Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

mardi, 03 décembre 2024 09:08

Vì đời mà đi

Thuở sinh tiền, có bữa, Nguyễn Thụy Long tự nhiên nổi nóng :

"Lâu lâu tôi cũng đi uống cà phê, có những quán cà phê cũng ngon nhưng nhạc ầm ĩ quá. Tôi yêu cầu nhà hàng cho nghe một bản nhạc nhẹ, cô phục vụ hỏi lại :

– Bác muốn nghe nhạc ‘sến’ hả ?…

Tôi nhìn kỹ lại người vừa nói với tôi… chỉ là một đứa ranh con, mặt mũi còn non choẹt… tôi giận cành hông" (Nguyễn Thụy Long, "Hương Cà Phê", Tuần báo Viet Tribune 24/05/2013).

Ông văn sĩ, ngó bộ, hơi… dễ giận. Ông bác sĩ, xem ra, dễ chịu hơn nhiều :

"Thấy tôi đứng loay hoay tìm kiếm mãi trên các kệ đầy nhóc băng đĩa ngổn ngang, cô bé bán hàng đến gần hỏi :

– Bác muốn kiếm loại nào ?

– Nhạc. Nhạc xưa.

Cô đọc vài cái tên gì đó…

– Không. Xưa hơn nữa kìa. Chừng nửa thế kỷ trước. Có không ?

– Bác chờ con lấy.

Một lúc, cô mang ra một cái… giỏ, đúng hơn là một cái rổ to, hình chữ nhật, chứa hàng ngàn đĩa CD, buộc dây thun từng cọc, nói bác lựa đi. Tôi giật mình thấy trên thành rổ dán mấy mảnh giấy viết tay bằng chữ in khá to : SẾN GIÀ NAM… Tôi đoán đây là loại nhạc "sến" dành riêng cho nam giới "già"! (Đỗ Hồng Ngọc, "Sến Già Nam", 03/03/2013).

vidoi1

Tôi cũng già chát (từ lâu) nhưng chưa già bằng hai ông văn sĩ và bác sĩ nên đã có lúc phải trở thành chiến sĩ.

Lính thì thằng nào chả hát nhạc vàng, nhạc sến, hay nhạc lính. Lính mà em ?

Khác với nhạc đỏ (loại nhạc đã chết nhưng chưa chôn) nhạc vàng tuy đã từng bị nhà nước hiện hành vùi dập (và vùi lấp) nhưng vẫn nhất định không chịu chết mà còn sống hùng, sống mạnh, rồi đang tràn lan "khắp bốn vùng chiến thuật" – theo như tường thuật của một người cầm bút khác (Đoàn Nhã Văn) trên trang FB của ông, vào hôm 12/12/2023 :

"Qua những gì đã thấy trong thời gian ngắn, tôi chứng nghiệm : nhạc vàng hiện hữu ở đồng bằng, leo lên miền núi, chạy xuống vùng biển, lẫn trong thành phố, ra ngoài ngoại ô. Nó ăn sâu vào tâm khảm của những thanh niên mới lớn, bất kể ở Sài Gòn, Hải Phòng, Hà Nội, Tuyên Quang, Đồng Văn, v.v. bất kể chất giọng cao, thấp, đục, rè. Nó được hát bởi anh tài xế, chị làm ngân hàng, anh bộ đội phục viên, những người ca sĩ trẻ tuổi, và cả những thương gia thành đạt…".

Tui cũng hát liên miên (hẳn nhiên) nhưng chỉ cho chính mình nghe (thôi) khi lái xe trên những đoạn đường dài. Bữa nay phá lệ, tôi ca vài bài cho thiên hạ nghe chơi để biết thế nào là nhạc sến và nhạc lính. Có thể vì tuổi đời nên giọng của tui e không còn mùi mẫn như xưa (nữa) nhưng bảo đảm là chưa dở :

Mình vui được sao nếu chưa thanh bình
Từng đoàn người trai đi viết sử xanh
Thì gian nhà xinh vắng vắng đi mình anh
Cũng thôi chớ buồn em nhé đưa nhớ ngày đăng trình…

(Hoài Linh, "Nếu Một Mai Anh Giã Biệt Kinh Kỳ")

Tình và buồn dễ sợ chưa ? Nếu chưa (phê) thì nghe thêm bản khác nha :

Đường phố khuya rồi
Chênh chếch bóng trăng soi
Uống cạn hết ly này
Ghi nhớ mãi đêm nay …
Còn riêng mình tôi vai ba lô về khu chiến
Nghe đường dài thêm.

(Song Ngọc, "Chúng Mình Ba Đứa")

Tiếp tục chương trình là bài mà tui ca tới nhất, cỡ Trường Vũ hay Tuấn Vũ mà nghe là đỏ mặt liền (vì mắc cở) và giải nghệ cấp kỳ :

Mùa mưa lần trước anh về đây ghé thăm tôi
Tình xưa bạn cũ gặp nhau đêm ấy mưa rơi
Tách cà phê ấm môi
Mình ngồi ôn lại những phút vui trôi qua mất rồi
Nhiều khi chờ sáng nghe lòng thao thức canh thâu
Đường ga nhỏ bé nằm đợi mong đã bao lâu
Tiếng còi đêm lướt mau
Đoàn tàu đi về mãi mà bạn thân tôi nơi đâu…

(Lê Minh Bằng, "Hai Mùa Mưa")

vidoi2

Tuổi già hạt lệ như sương mà lần nào tui cũng vừa hát vừa muốn ứa nước mắt. Bạn đi luôn thì tất nhiên là buồn lắm (rồi) nhưng nếu trở lại trên đôi nạng gỗ thì còn buồn hơn nữa :

Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về
Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân…

(Linh Phương & Phạm Duy, "Kỷ Vật Cho Em")

Đôi khi, tôi không chỉ buồn mà còn cảm thấy hơi cay (và đắng) nữa :

Mây mù che núi cao
Rừng sương che lối vào
Đồng ruộng mông mênh nước
Đêm đêm nằm đường ngăn bước thù
Áo nhà binh thương lính, lính thương quê
Vì đời mà đi…

(Trúc Phương, "Trên Bốn Vùng Chiến Thuật")

Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà.

Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi : "Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy ?

vidoi3

Tất nhiên là có nhưng chắc ít thôi, và ít lắm. Tôi không dám trách đời hay oán hận chi đâu, nếu chưa muốn nói là ngược lại. Tôi biết nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân (trong cũng như ngoài nước) đã hết lòng chăm lo cho số thương phế binh (bất hạnh) này nhưng chỉ e là không đủ thiếu chi và không còn kịp nữa.

Người trẻ nhất mà tôi biết rõ (vì chúng tôi cùng đơn vị) là Hạ sĩ Nguyễn Văn X. Ông sinh năm năm 1956, nhập ngũ năm 1974 (bị thương cùng năm) vừa lìa trần tuần trước. Phần lớn chúng tôi đều trên tuổi đó và lắm kẻ (cho đến khi nhắm mắt) vẫn chưa bao giờ nhìn thấy một món quà nào – từ bất cứ ai – dù Đại nhạc hội Cảm ơn anh Thương phế binh đã được tổ chức (rất thành công) khá nhiều lần, từ mấy thập niên qua !

Tưởng Năng Tiến

(03/12/2024)

Additional Info

  • Author Tưởng Năng Tiến
Published in Văn hóa

Nhìn lại cuộc chiến đã qua, xương máu của những chiến sĩ và thường dân đã đổ ra trên đất nước này để rồi được gì ? Những năm sau đó là tiếng khóc than do những thiên tai bão lụt, hạn hán gây nên, nạn đói đe dọa, đời sống người dân Việt Nam chỉ là đau khổ. Quê hương này thật là bất hạnh.

bathanh1

Tiếng khóc than do thiên tai bão lụt, hạn hán gây nên, nạn đói đe dọa, đời sống người dân Việt Nam chỉ là đau khổ.

Người Việt Nam cứ im lặng bước tới, dẫm đạp lên quá khứ, giành giật nhau từng miếng sống, mạnh được yếu thua, bất chấp những qui luật sơ đẳng của một xã hội văn minh. Người trong guồng máy chính quyền như những rô bô, chỉ biết làm theo mệnh lệnh của cấp trên ban ra.

Tại sao cũng là con người mà người ta đối xử với nhau tệ hơn loài thú ? Những thế hệ thanh niên ngày hôm nay, còn gọi là "thế hệ Hồ Chí Minh", không còn biết kính nễ những bậc đàn anh, những người sa cơ thất thế, nhất là những người đã từng một thời cầm súng bảo vệ quê hương của họ. Tôi muốn nói đến tập thể những thương phế binh hiện nay, tất cả đều đã lớn tuổi và yếu kém mọi mặt, đang sống những ngày đen tối trong xã hội mới.

Mỗi lần đi ngang qua những "nghĩa trang liệt sĩ", tôi không khỏi đau buồn cho những "nghĩa trang ngụy quân, ngụy quyền". Đều là người chết nhưng người chết phía bên này thì được tôn vinh, người chết phía bên kia thì bị chà đạp. Đất nước này từ bao năm qua vẫn chưa vượt khỏi tâm lý "được thì làm vua, thua thì làm giặc". Đọc lại sử ký nước nhà mà buồn cho dân tộc. Các triều vua mới luôn tìm cách dày mồ đạp mả các vị vua trước. Ngày nay không ai biết mộ phần các vị vua Đinh, Lý, Trần, Hồ, Mạc hay Lê chôn cất ở đâu. Khi Tây Sơn vừa lên ngôi, họ liền đào mồ tổ tiên các chúa Nguyễn, rồi khi nhà Nguyễn vừa lên thay họ lại đào mộ các vua Tây Sơn, cái vòng lẩn quẩn ấy cứ lặp đi lặp lại.

Chế độ cộng sản cũng vậy, vừa cướp chính quyền xong họ liền cho đập phá các bia mộ những người thua cuộc. Các "nghĩa trang quân đội ngụy quân, ngụy quyền" bị cày phá lên để xây dựng những "cung văn hóa". Văn hóa gì khi không tôn trọng những người đã khuất ? Chế độ cộng sản được gì khi đào mồ, phá mả những người đã chết. Ai bảo đảm mồ mả tổ tiên, gia đình con cái của họ, những "nghĩa trang liệt sĩ" của họ sẽ còn được giữ nguyên sau này ? Nếu không tôn vinh sự hy sinh của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thì hãy để yên cho họ nằm nghỉ.

Những người cộng sản cầm quyền không nghĩ như vậy, tâm địa của họ rất là thâm hiểm. Họ không những đào mồ, bới mả những người bại trận để trả thù mà còn đem bêu xác Hồ Chí Minh ở giữa quản trường. Hành động bêu xác người chết ngày xưa chỉ dành cho những tội đồ hung ác, có lẽ tội ác của Hồ Chí Minh quá lớn đối với đất nước nên chính những người đã từng theo ông phải bêu xác của ông cho người đời nguyền rủa. Mặc dù rất căm hận tội ác của Hồ Chí Minh nhưng chúng tôi không có dã tâm nhìn người chết bị nhục mạ thêm nữa, đây là tinh thần cao thượng tối thiểu của những người biết suy nghĩ và tự trọng.

Tại sao những người cầm quyền ngày hôm nay dám hỗn xược với cả lãnh tụ của họ ? Chúng tôi là những người bại trận và đang trả giá cho sự thất bại đó, nhưng vì lòng nhân đạo yêu cầu chế độ cộng sản hãy đem chôn cất xác chết Hồ Chí Minh. Yên mồ đẹp mả là ước muốn chung của người người quá cố.

Hãy để yên cho người chết chết hẳn trong lòng đất lạnh. Tội lỗi của ông Hồ Chí Minh hãy để lịch sử phán xét, hơn nữa chính ông là người đã khai sinh ra chế độ cộng sản trên đất nước Việt Nam. Tập thể thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản hãy tôn trọng di chúc của ông Hồ Chí Minh, yêu cầu những người đã từng tôn thờ Hồ Chí Minh trao trả xác ông cho gia đình của ông chôn cất. Chế độ hiện nay còn dành những vùng đất tốt bán cho ngoại nhân xây nhà cất xưởng, tiếc gì một mảnh đất nhỏ dành cho một người đã chết. Tục lệ Việt Nam ngày xưa thường dành những miếng đất tốt cho người quá cố, nhiều gia đình còn phải đi tìm những vùng địa linh để chôn cất thân nhân. Vậy chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản không được xâm phạm đến mồ mả những người đã chết vì tổ quốc miền Nam.
Tôi chỉ cầu mong sau này, bất cứ phe nào lên cầm quyền hãy để yên những người đã khuất. Nếu chúng ta không tu sửa những mộ phần bỏ hoang thì cũng đừng nên dẫm đạp lên nó. Tội này nặng lắm. Việc thiện ít ai nhớ tới, việc ác khó có người quên. Bài học về cuộc chiến vừa qua đã không vinh quang cho người thất trận và cũng không vinh danh người chiến thắng. Chỉ có dân tộc Việt Nam là nạn nhân của chính sự độc ác của người Việt Nam. Trả thù báo oán chỉ chuốc lại trả oán báo thù, phải vượt ra cái vòng luẩn quẩn của hận thù và tâm địa nhỏ nhen. Đất nước Việt Nam đã ngập tràn tiếng khóc than của trẻ thơ và các bậc cha mẹ, không nên khơi lại vết thương chưa lành và không để nước mắt chảy thêm trên những gương mặt thương đau.

Những người có tham vọng lãnh đạo đất nước Việt Nam sau này phải nhớ bài học ngày hôm nay, hãy ngước mắt lên nhìn vào thế giới, các dân tộc khác đang sống trong tự do, hạnh phúc, hòa bình và sung túc. Nhưng Việt Nam không có may mắn đó. Không ai kỳ vọng gì nơi những người cộng sản, họ đã làm tất cả để nước mắt và hận thù tràn ngập trong lòng mọi người. Không nơi đâu không có tiếng than van vì những chèn ép và áp bức của những người đại diện chế độ. Có lẽ những người lãnh đạo cộng sản nghĩ rằng chế độ của họ sẽ còn kéo dài mãi mãi nên không cần nghĩ tới hậu quả. Các chính sách của chế độ cộng sản hôm nay đang đào sâu hố thù hận giữa họ với nhân dân. Phải nói gì khi có biến động, ai sẽ bênh vực cho họ và cho con cháu họ không đền nợ máu ?

Không ! Quê hương Việt Nam bất hạnh như vậy đã đủ rồi. Chúng ta nên nhìn về phía trước, cùng nắm tay nhau đi trong tình anh em tìm lại. Chúng ta cầu mong những người cộng sản ngày hôm nay trở lại tính người, san sớt nỗi đau của người khác, chia sẻ cái khổ của người khác. Nếu Trời còn có mắt, hãy mở mắt cho những người này, giúp họ trở về đường ngay nẻo chính, dẫn dắt họ ra khỏi sai lầm và tội ác. Nợ máu xương này có thể chuộc lại, hãy giúp họ xây dựng lại tình người. Nhìn lại lịch sử các dân tộc trên thế giới, chỉ những dân tộc nào có lòng bao dung mới tiến xa về phía trước, những dân tộc nào chìm đắm trong hận thù cuối cùng chỉ sống cùng cực trong tăm tối, để rồi trở thành nô lệ của ngoại bang. Ngoại bang cung cấp súng đạn cho các dân tộc kém may mắn tiếp tục cấu xé, bắn giết lẫn nhau, như thế họ chỉ có thể nghèo nàn và kiệt quệ hơn, để rồi cống hiến tất cả tài nguyên con người và đất nước cho ngoại bang khai thác. Không ! Dân tộc Việt Nam phải xứng đáng có một chỗ đứng vinh quang hơn trước mặt nhân loại.

Người Việt chúng ta kính trọng tổ tiên và người đã khuất, hãy tổ chức mỗi năm một ngày tưởng nhớ tổ tiên. Con không cha như nhà không nóc, tục ngữ Việt Nam thường nói như vậy. Đừng để những người cộng sản đánh mất linh hồn của chúng ta. Dân tộc Việt Nam đâu có hèn mọn, chúng ta đã dám đương đầu với bất cứ bạo lực nào. Nếu hôm nay bạo lực vẫn còn mạnh ngày mai nó sẽ yếu đi. Không bạo lực nào tồn tại mãi với thời gian, chỉ có tình người mới là vĩnh cửu. Nhưng rất tiếc ngày nay trên đất nước này thù hận chất chứa đầy trong tâm khảm mỗi người, chỉ cần một ngòi nổ tất cả sẽ nổ bùng. Bất cứ vì lý do gì và vào bất cứ thời điểm nào nồi thuốc súng hận thù này bùng nổ, lúc đó quê hương chúng ta sẽ là xưởng sản xuất quan tài và hũ đựng trong cốt bát tràng.

Nhiều lúc quá bực mình trước thế thái nhân tình, tôi trở nên quẩn trí. Lý luận nhiều quá làm tôi điên loạn. Tôi nghĩ đến những trẻ thơ vô tội, sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ đang đi lượm từng bao rác hay đang đứng rình rập ở một góc chợ chờ một khách hàng khờ khạo đi qua chụp lấy bóp tiền mang về cho những tay đầu nậu để được miếng ăn. Tương lai gì ở những em này, nếu không vào nhà giam thì cũng sẽ gục chết trước bạo lực hè phố. Tôi nghĩ đến những người mẹ đã từng mang nặng đẻ đau, thương xót đứa con vừa mới lớn lên đã vội nằm xuống cho một lý tưởng ngoại lai. Nếu không có những lý tưởng này, con bà đã không chết non và mẹ con bà có lẽ được sống những ngày đầm ấm. Tôi nghĩ đến những đoàn người bồng bế nhau trên đường chạy loạn, chạy đi đâu cho thoát kiếp người, nhất là kiếp người Việt Nam.

Là người Việt Nam sao mỗi chúng ta không có tình người, chúng ta dễ dàng qui kết những người không có cùng suy nghĩ với chúng ta là kẻ thù. Lý luận này quá đơn giản, kẻ thù ở đâu mà nhiều đến thế, nó chỉ dẫn đến xung đột. Thật sự thì đã có xung đột, hơn bốn triệu người chết và sáu trăm ngàn người bị tàn phế suốt đời, trong đó có tôi. Những người tàn phế như chúng tôi đâu có muốn ăn bám vào xã hội, chúng tôi cũng muốn được sống bình thường như mọi người khác, nhưng làm người Việt Nam trong xã hội ngày hôm nay thật là tủi nhục.

Muốn được yên thân, chúng tôi phải cúi đầu lẫn tránh những người quyền chức. Thật sự chúng tôi cũng muốn lẫn tránh lắm chớ, nhưng rồi ai cho chúng tôi ăn, ai cho chúng tôi mặc. Chúng tôi cũng là người, không những người như mọi người khác mà chúng tôi đã cống hiến một phần thân thể này cho đất nước được trường tồn. Chẳng may chúng tôi đứng bên này chiến tuyến, bị thua trận nên phải trả giá cho sự bất công và phân biệt đối xử. Còn những anh em phía bên kia chiến tuyến, gia đình các anh cũng đã chịu nhiều mất mát, thân thể các anh cũng bị thương tật như chúng tôi, tỏ ra hơn nhau để rồi được gì. Người Mỹ đã ra đi, chỉ còn lại người Việt Nam với nhau, tại sao các anh lại hà hiếp chúng tôi đến thế ? Có lẽ các anh muốn bảo vệ chế độ để hưởng chút quyền lợi nên cứ che mặt hiếp đáp chúng tôi. Làm người ai cũng biết đau, biết đói như nhau và cũng có những ước muốn như nhau. Chúng tôi chỉ ước mong xã hội này tôn trọng nhân phẩm của mọi người và để chúng tôi được sống bình yên. Vinh dự gì kiếp sống ăn xin, vậy mà cũng chẳng được yên. Nhiều lúc nghĩ đến thân phận làm người, làm người Việt Nam ngày hôm nay thật là bất hạnh. Người ta có thể tàn ác đối với kẻ thù nhưng ở đây người ta còn tàn ác cả với người tàn tật. Chỉ tiếc là chúng tôi đã không chết để làm vừa lòng nhiều người, chúng tôi vẫn sống và sự sống của chúng tôi không có lối thoát.

Nhớ lại những năm tháng còn sống với mẹ cha, đời sống thật là bình yên. Chúng tôi đã là những đứa con bình thường như mọi đứa con trong mỗi gia đình. Chúng tôi đã biết thế nào là "tiên học lễ hậu học văn", hoặc là "công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", thế nào là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín... Chúng tôi cũng không quên những lần bị roi vọt hay đùa giỡn, giành giật giữa anh chị em trong nhà. Chúng tôi cũng không quên những tiếng mèo nhe : "Mẹ ơi, Ba ơi" hoặc những câu lễ giáo gia phong : "Thưa Ba con đi học, thưa Mẹ con đi học về".

Ôi, còn đâu những kỷ niệm êm đềm trong mái ấm hạnh phúc khi thực trạng của ngày hôm nay chỉ là một đống tro tàn xác xơ. Ôi không biết còn bao nhiêu là thảm trạng, sự sống và cái chết không còn làn ranh, những người trong nước đối xử với nhau như dã thú. Nói về dã thú, ít ra chúng cũng còn tình đồng loại, không bao giờ cắn xé, giết chóc lẫn nhau khi một con thú chấp nhận thua thiệt. Đằng này những người thắng cuộc đang muốn dày xéo cuộc đời chúng tôi dù đang ở dưới lớp bùn. Thật là đau đớn.

Nỗi đau này đã kéo dài gần ba mươi năm qua. Nhớ lại năm 1972, từ Quân Y Viện 3 Dã Chiến (Mỹ Tho), tôi khập khiểng bước đi trên cặp nạng chống, đầu cúi xuống đất. Tôi đau cho thân phận mình. Một tháng trước đây tôi vẫn còn là một người bình thường, giờ thì đã trở thành người tàn phế. Chân trái tôi đã không còn nữa. Nhưng tôi tự an ủi là mình vẫn còn may vì chung quanh những chiến hữu khác ngồi, nằm la liệt, trên cơ thể đầy những vết thương còn kinh khủng hơn tôi. Ôi, sao tôi ghét chiến tranh đến thế, nó không những làm tan nát biết bao gia đình mà còn lấy đi những gì tạo hóa đã cho. Con người thật là tàn ác. Chiến tranh có lẽ là trò chơi ác độc nhất do con người sáng tạo ra, nó là sản phẩm của những con người ích kỷ chỉ lo nghĩ đến chuyện buộc kẻ khác phải tùng phục. Trong thế giới loài vật không bao giờ có chiến tranh, qui luật mạnh được yếu thua chỉ xảy ra cho những loài vật yếu đuối nhưng những loài thú dữ chỉ săn mồi khi đói, ăn đủ rồi thì thôi. Con người không phải thế, cho dù có được ăn mặc đầy đủ cũng vẫn thích hành hạ, giết chóc kẻ khác.

Đi ngang qua những căn phòng nhỏ hẹp của quân y viện, tiếng rên siết của những chiến hữu vọng ra vì sự đau nhức do những vết thương gây nên, lòng tôi càng xót xa. Tôi thương những người bạn chưa quen biết đó, họ còn đau khổ hơn tôi. Tự nhiên tôi căm thù luôn những viên đạn vô tri, những mảnh đạn pháo cùng mảnh vụn của bom mìn, tôi thương cho những thớ thịt bầy nhầy, lỡ loét trên cơ thể của những chiến binh như tôi đang bị đám ruồi muỗi bu quanh. Đám ruồi muỗi này dường như chỉ thích mùi hôi của máu, mùi tanh của thịt.

bathanh2

Những câu vui đùa, những mẫu chuyện tiếu lâm đã đem đến sự êm ái làm dịu bớt nỗi đau trong tâm hồn và trên thể xác.

Những ngày nằm điều trị trong quân y viện đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong lòng chúng tôi. Đây là nơi không ai muốn hẹn đến, nhưng đến rồi thì không muốn rời đi. Những câu vui đùa, những mẫu chuyện tiếu lâm đã đem đến sự êm ái làm dịu bớt nỗi đau trong tâm hồn và trên thể xác. Vì thiếu vắng tình thương của mẹ hiền, chúng tôi thường vòi vĩnh những "bà mẹ" điều dưỡng lo cho chúng tôi từng chén cơm ly nước. Thật là cảm động khi thấy những "bà mẹ" đổ từng bịch nước tiểu và phân của những anh em bị thương nặng, săn sóc vết thương của những anh em vừa được trực thăng chuyển từ chiến trường về. Có khi chúng tôi reo hò vui vẻ khi có một trong người bạn được gia đình đến thăm nuôi. Thật là cảm động khi nghe những tiếng mời mọc vang lên các phòng sau đó.

- Anh em qua đây ăn với tôi cho vui, một miếng thôi cũng được mà. Còn đây là vợ tôi, đây là em gái tôi.

Những buổi tiệc không được dự trù trước làm ấm bầu không khí huynh đệ chi binh, khó mà quên được. Nhìn những thân thể còn băng bó chia sẻ với nhau những món quà mọn, nhìn những cử chỉ âu yếm của người vợ nhún khăn lau chùi từng giọt mồ hôi cho chồng và nhìn những cánh quạt giấy của những bà mẹ xua đuổi sự nóng bức và ruồi muỗi cho con, tôi thấy tình người thật vĩ đại. Trong sự khốn cùng người ta dễ chia sẻ cho nhau từng nỗi bất hạnh. Ngày mai khi ra khỏi trại, trở về cuộc sống bình thường liệu chúng tôi còn bắt gặp những cử chỉ này không ? Không ai dám nghĩ tới, chúng tôi cứ tiếp tục hưởng thụ những giây phút êm đềm trong hoàn cảnh khó khăn này.

Khi thời gian thăm nuôi đã hết, những người thân ra về, anh em chúng tôi chia ra từng tốp ngồi xoay những lá bài tây hay cùng nhau hợp xướng với tiếng khua của chén muỗng, ghế bàn cho qua ngày tháng. Ban giám đốc thường xuống khiển trách anh em chúng tôi làm ồn không cho những anh em bị thương nặng khác được nằm nghỉ, nhưng trong lúc tuyệt vọng chúng tôi vẫn cứ làm ồn. Nghĩ lại thật là xấu hổ. Cuộc sống vô vọng khiến chúng tôi trở nên lì lợm và ích kỷ, nhiều buổi hợp ca kéo dài gần tới sáng.

