, mọi cường quyền bằng chính liêm sỉ của mình, đây là định nghĩa nguồn của nhân cách. Đó là các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do.
Trong cuộc sống hằng ngày, tự do vì nhân quyền là sự hình thành một ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền với tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công, đồng hành cùng tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, và bổn phận trong hiện tại và trước tương lai, như vậy tự do luôn mang ba quá trình chuyển hóa não bộ để chuyển biến não trạng trước tương lai với tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế. Tự do vì nhân quyền biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công, vì tự do vì nhân quyền là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lực của bạo quyền.
Tự do vì nhân quyền có đạo lý, tự tin có đạo đức, nếu tới từ phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trình của tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động. Tự do vì nhân quyền có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm trong hai chiều : có hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội, và có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể của tự do sẽ rất chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi : Tự do vì nhân quyền biết tự hỏi : tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ? Biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia ! Hiểu phương trình dấn thân-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.
Từ thầy Platon tới trò Aristote đều công nhận tự do mang lý lẽ của nhân lý, nhưng nó rất tự nhiên vì nó có ngay trong nhân tính, với thói quen của nhân sinh biết đấu tranh vì nhân quyền, theo nghĩa nhân có quyền (định đoạt-chọn lựa-quyết định-hành động) vì các định hướng mà nhân sinh thấy đúng cho công lý của nhân lý. Nên tự do vì nhân quyền dám đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Và tự do có ngay trong não bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng.
Cụ thể tự do vì nhân quyền là tự do chặt xiềng, tự do phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vỡ bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnh của lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, chấm dứt kiếp nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng..
Chuyển hóa não bộ để mời tự do chặt xiềng, chuyển biến não trạng để tiếp tự do phá nhà tù, có mặt trong quyền công dân của một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù ngay trong xã hội bên ngoài.
Tự do vì nhân quyền hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do vì nhân quyền có mặt trong đấu tranh, khi thành công lúc thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do vì nhân quyền sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoanh tay mà thẳng lưng, không quỳ gối mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mãnh lực để nhảy vọt thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân quyền.
Lê Hữu Khóa
(12/11/2020)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.