Lúc mới vào trại tôi rất ghét những tiếng ồn ào này, rồi với thời gian tôi không những là thành viên tích cực của các ban hợp xướng mà còn là hoạt náo viên của các chương trình. Tôi huyên thuyên giới thiệu các trò chơi và "ca sĩ" mới. Mỗi khi hát xong là tiếng vỗ tay, tiếng đập bàn vang lên cả trại. Vui nhất là thấy những cặp nạng gỗ đưa lên đưa xuống theo từng nhịp ca như những bức tranh hoạt họa. Những anh em nào còn đứng được thì dìu những bạn khác xoay qua xoay lại giữa phòng như trên sàn nhảy. Sống trong cảnh tuyệt vọng, những giây phút đó đã giúp chúng tôi vơi đi nỗi đau trên cơ thể và làm quên đi nỗi đau tinh thần. Chúng tôi rất sợ tiếp cận với tương lai. Ngày được xuất trại là ám ảnh lớn nhất trong đời phế binh. Chúng tôi rất sợ là vì phải đơn thương độc mã đi vào cuộc sống của những người bình thường với một cơ thể không còn bình thường, sự thua thiệt đã trông thấy rõ.

Thời gian cứ tiếp tục trôi. Người ta có thể cản bất cứ vật gì nhưng không ai cản được thời gian. Nó cứ lạnh lùng đi tới, bất chấp ý muốn của con người. Chúng tôi bất lực đi theo bước tiến của thời gian và tự thích nghi với hoàn cảnh mới. Nỗi đau thể xác vơi dần và tinh thần cũng lần hồi ổn định. Mỗi ngày đều có người ra đi và có thêm người vào. Những chiếc giường cũ được thay ra để đón người mới tới. Không bao giờ quân y viện vắng vẻ tiếng kêu than và tiếng cười của những người không còn gì để mất. Kẻ ra người vào cứ thế liên tục. "Vòng tròn vẫn là vòng tròn". Từ tâm điểm xuất phát, bánh xe vẫn lăn quay. Tiếng còi hụ của xe cấp cứu ra vào tấp nập.

Tôi liếc nhìn qua khung cửa sổ của trại, đoàn người áo blouse trắng qua lại không ngừng. Đó là những cán sự trợ y, những y sĩ đeo trên cổ áo những cành hoa mai vàng đủ các cấp, trung úy, đại úy và thiếu tá. Những vị lương y này làm việc không có giờ giấc, bất cứ lúc nào họ cũng có mặt, bước chân luôn luôn vội vã, nét mặt lúc nào cũng khẩn trương. Những cánh tay của các vị này lúc nào cũng lem luốc máu tươi, hằng ngày họ đã mổ và giải phẫu không biết bao nhiêu bệnh nhân và đã chứng kiến bao nhiều cái chết trước mặt.

Nhân dịp này chúng tôi muốn vinh danh những vị y sĩ vô danh đã cứu sống hay làm địu đi nỗi đau của hàng ngàn chiến sĩ, mặc dù không tham gia trực tiếp chiến trường nhưng họ đã can đảm giật lại trên tay thần chết biết bao mạng người. Phải chứng kiến cách làm việc của những vị lương y này mới hiểu thế nào là sự tận tụy. Thật vui mừng khi thấy trên những khuôn mặt đầy lo âu này một nụ cười kín đáo sau những ca phẫu thuật khó khăn, nhiều người đã đứng hằng giờ, ngày cũng như đêm bên bàn mổ để cứu một mạng người. Thay vì tỏ ra hách dịch với những binh sĩ cấp thấp hơn mình, những vị y sĩ này luôn luôn chăm chú nghe lời than van của kẻ bị thương và dặn dò ân cần từng người nằm bệnh. Sự kiên nhẫn và lòng tận tụy khó ai bì kịp. Tôi cũng đã từng thấy nét mặt lo âu của người thầy thuốc khi chạy theo từng chiếc băng ca chuyên chở thân thể của người lính trẻ, tay bấu mạnh vào cạnh băng ca để trấn áp cơn đau hay tiếng rên rỉ, tiếng hét la của những người bị thương nặng. Phải thật bình tĩnh mới không bị choáng váng trước cảnh đổ ruột, đổ gan ra ngoài.

bathanh02

Các "bà mẹ" điều dưỡng đã thay thế thân nhân đút cơm đút cháo cho những người thương tật nặng, đã an ủi và vui vẻ trò chuyện với anh em trong những ngày buồn chán nhất.

Tôi cũng nhân dịp này ghi ơn những cán sự trợ y đã không quản ngại dơ bẩn, tanh hôi, chăm sóc tận tình từng anh em chúng tôi khi được chuyển vào phòng cấp cứu hay trong những phòng hồi sinh. Nếu không yêu người và yêu nghề thì không ai có thể vào làm việc trong những điều kiện nghiệt ngã như ở đây. Những vị này đã săn sóc tận tình từng người lính chiến, đã để lại bao nỗi quyến luyến cho mỗi anh em khi phải chia tay. Các "bà mẹ" điều dưỡng đã thay thế thân nhân đút cơm đút cháo cho những người thương tật nặng, đã an ủi và vui vẻ trò chuyện với anh em trong những ngày buồn chán nhất. Sự lành lặn của chúng tôi đã một phần lớn nhờ tình thương của những người này.

Biết bao kỷ niệm vui buồn trong quân y viện. Có một lần tôi nghe những tiếng chân chạy dồn dập trong hàng lang, nhìn lại thì thấy hai cán sự trợ y tay cầm bịch máu và chai nước biển, hối hả chạy lên lầu một. Vừa đến ngưỡng cửa phòng hồi sinh thì hay tin người thương binh đã chết. Nhìn những ánh mắt của các y sĩ và y tá cùng các cán sự trợ y bước ra từ phòng hồi sinh, tôi nhận thấy họ đã bất lực trước cái chết mặc dù đã cố gắng hết sức để giành lại sự sống trên tay tử thần. Anh chiến sĩ này được đưa về cấp cứu từ chiến trường An Lộc, anh là lính Biệt Cách Dù, bị trúng đạn pháo, thân thể bị mảnh đạn cắt đứt ngang người, ruột gan lòi hẳn ra ngoài. Anh chết vì mất quá nhiều máu, và nếu có sống thì cũng bị liệt vì cột xương sống đã gãy.

Tôi được biết anh đó là một anh hùng đã ở lại với tướng Lê Văn Hưng tử thủ An Lộc. Một mình anh đã bắn cháy hai chiếc T54 bằng súng M72. Đang lúc nhắm bắn chiếc thứ ba thì anh bị pháo từ chiếc xe tăng khác của địch bắn trực xạ vào chỗ nấp. Y tá chỉ kịp bơm thuốc cầm máu và chờ trực thăng đến chở anh về hậu cứ. Mạng sống của anh như chỉ mành treo chuông, hơi thở của anh gần như đứt khoảng, sự tiếp trợ bằng phương pháp hô hấp nhân tạo trong thời gian này cũng rất khó vì tất cả xương ngực của anh đều bị dập nát, khi đến y viện thì lực đã tàn, tim anh ngưng đập. Quân Y Viện Cộng Hòa lúc này đã đầy nên anh được trực thăng chở về Quân Y Viện Dã Chiến 3.

Các bạn tôi lần lượt rời trại, riêng tôi thì phải ở thêm quân y viện một thời gian nữa để chữa trị thêm. Thật nghiệt ngã khi đang còn điều trị nghe những tin tức chiến trường càng ngày càng tồi tệ, tôi không còn đủ kiên nhẫn để nghe nữa. Những tin này chỉ gây hoang mang trong lòng những người đang nằm điều trị và ban giám đốc trại. Thế rồi điều không ngờ đã xảy đến, ngày 30/4/1975 miền Nam đầu hàng. Cái tin không thể tưởng tượng được : toàn đất nước đã lọt vào tay quân cộng sản. Sự hy sinh của những người lính như chúng tôi như vậy còn ý nghĩa nào. Tất cả chỉ còn lại con số không. Số không có thể lớn đối với nhiều người nhưng đối với những thương phế binh như chúng tôi, số không đó bao trùm cả cuộc đời. Đối phó với kẻ thù người ta còn đủ tay chân nhưng chúng tôi không có may mắn đó.

Thật ra chúng tôi đã đoán biết "sự việc" trước đó vài ngày. Chung quanh chúng tôi thật là vắng lặng, quân y viện im lìm, không còn tiếng xe cấp cứu ra vào tấp nập như trước. Những vị y sĩ cũng đã vắng mặt, chỉ còn lại những màu xanh và trắng của những bức tường và những người bán căn tin, ai nấy đều lo âu. Thế rồi cái ngày đó đã đến. Ngày đầu tháng 5/1975, một toán bộ đội tiến vào quân y viện buộc chúng tôi phải rời y viện ngay tức khắc. Bọn người này chửi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc, v.v... Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị họ xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn của Nga Tàu gây thương tích. Những chiếc "nón cối" này đại diện cho ai mà dám la hét :

- Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy quân chúng mày không được nằm tại đây. Đồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước...

bathanh3

Có một anh lính trẻ, nhỏ hơn tôi vài tuổi mới nhập viện vừa hơn mười ngày, anh bị cưa mất chân phải và trên người còn băng bó nhiều vết thương. 

Chúng tôi khập khểnh ra đi, lòng ngổn ngang trăm mối. Vừa hận mất nước vừa thương cho bản thân mình, chúng tôi không biết phải đi về đâu. Về nhà cha mẹ vợ con với thân thể què cụt này còn gì nhục nhã cho bằng, nhưng không về lại nhà thì biết đi đâu. Nhiều lúc muốn tự sát cho rãnh nợ đời, nhưng chết trong giờ thứ 25 này có lợi cho ai. Chung quanh tôi có những chiến hữu trên cơ thể mang đầy vết thương còn đang rỉ máu, thế mà cũng bị lạnh lùng đuổi đi. Thật đáng thương cho những huynh đệ lúc đó.

Riêng tôi thì vết thương nơi khúc chân bị cưa cũng đã lành, gan ruột và phổi đã trở lại bình thường. Nếu không có gì trở ngại thì tôi sẽ được xuất viện về nhà hay ra trại an dưỡng nửa tháng sau đó. Mặc dù đi đứng còn khó khăn, tôi đã tự túc chống nạng đi được. Có một anh lính trẻ, nhỏ hơn tôi vài tuổi mới nhập viện vừa hơn mười ngày, anh bị cưa mất chân phải và trên người còn băng bó nhiều vết thương. Thấy anh đi đứng khó khăn, tôi đến gần an ủi rồi đề nghị cầm giùm đồ đạc. Anh bạn trẻ nhìn tôi cảm động rồi chống nạng theo tôi cùng đoàn người ra cổng. Trên đường ra cổng tôi chào từ giã từng người quen biết, chúng tôi chia tay nhưng không ai hẹn ngày gặp lại. Có lẽ đây là lời chào vĩnh biệt. Tôi vừa suy nghĩ lung tung, vừa bước rời khỏi quân y viện.

* * *

Hai chúng tôi bước từng bước một trên đoạn đường mà hằng ngày tôi thấy quen thuộc, tưởng là ngắn ngủi nhưng sao hôm nay nó thật là dài. Chúng tôi khập khểnh đi ra ngoài cổng không buồn quay lại nhìn lần cuối quân y viện, kể từ nay nó chỉ còn là một kỷ niệm đau buồn. Chúng tôi chống nạng âm thầm đi trong phố vắng. Công viên của thị xã Mỹ Tho đã hiện ra trước mắt, gần đó là bến xe. Trên một khoảng trống của khu nhà khách, tôi dìu chiến hữu trẻ ngồi xuống từ từ tựa lưng vào tường nghỉ mệt. Mặt anh ta tái mét, hai cánh tay run lên bần bật. Tôi lo âu nhìn anh bất lực. Làm sao đây ? Làm sao san sẻ bớt những nỗi đau đang cấu xé thân thể người bạn kia ? Tôi cũng lo âu cho chính thân tôi, nhưng với tư cách người lớn tuổi hơn tôi giữ im lặng và chỉ hỏi han tình trạng sức khỏe của chiến hữu kia.

Tới được bến xe, tôi liền móc túi lấy số tiền lương vừa lãnh hồi cuối tháng 4/1975 chia cho chiến hữu kia một nửa làm lộ phí đi về quê cũ. Bạn tôi về Cai Lậy, còn tôi về Sài Gòn. Tôi nhờ hành khách đỡ anh bạn tôi lên xe và tìm chỗ ngồi, tôi giơ tay vẫy chào khi chuyến xe bạn tôi đã chạy. Tôi đón xe khác về lại Sài Gòn. Ngã đầu trên ghế, tôi cứ thắc mắc không biết bạn mình có về đến nơi đến chốn hay không, lỡ xảy ra chuyện gì thì ai chăm sóc, lòng tôi bất an cho số phận của người bạn trẻ. Khả năng của tôi có giới hạn, tôi chỉ có thể giúp tới đó thôi vì còn phải lo cho số phận của mình, tôi chỉ cầu xin ơn trên ban phước lành cho chiến hữu trẻ đó được bình yên về tới quê nhà. Cầu nguyện xong tôi mới yên tâm chợp mắt một chút, những giây phút này thể xác và tâm hồn tôi mới được thư giản.

Những luồn gió thổi qua cửa kiếng, sự mát mẽ của cơn gió làm dịu đi một phần nào phiền muộn. Nhìn những cánh đồng xanh bát ngát, những nông dân đang cày ruộng, tôi thấy lòng thư thái, nhẹ nhàng. Trầm tư trong sự suy nghĩ, không biết rồi đây cuộc đời mình sẽ ra sao khi lịch sử đã sang trang, máu và nước mắt có còn chảy nữa trên quê hương này không... Về đến nhà tôi mới thật yên tâm. Phố xá Quận 4 vẫn như ngày nào, nhưng nó có vẻ phẳng lặng hơn, không như những ngày nào tôi còn ở nhà. Trước kia đường phố rất ồn ào do sự la hét của trẻ thơ nô đùa, sự phẳng lặng ngày hôm nay báo động một cơn giông sắp đến. Tôi sợ sự yên lặng bất bình thường này. Chung quanh tôi chỉ toàn cờ đỏ.

Gia đình mừng rỡ khi thấy tôi về, nhưng trong bối cảnh mới này ai cũng lo âu cho tương lai của gia đình. Hàng ngày tôi thấy trước mắt tôi từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho của chế độ cũ để lại. Trong số đó có cả người thân của tôi, đúng ra là những đứa em tôi, bởi vì những ngày này không có họp chợ, nếu không làm như thế lấy gì mà ăn. Gia đình tôi không giàu nên không bao giờ trữ sẵn gạo và thức ăn, mỗi ngày phải mua gạo và thức ăn ngoài chợ vì nhà tôi gần chợ.

Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ, nhưng dưới chân cầu Tân Thuận bất chợt có tiếng súng nổ. Những người đội nón cối mặc áo xanh và áo vàng, "bò điên" và "chó sói", sả súng bắn thẳng vào đám người đói khát trước những nhà kho. Nhiều người nằm dãy dụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản mát trốn, nhưng sau vài phút họ lại tràn vào các nhà kho, đông hơn và bất kể súng đạn. Ai bị bắn trúng thì té nằm xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa các kho gạo. Cứ thế những chuyến xe ba gác cứ nhào đến chất đầy những bao gạo cùng những thùng đồ hộp ; chuyến này ra chuyến khác vào, luân phiên tấp nập.

Trong những ngày này, một dòng người khác ngược xuôi chạy giặc, tay bồng tay dắt con cái và bao bị chạy ra bến Bạch Đằng đón tàu ra biển. Gia đình tôi cũng có mặt trong đoàn người này vì nhà ở gần cầu Tân Thuận. Ôi thôi, người đông đếm không xiết, trên những chuyến tàu nhỏ chật ních người. Bến cảng lúc này chật đầy ghe thuyền, dòng người cứ đổ xô về bến cảng nhảy đại lên những chiếc tàu để ra cửa biển. Trên các bong tàu toàn người với người.

Người trên tàu nhắn vọng với người còn kẹt trên bến cảng, tiếng la hét vang vọng một góc trời. Những chiếc tàu đi sông lừ lừ nổ máy chạy ra cửa Cần Giờ, bỏ lại sau lưng thành phố Sài Gòn. Những đám "chó sói" đứng nhìn căm hận đoàn tàu lướt đi mà chính họ cố tình đẩy những người này ra khỏi đất nước. Tôi vì thương tật, không chen lấn được với dòng người xô đẩy nên bị bỏ lại một mình trên bến cảng, gia đình tôi không biết đã đi trên chuyến tàu nào. Lúc đó quang cảnh rất là hỗn loạn, mạnh ai nấy chen lấn tìm một chỗ đứng trên bong tàu.

Tôi không buồn và cũng không tiếc, vì biết số phận mình hẫm hiu. Về lại nhà, đồ đạc đã bị ai đó chở đi đâu mất, chỉ còn lại bốn vách tường không. Tôi buồn bã ngồi bệt xuống sàn nhà ngẫm nghĩ về thân phận mình. Tôi chợp mắt ngủ đi lúc nào không hiết. Tôi mơ thấy tôi có lại hai chân, đi ra bờ sông ngắm nhìn mây nước. Đến giữa khuya, tôi giật mình thức dậy, trong nhà có tiếng động lạ. Tôi lồm cồm chống tay nhìn ra ngoài cửa thì thấy hai bóng đen đang cạy cửa vào nhà. Tôi hỏi ai đó thì hai bóng đen liền vụt mất. Thời buổi loạn ly này nhiều người lợi dụng vào nhà ăn cắp. Trên đường tôi thấy nhiều xe ba gác chở tủ lạnh, tivi, bàn ghế chạy khắp nơi trên đường phố. Lúc đầu cứ ngỡ là người ta chạy giặc nhưng sau này mới biết đó là đồ đạc ăn cắp trong những nhà vắng chủ.

Suốt đêm tôi không chợp mắt nổi, cứ nghĩ miên man không biết những chuyến tàu đó có những đứa em và cha mẹ tôi không. Tôi tin tưởng rằng sáng mai thế nào họ cũng về lại. Nhưng tôi cũng thầm khấn vái cầu cho mọi người được an toàn thoát đi. Đi đâu thì tôi không biết. Tôi cầu cho các đoàn tàu thoát khỏi Việt Nam an toàn, không bị quân cộng sản nã đạn pháo vào như họ vẫn thường làm hồi chiến tranh. Trước kia quân cộng sản thường pháo kích vào các trường học và khu dân cư rồi đổ thừa cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ để kích động lòng căm thù. Chiến thuật này một thời được nhiều người tin theo, mong rằng nó không xảy ra cho những người thân trong gia đình tôi. Cầu mong đoàn người vượt trùng dương bao la trên những chiếc tàu đi sông an toàn.

Vài ngày sau tin đồn có những xác người trôi dọc lòng sông Nhà Bè càng làm tôi lo ngại. Rồi cũng có những tin đồn những chiếc tàu đầy ắp người đó được Hạm Đội 7 của Mỹ ngoài khơi Vũng Tàu cứu vớt, mọi người đều được đưa qua đảo Guam rồi cho qua Mỹ. Tôi cũng hy vọng gia đình tôi có mặt trong những người may mắn đó. Hơn hai mươi bốn năm qua tôi đã cố gắng chờ đợi mà không thấy tin tức gì cả. Sau này tôi được biết có những tàu bị công an chặn lại ngoài cửa biển, bắn chìm cả tàu, tất cả những người trên tàu đều bị chết. Những xác người trôi bồng bềnh, những dòng máu đỏ chan hòa trong biển cả.

* * *

Những tháng đầu tiên trong một xã hội đã thay ngôi đổi chủ đầy rẫy biến động. Tôi bây giờ chỉ có một mình, phải tự túc mưu sinh. Ngày ngày tôi lầm lủi chống nạng ra đi, trên vai đeo lũng lẵng thùng đồ nghề đựng lon keo, bàn bào, bàn ép, cái thau nhỏ và cái bơm tay để vá xe, tối về tham gia những buổi họp tổ dân phố vô vị. Hôm đầu tiên khi đến ngã tư Đồng Khởi, gần nhà hàng Maxim's, đường Tự Do, tôi ngồi bệt dưới gốc cây me chờ khách bị "thũng" bánh xe. Tôi ngồi như một kẻ ăn xin, thời gian cứ trôi qua, căng mắt nhìn về ngã tư, tôi rất bàng hoàng xót xa khi thấy một ông già cùng hai đứa bé ì ạch đẩy bộ chiếc xe đạp nặng chịch, hai bánh xe xẹp lép. Trên xe chất lỉnh kỉnh hành trang của những người tha phương cầu thực, không nhà không cửa. Hai đứa bé thì tóc rối, thân hình dính đầy bụi đất, gương mặt nhễ nhãi mồ hôi. Khi thấy mấy cháu lấy tay quẹt những giọt mồ hôi chảy vào mắt, tôi động lòng từ tâm kêu gọi :

- Bác ơi, bác đẩy xe lại đây cháu bơm cho.

bathanh4

Ngày ngày tôi lầm lủi chống nạng ra đi, trên vai đeo lũng lẵng thùng đồ nghề đựng lon keo, bàn bào, bàn ép, cái thau nhỏ và cái bơm tay để vá xe

Ông già quay lại nhìn tôi một hồi rồi không nói lời nào, tiếp tục đẩy xe đi. Mặt trời đã gần đứng bóng mà tôi vẫn chưa có người khách nào, bụng thì đói cồn cào, tiền thì không có. Mùi thơm của xe bán mùi hủ tiếu mì gần bên bay thoang thoảng làm cho cơn đói càng mãnh liệt, bụng tôi cứ sôi lên ùn ục. Bất chợt tôi nghe tiếng kêu vá xe, nhìn lại thì thấy hai người lớn tuổi đang dựng chiếc Honda đam lên trước mặt. Tôi vội vàng lấy đồ nghề ra để vá. Thật là vụng về, công việc không dễ như tôi tưởng. Cạy tới, cạy lui, khoảng 10 phút sau tôi mới mở được vỏ xe để vá.

Thật ngỡ ngàng. Bụng thì đói, tay thì run, mồ hôi cứ nhỏ giọt trên màng tang. Khi vừa hoàn tất, tôi nhận tiền cùng với ánh mắt không mấy thân thiện. Thế là có một bữa ăn. Tôi vội vàng gói ghém đồ nghề lại rồi băng qua đường Nguyễn Huệ mua cơm. Nhưng đâu phải có tiền là có bữa ăn ngay đâu, phải sắp hàng mua phiếu rồi đưa cho các nhân viên cửa hàng ăn uống và ngồi chờ để nhận phần cơm. Rồi những ngày kế tiếp cứ tuần tự như vậy. Gạo càng ngày càng hiếm hoi do bọn "chó sói" đã chở gạo tồn kho về Bắc, số ít còn lại trả nợ cho "đồng minh" để đền ơn về sự giúp đỡ vũ khí trong chiến tranh và nhận lại những bao bột mì mốc và bobo mà "đồng minh" dành

cho súc vật.
Bắt đầu từ đây trong cuộc sống hàng ngày tất cả mọi người đều ăn bột mì mốc cùng bobo sơ cứng, rất ít khi mua được gạo. Chỉ khi nào có lễ hội thì các hợp tác xã mới bán cho mỗi gia đình một kí gạo kèm theo khoai lang hoặc khoai mì để trộn vào, gọi là "ăn độn". Mặc cho thế sự thay đổi, đổi thay như thế nào, cuộc sống vẫn đều đặn như vậy. Bột mì thường được chế biến thành bánh tầm bì, bánh canh hoặc có thể đổi lấy bánh mì để đắp đổi qua ngày. Có những lúc tôi phải nhịn đói vì không có khách, phải uốn nước lã thay cơm, chính vì vậy mà sức khỏe càng ngày càng suy yếu, đôi khi đứng không vững.

Đói quá tôi quyết định đi xa, sáng sớm tôi ra ngã tư Hàng Xanh tìm chỗ để hành nghề vá xe. Nơi "làm việc" của tôi sát ngay chốt giao thông của đám công an. Những ngày đầu tôi chịu áp lực nặng nề của những người này. Có những lần vừa đặt đồ nghề xuống thì bị chúng đá văng và cấm tôi không được đến gần nơi bọn chúng đóng chốt. Tay lượm đồ nghề, tôi đưa ánh mắt căm hận nhìn. Bọn chúng biết tôi không thể làm gì được nên cứ tỉnh bơ. Tôi phải ngồi cách đó khoảng 300 mét. Từ khi tôi làm cách xa ngã tư, công việc rất bấp bênh. Cứ thế, có những lúc tôi được no nê để rồi những ngày kế tiếp phải nhịn đói, và khi đói quá thì ăn cháo bobo.

Người đời thường nói "đói thì đầu gối phải bò", hoặc là "cùi không sợ lở". Từ những câu ngạn ngữ, thế là tôi đánh liều trở lại ngã tư để làm, cứ mặc cho bọn "chó sói" muốn đá, muốn quăng như thế nào đi chăng nữa. Một khi đã liều tôi không còn sợ gì nữa, ngang nhiên đối mặt cùng bọn "chó sói". Có lúc tôi và bọn chúng lớn tiếng chửi nhau, nhưng vì chung quanh có rất nhiều người tò mò đứng nghe bọn chúng im lặng. Đôi khi tôi bị bọn chúng phối hợp cùng một lũ "chó sói" khác bắt giam tôi vào nhà đá vài ngày, khi ra khỏi tù tôi vẫn về ngồi lại ngã tư vì đó là điểm tựa mà tôi phải bám, mất chỗ đó tôi sẽ bị đói. Tôi quyết chí bám chặt nơi này và ngày này qua ngày nọ tôi cứ ngồi lì ở đây. Cũng vì chỗ này tôi đã vào tù ra khám năm lần, cơm tù đối với tôi như cơm bữa. Nhưng cũng từ đó bọn chúng không thèm đả động đến việc tôi làm nữa.

Ngày qua ngày, đêm qua đêm, tôi tận mắt chứng kiến thấy những con "chó sói" sách nhiễu đồng bào, chúng nói năng với những bác tài xế, bất kể tuổi tác như thế nào, lời lẽ hổn láo và xấc xược. Bọn chúng tìm đủ mọi cách để kết tội những bác tài xế để làm tiền, nào là đèn cháy bóng, thắng không ăn, chở quá tải và quá nhiều khách, chạy quá tốc độ qui định, xe tung ra nhiều khói bụi và nhiều thứ hạch hỏi khác. Nghĩ cho cùng, mục đích của chúng chỉ là làm tiền mà thôi. Kể từ đó bọn chúng tạo một thông lệ, khi các xe đò hay xe tải chạy gần đến chốt lập tức lơ xe nhảy xuống chạy tới trạm trình giấy, trong đó có kẹp sẵn số tiền đúng theo thủ tục "đầu tiên". Bọn chúng lanh tay đút tiền vào túi, liếc mắt lấy lệ qua cuốn sổ rồi vẫy tay cho xe đi. Nếu xe nào không làm đúng thủ tục "đầu tiên" sẽ bị lập biên bản phạt ngay. Tiền đóng lệ phí "đầu tiên" thì ít mà tiền đóng phạt thì gấp mười lần, đôi khi còn bị giam xe, do đó không bác tài nào để bị phạt. Chính vì lý do đó mà bọn chúng không muốn để tôi ngồi gần chốt để hành nghề. Đúng là một lũ chó sói, đứng núp sau bộ đồ để làm tiền thiên hạ. Tâm địa chúng rất là gian manh, chỉ chực chờ cơ hội cướp cơm thiên hạ.
Những người dân lương thiện, chắt chiu từng đồng từng cắc bạc để có miếng ăn, vì công việc làm ăn phải dâng lên miệng chúng số tiền góp nhặt để được yên thân. Đó là tâm trạng của những bác tài xế lái xe đò, xe tải, vì sự sống và miếng ăn đành phải im lặng cúi đầu đưa tiền cho chúng ăn. Cảnh đời thật là trớ trêu. Bọn công an này biết rất rõ hoàn cảnh của những chủ xe, chỉ khi nào xe lăn bánh gia đình mới có cơm, xe mà bị giam cuộc sống sẽ lâm vào bế tắc. Thôi thì đành phải chấp nhận nuốt hận mà thôi.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, những tháng ngày cơ cực cứ đeo bám cuộc đời của tôi. Chính quyền cộng sản cứ biểu quyết điều này, ban hành điều nọ hạn chế việc sinh sống của nhân dân, tuyển chọn thêm những thành phần ác ôn vào bộ máy để kềm chế nhân dân. Những điều luật mới khắc khe hơn những điều luật trước, cứ thế chúng siết chặt bụng, bóp chặt cổ chúng tôi, kinh khủng nhất là sắc lệnh về "lòng và lề đường". Từ xưa đến nay, những người dân nghèo tay lấm chân bùn, vì nghèo khó và thất học phải ra ngồi lề đường buôn bán, họ có cướp giật, hà hiếp ai đâu mà bây giờ phải chịu muôn vàn đắng cay. Xã hội mới tưởng đâu đem lại cơm no áo ấm cho mọi nhà, nào ngờ chỉ đem nghèo đói, rách rưới đến khắp mọi nơi. Nay lại ban thêm sắc lệnh về "lòng và lề đường" vượt quá mức chịu đựng, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống và quyền sinh kế của con người.

Tổ tiên của chúng ta, "con Rồng cháu Tiên", từ buổi sơ khai đã phải tự lực cánh sinh kiếm sống, mỗi người phải tự lo cho bản thân mình. Mỗi bộ tộc, mỗi làng đều phải lên rừng săn thú, xuống biển bắt tôm mới có miếng ăn, cho nên mới có câu : "tay làm hàm nhai". Nói về lịch sử đấu tranh, dân tộc ta không thiếu gì những thí dụ. Dân tộc Việt Nam đã thoát ra cảnh "ngàn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm đô hộ giặc Tây", tổ tiên chúng ta đã tranh đấu để có một nước tự do độc lập, không phải làm nô lệ cho ai và bị ai đô hộ. Tuy nghèo nhưng không ai ăn cắp của ai, mọi người đều biết tích trữ phòng cơ, lấy cây rừng xây dựng thành lũy, lợi dụng núi non ngăn cản quân thù, sử dụng sông biển làm nguồn tiếp tế và giao thông. Nói chung, tất cả mọi người chung lưng cật lực bảo vệ núi sông và xây dựng đất nước, có đâu như ngày nay những người cầm quyền chỉ sống trong lợi dụng. Trong thời chiến họ lợi dụng xương máu chiến sĩ để chiếm chính quyền, trong thời bình họ lợi dụng lao lực của đồng bào để được phì gia. Trả những người trong bộ máy cầm quyền cộng sản hiện nay về đời sống dân sự, chắc chắn không ai biết làm ăn lương thiện. Vì quen ăn bám, chắc chắn họ sẽ không làm được gì cả, họ chỉ muốn ăn mà không muốn làm. Ai chịu làm mọi cho họ cưỡi đầu, cưỡi cổ mãi mãi ?

Dân ăn không đủ no, bệnh không có thuốc, lấy gì để dâng cho các quan cách mạng ăn mãi. Bởi có câu : "có thực mới vực được đạo", không đủ ăn thì không còn đạo nghĩa gì nữa, người ta cướp cơm thì phải chống lại, đó là qui luật của thiên nhiên có từ ngàn đời trước và sẽ trường tồn mãi mãi đến ngàn đời sau. Lịch sử vẫn còn in đậm những tấm gương anh dũng chống trả sự hà hiếp bóc lột của tằng lớp cường hào ác bá, luôn thôi thúc những con người can đảm đứng lên tranh đấu cho lẽ phải, bảo vệ kẻ yếu. Không còn gì để bào chữa cho chế độ này, một chế độ nhẫn tâm tước đi sự sống của người dân. Thử hỏi nếu không có những người dân tay lấm chân bùn tiếp tế, lo lắng, che chỡ, bảo vệ từng nẻo đường, từng tất đất, nếu không có những người đào hầm, lo từng miếng ăn giấc ngủ và cung cấp thuốc men trong cuộc chiến vừa qua, làm sao những người cộng sản có ngày hôm nay. Những người đó là ai, nếu không phải là những con người nghèo hèn đang ngồi trên các lòng lề đường kia tự túc sinh nhai, không hề van xin sự bố thí của chính quyền ? Người cộng sản ăn trái quên kẻ trồng cây, sự vô ơn bạc nghĩa này khó bị tẩy quên.

Xã hội đang cơn biến động, nhà cao tầng mọc lên như nấm, đông kẻ quần thoa áo gấm qua lại trên đường, càng ngày càng có nhiều lễ hội. Thay vì giúp đỡ những người nghèo khó có cuộc sống xứng đáng hơn, chính quyền cộng sản bóp cổ, xiết bụng nhân dân. Những cuộc truy quét, thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động nghèo, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân được quăng đầy trên những xe cây : cây dù, tủ thuốc lá, xe đẩy trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng, thúng trái cây. Chưa hết, bên cạnh những chiếc xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy cụ già, người tàn tật ; những bà mẹ cùng với đám con thơ đều được đẩy lên xe đưa về trại tập trung ; tất cả bị kết tội lấn chiếm lề đường. Các đường lớn, cơ quan nhà nước chiếm hết, chỉ còn lề đường để dân chúng sinh nhai mà cũng không được. Còn đâu lẽ sống của người cô thế ?

Nhớ lại ngày nào còn sinh sống dưới chế độ cũ, tuy cũng có cảnh nghèo giàu, mạnh được yếu thua nhưng có đâu quá quắc và vô nhân đạo như ngày nay. Người ta lúc nào cũng linh động chừa một lối thoát cho kẻ sa cơ. Đã không giúp được ai thì làm ngơ đi cho người khác sống, đằng này không những chính quyền cộng sản không cho người dân sinh sống mà còn bắt cả ông già, bà lão, đàn bà, con nít và người tàn tật vào các trại tù. Còn gì trớ trêu cho bằng. Những ai đã từng sống trong chế độ trước không khỏi bùi ngùi tiếc thương cho ngày tháng cũ, ngày nay chỉ có những cảnh xô đẩy, giành giựt, đá đổ, la hét, thu gom chở về chất đầy kho nhà nước. Họ muốn giết dân nghèo mà. Đồ vật tịch thu đem về chất đống, phơi nắng, phơi mưa, phơi gió, để cho rỉ sét, mục nát theo thời gian những của cải, tài sản của người nghèo.

Ngụy ngôn "làm đẹp thành phố" là khẩu hiệu tiêu diệt dân nghèo thành thị. Dân lao động nghèo là ai nếu không phải là những người đã từng một thời hy sinh xương máu giúp họ lên cướp chính quyền ? Đúng là một bọn ăn cướp, ăn cướp công lao xương máu của các chiến sĩ cũ của họ, nay muốn ăn cướp luôn mạng sống của con người bần cố. Nếu có cuộc đổi đời, hậu quả không biết sẽ như thế nào.

Một hôm như thường lệ, trời vừa sáng tôi mang đồ nghề ra ngã tư Hàng Xanh làm việc. Chưa kịp đặt bao đồ xuống đất, tôi nghe tiếng la ơi ới : "Chạy, chạy, bà con ơi, "chó sói" đến kia rồi". Trước mắt tôi là những tiếng la hét, tiếng chân chạy thình thịch, tiếng ly chén vỡ và tiếng khóc than vang một góc trời. Người ta rầm rập đẩy những chiếc xe bán nước mía, bán bánh mì chạy trốn. Những người phụ nữ, kẻ gánh người gồng chạy trong hỗn loạn. Ôi thôi, nào là bánh mì, tủ thuốc lá, mâm trà đá văng đổ tứ tung. Bỗng đâu bốn chiếc xe công an chạy tới thắng cái kịt, nhiều toán công an và dân quân nhảy xuống, chạy tới chụp giật phương tiện buôn bán của bà con, tiếng kêu la ơi ới. Trước mắt tôi một con "chó sói" mặc áo xanh, tay chỉ chõ, miệng la hét một người bán thuốc lá lẻ trên lề đường cạnh đó. Tên này ngoác to mồm, rống hết gân cổ tuôn ra những từ khó nghe và rất mất dạy. "Đ.m, đã cấm buôn bán, lấn chiếm lề đường mà cứ ngoan cố. Mày có lỗ tai không ? Mày là con trâu hay con người ?". Thế là đồ đạc bị tịch thu, nạn nhân chỉ biết nhìn theo ánh mắt buồn bã. Đám công an cùng những dân quân khác, mặt mày hùng hổ, lăng xăng lít xít chạy tới chạy lui chụp giật đồ đạc của những người bán buôn trên lề đường quăng lên xe.

Tôi không may cũng lọt vào ổ phục kích này. Chưa biết phải làm gì trước tình huống này thì một công an ở đâu từ phía sau chạy tới giật thùng đồ nghề của tôi quăng lên xe. Tôi chỉ biết nhìn theo, lòng nặng trĩu. Vừa cay đắng vừa đau xót, tôi ngậm bồ hòn nhìn "chén cơm" bị cướp. Thế là trắng tay. Hướng tầm mắt về những nơi khác của ngã tư, cảnh la hét, tiếng khóc la vang lên liên tục. Chợt đâu đó có tiếng hét thất thanh của một phụ nữ làm tôi giật mình. Chị ta đang giằng co với một tên dân quân cái thúng đựng trái cây. Cạnh một bên chị là hai cháu bé, đứa lớn khoảng 5 tuổi, đứa nhỏ chừng 3 tuổi. Ánh mắt chúng thật là ngây thơ, bé nhỏ hơn chợt khóc thét lên khi nó thấy mẹ nó bị người ta xô té, ổi và mận văng tứ tung. Chị ta vẫn cương quyết giữ chặt cái thúng về phía mình, cuối cùng đành phải buôn xuôi vì không chống nổi với hai tên khác nhào tới xô chị té xuống đất. Mắt chị rực lửa căm hờn nhưng chị đành bất lực nhìn cái thúng, "nồi cơm", bị lũ "chó sói" quăng lên xe. Cùng lúc đó, hai đứa bé chạy lại ôm chầm lấy mẹ. Chị lồm cồm ngồi dậy, ôm hai đứa bé vào lòng rồi vỗ về : "Nín đi con, mẹ con mình kiếm chỗ khác để bán". Lúc này lũ "chó sói" đã đi xa vì đã hoàn thành sứ mạng. Bà con đổ xô lại an ủi ba mẹ con, những tiếng nói chan chứa tình thương của người cùng khổ thật là xúc động. Chỉ trong nỗi khổ mới biết thế nào là tình người. Tôi móc trong túi ra một ít tiền chia cho ba mẹ con. Chị phụ nữ nhìn tôi ngại ngùng, nhưng tôi cứ dúi tiền vào tay con chị. Chị phụ nữ cất tiếng cám ơn rồi ôm hai con khóc, hai đứa nhỏ cũng khóc theo. Thật là tội nghiệp, thật là oan trái. "Trời xanh ơi, hãy ngó xuống những kẻ khốn khổ trong tình cảnh hoạn nạn này". Tôi hậm hực chửi thầm : "Lũ khốn nạn chúng bay rồi có ngày sẽ lãnh hậu quả". Sống trong những phút giây căng thẳng này, khó mà giữ được bình tĩnh.

Trong những lần bố ráp khác, bọn công an bắt luôn cả người. Những cụ già, những chị phụ nữ bồng bế con nhỏ, những người tàn tật bị bắt đưa lên những chuyến xe đầy ắp chở vào những trại cải tạo. Tiếng khóc la, chửi bới của những người bị đưa lên xe mà bọn chúng cho là đối tượng lang thang kêu vang suốt cả đoạn đường về trại. Bà con hai bên đường chỉ biết vẫy gọi những số phận hẫm hiu và cầu mong cho họ được bình yên. Cuộc sống vẫn tiếp tục, người nghèo khổ vẫn ra lề đường buôn bán. Họ biết đi đâu bây giờ, ai nuôi gia đình họ nếu không được buôn bán, chính quyền này có làm gì để giúp họ đâu. Đã không giúp đỡ mà còn bắt bớ, chế độ này là một chế độ tàn bạo, họ muốn giết chết cuộc sống của những người nghèo khó.

Trong công việc bơm vá bánh xe hàng ngày, tôi vừa làm vừa lo âu. Con người lúc nào cũng di động, hễ thấy động một chút là lò cò cất giấu đồ đạc trốn đi nơi khác. Vì lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, công việc trở nên khó khăn, lúc được lúc không, khách khứa vắng dần. Từ chỗ quá lo lắng tôi đâm sinh bệnh, cơ thể ngày gầy ốm hơn. Những cơn ho cứ kéo dài, có lúc vừa chống nạng đứng lên tôi choáng váng cả mặt mày té ngồi xuống đất. Tôi cảm thấy thân hình nặng nhọc, uể oải, đầu óc cứ quay cuồng không còn tập trung được nữa. Có lúc tôi phải từ chối nhận khách vì bị chóng mặt, lợi tức càng bị teo hẹp. Mặc dầu vậy tôi vẫn tự an ủi : "Mình có thần hộ mạng, khó khăn chỉ thoáng qua thôi, ông bà còn thương số phận mình". Thật đúng vậy, những cơn ho và chóng mặt chỉ thoáng qua thôi, độ nửa giờ tôi khỏe trở lại.

Những đợt truy quét và thu gom cứ liên tục, công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tôi phải nghỉ vài ngày chống nạng lang thang vào Sài Gòn, Chợ Lớn quan sát cảnh đời thay đổi. Khi nào đói quá thì sà đại vào những hàng quán "ăn xin" lây lất qua ngày và để dành tiền sắm lại đồ nghề đã bị tịch thu. Tôi sống những ngày không định hướng.

Một hôm mỏi quá, tôi dừng chân nghỉ mệt tại một công viên. Bỗng nhiên một cơn mưa ào ào trút xuống, tôi nép mình vào thân cây đa. Cùng lúc đó một phụ nữ tay cầm giỏ xách chạy về hướng cây đa nơi tôi đang trú mưa, cùng đứng trú. Chúng tôi đối diện cùng nhau. Cơn mưa càng lúc càng nặng hạt, trời đầt tối sầm lại. Hơi lạnh bắt đầu thấm vào da thịt. Tôi thấy cô ta dùng giỏ xách ép sát vào người để cho bớt run. Để tránh đi sự im lặng và cái lạnh, tôi lên tiếng hỏi thăm. Đại khái về công ăn việc làm và gia đình. Thỉnh thoảng những tia chớp lóe lên, tiếng nổ ầm ầm làm chúng tôi xích lại gần hơn. Cô ta cho tôi biết từ kinh tế mới trở về, không gia đình không nhà cửa. Mỗi ngày cô vào các chợ xin làm những việc vặt vãnh để sống qua ngày, tối về ngủ đại ở đâu đó để sáng hôm sau ra chợ tìm việc khác. Có nơi làm được một tuần, có nơi một hai ngày như giặt quần áo, phụ khiêng hàng hóa. Lúc này kiếm việc rất khó khăn vì chiến dịch dọn dẹp lòng lề đường. Nói chung cuộc sống của cô ta không lấy gì sung sướng, làm lụng cực nhọc đôi bàn tay chai sạn mà vẫn không đủ ăn. Thật là không may cho kiếp "hồng nhan bạc phận", cô đi hết nơi này đến nơi khác tìm việc mà vẫn không ra, như hôm nay chẳng hạn.

Thế là chúng tôi quen nhau. Cùng chung cảnh ngộ, chúng tôi thông cảm và chia sẻ niềm vui nỗi buồn của nhau. Chúng tôi tâm đầu ý hợp nên quyết định cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Kể ra đời tôi cũng còn chút may mắn, với tấm thân tàn phế mà vẫn lập được gia đình. Cô ta trở thành vợ của tôi và sinh ra một bé trai. Con trai của tôi không có giấy khai sinh vì sinh đẻ ở nhà, tôi phải nhờ một bà hàng xóm sang cắt rún giùm. Tôi đặt tên con là Nhơn vì muốn nó sau này biết yêu thương đồng loại. Nó vừa là đứa con trai đầu lòng vừa là sợi dây thắt chặt tình nghĩa vợ chồng chúng tôi. Nhờ vào người bạn đồng hành mới mà công việc vá xe của tôi bớt đi phần cực nhọc, vợ tôi thôi đi xin việc trong các chợ và ra ngả tư phụ giúp tôi trong việc vá vỏ ruột xe. Căn nhà nghèo hèn trở nên ấm cúng, tiếng khóc tiếng cười của trẻ con mang lại niềm vui trong lòng. Bệnh lao của tôi cũng giảm cường độ, những cơn ho dai dẳng cũng thưa dần. Tôi đang sống trong hạnh phúc.

* * *

Cuộc sống mới tuy thật hạnh phúc nhưng đầy âu lo. Chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối vì sống trong một chế độ thối nát. Vì kế mưu sinh, tôi phải trực diện hằng ngày với lũ "chó sói". Chúng tiến tôi tiến, chúng lùi tôi lùi, tánh tôi lúc nào cũng cương trực, không chịu cúi đầu nên bị chúng bắt nhốt nhiều lần. Những lần như thế, vợ con tôi phải tha phương cầu thực để có tiền thăm nuôi tôi. Tội nghiệp con tôi, một đứa bé chưa ráo máu đầu vì tôi đã phải ăn xin ngoài đường. Mỗi lần vào thăm, thấy mặt nó lem luốc, mũi chảy lòng thòng, lòng tôi quặn lại. Tôi chỉ biết nghẹn ngào nhìn vợ nhìn con lòng đầy hối hận. Thế là từ đó tôi quyết định đóng vai "câm điếc" trước đám công an "chó sói" khi có chiến dịch.

Ngày ra khỏi tù, mặc dù cơ thể tôi vì bệnh lao phổi, tôi phấn đấu tới cùng, hy sinh tất cả để cho vợ và con được bình yên. Tôi cố che giấu cơn đau để rồi đêm đêm khóc thầm cho số phận bi đát. Tôi muốn vượt thoát mặc cảm tàn phế để hòa mình vào cuộc sống, nhưng số phận cứ tiếp tục khắc khe với chính tôi. Thời gian này là thời gian tôi tranh đấu gian nan cho sự sống của bản thân và của gia đình, nhưng làm sao có chỗ đứng khi chỉ biết trốn chạy. Mỗi ngày tôi cứ bày hàng ra và ôm hàng chạy trốn, cuộc sống như thế tiếp diễn đều đặn. Tôi chỉ mong được yên phận nhưng người ta không cho tôi cơ hội đó.

Ngày tháng cứ trôi qua, anh em chúng tôi sống triền miên trong cảnh đói khổ. Chính quyền cộng sản bố ráp một thời gian rồi lại buông thỏng, những người đói khổ như chúng tôi may mắn không bị bắt đưa vào các trại tập trung cải tạo lao động được dịp bày hàng ra hè phố buôn bán. Mãi lo làm ăn, không ai nghĩ tới chuyện đề phòng công an bố ráp. Khoảng thời gian này, tôi ngỡ như là cây khô được tưới nước mưa và cảm thấy yên tâm. Tôi hăng say công việc bơm vá ruột xe. Nhưng nỗi hạnh phúc nhỏ này không kéo dài lâu, độ một hai tháng sau chiến dịch dẹp lòng lề đường lại tái diễn, cuộc sống bất ổn trở lại.

Không thể hình dung được cuộc sống trong xã hội này, người dân là chuột, chính quyền là mèo, mèo muốn vờn chuột lúc nào cũng được. Khi no thì mèo nghỉ, khi đói mèo rình bắt chuột. Nhân phẩm con người không có trong xã hội này. Sự đau khổ là dấu ấn của "thời đại xã hội chủ nghĩa", nó in sâu vào tâm trạng người dân nghèo khó như giấy thông hành đi vào thiên đường cộng sản. Nhiều lúc tôi cố quên nỗi đau thương và tủi hận hôm nay để tìm về quá khứ, tiếc thương một thời vàng son trong xã hội cũ, nơi đó con người biết sống với luật "nhân quả", ăn lành ở hiền, tôn trọng nhân phẩm của nhau và cư xử như những con người.

Bản nhạc "Tình khúc thứ nhất" có một đoạn như sau : "có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai". Đúng Đức Phật đã nói : "Cuộc đời này quả là biển khổ", nhận thức được nó là đã giác ngộ, phải tìm cách thoát ra và quên đi nỗi khổ. Taylor nhận định : "Chẳng có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trái đất này mà không trĩu nặng những thương đau. Chẳng có hạnh phúc nào lên đến tột đỉnh mà không bị đổ nhào vì những tai ương". Byron cho rằng : "Con người là cái quả lắc giữa nụ cười và nước mắt. Ai chưa biết khóc thì chưa hẳn là người. Người ta chào đời bằng tiếng khóc và lìa đời cũng bằng nước mắt. Đời người tuy ngắn ngủi, nhưng cũng rất dài. Chúng ta không dừng ở một điểm nào vì không biết điểm nào là điểm cuối cùng. Đời sống là một cuộc chiến đấu liên tục, chiến đấu với ngoại cảnh và chiến đấu với bản thân, do đó cần phải vượt lên nỗi đau bằng cách chấp nhận nó để sống. Vấp ngã sẽ giúp chúng ta vững tiến trên đường đi tới, đừng vì nó mà thối chí và chùn chân trong vũng lầy tuyệt vọng vì không có gì tuyệt đối trong cuộc đời, con người phải đánh đổi mạng sống hằng ngày để tìm đường sống". La Rochefoucault nói : "Chưa bao giờ chúng ta hạnh phúc hay khổ đau như chúng ta tưởng", v.v...

Những nhà tư tưởng lớn đã nói như vậy sá gì cuộc sống hèn mọn của tôi. Hiểu được điều này, tôi cảm thấy bớt bị dằn vặt và an phận với số mạng của mình. Những khi buồn khổ, tôi thường ngồi tịnh tâm suy ngẫm triết lý của đạo Phật hay những câu triết lý của những bậc vĩ nhân, đó là những tia nắng sưỡi ấm hồn tôi. Từ đó tâm thần tôi được yên ổn, những hành hạ thể xác và tinh thần của những người cộng sản không còn làm tôi bận tâm. Hôm nay có ăn, tôi vui vẻ hưởng thụ, ngày mai bị đói tôi chấp nhận một cách khoang dung. Tôi tin vào luật nhân quả, ăn lành ở hiền sẽ có ngày gặp quả tốt. Tôi tha thứ cho những ai đã hành hạ tôi ngày hôm nay.

Nhưng đó không phải là tâm trạng của những người khác, họ vẫn còn căm hận lũ "chó săn". Đối với họ, những đám công an là một bầy "chó sói", trước kia chúng sống chui rút trong rừng chỉ biết cào bới những nấm mộ hoang để tìm mảnh xương vụn trong lòng đất lạnh, hôm nay chúng về thành phố, nắm giữ quyền uy và biết gậm nhấm những đĩa thịt cao sang, bản chất không hề thay đổi. Chúng được nằm ngủ trong những nhà cao tầng, những ngôi biệt thự, uống những thứ rượu ngon, đi chơi trên những chiếc xe lộng lẫy, ngủ với những thiếu nữ trẻ đẹp, nhưng vẫn không giã từ bản chất gian manh. Cho dù có mặc áo thụng, sửa đổi dáng đi, hình hài và bản chất của chúng vẫn là "chó sói". Nhưng tôi không muốn bận tâm những chuyện đó nữa, cuộc đời này đã đủ khổ đau để không còn nghĩ đến chuyện khác.

Bầu trời trở nên đen tối, những cơn gió ào ạt rít vang từng hồi. Mưa bắt đầu trút xuống, những giọt nước tung tóe trên khắp nẻo đường, gây lụt lội sình lầy khắp nơi. Đài truyền thanh loan báo cơn bão cấp 9, cấp 10, đã tràn vào Việt Nam. Dân chúng lo âu tìm cách tránh né, nơi đâu cũng bị cơn bão hành hạ. Tội nghiệp nhất là đám dân lành, nhà cửa đã nghèo lại còn bị sụp. Mọi người trông ngóng ánh mặt trời trở lại.

Những ngày này cả nhà tôi phải nghỉ làm. Cái lạnh cứ ray rứt. Nhưng cái lạnh ngoài da có thấm gì cái lạnh trong tâm hồn. Chúng tôi đang chờ bàn tay nóng ấm tình người từ hải ngoại bay về kéo vực chúng tôi ra khỏi cảnh lầm than, giúp đỡ con cái chúng tôi đi về ánh nắng mặt trời.

"Mưa ơi, hãy trút xuống những cuộn sóng khổng lồ và những ngọn cuồng phong mãnh liệt xóa tan nỗi đau trên những thể xác không toàn vẹn. Nắng ơi, nắng hỡi, hãy chiếu những tia dịu hiền mang lại niềm vui cho khắp mọi nhà, xóa tan màu đen tối vây quanh. Xin ánh sáng tình thương soi sáng những tâm hồn mê muội chỉ biết hành hạ người đồng hương. Xin ánh sáng tình thương thay đổi tâm linh loài lang sói. Cầu mong sự tha thứ chiếm ngự con tim để cho thù hận chìm vào quên lãng".

* * *

May mắn đã đến với tôi khi được biết tại hải ngoại vẫn còn nhiều người nhớ đến chúng tôi. Tôi được bạn bè phế binh cho biết địa chỉ bác sĩ Phan Minh Hiển ở Pháp, người đang tích cực vận động giúp đỡ chúng tôi. Thế là tôi dẫn con đi chụp hình và làm giấy tờ xin bác sĩ Hiển trợ cấp nhân đạo. Con tôi may mắn được một ân nhân hải ngoại nhận làm con nuôi và giúp tôi tiền để điều trị bệnh lao.

Nguyễn Văn Huy (1999)

Viết lại theo lời kể của Bất Hạnh, một phế binh cụt chân trái hiện ở Khánh Hội, Sài Gòn.

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy, Phan Minh Hiển
Published in Tư liệu
vendredi, 06 décembre 2024 23:11

NMĐRN 1.6. Không còn nước mắt để khóc

Thật là mừng khi gặp lại Nam, người bạn phế binh đồng thời cũng là bạn học cũ năm xưa. Lúc này gương mặt của Nam sạm nắng đầy vẻ phong trần, tóc của Nam cũng đã bạc màu, ngã sang màu trắng. Cách ăn mặc của Nam cũng đã thay đổi, tươm tất hơn và không còn luộm thuộm như xưa. Đêm nay khí trời mát mẽ, biết Nam thích uống trà tôi đã pha trà đặc biệt mời Nam uống.

nuocmat1

Hai chúng tôi ngồi trước hàng hiên nhà miên man nói chuyện, nói đến quá nửa khuya vẫn chưa ai cảm thấy buồn ngủ. Nam kể lại những chuyện trong hiện tại, tôi nhắc đến những chuyện ngày xưa, chuyện mấy chục năm về trước mà hai chúng tôi đã trải qua.

* * *

Vào giữa thập niên 60, chiến tranh lan rộng khắp lãnh thổ. Báo chí loan tin quân cộng sản miền Bắc đã xâm nhập vào Nam càng ngày càng nhiều, nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ác liệt từ các vùng đồi núi trên cao nguyên xuống tận các tỉnh duyên hải và đồng bằng sông Cửu Long. Thành thị và nông thôn không còn nơi nào yên bình được nữa. Lúc đó Nam và tôi đang còn là học sinh trường trung học công lập, hai chúng tôi học chung lớp với nhau từ năm đệ thất. Bạn học của tôi nhiều đứa đã nhận được lệnh động viên lên đường nhập ngũ, riêng Nam cùng với Minh Tề và Vượng thì làm đơn tình nguyện.

Chỉ còn vài ngày nữa là Nam lên đường và cho chúng tôi biết sẽ vào Trại Nhập Ngũ số 3. Tôi cùng vài bạn thân tiễn Nam bằng một chầu cà phê ở quán Năm Dưỡng. Mấy tháng sau tôi nhận được thơ của Nam cho hay đã được đổi về miền giới tuyến Quảng Trị. Năm sau, tôi cũng nối tiếp bước chân Nam vào Trại Nhập Ngũ số 3. Ra trường, tôi được thuyên chuyển về vùng Bạc Liêu. Ở đó hơn một tháng, tôi được lệnh hoán chuyển về bộ tư lệnh sư đoàn đóng quân tại Cà Mau. Từ ấy chúng tôi không còn liên lạc với nhau nữa vì mỗi đứa ở một nơi, xa cách ngàn trùng.

Vào một ngày âm u của tháng 7/1962 ở miền cực Nam, trời mưa lất phất khí trời se lạnh, đại đội chúng tôi được lệnh hành quân tảo trừ cộng quân trong rừng U Minh. Tin tức tình báo cho biết Tiểu Đoàn U Minh 1 của cộng quân đang hoạt động ráo riết tại đây. Đơn vị chúng tôi được chia ra làm hai cánh, mỗi cánh đi về một hướng và sẽ gặp nhau tại tiểu khu Năm Căn năm ngày sau đó. Tiểu đội của tôi vượt qua mấy cánh đồng mênh mông nước, lội qua mương rạch tiến vào một xóm nhỏ lác đác vài căn nhà lá. Nơi đây vắng bóng đàn ông, chỉ thấy toàn ông già bà cả, đàn bà và con nít ngồi đứng trước nhà, ngoài sân hay trên bờ ruộng. Chúng tôi hỏi đàn ông đi đâu hết rồi, họ chỉ về phía bàn thờ trong nhà rồi im lặng.

Trời vẫn mưa lất phất, mọi người chúng tôi ai nấy đều ướt sũng. Tiểu đội của tôi dừng chân được một lúc đã nhận lệnh của đại đội trưởng tiếp tục hành quân, có người chỉ kịp ngồi uống một ngụm nước, người khác đốt một điếu thuốc đã vội vã đeo ba lô lên vai cầm súng đi tiếp. Chúng tôi rời thôn xóm nhỏ tiếp tục lên đường truy lùng địch vì cách đây vài hôm một chiếc xe đò bị giựt mìn trên con lộ dẫn về Năm Căn, làm nhiều thường dân bị thiệt mạng và bị thương. Chúng tôi đi hàng một, men theo con đường mòn nhỏ dẫn vào khu rừng tràm gần đó, cò súng lúc nào cũng sẵn sàng. Tôi đi giữa đoàn người và bám sát gót người đi trước. Thật là an toàn, tôi thầm nghĩ. Kinh nghiệm này tôi học ở những đàn anh đi trước. Mắt tôi chỉ nhìn một phía bên đường và các lùm cây ở phía xa xa, phía bên kia thì có đồng đội khác nhìn.

Chúng tôi đi như vậy gần hai tiếng đồng hồ liền, chỉ thấy hai bên bờ ruộng cỏ mọc vô tri và những đám mạ xanh chạy dài trước mắt. Thình lình, từ trong các bụi rậm phía trước có tiếng súng nổ, đạn bay cheo chéo ngang tai. Những người đi đầu tức tốc nhảy xuống núp hai bên bờ ruộng bắn trả lại. Tôi cũng vội vàng nhảy đại xuống ruộng thì... "Ình" một tiếng, tôi bị hất tung lên khỏi mặt đất rồi rớt xuống một cái "chạch" trong vũng nước. Tôi vừa đạp phải mìn. Trái mìn định mạng được ngụy trang kín đáo dưới bờ ruộng xé nát đôi chân của tôi. Hai tai bị ù, thân mình ê ẩm. Phản ứng đầu tiên của tôi là quơ tìm cây súng định bắn trả lại nhưng... ôi, sao đau buốt quá ở hai chân !

Tinh thần tôi dao động, hoang mang. Thân thể tôi lem luốt bùn sình, cái ba lô nặng nề trên vai càng làm tôi khó chịu, tôi muốn cởi nó ra nhưng không còn sức. Một anh bạn bò tới chích cho tôi một mũi thuốc cầm máu, rửa ráy qua loa và băng bó hai khúc chân của tôi. Tôi còn nghe loáng thoáng tiếng tiểu đội trưởng gọi pháo binh và trực thăng đến tiếp viện. Vài phút sau đó, tiếng đạn pháo từ tiểu khu Cà Mau tới tấp rót xuống bìa rừng và tiếng súng của đồng đội tôi bắn về phía các bụi cây đằng trước làm tôi hồi tỉnh trở lại. Độ mười lăm phút sau, trực thăng bay tới và hạ xuống một bãi đáp nhỏ cạnh bờ ruộng. Hai thằng bạn phụ khiêng tôi lên băng ca do hai y tá từ trực thăng mang tới. Tôi còn tỉnh táo trăn trối cùng thằng em kết nghĩa khi nó dìu tôi đến bãi đáp an toàn. Trực thăng tải thương chuyển tôi về Quân Y Viện Cần Thơ. Từ đó tôi bị bất tỉnh nhân sự, không còn biết gì nữa.

nuocmat2

Tôi tỉnh dậy trong phòng hồi sức, tinh thần còn bàng hoàng ngơ ngác trước quang cảnh khác lạ. Mùi ê te nồng nặc quanh phòng làm tôi lo sợ. Nhớ lại chuyện vừa xảy ra, tôi liền nhìn xuống phía dưới thì... trời ơi, hai khúc chân của tôi đâu mất rồi. Người ta đã cưa mất hai chân của tôi lên tới gối. Tôi buồn tủi khóc thầm trong dạ, cha mẹ đã sinh ra, nuôi nấng cho con nên vóc nên người và ngày hôm nay thân hình không còn trọn vẹn. Phải nói gì đây với người thân về nỗi bất hạnh này. Trái mìn ác nghiệt kia đã hủy hoại thân thể tôi, biến tôi thành kẻ tật nguyền. Tôi căm thù nó, thù những người đã dùng nó để hãm hại tôi. Lúc đó tôi chỉ thấy hận thù và căm ghét tất cả mọi người, ghét luôn những ông bác sĩ, bà y tá đến chăm sóc cho tôi, và cũng sẵn sàng thù ghét những người nào tỏ ra ghê sợ hay tránh né tôi. Cuộc đời tôi từ nay sang một ngã rẽ mới, ngã rẽ của thua thiệt và mặc cảm. Buồn nhất là thua kém với chính những người mình từng quen biết, gia đình, bạn bè và nhất là với những bạn gái. Một thử thách đầy cay nghiệt mới trong đó tôi phải làm nhiều cố gắng để ít chịu phần thua thiệt nhất. Cơn khát nước dữ dội làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi bị mất quá nhiều máu nên thiêm thiếp mê đi.

Vài ngày sau, tình trạng hiểm nguy thực sự qua đi, người ta chuyển tôi lên Trại 1 điều trị. Thấy tôi thương tích quá nặng, thường vụ đại đội cử anh Nhàn binh nhất ở luôn trong trại để săn sóc tôi. Anh Nhàn mỗi ngày giúp tôi đi tiểu tiện và lo cơm nước, tôi cũng viết thư báo tin cho gia đình. Lần hồi nỗi sầu của tôi cũng nguôi ngoa vì chung quanh nhiều người còn khổ sở hơn tôi, có người chỉ còn khúc thân, tất cả đều bị mất. Tôi tự an ủi dầu sao mình vẫn còn hai tay và mắt mũi. Tôi bán sợi dây chuyền đeo ở cổ để tiêu xài vì tiền lương chưa chuyển tới và gia đình chưa ai hay biết.

Những ngày đầu ở Trại 1 thật là khủng khiếp. Hai chân tôi bị nhiễm trùng nặng vì dính bùn sình và sắt rỉ sét của trái mìn nên da thịt hai đùi tôi có mủ và bốc mùi hôi thối. Mỗi lần y tá đến rửa vết thương là mỗi lần kinh khiếp, tim tôi co thắt lại. Tôi không đủ can đảm nhìn anh y tá thay từng miếng băng ở hai đùi, anh có hơi mạnh tay vì máu khô và mủ bám chặt vào các miếng băng côm prết mặc dù đã xịt rất nhiều nước ốc xi. Mỗi lần như thế tôi chỉ biết nắm chặt hai tay vào song giường, hơi thở khó khăn và cắn răng lại chịu đựng. Tôi cố đè nén cơn đau để tiếng rên không vuột ra khỏi miệng nhưng nước mắt và nước mũi cứ chảy ra dầm dề. Tôi ít biết chửi thề, văng tục nhưng nhiều lúc đau quá cũng thốt lên vài tiếng, sau đó lại mắc cở với chính mình. Cực hình đã xong, tôi xót xa nhìn xuống từng mảng da thịt của tôi dính đầy các băng trắng lạnh lùng nằm trong cái xô hôi hám phía dưới chân giường.

Hơn một tuần sau, cô chú tôi, mẹ tôi, chị hai tôi từ Chợ Lớn xuống Cần Thơ vào trại thăm tôi. Lòng tôi buồn bã khi gặp lại người thân. Cả nhà chỉ biết ôm tôi vào lòng rồi khóc nức nỡ. Tôi chỉ im lặng khóc và không nói lời nào, dòng lệ tôi cứ tuôn trào khi cô chú, mẹ, chị hỏi thăm. Được gia đình vào thăm lòng được an ủi nhưng tâm trạng luôn cảm thấy có lỗi với người thân, tôi đã không giữ được thân hình được toàn vẹn như mọi người khác. Tôi không còn bình thường nữa !

Bất hạnh lớn nhất của đời lính là bị cụt chân, cụt tay nên không ai muốn nghĩ đến. Chẳng thà chết trên chiến trường hay trong quân y viện, gia đình thân nhân có buồn nhưng rồi cũng qua đi, nhưng phải kéo dài tấm thân tàn phế suốt những ngày còn lại không gì khổ sở cho bằng. Nếu được chết ngay lúc này có lẽ tôi rất lấy làm mãn nguyện vì dầu sao cũng đã gặp lại tất cả mọi người thân trong gia đình. Nhưng tôi đã không chết.

Mặc dù không muốn nghĩ đến sự tật nguyền nhưng cái rủi không ai tránh được. Điều trớ trêu là cái rủi đó đã xảy đến với tôi, thật là buồn. Mấy ngày qua tôi cứ trông ngóng, lòng dạ xốn xang chờ đợi người thân, nay gặp được lòng dạ hả hê. Tôi cứ sợ gia đình tôi trách móc nhưng không, mọi người đều tỏ ra thương yêu tôi hơn bao giờ hết. Tôi không những được an ủi mà còn được cho tiền, quà cáp và sách báo để đọc.

nuocmat3

Gần một tháng sau tôi được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa bằng trực thăng và được phân phối về Trại Ngoại Thuơng 4. Gia đình, bà con, bạn bè khắp nơi nghe tin tôi được chuyển về Tổng Y Viện đến thăm tôi đều đặn, do đó cũng cảm thấy đôi phần an ủi, nỗi đau buồn dần dà vơi đi. Với thời gian nhịp độ đến thăm không đều như trước, có lẽ mọi người bị bận rộn công việc làm ăn. Thời buổi này rất khó khăn nên tôi cũng thông cảm. Mặc dầu vậy cứ mỗi buổi chiều, tại khu Ngoại Thương 4 bà con thân nhân thương bệnh binh đến thăm nuôi đông đảo, ăn nói ồn ào, tôi ngồi trên chiếc xe lăn nhìn thiên hạ mà không khỏi buồn lòng. Tôi thường tìm một góc hành lang đầu trại lặng nhìn người qua kẻ lại, không muốn làm quen với ai. Tôi là kẻ cô đơn, lòng đầy mặc cảm. Nếu giờ này tôi còn đủ hai chân có lẽ tôi còn đang hành quân đâu đó hay về phép dạo phố như mọi người.

Trong Quân Y Viện Cộng Hòa, những thương binh được chia ra điều trị tại nhiều khu vực khác nhau, chúng tôi những người bị cụt hai chân ở khu Ngoại thương 4, những khu khác dành cho người bị cụt hai tay, cụt một chân, cụt một tay, mù mắt... Những người bị mất cả tứ chi hay bị liệt thì ở chung một khu, nơi đây họ được chăm sóc tận tình và chu đáo hơn. Ở trại 4, tôi có thêm hai thằng bạn mới. Thấy tôi ngồi ủ rủ một mình, thằng Quí thường đến an ủi tôi, còn thằng Lô thì hay kéo tôi nhập vào những cuộc vui do anh em phế binh trong trại tổ chức để quên ưu phiền. Cả hai thằng Quí và Lô đó đều bị cụt hai chân như tôi. Những cuộc vui thường là những buổi họp mặt cùng nhau ca hát tân nhạc hay cải lương, nhiều thằng kể chuyện tếu lâm để cùng nhau cười. Những anh em nào được gia đình đến thăm nuôi thường kêu các bạn bè ngồi lại ăn uống, nhậu nhẹt cho hết ngày giờ. Vui nhất là được các phái đoàn đến thăm, chúng tôi thường được tặng quà và còn được những cô học sinh sinh viên xinh đẹp đến hỏi han an ủi.

Tháng ngày cứ thầm lặng trôi qua, tâm hồn tôi cũng bớt phần cay đắng. Tôi không còn nghĩ nhiều đến sự tàn phế của mình và cũng không còn thu mình trong vỏ ốc cô đơn, mặc cảm. Tôi hòa nhập vào cuộc sống với anh em trong trại. Thời gian sau đó, tôi và Lô cùng ngồi trên chiếc xe lăn, vui vẻ dạo phố Sài Gòn. Chúng tôi làm ngơ không để ý đến những cái nhìn tò mò của nhiều người khác. Nhiều lúc bất mãn, anh em chúng tôi vào một vài quán nước bày tỏ sự bất bình về sự đối đãi không lịch sự của các nhân viên phục vụ, đó là vào thời điểm đầu thập niên 70. Sau này chính phủ có ra nhiều biện pháp nâng đỡ phế binh nên anh em chúng tôi vui vẻ trở về đời sống bình thường trong những khu vực định sẵn.

Riêng tôi thì trở về nhà sống với mẹ và với chị hai tại Chợ Lớn. Ở được hơn nửa năm trong tình gia đình đầm ấm, tôi vẫn thấy nỗi buồn xâm chiếm. Tôi xin phép gia đình cho vào an dưỡng tại Trung Tâm Hồi Lực vì chỉ ở nơi đây tôi mới thực sự tìm được chỗ đứng của mình. Tại đây, thật là bất ngờ. Tôi gặp lại Nam, người bạn học năm xưa, sau bao năm xa cách không đứa nào thư từ cho nhau, định mệnh đã dung rủi cho hai đứa tôi gặp lại nơi đây.

Buổi sáng hôm ấy, trong Trại B Hồi Lực anh em trong trại truyền tai nhau sẽ tiếp nhận hai bệnh nhân mới từ miền Trung chuyển vào, đặc biệt có một anh mù mắt dẫn theo một đứa con nhỏ. Vừa từ phòng bác sĩ về nghe nói có bạn mới, tôi đẩy lần xe lăn vào dãy có giường ở giữa trại, nơi hai người bạn mới vừa được chuyển tới nằm để xem có quen hay không ? Thật ra thì ở trại hồi lực này, ngoài chuyện chờ đợi thân nhân tới thăm và đàm tiếu với nhau, chúng tôi không có việc gì khác để tiêu khiển ngày giờ là chờ có thêm thương binh mới để đến hỏi thăm. Người thì chỉ vẻ cách sống trong trại, người thì hỏi thăm thương tật, nói chung chỉ vẻ đủ thứ chuyện để thấy ngày tháng đỡ nhàm chán.

Một trong hai người mới tới ngồi trên giường, mặt quay vào phía trong. Tôi đẩy xe tới bên cạnh khẽ gọi: "Chào anh !". Người vừa mới tới quay về phía tôi, mặt ngước lên trời. Tôi giật mình kêu lên "Nam !".

Trời ơi, đúng là thằng Nam, bạn học cũ của tôi ngày nào đây mà. Gương mặt của Nam sao dị hợm quá, một bên mặt bị nám đen, con mắt trủng sâu trong vết sẹo đen thâm xì, con mắt còn lại chớp chớp nhưng tinh thể đã bị đục thũng.

Khuôn mặt tuy đã biến dạng nhưng tôi vẫn nhìn ra Nam, thằng bạn học cũ. Nam vẫn ngồi bất động. Tôi đẩy xe chồm người tới nắm lấy tay Nam, tiếng nấc mắc nghẹn ở trong họng. Nam cũng tò mò nắm lấy bàn tay tôi nhưng ngẩn ngơ không biết là ai. Tôi xưng tên thì Nam giật mình sờ soạn rờ vào đầu tôi, kéo tôi thật mạnh vào lòng. Hai đứa ôm nhau, thân hình Nam run run xúc động, còn tôi thì khóc nức nở như một trẻ thơ. Ôi, thằng bạn thân nhất thời xưa giờ đây còn tàn phế hơn tôi. Không những Nam bị mù hai mắt mà còn bị cụt mất một chân dưới gối. Sau giây phút xúc động, hai đứa tôi ngồi cạnh bên nhau nói chuyện thật lâu.

Cuộc đời thật trớ trêu, cả hai đứa năm xưa chơi thân với nhau, giờ đây mỗi đứa mang một thương tật nặng nề, hình hài không còn nguyên vẹn. Anh em trong trại tôn trọng sự xúc động của chúng tôi nên đã tự động tản đi nơi khác. Thế là Nam cùng đứa con trai trở thành những người bạn thân tình trong gia đình mới của chúng tôi.

Phía trước Trại B có một sân cỏ thật thoáng rộng. Những lúc trời chiều gió thoảng, anh em trong trại thường ra nơi đây tụm năm tụm ba ngồi hóng mát. Tôi cùng Nam thường ra ngồi trên đệm cỏ nói chuyện, thằng con nhỏ của Nam vần vô tư tung tăng chạy nhảy, hồn nhiên đi bắt cào cào rồi chạy đền khoe. Nam kể cho tôi nghe những năm tháng thăng trầm của đời lính chiến.

Sau khi mãn khóa huấn luyện quân sự, Nam được chuyển ra đơn vị mới, Sư Đoàn 1 ở Huế. Đời lính có lúc lên lúc xuống nhưng rồi cũng qua đi. Sau nhiều chiến công rực rỡ, Nam được thăng chức trung đội trưởng. Những lần về bộ tư lệnh họp, Nam có dịp làm quen với một người con gái xứ Huế học trường Đồng Khánh. Hai người qua lại thân mật với nhau và sau hơn một năm đã cùng nhau lập gia đình. Hai vợ chồng sống những ngày tháng thật êm đềm, đứa con đầu lòng được sinh ra trong tình yêu thương nồng cháy. Nam và vợ thuê một căn nhà nhỏ gần chợ Đông Ba, vợ Nam bán vải, cuộc sống tràn trề hạnh phúc.

Đầu năm 1970, chiến cuộc gia tăng cường độ, khu vực giới tuyến được giao cho các binh chủng tinh nhuệ trấn giữ, Sư Đoàn 1 rút về tăng cường các tỉnh phía Nam Quân Khu 1. Trong một cuộc hành quân tại khu vực đồi núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, trung đoàn của Nam đụng mạnh với Lữ Đoàn 52 chủ lực của quân cộng sản từ miền Bắc xâm nhập vào vùng Ba Tơ - Minh Long. Không may trong một trận đánh cánh quân của Nam bị lọt vào ổ phục kích, đại đội của Nam bị thiệt hại nặng, hơn phân nửa binh sĩ bị thương hay bị thiệt mạng, trong đó có Nam.

Khi tiến vào khu vực Minh Long, nghe tiếng pháo lệnh của địch quân phía trước, đại đội của Nam phân tán ra hai bên nằm rạp xuống đám cỏ tranh trong rừng quan sát. Chỉ trong tích tắc sau đạn pháo và đạn cối của địch quân ào ạt rót xuống cánh quân của Nam đang nằm. Anh nào lanh chân thì nhảy vào các hố đạn pháo vừa nổ ẩn nấp, những anh em khác thì đành chịu trận. Khói bụi bay mù mịt, không ai thấy gì cả, mùi thuốc súng và mùi tanh của máu bốc lên khó chịu. Tiếng la ơi ới. Pháo kích xong vừa xong, cộng quân liền tổ chức xung phong, chúng la hét vang trời. Chốt kháng cự nơi Nam trú ẩn bị trúng một quả B40, hai đồng đội bị chết liền tại chỗ. Nam chỉ thấy một vệt lửa chóa lên trước mắt rồi nằm im bất động.

Khi tỉnh lại tại Quân Y Viện Qui Nhơn, Nam mới biết mình bị mù hai mắt và cụt một chân dưới gối. Những ngày đầu buồn bã vô hạn, ý định tự tử len lỏi vào đầu của Nam nhưng nghĩ đến vợ con, Nam hy vọng các bác sĩ sẽ chữa lành con mắt còn lại. Mỗi tuần vợ Nam đón xe từ Huế vào Qui Nhơn thăm anh một lần. Khi thì đi một mình, khi thì dẫn đứa con trai theo, Nam cũng cảm thấy đôi phần an ủi. Không lúc nào như lúc này, tình thương yêu của vợ con đối với Nam thật là cần thiết. Mỗi lần được vợ con đến thăm, Nam cứ muốn giữ lại bên mình vĩnh viễn. Nam chỉ tiếc là không còn nhìn được diện mạo của mình để biết mình bị thương phế đến mức nào, Nam chỉ biết mình bị mù cả hai mắt và mất một chân.

Hơn một tháng nằm điều trị, vết thương trên người của Nam đã bình phục, người ta làm chân giả cho Nam tập đi và còn được hướng dẫn cách đi của người mù. Cuối cùng bác sĩ cho Nam xuất viện trở về Huế. Nam trở về đời sống thường dân với những bước chân chập chững của người tàn phế. Sau một thời gian, Nam không hòa nhập với cuộc sống mới, Nam bị mặc cảm và thường hay gắt gỏng với vợ với con vì những chuyện không đâu. Thêm vào đó, vì chuyện sinh kế vợ của Nam thỉnh thoảng phải đi vắng nhà mua hàng ở Đà Nẵng, giao con lại cho Nam chăm sóc. Vợ của Nam làm sẵn thức ăn sẵn, dặn Nam tắm rửa và cho con ăn cho đúng giờ đúng lúc. Cuộc sống càng lúc càng khó khăn, vợ của Nam vắng mặt luôn làm Nam ghen tức, hay nổi giận bất tử và có lúc đã vung vài cử chỉ thô bạo với vợ. Quan hệ vợ chồng từ đó trở nên lạnh nhạt, hai người không còn ngủ chung giường và không ai nói với ai lời nào. Giận vợ và bất mãn với chính mình, Nam không đi đâu hết, cứ ngồi lì ở nhà và cũng không muốn tiếp một ai, bạn bè họa hoằn lắm cũng chỉ một hai người đến thăm. Cảm thấy không thể hội nhập vào cuộc sống bình thường và không khí trong nhà khó thở, Nam xin vào trại hồi lực để tìm quên với những người bạn cùng cảnh ngộ.

Một buổi chiều kia, vợ Nam dẫn con vào Trung Tâm Hồi Lực 2 thăm Nam như thường lệ. Hôm đó Nam linh tính như có một chuyện gì xảy ra mà chưa đoán ra được. Vợ Nam ít nói hơn, không ở lâu như mọi khi và bảo đứa con ở chơi với cha để ra ngoài mua thuốc hút. Dạo sau này vợ Nam bắt đầu hút thuốc lá. Thấy lâu rồi mà vợ chưa trở lại, Nam dẫn con ra ngoài cổng hỏi thăm thì người lính gác cho biết thấy vợ của Nam vừa ra khỏi cổng liền đón chuyến xe đò vừa chạy tới. "Như vậy là vợ tôi đã bỏ cha con tôi rồi", Nam bần thần than thở với người lính gác và thầm trách người bạn đời. Nam dẫn con trở về phòng, ngôi yên thật lâu không nói lời nào. Thằng con chạy nhảy chung quanh một hồi rồi kêu đói, Nam tìm cho nó mấy miếng bánh bích qui cho nó ăn đỡ. Nam vẫn ngồi lặng thinh bất động hàng giờ trên giường, suy nghĩ cách nào nuôi con. Đứa trẻ ăn xong, chạy tới chạy lui khóc lóc tìm mẹ, sau cùng mệt quá nó ngủ vùi trong vòng tay của cha.

Từ đó hai cha con sống chung với nhau trong căn phòng nhỏ bé của trại hồi lực. Ban giám đốc trại hay biết chuyện này cũng làm ngơ để cho đứa bé ở lại với người cha tàn tật và còn cho tăng thêm phần ăn. Mỗi khi có phái đoàn nào đến thăm, đứa con của Nam được mọi người chiếu cố tặng cho nhiều bánh kẹo và áo quần mới. Hoàn cảnh của Nam được nhiều người thương cảm, anh em trong trại mỗi khi có thân nhân vào thăm đều dành một ít bánh quà tặng lại cho cha con.

Nam không còn tinh thần để trò chuyện với anh em trong trại như trước nữa. Mỗi khi chiều về, đứa con chạy về phòng ngủ, Nam ngồi lặng hằng giờ vuốt lưng cho con ngủ mà nước mắt cứ chảy dài trên gương mặt xấu xí. Cảm thấy không khí tại đây buồn bã, thương cho thằng con sớm bơ vơ vì không có mẹ cận kề chăm sóc, Nam xin chuyển về Trung Tâm 3 Hồi Lực ở Sài Gòn và tình cờ gặp lại tôi.

Năm 1972, chị Kiều Mỹ Duyên, phóng viên nhật báo Hòa Bình do một linh mục làm chủ nhiệm, đã viết nhiều bài phóng sự về cuộc đời của anh em thương bệnh binh ở Tổng Y Viện Cộng Hòa rất hay, trong đó có câu chuyện đầy thương tâm của Nam, để vận động sự giúp đỡ. Nam được chính phủ cấp cho một căn nhà trong Làng phế binh Thủ Đức, cạnh Nghĩa Trang Quân Đội. Hai cha con, nhờ tiền cấp dưỡng, tạm sống qua ngày. Tôi thì vẫn ở lại với anh em trong trung tâm vì vẫn còn độc thân.

Năm 1975, trời tháng tư trở nên nóng bức, không có gió. Ngày thì rực lửa, đêm thì khó chịu. Tin tức chiến cuộc ngày càng lo âu. Phan Thiết bị thất thủ, ông tướng này bị bắt, ông tá kia bị quản thúc. Quân cộng sản đã vào đến Long Khánh và Lái Thiêu nhưng bị chặng lại vì sự chống trả mãnh liệt của các Sư Đoàn 5, 18 và 25 bộ binh quyết giữ ải địa đầu của Sài Gòn. Nhưng rồi họ cũng tiến quân vào đến Biên Hòa, thủ đô Sài Gòn chỉ còn trong gang tấc, một sớm một chiều sẽ lọt vào tay quân cộng sản mà thôi. Tôi được một số bạn bè cho biết tình hình không còn sáng sũa chút nào, nhưng tất cả đều phó mặc cho số phận. Ý tưởng chính phủ Mỹ không bỏ rơi miền Nam vẫn còn được nhiều người hy vọng. Một số người khác còn nhắc đến những điều khoản vừa mới ký kết trong Hiệp Định Paris hồi đầu năm 1973, v.v...

Trong thực tế chế độ miền Nam đã bị lung lay nhưng không ai biết. Vài ba thằng bạn được gia đình tới rước về vội vã đến từ giã tôi. Mấy người hàng xóm gần quân y viện cũng lo thu xếp đồ đạc, giao nhà giao cửa cho người khác trông nom rồi dẫn cả gia đình ra phi trường chờ được di tản sang Mỹ. Nhiều người khác còn lưỡng lự giữa đi hay ở vì còn bận cha già, vướng mẹ yếu, con dại không ai nuôi dưỡng. Hàng ngày, những chuyện này xảy ra trước mắt và nơi trang nhất báo chí đăng những tin tức và hình ảnh dòng người di tản trong hỗn loạn làm cho anh em trong trại càng thêm hoang mang.

Còn ba ngày nữa là hết tháng 4. Vào hồi giữa khuya, tiếng còi báo động của nhà máy xi-măng Hà Tiên phát ra liên hồi. Trong làng phế binh nơi Nam ở, mọi nhà đều thức dậy, nhốn nháo. Có nhà mở hé cửa ra nhìn ra đêm tối, có nhà bật đèn sáng trưng để xem động tỉnh thế nào. Tiếng còi báo hiệu trận đánh Sài Gòn bắt đầu. Từ trong đêm tối quân cộng sản dùng xe tăng và xe tải tiến sát vào các vùng ven đô. Tiếng đại pháo và tiếng súng nhỏ nổ lách tách suốt dọc xa lộ Biên Hòa và sông Sài Gòn. Một số anh em chạy ra ngoài lắng nghe và bình luận tiếng súng của hai bên, anh em phân biệt tiếng súng AK và M16, tiếng đạn phóng hỏa tiễn M72 và B40 để biết địch quân đang tiến tới đâu và phe ta đã kháng cự như thế nào. Từ xa vang rền tiếng nổ máy rầm rầm của các loại xe tăng, xe vận tải, cộng thêm tiếng "đề ba" đại pháo của hai bên, tiếp theo sau là những tiếng nổ ầm ầm, nhiều đốm sáng đỏ rực chiếu lên ở một góc trời. Phi trường Tân Sơn Nhứt và Bộ Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam đang bị pháo kích. Trên trời những tia lửa do trực thăng bắn rốc kết xẹt lên lia lịa, thêm vào đó là tiếng đạn đại liên như bò rống từ trực thăng bắn xuống những vùng địch đóng. Bầu trời cứ chiếu sáng liên hồi những đốm lửa rực đỏ. Chiến tranh đang về đến Sài Gòn, có lẽ lần này là lần quyết định.

Tại Trung Tâm Hồi Lực 3, chúng tôi cũng rất hoang mang. Các dãy nhà đều tắt đèn. Nằm trên giường, tôi lắng tai nghe tiếng "đề ba" của pháo từ các tiểu khu Gò Vấp, Thủ Đức bắn yểm trợ các đơn vị bạn. Tiếng đạn đại pháo bay rít trong đêm tối nổ ầm ầm dọc theo sông Rạch Cát, Rạch Chiếc và xa lộ Biên Hòa. Lòng tôi lo lắng, tôi thao thức luôn đến sáng. Sáng sớm hôm đó, một vài người trong làng phế binh Thủ Đức chạy vào trại cho biết mọi người trong làng đều xôn xao, nhiều người đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng ra đi nếu xảy ra trận chiến cận kề. Dân trong làng có những kẻ hiếu kỳ lấy xe đạp, xe Honda chạy vòng qua ngã chợ Thủ Đức để coi và quan sát tình hình như thế nào. Những tin tức sốt dẻo từ những người này mang lại càng cho dân làng thêm lo lắng. Đường xa lộ từ ngã tư Bình Thới hướng Sài Gòn đã bị cô lập, cấm đi từ rạng sáng. Một vài cây cầu bị giựt sập, nhiều đường khác bị tắt nghẽn vì bị xe tăng M40 và thiết giáp M113 cản đường. Chỉ tiếc là những người chạy vào trại báo tin không ai biết hiện giờ cha con của Nam ở nơi đâu và đang làm gì.

nuocmat4

Nỗi bàng hoàng và thất vọng càng lớn khi sáng ngày 30/4/1975 nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Thu mình trên chiếc xe lăn, tôi ngồi bên cửa sổ ở hàng hiên, suy nghĩ miên man từ chuyện này sang chuyện nọ. Tôi không còn nước mắt để khóc cho quê hương và cho chính tôi. Mọi chuyện rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng lần này chúng kết thúc trong bi thương. Anh em phế binh chỉ buồn cho thân phận không may của mình. Thôi, đã mất tất cả rồi. Quốc gia này còn mất sá gì thân phận hèn mọn của mình, tôi gượng gạo mỉm cười khi bất chợt gặp một vài người thân quen. Anh em trong trại không ai buồn nói với ai lời nào, mỗi người đều có những ưu tư riêng. Phải sống như thế nào đây trong những ngày sắp tới ? Đó là câu hỏi mà mọi anh em chúng tôi đều đặt ra cho chính mình.

"Hòa bình" đã đến rồi. Thật là cay đắng. Ngoài đường, người ta qua lại bàn tán huyên thuyên không như những ngày bình thường khác. Tiếng xe cộ, tiếng cười, tiếng nói nổi lên ồn ào giữa những đoàn quân xa của bộ đội cộng sản. Tôi thấy cuộc chiến này sao thật vô nghĩa. Không biết bao nhiêu người đã ngã gục trên chiến trường, hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do bỗng chốc phải cúi đầu nhường chỗ cho quân địch bước qua. Sự thực đã rõ ràng, miền Nam đã mất và lịch sử đã sang trang. Thật là lạ khi gặp lại một số bạn bè thân quen đồng cảnh ngộ, họ vui mừng cười nói huyên thuyên vì cuộc chiến đã chấm dứt, họ tin rằng hòa bình sẽ trở lại vĩnh viễn và đất nước sẽ không còn những thảm cảnh đau buồn. Cho dù đó là sự thật đi, thân hình tàn phế của họ có gì khá hơn hay cũng chỉ là những kẻ thừa thải đứng hờ bên lề cuộc sống.

Vui mừng chưa được bao lâu, một đoàn xe Molotova chạy thẳng vào trại. Viên sĩ quan chỉ huy bộ đội kêu gọi tất cả anh em trong trại ra trình diện. Anh em phế binh kẻ chống nạn, người đẩy xe lăn, người thì được thân nhân dìu ra bãi cỏ trước trại ngồi nghe "huấn lệnh". Viên sĩ quan này cho biết anh em chỉ có 24 giờ để rời khỏi nơi đây, ai ở quê nào thì trở về quê đó, ủy ban quân quản sẽ trưng dụng trung tâm này làm căn cứ quân sự. Nói xong, bộ đội miền Bắc chiếm đóng tất cả các ngõ ngách, kiểm soát mọi người. Thế là mạnh ai nấy tìm đường rời khỏi nơi đây. Tôi đón xe Honda ôm về làng phế binh cạnh cầu Rạch Chiếc ở tạm với gia đình thằng bạn thân. Tôi cứ thắc mắc là tại sao gia đình tôi không ai vào đây đón tôi về nhà và cũng rất buồn vì không có tin tức của Nam. Nhưng rồi những biến cố dồn dập vừa mới xảy ra làm tôi quên bẵng.

Ngày đầu tháng 5/1975, giông tố nổi lên dữ dội. Lợi dụng khí trời mát mẽ, tôi rủ thằng bạn thân lấy chiếc xe đạp chở tôi về Sài Gòn, trước hết là để xem sự tình, sau là tôi về thăm mẹ tôi. Chắc là mẹ tôi đang mong chờ tôi trở về lắm. Trước đó hơn hai tuần, mẹ tôi cho người nhắn bảo tôi về nhà ở lại với mẹ vì không an lòng chút nào khi thấy tôi sống ở đây một mình. Nhưng lúc đó tôi hy vọng sẽ được chính phủ đưa đi nơi khá an toàn hơn vì chúng tôi là những người tàn phế phải được ưu tiên giúp đỡ. Tất cả chỉ là viễn mơ, trong lúc loạn lạc mạnh ai nấy lo, cụt què như chúng tôi chỉ có thua thiệt.

Thằng bạn bị cụt một tay, hai chân còn nguyên vẹn. Nó đạp, tôi lái. Xa lộ Biên Hòa giờ này không đông người qua lại. Tôi thấy rơi vãi đó đây những bộ quần áo lính đủ loại binh chủng. Những cái nón sắt, những cây súng, băng đạn cùng những quân trang, quân dụng, thuốc men và giấy tờ vung vãi trên đường. Những chiếc giày vải, giày bốt, ba lô, bao bị văng tứ tung trên mặt đất. Trong những giây phút hốt hoảng tinh thần khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng, chắc những người này sợ bị bắt làm tù binh và sẽ chịu những cuộc trả thù đẫm máu nên đã vứt bỏ những vật dụng liên quan tới cuộc đời chiến binh. Tôi thấy từng đoàn người đàn ông ăn mặc lếch thếch đi dọc hai bên xa lộ, có người chỉ mặc chiếc áo bên dưới là quần thun ngắn, có người đi chân đất và nhiều người chỉ mặc cái quần dân sự đi mình trần. Có lẽ họ đã vào nhà dân xin đại một bộ áo quần nào đó để mặc rồi đi bộ về Sài Gòn. Thật là buồn, một quân đội hùng mạnh được xếp vào hàng thứ năm trên thế giới nay ra nông nỗi này. Thất bại nào nhục nhã hơn.

Đi lần về phía nhà máy xi-măng Hà Tiên, tôi thấy xác một chiến xa M48 bị bắn cháy đen thùi, hai khẩu pháo 105 ly nằm trước sân nhà máy, nòng súng hướng thẳng lên trời, vỏ đạn lăn lóc đầy mặt đất. Xác nhiều chiến sĩ Địa Phương Quân nằm rải rác đó đây, ruồi bu đen kịt. Bên kia xa lộ, dưới bờ mương và trong bụi dừa nước cạnh bờ sông Rạch Chiếc, xác một vài chiến binh nằm chết úp mặt. Tiếng súng cuối cùng vừa chấm dứt, trận chiến đã kết liễu, xác thân các chiến sĩ hai bên thù địch nằm phơi ra đó không ai buồn đến nhận diện, thật là đau xót. Chết trong giờ thứ 25 này không gì bất hạnh cho bằng. Giờ này đây chắc mẹ cha, vợ con, anh em các anh đang ở nhà trông ngóng, mong các anh đoàn tụ gia đình.

Đứng trước thảm cảnh này, tôi không ngăn được xúc động, xót thương cho kiếp người phù du, ngắn ngủi. Tôi chỉ biết thầm cầu nguyện và thúc bạn tôi đạp xe nhanh hơn. Lòng mong muốn được gặp mẹ càng nung nấu trong tôi. Càng đi về gần Sài Gòn, xác các đoàn quân xa choáng cả đường đi, súng đạn, áo quần và đồ đạc nằm la liệt trên mặt đường.

Cuối cùng chúng tôi cũng vào đến Sài Gòn. Trên đường xe cộ qua lại đông đúc hơn bình thường, không còn ai tôn trọng luật đi đường gì nữa. Từng toán bộ đội thân hình gầy gò, đầu đội nón cối, mặc áo quần màu xanh lá rộng thụng thịnh mang dép râu vác súng đi tuần ở khắp các nẻo đường. Xe tăng, xe Molotova đậu ngổn ngang hai bên lề đường. Một không khí ngột ngạt bao trùm Sài Gòn. Chúng tôi đi về phía Chợ Lớn. Vào con hẻm cũ, mẹ tôi đã đi vắng từ hồi nào. Hỏi thăm bà con lối xóm, họ cho biết vào những ngày cuối tháng tư chị hai tôi xuống dẫn mẹ tôi đi. Đi đâu thì không ai biết. Đứng trước căn nhà đóng kín cửa, tôi buồn bã rủ anh bạn ra ngoài quán cóc uống một ly cà phê, ăn qua loa một tô mì rồi đạp xe về lại làng phế binh. Tôi nhớ thương mẹ già nhưng cũng lo lắng cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới. Ai trả tiền cấp dưỡng cho tôi và ở nơi đâu, đó là hai câu hỏi luôn luôn ám ảnh tôi khi rời khỏi con hẻm. Cũng may, vì ở trong trung tâm tôi ít tiêu xài nên cũng dành dụm được chút đỉnh nên cũng đủ để tiêu xài ít ra trong một vài tháng.

* * *

Giữa tháng 6/1975, dân chúng trong làng phế binh Rạch Chiếc lại một phen kinh hoàng. Tin đồn ủy ban quân quản sẽ đuổi tất cả dân cư ở tại đây ra đi và bộ đội cộng sản vào chiếm giữ khu cư xá này làm tinh thần mọi người dao động mạnh. Làm sao không tin được, những người từ các tỉnh đã mắc kẹt trong các ngày cuối cùng về đây cho biết làng phế binh tại các tỉnh đều đã bị bộ đội cộng sản chiếm đóng. Dân chúng bàn tán xôn xao. Cũng nên nhắc lại là dân cư trong làng là những người phế binh từ khắp nơi đã về đây sinh cơ lập nghiệp. Sau những tranh đấu chính đáng, chính quyền miền Nam đã cho xây dựng ngôi làng này và cấp phát miễn phí cho phế binh. Tùy theo hoàn cảnh, mỗi người làm chủ một căn nhà lớn nhỏ để an tâm vui hưởng số ngày còn lại của đời phế binh.

Giờ đây trong tình cảnh này, ai nấy đều bồn chồn lo lắng, ít nhiều chán nản trước những loại tin đồn như thế. Người này hỏi người kia, chừng nào về quê hay dọn đi nơi khác. Phước Thợ Hàn nắm tay tôi thân mật giã từ, anh vừa mướn được xe chở đồ đạc về quê. "Tôi về chợ Thầy Phó Vĩnh Long, khi nào có dịp về Sài Gòn tôi sẽ ghé thăm anh". Anh Ba Hải Quân thì không muốn đi đâu cả nhưng bà vợ cứ cằn nhằn hoài anh phải nghe theo, gia đình anh đi về quê ở Bến Lức. Dù muốn dù không thằng Năm Què cũng phải về ở với cha mẹ. Năm là con trai một, cha mẹ tuổi già trên bảy mươi, gia đình có bảy mẫu ruộng nếu nó không về thì nhà nước sẽ tịch thu hết ruộng. Riêng anh Chín Lắc thì không còn quê để về, chính phủ cấp phát cho anh một căn nhà tại làng này thì chính nơi này là quê hương. Anh nói phải quyết giữ lấy, không đi đâu cả, dù có bị bắt buộc, chết thì thôi. Anh Sáu Lưu là cựu sĩ quan, đã di tản từ miền Trung về đây hồi tháng 3/1975 cùng với gia đình và vợ con, ở chưa được bao lâu thì đã chuẩn bị lên đường vào trại tập trung học tập cải tạo mười ngày. Sự thực thì anh bị tập trung cải tạo gần mười năm mới được thả về mặc dù là phế binh bị cụt một chân. Mọi người trong lúc này, tùy hoàn cảnh, tùy cuộc sống mà quyết định đi hay ở lại trong làng.

Cuối cùng tin đồn bị đuổi ra khỏi làng phế binh trở thành sự thật. Khoảng cuối tháng 6, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức cử một toán bộ đội và du kích vào đây triệu tập bà con ra giữa sân rồi tuyên bố mọi người phải dọn ra khỏi nơi này trong vòng một tuần lễ. Trong thời gian đó, ủy ban quân quản dành ưu tiên cho những gia đình tình nguyện đi lập nghiệp trên vùng kinh tế mới ở Sông Bé.

Đầu tháng 7/1975, khoảng 3 giờ khuya, dân chúng trong làng đã tụ tập trước sân cùng với đồ đạc để chờ đoàn xe vận tải chở đi lên vùng kinh tế mới. Quang cảnh thật ồn ào, nhộn nhịp. Chẳng ai ngủ được bao nhiêu kể cả con nít, mọi người đều lo lắng cho tương lai với cuộc sống mới. Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết cả. Nhà nước biểu đi thì đi. Người ta đi thì mình cũng đi. Một số gia đình nghèo đã bán hết đồ gia dụng, bàn ghế, tủ giường... với giá rẻ để có tiền dằn túi khi đến nơi mà tiêu xài.

Những cái bắt tay, những câu giã từ cùng những lời nói vội vàng của các bạn bè, hàng xóm để bước lên xe cùng với gia đình đi vùng kinh tế mới vang lên liên tục. Đoàn xe lăn bánh. Chiếc xe cuối cùng vừa khuất nẽo, tôi miên man liên tưởng khi đến nơi các bạn tôi sẽ làm việc gì để sinh sống với tấm thân què cụt. Trong khi đó, có anh bạn bị mù hai mắt, có anh bị cụt hai tay cũng xin đi vùng kinh tế mới, các anh có cày cuốc được gì đâu mà cũng xin đi về vùng đất chết. Họ tình nguyện đi vì không muốn sống chung với kẻ thù hay vì hy vọng có một cuộc sống khá hơn ?

Những người còn ở lại trong làng phế binh phải đương đầu với hoàn cảnh mới. Gia đình anh Bảy Ca, người cho tôi tạm trú đã giao hẳn căn nhà cho tôi cùng với giấy tờ, đã đăng ký đi vùng kinh tế mới hồi sáng nay. Anh Bảy dặn là tôi cứ ở lại giữ nhà, khi nào yên thì anh sẽ về lại đây, tôi ừ à cho qua chuyện. Thật ra tôi cũng chẳng thiết giữ căn nhà này làm gì vì không đủ sức trang trải những chi phí điện nước và ăn uống hằng ngày. Tôi có ý định rủ Nam cùng đứa con về đây ở chung, nhưng Nam cũng đã được cấp một căn nhà ở làng phế binh lớn nhất trên Thủ Đức rồi. Tôi chỉ biết thở dài lo âu.

Tin đồn nhà nước cộng sản lấy hết nhà trong làng trở thành sự thực, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức đã chính thức vào tiếp thu và chia khu vực, lấy những khu nhà vắng chủ cấp phát cho một số đơn vị bộ đội vào ở. Dân cư lại một lần nữa phải sắp xếp đồ đạc dọn nhà. Những gia đình ở trong khu vực bị lấy nhà được hoán đổi sang những căn nhà bỏ trống ở các con đường khác. Có người phải đổi nhà, dọn nhà tới hai lần. Trong làng, không khí im lìm vắng vẻ. Chỉ còn một vài gia đình quyết định ở lì trong làng phế binh, trong đó có tôi vì không có thân nhân. Mẹ và chị hai tôi giờ này không biết ở đâu.

Cuộc sống trở nên khó khăn. Một hôm Nam cùng thằng con nhỏ từ Làng Phế Binh Thủ Đức tìm đến thăm tôi, cùng sống chung với tôi mấy ngày. Làng phế binh nơi Nam ở cũng đang bị giải tỏa, Nam cho biết sẽ về lại quê cũ ở nhờ nhà người chị thứ ba, người thương Nam nhất. Mặc dù không thấy đường, Nam kể lại cho tôi nghe những mẫu chuyện thương tâm mà Nam đã nghe và chứng kiến.
Ngày sau khi tôi rời Trại B Trung Tâm 3 Hồi Lực, Nam vào lại trại thăm tôi cùng bạn bè và định ở lại chơi vài hôm. Nhưng bộ đội gác cửa không cho ai vô, Nam đành dẫn con ra ngoài quán nước bên cạnh ngồi nghỉ. Tại đây Nam được một anh bạn phế binh cũ đến chào hỏi thăm. Anh bạn này bị cụt một tay không có thân nhân nên được gia đình chủ quán tốt bụng cho ở tạm, hằng ngày anh ra đây phụ lau chùi bàn ghế và phụ bếp. Nam hỏi thăm thì biết tôi đã về làng phế binh Rạch Chiếc và hôm nay đến thăm tôi.

Theo lời Nam kể lại, vào xế chiều ngày 1/5/1975, sau khi những người cuối cùng trong trại thu xếp đồ đạc chuẩn bị về nhà, một tiếng nổ vang ầm từ ngoài sân vọng vào, ai nấy đều giật mình. Một phế binh mếu máo chạy vào báo tin hai anh bạn cụt hai chân ngồi chung trong chiếc xe lăn đã ôm một trái lựu đạn tự sát. Lúc đó Nam có nghe người bạn phế binh nhắc đến tên hai anh đó nhưng vì tâm thần bất an nên đã quên tên. Có người nghe lời trăn trối cuối cùng của hai anh trước khi tự sát kể lại rằng các anh quá thất vọng và chán chường vì đã mất tất cả, các anh không muốn sống chung với cộng sản nên đã quyết định bung chốt lựu đạn cùng nhau đi vào cõi chết. Nam nói họ đúng là những con người đầy nghĩa khí, bất khuất không muốn đầu hàng quân địch. Toán bộ đội gác cửa chạy vào, mắng chửi những anh em còn lại và xô đẩy tất cả mọi người ra ngoài để lục soát, truy tìm vũ khí. Từ đó phòng nào cũng có một bộ đội đứng gác và thúc dục những người còn lại thu dọn đồ ra đi.

Nam cũng cho tôi biết ca sĩ Vân Sơn đã tự sát. Trước đó tôi đã có nghe nhiều tin đồn về anh, mỗi người thêu dệt một cách, có người nói lộn cả tên anh. Thực là ca sĩ Vân Sơn trong ban nhạc AVT đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự vẫn. Ban nhạc AVT gồm có ba người là Vân Sơn, Tuấn Đăng, Lữ Liên, đó là ban tam ca nổi tiếng về những ca khúc châm biếm sâu sắc nhẹ nhàng.

Sau vài ngày ở chơi với tôi, Nam và đứa con trai giã từ tôi về lại quê cũ sống nhờ người chị thứ ba chờ thời. Đời sống vùng quê Nam lúc ấy còn thấp kém lắm. Tất cả ruộng rẫy đều phải vào hợp tác xã, làm ăn tập thể chứ không được làm cá nhân. Gia đình chị Ba của Nam cũng như bao gia đình nghèo khó khác lâm vào hoàn cảnh khó khăn, phải ăn độn. Cả nhà làm quần quật suốt ngày mới có miếng ăn. Nam cảm thấy không khí ở đây ngột ngất khó chịu vô cùng. Mặc dù là người tàn tật, Nam vẫn không được chính quyền cho mua gạo giá chính thức, phải mua gạo giá chợ đen. Biết ở nơi này khó sống, không thích hợp với hoàn cảnh của mình, Nam xin phép chị dẫn con trở về thành phố sinh sống.

Ban đầu Nam có ý định đi lậu vé để đỡ tốn tiền, bớt đồng nào hay đồng nấy. Trong túi Nam chỉ còn chút ít tiền, không đủ chi dụng khi vào đến Sài Gòn. Hàng ngày, thằng con nhỏ dẫn Nam đi xin ăn từ làng này sang làng nọ dọc theo quốc lộ. Cứ như thế, ban ngày đi ăn xin, chiều về hai cha con kiếm các sạp chợ, hoặc các hàng hiên tạm ngủ qua đêm. Đi đường mệt nhọc, Nam dừng lại ở một vùng nào đó để nghỉ ngơi, có khi kéo dài khoảng một tuần lễ, vì vậy ròng rã hơn cả hai tháng Nam cùng con mới về đến Sài Gòn.

Trở về căn nhà cũ ở làng phế binh, bộ đội gác cửa đuổi hai cha con đi. Nam sực nhớ tới một người bạn ở một xóm nhỏ trong khu ổ chuột gần cầu Chữ Y, quận 8. Gặp lại bạn cũ, gia đình anh vui vẻ chia sẻ với Nam căn nhà chật hẹp. Đời sống dân chúng ngày càng khó khăn, một số dân trong xóm đã đi vùng kinh tế mới, những người còn lại sống khắc khoải trong cảnh nghèo khó, ngày hai bữa ăn độn bobo. Mặc dù thiếu thốn, tinh thần đùm bọc chòm xóm vẫn còn mặn mà.

Với thân phận mù lòa và đứa con còn nhỏ dại, Nam phải làm nghề gì đây để mưu cầu cuộc sống, trong khi đó ngoài xã hội biết bao nhiêu người lành lặn kiếm việc không ra. Tiền cấp đưỡng phế binh đã bị cúp từ lâu, Nam đành chấp nhận số kiếp ăn xin. Mỗi lần đi xin là mỗi lần tủi hổ, sáng sáng hai cha con lê lết từ quận này sang quận nọ, từ ngày này sang tháng nọ, van xin người dưng bố thí. Ròng rã hơn mười năm đi ăn xin cùng với cha, vui buồn lẫn lộn có nhau, thằng con Nam nay đã lớn. Tội nghiệp cho nó, vừa mới ra đời chưa được bao lâu thì bị mẹ bỏ rơi, cha thì tàn phế. Đáng lẽ nó phải được hưởng sự hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò, hăng hái chạy nhảy tung tăng vui đùa cùng chúng bạn bè đồng trang lứa, nhưng nó không có may mắn đó. Tuổi thơ của nó chỉ biết nghèo hèn và tủi nhục, cuộc đời trẻ thơ đã sớm trải qua gió bụi phong trần, chưa bao giờ biết đến mộng mơ. Cũng chính nhờ đó đứa con của Nam đã hiểu cuộc đời sớm hơn những đứa trẻ cùng trang lứa.

Thấy con nhiều lần biết ngập ngừng trong lời ăn tiếng nói khi gặp người quen thấy nó dẫn cha đi ăn xin, Nam biết con mình đã lớn. Không thể dẫn con đi theo mình như vậy được nữa, chỉ làm cho nó thêm mặc cảm, Nam gởi con vào nhà người anh họ, nhờ giúp tìm cho nó học một nghề để tự lập tiến thân. Hàng ngày Nam dong ruỗi một mình, cầm gậy đi qua các đường phố rao bán vé số để dành tiền cho con học nghề. Nam chỉ mong sao cho tương lai của con được tốt đẹp vinh hiển để bù đắp những ngày thơ ấu, xa mẹ, thiếu thốn và khổ nhọc, và nhất là không phải sống tủi nhục như cha nó.

Về phần tôi, hơn hai năm qua vì mãi bận rộn với miếng cơm manh áo, tôi chưa có dịp vào thăm anh Nhứt Mù, nhà ở Thủ Đức cách nơi tôi ở không xa. Một ngày nọ nắng trời dịu xuống, tôi rủ thằng bạn cùng vào thăm anh Nhứt Mù. Anh Nhứt là bạn thân của Nam cùng nằm chung phòng trong bệnh viện ở miền Trung và cũng là chỗ thân quen với tôi từ nhiều năm qua. Trong lần từ giã trước biến cố 30/4/1975, Nam chí tình dặn bảo tôi thỉnh thoảng phải tới thăm anh Nhứt cùng gia đình, nếu giúp được gì thì cứ giúp, đời sống gia đình anh rất khó khăn. Đón xe Lam tới nhà anh, chúng tôi mất hơn nửa tiếng. Tới đầu con xóm nhỏ hỏi thăm gia đình anh Nhứt Mù ai cũng biết. Nhà của anh cách nghĩa địa không xa bao nhiêu, đứng ngoài đường cái nhìn vào những chòm mả thấy được căn nhà của anh thấp thoáng sau mấy hàng cây khuynh diệp.

Đường đi vào nhà anh Nhứt Mù quanh co, gập ghềnh mô đất và ổ gà. Vào những ngày trời mưa, đường đi càng trơn trợt, lầy lội và bùn sình. Chúng tôi đi lần vào tới trước nhà, cỏ mọc hoang dại, tràn lan ở phía ngoài sân vì không có ai phát cỏ. Căn nhà của anh Nhứt từ lâu lắm rồi không được tu sửa nên có phần xiêu vẹo. Vách nhà bằng lá đã mục nát, mấy miếng nẹp cây cột bị lệch lạc vì sút dây kẽm. Mái nhà lợp bằng tôn thiếc, nhiều tấm đã rỉ sét, có tấm lũng lỗ chỗ. Mỗi khi trời mưa, căn nhà bị ngập ướt nước. Nhà anh Nhứt bây giờ trống trước trống sau, không có tủ thờ, bàn ghế và bộ ván ngựa như năm xưa. Anh đã bán lần hồi những đồ đạc có giá để lấy tiền mua gạo nuôi đàn con thơ dại. Hai ba chiếc ghế sút gọng, gãy chân được chấp vá bằng mảnh cây tạp nhạp, đặt dựa vách nhà. Một cái giường cũ kỹ, giát giường kêu cọt kẹt lúc lắc mỗi khi ngồi lên, được để nằm sát cửa sổ, đây là nơi duy nhất để đón tiếp khách, bè bạn. Ngoài ra căn nhà không còn một vật dụng gì nữa. Đỡ một chút là nền nhà được tô láng bằng xi-măng, tối đến cả nhà trải chiếu trên nền nằm lăn ra ngủ.

Anh Nhứt là lính Sư Đoàn 25 Bộ Binh, bị mù hai mắt vì mảnh đạn B40. Sau khi giải ngũ, anh được chính phủ cấp dưỡng chu đáo, về sau có người bà con cảm thương tình cảnh bảo anh về đây cất nhà mà ở thay vì vào làng phế binh. Từ đó gia đình anh về trong căn nhà vách lá, mái tôn trong mảnh đất đầy ao vũng. Dân cư trong xóm lúc đó còn thưa thớt, nhà ở cách khoảng, mọi người đều thương mến gia đình anh vì anh ăn ở hết lòng với họ. Anh Nhứt trước khi bị trọng thương có ba đứa con được sinh ra trong một trại gia binh, khi giải ngũ về xóm này ở thì sinh thêm ba đứa khác, như vậy anh có cả thảy sáu đứa con.

Nghe tiếng tôi gọi oang oang ngoài cửa, anh Nhứt lăng xăng bước ra ngoài cửa mà không cần ai dẫn dắt, y như một người sáng mắt. Anh mừng rỡ, nói năng liền miệng, tay dẫn tôi vào nhà, sai con nấu nước rồi tự tay pha trà, rót ra chén một cách thành thạo, vừa đủ không tràn nước. Bạn tôi khẽ mỉm cười rồi ngó tôi gật đầu tỏ ý thán phục. Anh Nhứt nói từ lâu không có ai vô thăm nên có hơi buồn, nay có chúng tôi đến lòng anh vui lắm, quyết giữ chúng tôi ở lại chơi thật lâu không cho về sớm. Nét mặt anh rạng rỡ, cười nói nhiều hơn mọi ngày.

Mái tóc anh Nhứt Mù đã trỗ màu muối tiêu, gương mặt anh sạm đen vì nắng gió, vầng trán in hằn nhiều nếp nhăn, cuộc đời khổ cực lam lũ đã làm anh già trước tuổi. Từ bao năm qua anh không đầu hàng hoàn cảnh, đã làm đủ mọi việc để có tiền nuôi sống vợ con, mặc dù bản thân bị mù lòa. Anh vói lấy cái túi để sẵn trên đầu giường, bóc mở mấy lớp bao ny lông, đưa cho tôi cuộn giấy mà anh cất giữ. Anh cầm khoe với tôi xấp giấy màu trắng đục bằng giọng tự hào : "Nè, coi đi. Giấy tờ chứng thương của tui vẫn còn nguyên đây nè". Anh kể có lần chính quyền xã bảo anh là lính chế độ ngụy phải nộp tất cả giấy tờ liên hệ, anh khước từ khéo léo và lờ đi nên bây giờ mới còn đầy đủ giấy tờ : nào là giấy giải ngũ, giấy cáo tri, giấy khen thưởng, bằng Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng, anh còn giữ cả sổ cấp dưỡng phế binh nữa. Tôi có biết một số anh ở những vùng xa đã bị bắt buộc nộp các loại giấy tờ lính tráng, phế binh ngày xưa và tất cả đã bị thiêu hủy.

Anh Nhứt bùi ngùi kể lại cuộc đời của anh, về những năm tháng nhọc nhằn lao khổ trong chế độ mới cho chúng tôi nghe. Vào những ngày mùng một và ngày rằm, anh được một anh bạn tốt bụng hướng dẫn anh cùng thằng con nhỏ đến trước các cổng chùa, cổng đình bày nhang đèn để bán cho khách thập phương vào chiêm bái. Những ngày còn lại thì anh đi tha phương cầu thực, hay cùng một số anh em mang bao nhang đèn trên vai đến từng nhà ở các làng, các quận mời mọc người mua ủng hộ. Đi như vậy chừng vài ba hôm anh mới về nhà. Có những hôm đi mỏi cả chân, bán chưa được đồng nào, bụng thì đói các anh đánh liều vào chùa xin cơm lạt mà ăn. Anh Nhứt đi bán nhang như vậy đã hơn ba năm.

Vợ anh Nhứt cũng bận rộn suốt ngày, buổi chiều lội xuống ao cắt rau muống mướn để sáng sớm hôm sau chị gánh rau muống đi bán dạo dọc đường. Vợ chồng anh cần cù bận rộn suốt ngày mới đủ tiền nuôi đàn con còn thơ dại. Con cái anh Nhứt chẳng có đứa nào được đi đến trường, đến lớp học hành như con người khác. Hai đứa lớn chỉ cắp sách đến lớp hai thì đã ngưng học ở nhà phụ giúp mẹ cha. Vợ chồng anh bận suốt ngày nên giao cho đứa con gái kế trông chừng các em nhỏ. Mãi mê lo chụm lửa nấu cơm, nó quên phứt đứa em út. Thằng nhỏ này chạy ra nhà sân để lén chị đi chơi, chẳng may té nhào xuống ao mà không ai hay biết. Đến lúc chợt nhớ đến em, đứa con gái chạy đi tìm khắp nơi không thấy, mới tri hô lên cho mọi người hàng xóm biết. Được tin, có vài người vội vàng lội xuống ao gần nhà, mò một hồi mới vớt được đứa nhỏ đem lên bờ, mặt mày nhợt nhạt, nó đã tắt thở từ lâu. Buồn vì đứa con trai ba tuổi mà anh thương nhất đã chết, anh Nhứt nghĩ ở nhà cả tuần lễ, suốt ngày thơ thẩn buồn nhớ đứa con. Thấy vậy bạn bè rủ anh đi buôn củi.

Lúc đó thành phố đang khan hiếm củi, than, chất đốt, đi buôn củi dễ kiếm lời. Thế là anh đi buôn củi. Sáng sớm anh đi cùng thằng con lớn đi ra ga xe lửa Thủ Đức chờ đón chuyến xe lửa địa phương và không quên mang theo hai bình dầu hôi khoảng ba, bốn chục lít làm hàng trao đổi. Từng bó củi, từng thước củi được bày bán khắp nơi dọc các ga xe lửa. Đến các ga Xuân Lộc và Trảng Bom, hai cha con xuống xe đi dọ hỏi, ngã giá củi xong, cha con anh bỏ củi vào bao bố rồi vác ra ngồi chờ cách ga xe lửa độ vài trăm mét, khi xe lửa bắt đầu khởi hành hai cha con cùng nhiều người khác vội vàng quăng hàng và nhảy lên toa xe. Lượt đi đem bán dầu hôi, lượt về đem củi bán cho bọn đầu mối, như vậy lợi cả hai đầu. Bảy tám tháng trời đi buôn củi kiếm được chút đỉnh tiền, anh Nhứt được hai người bạn rủ đi buôn khô mực, cá khô ở Bình Tuy. Khô mực, cá khô bán có lời nhiều hơn củi, nhưng cũng đòi hỏi một số vốn lớn. Thấy có lời nhiều, anh Nhứt cũng ham nhưng anh không có vốn nhiều nên đóng vai người chở hàng. Bạn anh đi xuống tận chợ La Gì, lựa mua khô mực, cá khô, bỏ vô túi xách, hoặc bao cát nhỏ, cột chặt cẩn thận để đeo trên vai. Bận về bạn anh luồn lách tránh né, đi theo con đường tắt để tránh kiểm soát kinh tế, công an. Khi ấy khô mực, cá khô còn là mặt hàng quốc cấm, nên bị bắt hàng sẽ bị tịch thâu tức khắc và còn bị làm khó dễ. Tránh được các chốt kiểm tra, bạn anh đi về phía nhà dân cạnh sân ga, nơi đã có anh Nhứt chực sẵn trong nhà một người quen. Sau đó hai người men theo con đường tắt vào sân ga, mua vé chợ đen của một viên kiểm soát xe lửa rồi lên toa.

Khi xe lửa chạy chầm chậm về gần tới ga Sóng Thần, Thủ Đức, đây là thời điểm để những người đi buôn tuông hàng xuống. Sau khi quăng xong các bao khô mực, cá khô xuống đường, bạn anh ôm xốc một bên vai anh Nhứt rồi cả hai cùng nhảy một lượt xuống bãi cỏ ở đường rày trong lúc xe vẫn còn chạy thật chậm. Có lần cả hai nhảy xuống xe an toàn êm thấm, cũng có lúc lật đật nhảy xuống đụng nhầm đá xanh làm hai anh bị bong gân, trầy xước cả chân tay và mặt mũi.

Ba chuyến trôi qua êm thấm, kiếm lời cũng khá, hai anh hăng hái tính làm một chuyến nữa rồi nghỉ xả hơi. Chuyến đi lần sau cũng là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời đi buôn nhảy xe lửa của anh Nhứt Mù. Hôm đó, xe lửa đang từ hướng Dầu Giây chạy về Sài Gòn, bạn anh Nhứt được tin báo cho biết ga Sóng Thần bị động, công an lập nút chận kiểm soát một số nơi. Liền tức thì một số tay buôn ôm hàng nhảy xuống ga Trảng Bom trốn tránh. Anh Nhứt cùng bạn bàn tán và quyết định sẽ nhảy xuống ga Dĩ An. Nhưng xui cho hai anh, ga Dĩ An cũng đang bị công an bao vây kiểm soát, một chốt phục kích được thành lập vài trăm thước trước khi đoàn xe vào bến. Đoàn xe chay chậm lại, anh Nhứt và bạn cùng một số con buôn còn lại nhảy xuống bãi cỏ nhưng... lại rơi đúng ngay vào chốt phục kích. Tiếng hô "Đứng lại !" của toán công an phục kích làm mọi người chạy tán loạn, các bao hàng hóa bị vứt bỏ lung tung. Công an rượt nã, anh Nhứt cùng anh bạn bỏ hàng chạy thoát thân, cả hai hớt ha hớt hãi chạy vào những lùm cây hai bên đường trốn. Thế là mất hết cả chài lẫn chì, hai anh về lại Thủ Đức, hai bàn tay trắng.

Anh Nhứt buồn quá định nghỉ ở nhà chừng năm, mười ngày rồi tìm việc mới. Vợ anh Nhứt, người bạn đường chung thủy đã theo anh trong suốt tháng năm, chịu bao nỗi đắng cay nhọc nhằn, đã tắt thở trên tay anh Nhứt. Suốt cuộc đời, chị vợ anh Nhứt đã dày nắng dầm sương lo cho chồng, cho con có cơm ăn, áo mặc mà không một lời than van hay nghĩ đến thân mình. Chị đã chết có lẽ do suy dinh dưỡng và không có thuốc men chữa trị. Chị đã ngã bệnh trong lúc anh Nhứt chưa có việc làm, anh phải đi vay mượn tiền bạc khắp nơi, chạy chữa thuốc men cho chị nhưng cũng đành bất lực. Đau buồn tột độ, anh Nhứt như kẻ mất hồn, tối ngày cứ ngồi thơ thẩn than thân trách phận, làm sao nuôi năm đứa con còn nhỏ dại. Anh cứ bán lần hồi những đồ đạc có giá trong nhà. Giờ đây căn nhà của anh Nhứt Mù trống trơn. Mấy đứa con trai lớn ngày ngày đón xe lửa vào Sài Gòn lượm rác, bao ny lông giặt rửa lại cho sạch bán lại cho các vựa ve chai. Những đứa con gái vừa mới phải đi ở đợ cho những nhà khác để được nuôi ăn. Mỗi khi nghĩ tới số phận bạc bẽo của mình, anh Nhứt buồn muốn đứt ruột, anh không còn nước mắt để khóc nữa.

* * *

- Chán quá, cuộc đời này ôi thật là đáng chán ! Nam ngẫn mặt lên trời thở dài. Cuộc đời của anh chỉ toàn màu đen tối.

- Thôi, tụi mình đi nghỉ đi Nam - tôi nhìn bạn lòng đầy phiền muộn.

Đêm đã gần tàn, tiếng gà xóm trên đang rộn tiếng gáy. Hai chúng tôi đi vào nhà trong cảnh tối tăm. Ngày hôm đó tôi mơ thấy một bình minh tươi sáng cho mọi người, trong đó có chúng tôi. Chúng tôi muốn thấy cuộc đời không còn những người phải sống trong nỗi đau thương chồng chất.

Chúng tôi không còn nước mắt để khóc.

Nguyễn Văn Huy (1999)

Viết lại theo lời kể của Bùi Anh Sáu

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy, Phan Minh Hiển
Published in Tư liệu

30/04/1975 : Những nữ tu âm thầm tìm "mộ tình thương" của tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa

Bùi Thư, BBC, 01/05/2020

Suốt gần 20 năm qua, có những phụ nữ Công giáo đã âm thầm tìm kiếm hài cốt quân nhân Việt Nam Cộng Hòa từ các nghĩa trang hoang phế để đưa về an táng giữa một nơi chốn thanh bình.

tpb1

Hài cốt lính Việt Nam Cộng Hòa được chuyển về nghĩa trang mới

Cuộc kiếm tìm hài cốt quân nhân Việt Nam Cộng Hòa không chỉ có người thân, cựu đồng đội thực hiện mà còn có những sự tham gia của những con người không phải bà con thân thuộc, ít có liên hệ với cuộc chiến từ gần nửa thế kỷ trước, nhưng đầy lòng vị tha, như các sơ ở mái ấm tình thương này.

Buổi sáng trước ngày 30/4, thị xã nhỏ ở tỉnh Bình Thuận trở lại nhộn nhịp sau khi chỉ thị cách ly xã hội chống dịch Covid-19 được nới lỏng.

Ở cổng chào đi vào thị xã, dòng chữ đỏ "Nhiệt liệt chào mừng ngày giải phóng Miền Nam…" bằng đèn LED đập vào mắt người đi đường. Trên phố, bên cạnh những khẩu hiệu kêu gọi phòng dịch là cờ và băng rôn nhắc nhớ lễ kỷ niệm "Ngày đại thắng".

Một góc lặng lẽ khác, các bà sơ, những người không thân thích đang chăm sóc những ngôi mộ màu xanh giữa nghĩa trang mênh mông. Đó là những mộ phần của lính Việt Nam Cộng Hòa, mộ được xây chỉn chu, có cắm nhiều hoa cúc vàng rực, khói nhang tỏa ra dưới ánh nắng mai thơm ngát.

20 năm đưa người về từ miền hoang phế

"Bạn nghĩ gì trong những ngày này ?", bà sơ là giám đốc một mái ấm tình thương ở thị xã hỏi khi tiếp chuyện phóng viên BBC News tiếng Việt qua điện thoại. Không chờ nghe câu trả lời từ phía này, bà đã nghẹn ngào : "Tôi thấy đau lòng lắm".

Bà kể rằng năm 1975, bà mới là nữ tu 20-21 tuổi, đến giờ vẫn không quên cuộc vật đổi sao dời.

tpb2

Bà sơ giữa những "mộ tình thương" ở Bình Thuận

"Các ngài chết trong chiến trận, rồi thời cuộc đổi thay, mộ phần trở nên hoang phế. Tôi cùng các sơ ở đây quy tập về, khâm liệm tươm tất, mồ mả đàng hoàng. Các ngài không phải người thân của các sơ nhưng các sơ mong muốn đưa các ngài về để chăm sóc. Nhìn cảnh hoang tàn thấy đau lòng lắm, nên tìm mọi cách để đưa về cho các ngài được ấm cúng", bà chia sẻ về công việc thầm lặng nhưng gian khó hiện tại.

Chuyện bắt đầu từ năm 2000, khi bà cùng các sơ tại mái ấm tình thương quy tập các mộ phần vô danh hoặc những ngôi mộ không có người chăm sóc, trẻ sơ sinh tử vong về chôn cất trong khu nghĩa trang. Đến năm 2003, bà phát hiện các khu nghĩa trang hoang phế của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và một hành trình mới bắt đầu.

"Xung quanh đây có những nghĩa trang cũ chôn cất quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đến đó, thấy mồ mả hoang lạnh. Có những nơi xói lở hoặc bị đào bới khiến xương cốt lộ ra, rất xót xa. Có nơi người ta lập các dự án bất động sản, hạ tầng giao thông trên nền các nghĩa trang đó. Tôi làm đơn xin chính quyền cho phép đưa các ngài về an táng", bà kể.

tpb3

Những nấm mộ trong nghĩa trang hoang tàn đang được quy hoạch thành dự án bất động sản ở Bình Thuận

Với sự cho phép của chính quyền, bà cùng các sơ và các em bé được nuôi dạy ở trung tâm liền tổ chức đi cải táng. Công việc được thực hiện với sự giám sát của cán bộ địa phương.

"Có nhiều lúc không tìm được hài cốt, phải nhờ nhà ngoại cảm", bà kể. "Mồ mả từ nửa thế kỷ trước, rồi chiến tranh bom đạn, rồi các hoạt động của con người, bây giờ đâu còn giữ nguyên hiện trạng. Không phải tới đó là có thể xác định được ngay".

"Khi đưa về, chúng tôi tổ chức lễ tang, tưởng niệm như đối với người thân của mình. Những người vị quốc vong thân, có người chết từ tận năm 1960, tính ra đã hơn nửa thế kỷ. Đưa các ngài về là điều mà mỗi một người chúng tôi nên làm", bà sơ nói. "Tất nhiên là chỉ có các sơ và đám trẻ ở đây thì không làm được, phải có sự hỗ trợ, giúp sức của nhiều ân nhân. Chẳng hạn để thực hiện việc đào cốt, vận chuyển, rồi xây mộ mới,… rất nhiều chi phí và công sức phải bỏ ra".

"Ở đây luôn có khói nhang, có hoa và người thăm viếng", bà nói khi đứng giữa những ngôi mộ màu xanh được đặt tên là "mộ tình thương". Đa phần "mộ tình thương" là của tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, có hàng trăm ngôi mộ như vậy được cải táng về đây. Một số khác là mộ những người không bà con thân thích, chết trong thời loạn lạc chiến tranh và cả sau này.

tpb4

Người dân tưởng niệm tại nghĩa trang bị bỏ hoang trước khi thực hiện cải táng

Phía trước các "mộ tình thương" của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa thường có kèm chữ viết tắt biểu thị nghĩa trang mà họ được táng trước khi đưa về đây, như BA là viết tắt của "Bảo An", vốn là nghĩa trang dành cho lính Bảo an.

"Đa phần lính Bảo an dưới đây khi đi đánh trận, chủ quan, cứ mặc nhiên nghĩ đánh xong rồi về nên không mang thẻ bài theo. Sau chết thì không xác định được, trở thành vô danh", bà giải thích, đoạn nói thêm. "Chúng tôi làm bia đề tên phía sau mộ, không làm phía trước để tránh bị chú ý".

Thỉnh thoảng có người thân ghé đến thăm, họ nhang khói, cầu khấn rồi gửi lại tiền nhưng các sơ không nhận. "Khi chúng tôi cải táng một ngôi mộ lính Việt Nam Cộng Hòa, thấy có rễ cây đi xuyên qua đầu", bà kể. "Sau vài ngày thì con trai người đó vào thăm, cậu ta kể đêm nào cũng nằm mơ thấy cha mình bị ai đó đâm xuyên qua đầu, chỉ mới hết cách đây vài hôm. Thế là cậu ta đi kiếm, rốt cuộc đã gặp chúng tôi và tìm được mộ của cha cậu ấy".

"Chúng tôi không lấy tiền của các gia đình nghèo, dù rất cần nguồn tài trợ để tiếp tục công việc", bà chia sẻ. "Có ông ấy từ Canada về tìm được người thân, sau đó tài trợ cho trung tâm để thực hiện tiếp việc cải táng. Chỉ có các bà sơ và trẻ con thì đâu có thể làm được".

Bà cho biết còn rất nhiều việc phải làm, vì trong vùng còn có nhiều nghĩa trang bỏ hoang, chẳng hạn gần thành phố Phan Thiết và trong Long Điền có những nghĩa trang cũ nằm trong các dự án bất động sản, đang được cắm cọc, phân lô.

tpb5

Hài cốt của các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa được chuyển lên xe để về nghĩa trang mới

Những con người đã ra đi trong "cuộc chiến 10.000 ngày", họ chết trong bom đạn, trong khói súng. Sau khi được các sơ và người thân tìm kiếm hài cốt, họ mới thực sự được an nghỉ. Họ nằm bên nhau, bốn bề cây cối, núi đồi chở che. Những ân oán của cõi dương gian không còn quấy rầy họ.

"Tôi mong một ngày mồ mả của các ngài hết cảnh hoang phế, điêu tàn và được phép mang các ngài về đây trước khi người ta san ủi. Nhìn mồ mả hoang tàn, không ai thắp cho một nén nhang, rất đau lòng", bà nói.

"Vì đâu hận thù vẫn còn ở lại ?"

Chiến tranh Việt Nam, một trong những cuộc chiến tranh thảm khốc nhất thế kỷ XX, để lại mất mát cho tất cả các bên. Quân nhân tử trận, dù là của Việt Nam cộng sản, Việt Nam Cộng Hòa hay Mỹ thì đều còn rất nhiều người mất tích, nằm lại nơi rừng sâu, hoặc dưới những ngôi mộ vô danh.

Tuy nhiên, trong khi hai nhóm kia được các nhà nước tổ chức kiếm tìm với nguồn tài lực, vật lực, công nghệ đồ sộ thì những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận, ở về phía bên thua cuộc và chính thể mà họ phụng sự không còn nữa, bị đẩy ra bên lề của các mối quan tâm dòng chính.

Các cuộc tìm kiếm hài cốt lính Việt Nam Cộng Hòa hoặc quy tập, sửa sang mộ phần ở các nghĩa trang bị bỏ hoang thường được tiến hành trong thầm lặng, lễ tưởng niệm được tổ chức kín đáo, tránh sự để ý của chính quyền.

tpb6

Hài cốt của lính Việt Nam Cộng Hòa được đưa về để chuẩn bị an táng tại nghĩa trang mới

Cho đến hôm nay, 45 năm đã trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, những nỗi lo sợ vẫn còn ám ảnh nhiều quân nhân, người thân trong hành trình tìm kiếm hài cốt. Rất nhiều nỗ lực tiếp cận của BBC News tiếng Việt đã bất thành do nhân vật lo ngại gặp phiền phức.

Có rất nhiều những uẩn ức, những nỗi niềm trong các cuộc kiếm tìm. Bà sơ ở Bình Thuận đã khóc khi nói về thân phận những người lính trong các mộ phần ở nghĩa trang bị bỏ hoang. "Các ngài có người chết từ năm 1960, có người chết sau đó. Hơn nửa thế kỷ rồi, phải có ai chăm sóc chứ", bà chia sẻ.

Năm 2007, nhà thơ Linh Phương, người từng được biết đến với bài thơ "Để trả lời một câu hỏi" được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát "Kỷ vật cho em" rất nổi tiếng, đã viết những dòng đầy day dứt :

Những người lính Bắc Việt chết - đều được trở về nhà

Những người lính Mỹ chết - đều được trở về Tổ quốc

Những người lính Việt Nam Cộng Hòa chết - vẫn còn nằm nơi rừng thiêng- nước độc

Trong cuộc trò chuyện với BBC News tiếng Việt hôm 28/4, nhà thơ Linh Phương, cũng là một cựu thủy quân lục chiến, chia sẻ : "Cho đến bây giờ, tôi vẫn rất đau xót khi nghĩ về chuyện đó, nghĩ về những đồng đội chưa trở về dù chỉ là nắm xương khô. Đau xót, buồn tủi lắm".

Sau 45 năm, nước mắt của ông vẫn đầy qua điện thoại khi nói về thân phận của các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa : "Sau chiến tranh, tôi phải đi cải tạo, rồi đi lang bạt khắp các tỉnh thành để kiếm sống, không có điều kiện gặp lại đồng đội còn sống, cũng không thể cùng anh em đi tìm kiếm những người đã tử trận. Tôi làm bài thơ này là trong niềm tâm sự đó, chứ không phải về một trường hợp cụ thể nào", ông ngậm ngùi kể về chặng đời buồn tủi của chính ông cũng như thân phận của các đồng đội.

Các nghĩa trang cũ của Việt Nam Cộng Hòa vốn là đề tài "nhạy cảm" tại Việt Nam sau năm 1975. Tại Đồng Nai, Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa trước đây đã được chính quyền mới đổi tên thành Nghĩa trang nhân dân Bình An. Như một cử chỉ biểu thị thiện chí hòa giải, từng có quan chức Việt Nam tới viếng nghĩa trang này.

Nhưng những ngôi mộ bị bỏ hoang nằm phơi dưới nắng, những người cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa là hiện thân bi kịch của một cuộc chiến tưởng chừng như đã trôi vào quá khứ xa lắc. Nhưng thực ra, vết thương của nó vẫn hiện diện trong mọi ngõ ngách, trên từng phận người và trên bình diện quốc gia.

tpb7

Mộ tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa được cải táng ở Bình Thuận

Một vết chém xẻ ngang mình đất nước, cắt chia những con người Việt Nam, đẩy họ đứng về những chiến tuyến khác nhau. Để rồi, suốt 45 năm sau khi tiếng súng ngưng bặt, người ta vẫn còn ngại nhau, e dè nhau, nghi kị nhau.

Bài thơ "Tôi xin được hỏi đồng bào của tôi" của nhà thơ Linh Phương kết thúc bằng câu hỏi tu từ :

"Ba mươi hai năm cuộc chiến trôi qua

Vì đâu hận thù vẫn còn ở lại ?"

Câu hỏi của ông từ 13 năm trước, đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời, cũng như số phận các đồng đội ông vẫn còn nơi rừng thiêng nước độc, 45 năm sau khi cuộc chiến trôi qua.

***********************

Thương binh Việt Nam Cộng Hòa : ‘chạnh lòng’ ngày 30/4, ‘khốn đốn’ vì Covid-19

VOA, 01/05/2020

Các thương phế binh ca Việt Nam Cộng Hòa nm trong nhóm người d b tn thương nht vì dch bnh Covid-19 Vit Nam trong khi h gn như đã b gt ra bên l s phát trin ca đt nước tròn 45 năm sau ngày hai min được thng nht, theo tìm hiu ca VOA.

tpb8

Nghĩa trang của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tnh Bình Dương

Việt Nam va ra khi ba tun cách ly xã hi k t ngày 1/4 đ chng dch Covid-19 và k nim ngày ‘Gii phóng Min Nam, thng nht đt nước’ theo cách gi ca chính quyn trong nước vào ngày 30/4.

Trong khi đó, các thương phế binh ca min Nam trước đây, vn b tt nguyn, mt sc lao đng và phi làm các công vic như bán vé s, đi bán do hay lượm ve chai, đang phi vt ln vì mt kế sinh nhai trong mùa dch.

‘Tủi thân’

Ông Trần Văn T, 69 tui, hin đang thuê tr đường Tôn Tht Thuyết, Qun 4, thành ph H Chí Minh, là mt trong s đó. Hin ông đang đy xe bán bánh tiêu do đ kiếm tin sng qua ngày. Trước năm 1975, ông T thuc Sư đoàn 18 B binh, Trung đoàn 48, Tiu đoàn 1 ca Quân lc Việt Nam Cộng Hòa. Đôi chân ông trúng đn b thương hi năm 1973 trong một trn đánh Cm M, Long Khánh, ông nói vi VOA.

"Ngày 30/4 đối vi tôi là mt ngày bun – ngày bun ca các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa", ông nói. "Thm chí tôi không đi bán, tôi nhà bun nguyên ngày".

"45 năm qua nhiều khi tôi cm thy ut c trong lòng : Ti sao mình đ máu, hy sinh mt phn thân th mà bây gi thành ra như vy", ông than th.

Ông Tỷ nói ông thường lên mng đ tìm li nhng ký c ngày xưa ca Quân lc Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có cuc diễn binh có s tham gia ca c Tng thng Nguyn Văn Thiu.

"Tôi coi trên mạng thy din hành ngày trước có tt c các binh chng, t thy quân lc chiến cho đến b binh. Tôi coi mà nước mt tôi chy. Ti sao nhng anh em mình ngày xưa oai phong lm lit mà giờ này tan rã hết trơn. Tôi đau không có cái gì mô t được", ông bày t vi VOA.

"Tại sao đn không bn trúng đu cho tôi chết luôn đi mà trúng ngay giò", ông nói thêm và khng đnh rng ‘l 30/4 (ca chính quyn) không liên can gì đến tôi’.

Theo lời ông thì do lệnh cách ly xã hi my tun nay ông nhà nên ‘không biết năm nay h có làm l ăn mng không’.

"Mấy ngày nay tôi cũng hơi ngc nhiên. Thường my năm trước còn chng na tháng đến 30/4 bt vô tuyến lên thy chiếu phim tài liu ca my ng không hà. Từ ngày có dch Covid-19 đến nay không thy chiếu gì hết mà cũng ít có ai nhc nh v 30/4", ông cho biết.

‘Cố gng gng gánh’

Về cuc sng ca v chng ông trong mùa dch bnh, ông cho biết là ‘khó khăn lm’. Ông nói mc dù có lnh cách ly xã hi, nhưng vẫn phi c đy xe đi bán bánh vì ‘không đi bán thì không có tin tr tin nhà’.

Ông cho biết thêm là ông đang n 2 tháng tin nhà, mi tháng trên 1 triu, trong khi my tun ri đi bán rt ế m vì ‘ai cũng trong nhà’.

"Hồi sm mơi v chng tôi ăn mì gói trừ cơm. Thnh thong cũng phi ăn bánh tiêu ế", ông nói. "Cũng thèm ăn món này món kia nhưng không dám mua vì s thâm vào tin tr tin nhà".

Theo lời ông T thì trước kia ông đi bán vé s nhưng ngh này đòi hi phi đi rt nhiu nên đôi chân ông ‘chịu không nổi’. Sau đó ông chuyn qua đy xe bánh tiêu đi bán – mc dù có thu nhp ít hơn nhưng chân ông đ đau hơn.

"Tôi đi bán từ 6g sáng, đi đến chng 12g trưa là v. Khi đó đui sc ri nên không đi bán ni na", ông nói thêm và cho biết v ông làm công nhân bên Quận 7 mi tháng được 4-5 triu nhưng do m đau nên phi ngh thường xuyên.

Ông nói đi bán mùa dịch ông cũng s dính bnh ‘nhưng vì miếng cơm manh áo nên mình phi liu gan’ và cho biết ông luôn luôn phi đeo khu trang khi đi bán.

Những khi xy ra chuyện đt xut như m đau thì ông T nói ‘ông vay mượn đu này đp đu kia ri mai mt đi bán ly tin tr li’ và rng ông ‘còn mnh đn dưới chân nhưng phi chu vì không có tin m’.

Về s giúp đ ca nhng người xung quanh, ông nói ‘hai v chng ông rất cô đc thành ph không có bà con, anh em, bn bè gì hết nên phi t thân mà sng’.

"Tôi và vợ tôi có đi nhà th Tin Lành. Bên đó h có cho 10 kg go, 1kg đường, chai du ăn", ông nói v s giúp đ ông nhn được trong mùa dch.

Còn về s giúp đ của chính quyền, ông T nói ông ‘không nhn được mt ht go hay mt đng bc nào. Nhng người có hoàn cnh cơ nh trong xóm ông ‘đu được t trưởng đến đưa giy biu ra phường nhn h tr’ nhưng người t trưởng đó ‘không kêu ông’.

"Cây ATM gạo tôi có nghe nói mà không biết ch nào. Tôi có nghe khách mua bánh nói là phi xếp hàng dài. Trong khi đó tôi bán bánh tiêu hng l tôi đy xe li đó xếp hàng ri xe bánh tiêu tôi đ đâu ? Nếu tôi ch thì ch biết chng nào trong lúc mình bán buôn như vy", ông bày t.

Tương t, nhng hàng quán phát cơm t thin ông nói ông cũng không đến được vì không th đng xếp hàng vi xe bánh tiêu.

"Ngay bữa bt đu cách ly có bà bán cà phê thy tôi ti nghip sao hng biết b cho tôi được 10 gói mì. Tôi nhn được tôi mng lm", ông kể.

Ông nói hy vọng ln nht gi đây là chương trình tr giúp ca nhà th Dòng Chúa Cứu Thế mà ông đã tng được tham d mt ln chương trình ‘Tri ân thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa’. Tuy nhiên, ông nói ông b ‘thit thòi’ vì biết được chương trình tr giúp của nhà th này ‘quá mun’ nh vào mt người đi đường nói cho ông biết. Do đó, ông ch ‘hưởng được s tri ân mt ln duy nht t hi 1975 đến gi’.

"Tới gi tôi biết nhà th Dòng Chúa Cứu Thế, ch phòng Công lý-Hòa bình (cũ) đã b di đi hết", ông than thở.

‘Bị nhòm ngó’

Ông Tỷ nói mc dù ông không b chính quyn đa phương làm khó d gì trong cuc sng nhưng ‘hàng xóm thì hay đ ý’ vì biết ông là người ca chế đ cũ.

"Hôm trước vui ming tôi khoe mình được hưởng chương trình tri ân ca nhà th, có người nói ‘ông coi chừng có ngày công an làm vic vi ông này kia’", ông k và cho biết ông đi đâu ‘cũng b đ ý.’

"Họ ám ch tôi là thương phế binh ch ch cơ hi biu tình đ quy ri trt t", ông nói thêm.

Hoài niệm v thi kỳ ca Việt Nam Cộng Hòa, ông T k ngày xưa ông vn là ‘Vit kiu Campuchia được chính quyn min Nam cho tàu qua rước v vào năm 1970 sau khi chính quyn Lon Nol đàn áp và giết hi người Vit’. Khi đó, c gia đình ông được chính quyn cấp nhà, nuôi ăn, cung cp thuc men trong 18 tháng. Vì l đó mà c nhà ông đu tham gia quân lc Việt Nam Cộng Hòa, ông cho biết.

"Tôi không bao giờ quên được thi kỳ đó. Đến ngày tôi đi lính cũng vy. Tôi ăn cơm ca nhà binh, sng nh lương ca quân lc Việt Nam Cộng Hòa", ông nói thêm.

"Những năm qua tôi bt đin thoi lên thăm chng hoài đ coi hi ngoi mình có gi được quân lc Việt Nam Cộng Hòa đến đâu đ mình thy mình mng", ông chia s.

Khi được hi so sánh cuc sng bây gi vi trước kia, ông Tỷ nói : "Hi đó có chiến tranh, nhà nước (Việt Nam Cộng Hòa) không my lo cho dân đy đ. Bây gi không có chiến tranh, nhà nước cũng có điu kin lo cho người nghèo, người tàn tt. Nhưng không phi ai cũng được".

"Sài Gòn bây giờ phn hoa hơn ngày xưa nhưng cũng có nhiều giai cp lm", ông cho biết. "Có người có vn, có kh năng, có thân thích người ta làm giàu. Nhưng cũng có nhiu người tha phương cu thc làm đ th vic như ph h, bán vé s, chy xe ôm".

‘Ngày đau buồn’

Từ Giáo x Thng Nht thuc xã Phú Cường, huyn Đnh Quán, tnh Đng Nai, ông Nguyn Ngc Tt, 68 tui, nguyên là lính thy quân lc chiến, nói vi VOA rng ngày 30/4 ‘gi cho ông nhiu đau bun’.

"Đã 45 năm rồi, ngày này đi vi tôi vn là ngày mình b mt nước – ngày đau bun", ông thổ lộ. "Còn người dân đâu có biết gì, h vn vui v ăn nhu vi nhau vào ngày này".

Cũng giống như ông T, ông Tt nói ông bun vì ‘ngày xưa mt thi oanh oanh lit lit mà bây gi phi lâm cnh ng như vy’.

Tuy nhiên, ông Tốt, người tng tham gia các chiến trường min Tây, H Lào ri Khe Sanh Qung Tr vào năm 1972 và có mnh pháo trong đu, nói do năm nay trong nước không t chc rình rang ăn mng ngày 30/4 nên ông cũng cm thy ‘bt chnh lòng’.

Ông cho biết ông ‘có cm giác mc cm’ khi có người vn gọi ông là ‘ngụy quân, ngy quyn’. "Nhưng tôi nói đt nước đã thng nht ri thì không có ngy quân, ngy quyn gì hết vì tt c đã là anh em mt nhà", ông nói.

Hiện ti ông Tt đi bán vé s kiếm sng. Tuy nhiên, do nhng ngày cách ly xã hi, vé s b ngưng bán, ông phải nhà ‘sng cm hơi’.

"Tôi không đi bán được, nhà có go vi nước tương nu ăn", ông nói và cho biết c v và người con trai ca ông đu bnh tt.

Ông cho biết khi chính quyn có chính sách h tr nhng h khó khăn vì dch bnh, trưởng p i ông có ‘đến nhà cho phiếu biu ra xã lãnh đ’. Khi đó, ông được cho ‘thùng mì gói, chc ký go, nước tương, bt ngt, đường, du ăn’.

Ngoài ra, những người dân xung quanh ‘cũng cho go, cho đ ăn, lâu lâu có người cho 100, 200 ngàn đng’.

"Coi như gạo trong gia đình ăn có bao nhiêu đâu. Cô bác người ta cho đ ăn, ngoài ch người ta kêu cho cá, mm các th", ông nói.

Những lúc đi khám bnh không có tin ông nói ‘có khi phi mượn li xóm nhưng có khi người ta không cho mượn mà cho luôn’.

Cũng giống như ông Tỷ, ông Tt cũng có xung nhà th Dòng Chúa Cứu Thế đ nhn quà Tết và ‘khám bnh t thin’.

Hiện ông Tt đang nhà tình thương do y ban xã cp cho nhng h nghèo. Ông k rng chính quyn xung thy nhà ông nghèo, mun sp nên mi đưa ông vô danh sách được cp nhà tình thương.

Theo lời ông thì mc dù vé s đã được phép bán li t ngày 29/4, nhưng ông đi đến sau l mi đi bán li vì ‘my ngày l không có khách nhiu’.

Ông cho biết đi bán vé s trong mùa dch ông cũng ‘rt lo’ vì ‘l mà dính bnh mt cái là thua luôn’.

Trong lúc chính quyền Vit Nam dn sc chng dch đ làm nên ‘Chiến thng mùa Xuân mi’, ông Tt nói rng ông s ‘mng’ nếu Vit Nam đy lui được dch bnh.

Published in Diễn đàn

Khi chúng ta tuyệt vọng

Tuấn Khanh, RFA, 17/05/2019

Một người bạn của tôi kể rằng anh ấy hụt hẩng kinh khủng khi trãi qua đại lễ Vesak 2019 của Liên Hợp Quốc tổ chức tại Việt Nam. Thậm chí, có cái gì đó giống như là tuyệt vọng trỗi lên, khi anh thấy trên truyền hình, trên báo chí trương hình ảnh ông Thích Thanh Quyết cho ra mắt bức tranh cố gắng nối Hồ Chí Minh một bên và Đức Phật Thích Ca một bên.

giot3

Bên cạnh sự rộn rịp tại một lễ hội, mà Hòa thượng Brahmapundit, Chủ tịch sáng lập Ủy ban Tổ chức Quốc tế Đại lễ Vesak Liên hợp quốc (ICDV) khẳng định nói rằng đã thành công tốt đẹp, cuộc tranh luận và bình phẩm về sự kiện nhà nước vô thần đem biểu tượng cao nhất của Phật giáo để đứng cùng lãnh tụ của họ, đang xuất hiện khắp mọi nơi, thậm chí khiến nhiều trang tin tức quốc tế cũng ghi nhận.

Tháng 5-2019 tại Việt Nam không chỉ có vậy. Đã có nhiều điều diễn ra quyết liệt ở mọi nơi, tạo nên một bức tranh tổng thể đỏ ngầu và dữ dội hơn cả sự mô tả ông Hồ Chí Minh đứng trong bức tranh Đạo Pháp và Dân Tộc đó. Những bắt bớ liên tục diễn ra, những nhà máy có sự che chở giới lãnh đạo đang phủ đầy ô nhiễm tang tóc trên đất nước này. Những kẻ giàu có, mua chuộc được sự dốt nát và hám lợi của bọn cầm quyền đang bóp nghẽn các dòng sông, đang cày nát núi đồi và rừng xanh…

Lễ hội Vesak 2019 đã thành công đến mức nói về hòa bình thế giới, nói về ô nhiễm trên tầng cao khí quyển hành tinh, nói về hòa hợp các dân tộc nhưng lại làm ngơ những người nông dân, những làng xóm từ Nam chí Bắc luôn nơm nớp vì bị cướp đất, bị cưỡng đoạt.

Lễ hội Vesak 2019 cũng không nói đến sông Hàn bị bóp nghẹt, nói về những cánh rừng mất dần để thế chỗ bằng sân golf hay biệt phủ của giai cấp mới.

Lễ hội Vesak 2019 cũng không nhắc gì đến việc làm sao để Hà Nội ngừng rượt đuổi những người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, làm sao ngừng chặn bắt hay đánh đập những người bất đồng chính kiến. Từ ngày 12-5 đến 14-5, suốt trong đại lễ này không ngớt xuất hiện những cụm từ "từ bi" và "sám hối", nhưng hàng ngàn tỉ đồng từ mồ hôi nước mắt lao động của người Việt để tạo nên sự hoàng tráng của đại lễ, vẫn không hề giúp giác ngộ được bộ máy lãnh đạo vô thần Hà nội.

Trong tuyệt vọng, nhận thức luôn là một lối đi mới, tôi vẫn phải đùa và an ủi người bạn mình. Nụ cười lặng lẽ và đôi mắt nhắm của Đức Thích Ca trước các vở hài kịch nhân gian cũng là một suy niệm đủ cho anh bạn tôi – hay bất kỳ ai – bừng tỉnh. Trong bài diễn văn của ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có nhắc rằng "mỗi người chúng ta chính là sứ giả của đức Phật". Nhiều năm qua, những sứ giả nhân danh Đức Phật có hơi thở nhà cầm quyền, đã không ngừng dạy con người mũ ni che tai trước hiện thực, bài xích tôn giáo khác, thậm chí tạo sự lạc lối, về lịch sử dân tộc.

Trong tiếng vỗ tay và đồng tuyên bố về tình nhân loại và tự do tín ngưỡng từ đại lễ Vesak 2019, cũng đã đồng tình chôn sống sự thật về những ngôi chùa bị san lấp, về những tu sĩ bị sách nhiễu tại Việt Nam. Thậm chí, vị Bồ tát có thật của hành tinh là Đức Đạt Lạt Ma thứ 14 cũng được đại lễ sắp xếp cho lãng quên bằng trò đơn giản như thắp nến hay ca hát.

Mỗi lúc thế giới đang mở ra. Những lời nói dối của thế kỷ 21 luôn tinh xảo hơn ở thế kỷ trước. Nhưng bên cạnh đó, nhận thức của con người trước những sự dối trá giờ đây cũng khác biệt và tinh tế hơn. Sau 1975, khi ông Mai Chí Thọ - giám đốc công an thành phố - đối thoại với những bậc trí giả của Giáo hội Phật giáo Thống Nhất đã đặt vào cuộc trò chuyện là xe tăng và nhà tù. Còn 2019, trên bàn đối thoại với Phật giáo và tín đồ, nhà cầm quyền đặt cược bằng cả chùa lớn và đại lễ. Nhưng dẫu vậy, mắt của Đức Phật qua năm tháng ấy vẫn khép, nụ cười vẫn bí ẩn. Những trò vui có thay hình đổi dạng, vẫn vậy, vẫn vô nghĩa cùng những lời nói dối có hệ thống.

Nên bạn tôi, đừng tuyệt vọng, đừng từ bỏ.

Nhận thức không nhằm để chúng ta tuyệt vọng. Nhận thức để chúng ta có được cái nhìn thông tuệ và xuyên suốt, để luôn mang trong tim mình niềm hy vọng. Nhận thức rõ được sự thật sẽ khiến bạn thấy mình khép mắt lặng im và mỉm cười như Đức Phật. Sự thật ấy sẽ dắt tay anh em qua ngõ tối và sợ hãi. Sự thật rồi cũng sẽ giải thoát dân tộc này qua sự mê muội và muộn phiền.

Vì mỗi con người chỉ có một cuộc đời, nên nếu chúng ta tuyệt vọng và từ bỏ, tức đã tự dâng hiến sự sống duy nhất của mình cho kẻ ác, cho bọn vô thần. Trong nhận thức, ta vẫn đang gieo niềm hy vọng, không chỉ riêng mỗi mình, tôi nói với người bạn, và có thể, ta sẽ còn nhìn thấy Đức Phật bí ẩn mỉm cười.

Tuấn Khanh

Nguồn : RFA, 17/05/2019 (tuankhanh's blog)

**************

Hòa thượng Thích Không Tánh lên tiếng vụ ‘ngưng Tri ân Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa’

Cát Linh, Người Việt, 17/05/2019

Tin tức về việc "Dòng Chúa Cứu Thế Kỳ Đồng, Quận 3, Sài Gòn, bất ngờ chấm dứt chương trình Tri ân Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa " gây xôn xao trên mạng xã hôi.

giot4

Hòa thượng Thích Không Tánh. (Hình : Hội Anh Em Dân Chủ)

Tuy nhiên, vào tối 15 tháng Năm, trang web Nhà Thờ Thái Hà lại đăng bài trả lời phỏng vấn BBC tiếng Việt của Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích, giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Trong đó Linh mục Bích cho biết "Bề Trên vẫn cho phép tiếp tục giúp đỡ các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa". Đáng lưu ý, bài trả lời phỏng vấn này lại chưa chính thức xuất hiện trên trang chủ của BBC tiếng Việt.

Sáng sớm ngày 16 tháng Năm, Hòa thượng Thích Không Tánh, người khởi xướng chương trình "Tri ân Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa", cho nhật báo Người Việt biết những vấn đề xung quanh sự kiện đang gây nhiều tranh cãi này.

Vì sao phải thuyên chuyển ?

Hòa thượng Thích Không Tánh nêu lên các sự việc : "Hôm Hội Đồng Liên Tôn tiếp xúc với phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở chùa Giác Hoa, có sự tham dự của Linh mục Lê Xuân Lộc, cũng là thành viên của Hội Đồng Liên Tôn. Khi Linh mục Lộc qua thì tôi thấy ông rất buồn. Ông cứ nói là chỉ vài thời gian nữa là phải bàn giao Văn phòng Công lý và Hòa bình ; chương trình chia sẻ với anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa gặp khó khăn".

"Trong lòng tôi lúc đó nghĩ là chuyện này đã khó khăn ngay từ khi Linh mục Phạm Trung Thành mãn nhiệm, bên hệ thống Công giáo bổ nhiệm Linh mục Bích về làm giám tỉnh. Khi Linh mục Bích về một thời gian ngắn liền đưa Linh mục Thoại đi xa. Linh mục Thoại là ‘nòng cốt’ ở Phòng Công lý và Hòa bình và chương trình chia sẻ với anh em thương phế binh", hòa thượng nói tiếp.

"Mới đây thì đưa Linh mục Lê Ngọc Thanh đi xuống miền Tây để nhận nhiệm sở dưới đó. Rồi Linh mục Lộc và Linh mục Vũ cũng bị thuyên chuyển. Tôi thấy tất cả là do vị giám tỉnh mới. Bây giờ có dư luận nói là vị giám tỉnh mới thuộc về quốc doanh, nghe theo lệnh của nhà nước sao đó, làm cho chương trình Bên Nhau Đi Nốt Cuộc Đời gặp khó khăn và bị gián đoạn", hòa thượng nhấn mạnh.

Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích nói gì ?

Trước đó, trong bài trả lời phỏng vấn BBC Tiếng Việt của Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích đăng trên trang web Nhà thờ Thái Hà có năm câu hỏi và trả lời được Linh mục Bích đăng nguyên vẹn, gồm cả phần tự giới thiệu của ông.

"Thông thường, tôi rất ít trả lời phỏng vấn, nhưng khi đọc các câu hỏi của ông từ đài BBC tiếng Việt, tôi thấy các câu hỏi rất đúng đắn và có sự tôn trọng nên tôi sẵn sàng trả lời. Sau đây là các câu trả lời những câu hỏi của ông", Linh mục Bích viết.

giot5

Giám tỉnh Nguyễn Ngọc Bích. (Hình : Nhà thờ Thái Hà)

Ngay câu hỏi đầu tiên BBC hỏi về phản hồi đối với việc "đổi tên Phòng Công lý và Hòa bình và việc giúp các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa tại đây sẽ không còn tiếp tục", Linh mục Bích khẳng định : "Chúng tôi chưa hề ra văn thư hoặc tuyên bố nào thay đổi chủ trương hoạt động. Vì vậy, một số blogger bày tỏ sự băn khoăn là không cần thiết".

Đài BBC có đặt câu hỏi với Giám tỉnh Nguyễn Ngọc Bích về việc thuyên chuyển các linh mục mà Hòa thượng Thích Không Tánh nhắc đến tên, Giám tỉnh Bích phản hồi rằng :

"Sự bổ nhiệm và thuyên chuyển là việc rất bình thường của tất cả các Dòng tu. Đó là công việc nội bộ mà người ngoài, thậm chí cả các Giám mục, chẳng có lý do gì để xen vào hay thắc mắc vì họ không thể biết được những gì liên quan đến phẩm chất, đến tư cách và đến hoàn cảnh của từng tu sĩ và vì họ cũng không có trách nhiệm phải trả lời trước mặt Chúa về những gì liên quan đến sứ mạng và sự phát triển của Dòng".

Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn của Người Việt, Hòa thượng Thích Không Tánh đặt vấn đề là "Tại sao khi vừa nhậm chức giám tỉnh đã vội thuyên chuyển hàng loạt linh mục của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn ?"

Hòa thượng nói tiếp : "Theo tôi nhớ thì hình như sự bầu bán cũng có sự vận động sao đó. Ở đây cũng đã có dư luận là Linh mục Bích là tu sĩ quốc doanh. Nếu không như thế thì tại sao đưa họ đi ra tận Quảng Nam ? Rồi nghe nói bàn giao sổ sách, giấy tờ, các thứ. Rồi đổi tên nữa, một cái tên nghe rất xã hội chủ nghĩa, rất mông lung. Nếu Linh mục Bích nói rằng vẫn tiếp tục việc giúp các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa vậy thì việc cứu trợ như thế nào ? Rồi ngân quỹ đó ra sao ?".

Tuy nhiên, trong phần trả lời của Giám tỉnh Nguyễn Ngọc Bích dành cho đài BBC, ông viết rõ : "Tôi chưa thấy ai đổi tên phòng này với tên gọi khác. Tôi cũng vừa trao đổi với cha Tân Bề Trên Tu Viện Sài Gòn. Ngài khẳng định vẫn tiếp tục việc giúp các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Như vậy, những thông tin nêu trên là không đúng sự thật".

Ngày 15 tháng Năm, Linh mục Đinh Hữu Thoại đăng lên trang cá nhân một thông cáo dán trước Phòng Công lý và Hòa bình có nội dung : "Kể từ ngày 15 tháng Năm, 2019, Phòng Công lý và Hòa bình tạm ngưng làm việc đến khi có thông báo mới".

Phòng Công lý và Hòa bình của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn là địa chỉ quen thuộc của tất cả các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Chương trình này được chuyển giao vào năm 2012 từ Hòa thượng Thích Không Tánh, chùa Liên Trì, Quận 2, Sài Gòn, về Phòng Công lý và Hòa bình, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.

Linh mục Đinh Hữu Thoại, một trong những người phụ trách chương trình này, nhớ lại : "Năm chúng tôi bắt đầu tổ chức giúp cho chùa Liên Trì là tháng Bảy, 2012. Do chúng tôi làm truyền thông thì nhiều người biết tới và con số thương phế binh đến càng ngày càng nhiều. Chương trình chúng tôi giúp đỡ họ là khám sức khỏe, trang bị cho họ những phương tiện trong cuộc sống như bảo hiểm y tế, xe lắc, xe lăn, xe ba bánh hay nạn, gậy, tùy nhu cầu mà chúng tôi giúp. Rồi thì sửa nhà, xây nhà mới, đi thăm bịnh và khi các ông qua đời thì chúng tôi đi viếng…".

Theo Hòa thượng Thích Không Tánh, lý do năm đó phải chuyển giao chương trình về Phòng Công lý và Hòa bình là vì số lượng thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa ngày càng tăng thêm. Chùa Liên Trì khi đó (nay không còn nữa vì bị chính quyền Đảng cộng sản Việt Nam phá bỏ) không đủ khả năng và không có địa điểm đủ rộng để gần 200 thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa sinh hoạt.

Đức Vâng Lời

Các linh mục của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn trong những ngày qua từ chối đưa ra bình luận. Ngay cả khi nội dung trả lời của Giám tỉnh Nguyễn Ngọc Bích được đăng tải trên trang Nhà thờ Thái Hà gặp nhiều phản ứng trái chiều của dư luận thì các vị cũng chọn giải pháp im lặng.

Theo Hòa thượng Thích Không Tánh, "hệ thống Công giáo có một cái gọi là Đức Vâng Lời, nên với quý cha cấp dưới, bề trên nói gì thì phải nghe theo thôi".

Nhạc sĩ Tuấn Khanh đặt câu hỏi trong một bài viết liên quan : "Có cái gì đó rất bất thường đang diễn ra ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Kỳ Đồng, nơi mà lâu nay, được khắp nơi ngưỡng mộ là ngôi nhà của lòng lành và công lý".

Theo nhạc sĩ Tuấn Khanh : Đặc biệt, trong bối cảnh của một nước Việt Nam với vết thương nội chiến vẫn chưa lành, sự kỳ thị với những cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa vẫn là một chủ trương thấy rõ.

Còn nhà giáo, nhà hoạt động Phạm Minh Hoàng viết trên trang cá nhân của ông : "Cuối năm 2018, Cha Bích tái đắc cử, và những ‘nề nếp mới’ được điều chỉnh cho ngày ‘một mới hơn.’ Những ‘ánh mắt mang hình viên đạn’ ngày một sắc nét hơn. Và sau nhiều chi tiết không tiện nêu lên đây − chuyện phải đến đã đến. Cha Trương Hoàng Vũ nhận lệnh rời Sài Gòn, vài ngày sau văn phòng được lệnh giải tán. Ngày 14 tháng Năm, các tình nguyện viên thu dọn đồ đạc, sáng 15 tháng Năm linh mục độc nhất còn lại, Cha Lộc khép lại cánh cửa sắt của văn phòng lần cuối".

Những tình nguyên viên trẻ của Phòng Công lý và Hòa bình đều bất ngờ và tức giận trước diễn biến này. Họ cho biết họ cảm thấy như đang bị mất đi một gia đình và tâm trạng của họ đau buồn, không thể nói gì được.

Tuy không cùng một tôn giáo, nhưng Hội Đồng Liên Tôn và Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn trong mấy năm qua đã có chung một mục đích, đó là "Bên Nhau Đi Nốt Cuộc Đời". Những người quan tâm đến các thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đều đưa ra câu hỏi : "Ai sẽ cùng với họ đi nốt cuộc đời còn lại ?" 

Cát Linh

Nguồn : Người Việt, 17/05/2019

*********************

Thương cho thân phận thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa

Paulus Lê Sơn, VNTB, 16/05/2019

Thượng đế không loại trừ bất cứ một ai, chỉ có con người loại trừ nhau mà thôi. Người Công giáo xác tín một điều, Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, nhất là những con người yếu thế, khổ đau. Thân phận của người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong xã hội này là thân phận của người yếu thế, đau khổ. Họ đáng được chúng ta tôn trọng, bảo vệ và yêu thương.

phebinh1

Tác giả cùng những tình nguyện viên trợ giúp các TPB trong chương trình "Bên nhau đi nốt cuộc đời" do Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn tổ chức từ ngày 27 đến 30 tháng 12 năm 2017.

Cuộc xua đuổi từ sau kết thúc cuộc chiến năm 1975 cho đến ngày hôm nay hầu như vẫn không hềdừng lại đối với những con người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Họ là những con người có phẩm giá và nhân vị, thiệt thòi hơn, họ còn bị thương tích, khuyết thiếu một phần thân thể do chiến tranh để lại. Họ thực là những con người yếu thế trong xã hội. Đáng ra họ phải được tôn trọng, bảo vệ, nâng đỡ. Cớ sao lại ra tay truy cùng diệt tận họ ?

Đầu năm 2019, khi nhà cầm quyền tấn công, đập phá, xóa bỏ vườn rau Lộc Hưng, hàng chục thương phế binh đã bị ném bỏ đồ đạc chăn mùng ra khỏi phòng trọ. Các thương phế binh này được sự nâng đỡ, chở che của các Linh Mục Dòng Chúa Cứu Thế và người dân vườn rau Lộc Hưng cho thuê trọ một căn nhà. Các ông ban ngày lê lết đi bán vé số ban đêm về có chỗ ngả lưng qua đêm.

Mới hôm 28/04/2019, công an tiếp tục đe dọa trấn áp những con người tàn phế này. Đồng thời gây áp lực với chủ nhà trọ, ép chủ nhà phải đuổi các chú thương phế binh ra khỏi nhà. Họ chả biết phải đi đâu, trú ngụ ở đâu, cuộc sống trước mắt như thế nào đây ?

Trước thông tin văn phòng Công Lý và Hòa Bình thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam sẽ đổi tên và đổi thay một số nhân sự, người ta lo lắng rất nhiều cho phần cuối cuộc đời của thân phận thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.

phebinh2 - Copie

Thương Phế Binh đến sinh hoạt chương trình xuân 2017 tại Dòng Chúa Cứu Thế. Ảnh : Facebook Tri Ân Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa

Sự lo lắng cũng là chính đáng, vì phòng Công Lý và Hòa Bình như là mái nhà chung cho hàng chục ngàn thương phế binh tựu về hàng năm, hàng tháng trong chương trình "Bên nhau đi nốt cuộc đời". Quả thật, nơi đây đã tạo nên bầu khí yêu thương, tin tưởng và tôn trọng đối với người thương phếbinh Việt Nam. Những con người mà từ sau 1975, họ bị chế độ cộng sản coi là tàn dư của "ngụy quân" tìm mọi cách loại trừ. Thế nên giữa chốn đời khốn khổ đó, họ tìm thấy vùng trời bình yên mỗi khi tề tựu bên nhau.

Tôi có may mắn được dự phần vào những công việc trợ giúp thương phế binh trong các chương trình tri ân tại Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng, và đã đi đến nhiều gia đình của họ. Qua đó tôi thấu hiểu, cảm nhận hết sức rõ ràng tâm hồn, tình cảm và sự mẫn cảm của họ đối với con người, thời cuộc và từng cá nhân cụ thể đến với họ bằng tình thương, lòng nhân ái của con người.

Tôi thấy từng giọt lệ rỉ ra trên những khóe mắt nhăn nhúm già nua của họ khi họ được gặp lại chiến hữu từng vào sinh ra tử, khi họ lắng nghe những bài hát đầy trữ tình mang âm hưởng của người lính bảo vệ tự do.

Một thương phế binh nói trong sự biết ơn : "Chúng tôi đã và đang sống trong những sự ruồng bỏ và kiềm kẹp từ xã hội này (chính quyền cộng sản), những năm gần đây các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức cho chúng tôi có cơ hội gặp mặt, đem đến cho chúng tôi sự an ủi trợ lực rất lớn, chúng tôi chân thành cám ơn những tấm lòng hảo tâm đã nhớ đến chúng tôi".

Cũng có những ông lo lắng nói rằng : "Nếu một ngày nào đó không còn chương trình bên nhau đi nốt cuộc đời của Dòng Chúa Cứu Thế thực hiện thì chúng tôi biết trông cậy ở đâu, nương nhờ ai. Chúng tôi đâu còn cơ hội gặp nhau như thế này. Tâm hồn chúng tôi có lẽ sẽ héo úa buồn bã vì cái cuộc sống này đã, đang bạc bẽo, kỳ thị chúng tôi".

Tôi còn nhớ như in câu nói của Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, cựu Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, và là một trong những người khởi xướng chương trình Tri Ân Thương Phế Binh đã chia sẻ với các cộng tác viên : "Chúng ta hãy đến với họ bằng tất cả tình thương".

Vì tình thương đó mà các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã sưởi ấm được hàng ngàn trái tim bị cái xã hội, cái chế độ vây ráp trong sự ghẻ lạnh, ruồng bỏ, truy diệt.

Chúng ta sẽ tiếp tục đốt lửa và thêm vào nhiều năng lượng hơn để sưởi ấm cuộc đời, thân phận thương phế binh hay chúng ta sẽ dập tắt nó ? Điều này thì tương lai sẽ cho chúng ta câu trả lời.

Vui mừng và hi vọng luôn cho con người kết quả tốt đẹp. Trong biến cố thay đổi danh xưng, nhân sự, và cách thức làm việc tại văn phòng Công Lý và Hòa Bình tại Dòng Chúa Cứu Thế. Trên Facebook Linh mục Lê Ngọc Thanh cho biết : "Bề trên nhà Sài Gòn vẫn tri ân thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, nhưng cách thức và nhân sự sẽ thay đổi tạ ơn Chúa và đợi xem".

Thượng đế không loại trừ bất cứ một ai, chỉ có con người loại trừ nhau mà thôi. Người Công giáo xác tín một điều, Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, nhất là những con người yếu thế, khổ đau. Thân phận của người thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong xã hội này là thân phận của người yếu thế, đau khổ. Họ đáng được chúng ta tôn trọng, bảo vệ và yêu thương.

Paulus Lê Sơn

Nguồn : VNTB, 16/05/2019

Published in Diễn đàn
samedi, 18 décembre 2021 19:44

NMĐRN 1.2 - Những bóng ma trên hè phố

1.2. Những bóng ma trên hè phố

Quê hương, hai tiếng thân thương ai trong chúng ta cũng đã một lần gọi đến. Bình thường hai tiếng gọi thân thương ấy không gợi lên trong ta một cảm xúc nào vì đang sống với nó. Giống như không khí, con người hít thở nó để sống mà không cảm nhận sự hiện hữu của nó trong từng mạch sống. Chỉ đến khi thiếu dưỡng khí chúng ta mới cảm thấy nó là cần thiết. Cũng như thế, chỉ đến khi nào tôn miếu, xã tắc Việt Nam Cộng Hòa bị người cộng sản tiêu hủy, ngôi từ đường thờ kính tổ tiên bị bỏ phế, mồ mả cha mẹ, ông bà bị xúc phạm, khi ấy chúng ta mới cảm thấy thực sự mất mát, hụt hẫng vì quê hương không còn nữa. Chắc không ít ai trong chúng ta đã hơn một lần nhỏ lệ khóc cho quê hương điêu linh, tang tóc này. Vậy thì, các bạn hỡi, từ nỗi đau thương mất nước này hãy cùng chúng tôi lắng nghe tiếng nấc nghẹn ngào của những mảnh đời rách nát.

bongma1

Ai khóc thương cho những chiến sĩ vô danh này, ai đoái hoài những người bị thương tật vì chiến tranh như chúng tôi chờ ngày tàn của cuộc sống ?

Theo những biến đổi của thời cuộc, Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam từ sau 1973, Việt Nam Cộng Hòa chao đảo theo từng đợt tấn công ào ạt của cộng quân. Nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc nuôi dưỡng âm mưu thôn tính miền Nam từ lâu, họ cho người nằm vùng trong những cơ quan, bộ phận trọng yếu của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để quấy phá. Bị nội công ngoại kích, miền Nam sụp đổ mau chóng trước đợt tiến công quyết liệt từ đầu tháng 4/1975 của quân đội miền Bắc.

Kể từ sau ngày 30/04/1975 thủ đô Sài Gòn không còn nữa. Lăng mộ, tôn miếu, sơn hà, xã tắc của Việt Nam Cộng Hòa bị chà đạp. Mồ mả, nghĩa trang của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người đứng ra bảo vệ tổ quốc và đã hy sinh vì chủ nghĩa tự do ở miền Nam, bị đào bới, san bằng trong khi xác của Hồ Chí Minh được long trọng ướp trong hòm kiếng đặt ở quảng trường Ba Đình để được chiêm bái. Có người còn đến đó để khóc thương trong khi những nơi tôn nghiêm, thờ phượng ở miền Nam thì bị biến thành những khu "văn hóa" vui chơi tập thể. Ai khóc thương cho những chiến sĩ vô danh này, ai đoái hoài những người bị thương tật vì chiến tranh như chúng tôi chờ ngày tàn của cuộc sống ? Bất công này biết bao giờ được gột rửa ? Xin mọi người hãy chia sẻ và cố gắng xoa dịu nỗi đau của dân tộc nói chung và của chúng tôi nói riêng.

Chủ nghĩa cộng sản loang nhanh như vết máu trên mảnh vải trắng tự do. Chủ thuyết vô sản tràn lấp những giá trị xưa, rồi lấn chiếm mọi ngõ ngách tâm hồn, đe dọa mọi suy tư của người dân trong thành phố bị đổi tên, ai phê bình hay chỉ trích chế độ mới đều bị trừng trị. Các lãnh tụ cộng sản Các Mác, Lênin, Mao Trạch Đông được ngợi ca, xác ướp Hồ Chí Minh được tôn thờ. Một phó sản mới được nhào nặn ra, "thành phần 30 tháng 4" ngoan ngoãn vâng lời chủ mới, hống hách với bà con, họ hàng và còn ác độc hơn cả quân "giải phóng".

Chế độ cộng sản không cần đến tôn giáo đã đành, họ còn phỉ báng thần linh, ngăn cấm nghi thức thờ cúng ông bà, vong hồn người quá cố ; tất cả đều là "mê tín dị đoan". Cảm xúc thiêng liêng và tình cảm riêng tư của con người nhưng đối với người cộng sản không là gì cả. Không những thế họ còn xúc phạm đến các tôn giáo, Chúa hay Phật, hoặc bất cứ đấng thiêng liêng nào cũng đều bị đem ra "đầu tố", nếu không bị mắng chửi bởi những người cuồng tín thì cũng bị bôi tro trát trấu. Những người lãnh đạo tôn giáo nếu không phải là thành phần "quốc doanh" thì bị liệt vào hàng "phản động", nếu không bị bắt giam thì cũng bị theo dõi, kiểm tra ráo riết. Họ còn cho người len lỏi vào các giáo phái, chia rẽ tín đồ, khai thác ngộ nhận, bẻ cong giáo lý, gài bẫy bắt giam giáo dân, hạn chế nghi thức thờ phượng. Chế độ cộng sản còn hủy diệt tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc Việt Nam, các đình làng đều biến thành khu vui chơi, giải trí.

Để đạt mục tiêu mong muốn, nghĩa là "xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội" trên khắp cả nước, tập đoàn lãnh đạo cộng sản không ngần ngại chà đạp nhân phẩm con người nhưng khôn khéo che đậy bằng những mỹ từ nhân đạo, nào là thông cảm nỗi khổ của nhân dân, nào là xóa đói giảm nghèo, khiến dư luận quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại tin lầm. Khi đạt mục tiêu mong muốn, tất cả những thành phần dại dột tin theo đều bị bỏ rơi như những giẻ rách, kể cả những gia đình "liệt sĩ, cách mạng và mẹ chiến sĩ". Người đời có câu : "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời cộng sản biết thương đồng bào" thật là xác đáng.

Trong xã hội mới này, đạo đức bị coi thường, khôn sống dại chết, con người tranh nhau từng miếng ăn và nhìn người quen như... những con mồi. Liên đới xã hội mất dần chỗ đứng, có tiền thì có tất cả, không tiền thì không có gì hết. Quan hệ giữa người với người lần hồi mục rữa, kể cả những người sống ở nấc thang thấp cùng nhất xã hội. Chính quyền nhìn dân như kẻ thù địch và sẵn sàng dùng bạo lực trấn áp những ai tranh đấu đòi quyền sống trong danh dự. Chủ nghĩa xã hội không phải là chế độ của người nghèo. Quê hương này thật là bất hạnh, không có một tên êm đẹp nào đặt cho lá cờ sặc tanh mùi máu và cũng không thể tìm được một tên nhân từ nào để gọi những người cộng sản. Màu đỏ không phải là màu của tươi vui trong ngày lễ hội, nó là màu của tang thương và đọa đày bao phủ quê hương. Chủ nghĩa cộng sản gắn liền với sự độc ác.

* * *

Hạnh phúc không bao giờ có thật trong chế độ này, một chế độ lấy sự ác độc làm phương châm và lường gạt làm kim chỉ nam hành động. Như một kiếp luân hồi không được siêu thoát, các chế độ cộng sản phải độc ác để tồn tại.

Sau khi áp đặt bạo lực của kẻ chiến thắng trên người bại trận, các ủy ban quân quản buộc công chức và sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện rồi đưa họ vào những nhà tù tập thể, dưới tên gọi mỹ miều "trường học tập cải tạo". Tiếp theo sau là chính sách quản lý "hộ khẩu" khắc nghiệt, nó là sợi dây thòng lọng thắt vào cổ nhân dân, chế độ không ưa ai thì người đó phải chết. Để cướp trọn bộ số tiền nằm trong túi dân chúng miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản ra lệnh "đổi tiền", 500 đồng cũ ăn một đồng mới, như thế cứ mỗi 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa mới bằng một đồng xã hội chủ nghĩa, thêm vào đó họ còn quy định mỗi hộ khẩu chỉ được đổi 200 đồng mới mà thôi, số tiền còn dư do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý. Sau hai lần "đổi tiền" như thế, toàn bộ tài sản của dân chúng miền Nam đã lọt vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Đúng là quân cướp ngày.

Xã hội cũng thay ngôi đổi chủ. Những người trước kia thuộc thành phần ăn trên ngồi trước nay bị lọt sổ thành ăn dưới ngồi sau. Cán bộ cộng sản có chức có quyền thì "vinh thân phì gia" trong khi đất nước đã nghèo lại càng nghèo thêm. Nhà nước còn chiếm tất cả các cơ sở sản xuất lớn, "đánh" tư sản mại bản, quản lý tất cả các mặt hàng "nhu yếu" để làm chủ thật sự miền Nam. Bà con nghèo khó buôn bán trên lề đường đều bị xếp vào hàng "bóc lột". Cán bộ hạ tầng và "thành phần 30" hàng ngày săn lùng, bắt bớ, tịch thu hàng hóa của những thành phần "bóc lột", những người buôn gánh bán bưng trên các hè phố để... bán lại cho những thành phần "bóc lột" khác. Chính vì vậy mà không ít cán bộ nhà nước núp dưới danh nghĩa "cách mạng" hà hiếp dân chúng, vơ vét của công cho vào... túi riêng.

Dân chúng quá sợ hãi đã trở thành ngu dốt và yếu hèn. Người ta không biết phải sống làm sao với hệ thống luật pháp ma quái, nay thế này mai thế kia của nhà cầm quyền cộng sản. Bị ép vào đường cùng, dân chúng chỉ biết im lặng làm theo. Nhà nước cộng sản hứa cho dân một cuộc sống ấm no trong vùng kinh tế mới, nơi đây người ta chỉ thấy địa ngục trần gian. Không một cây lương thực nào có thể mọc lên trên những vùng đất khổ, biết bao gia đình tan nát và biết bao người âm thầm bỏ nắm xương tàn nơi chốn rừng sâu nước độc. Người dân đói quá phải đào những cây khoai mì mới trồng chưa kịp lớn, củ chỉ bằng ngón tay em bé, để ăn. Ăn càng non thì càng đói nặng. Ai kiên nhẫn chờ đợi những củ khoai mì lớn lên trong lòng đất thì ăn bất cứ vật gì có thể ăn được để cầm cơn đói, từ cóc nhái, ễnh ương, "bù toọt", rắn mối, dế cơm, bò rầy, trứng kiến, chuột rừng, rắn mối con còn đỏ hỏn đến măng non, củ dại, nấm rừng. Nói chung họ ăn tất cả những gì động đậy. Tại nhiều nơi, dân kinh tế mới ăn nhằm nấm độc chết hết cả nhà.

Thiếu ăn, da thịt người kinh tế mới biến sắc, áo quần rách nát, chân tay phù thủng, bệnh sốt rét rừng, dịch tả, kiết lị cướp đi rất nhiều mạng sống. Số trẻ em sinh ra trên vùng kinh tế mới không đủ bù lắp số người bị chết vì đói và bệnh tật. Đi hay ở, đó những câu hỏi được lặp đi lặp lại trong lòng mỗi người. Bỏ về thành phố thì không biết sẽ ở nơi đâu, nhà cửa, vốn liếng đã lỡ dồn cả cho chuyến đi "lập nghiệp" trên vùng kinh tế mới rồi. Ở lại thì thần chết sống kề bên hông, sẵn sàng đòi mạng. Người dân trên vùng kinh tế mới tự đặt câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời. Thói thường vẫn vậy, khi quá cùng khổ người ta thường "đứng núi này trông núi kia". Do nhận thức yếu kém, họ chỉ mơ ước được đi... những vùng kinh tế mới khác với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá hơn nơi đang sống.

************

Những tin đồn mà dân chúng thành thị nghe được, do những người trốn từ các vùng kinh tế về thành phố kể lại, rất là hãi hùng.

Trên một vùng kinh tế xa xôi nọ ở tỉnh Sông Bé, có một gia đình gồm có hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Đứa con gái đầu lòng mới 11 tuổi phải theo cha mẹ vào rừng đào nương phát rẫy trồng khoai mì. Có lúc thiếu ăn cả nhà hái rau cỏ rừng về ăn lót dạ, chính vì thế mà hai đứa em nhỏ (đứa em gái 7 tuổi và đứa em trai 4 tuổi) chỉ lớn hơn con mèo. Người chồng trước kia là cựu quân nhân biệt phái về dạy ở một trường tiểu học nên không thích nghi kịp với nghề tay chân. Người vợ thay chồng làm việc quần quật nhưng cũng không đủ ăn, một hôm bà mắc bệnh kiết lị rồi qua đời vì thiếu thuốc men. Gia đình còn lại trở nên túng thiếu, nhiều bữa không có đủ khoai cho bốn miệng ăn, người cha và đứa con gái lớn phải nhường phần của họ cho hai đứa nhỏ, còn họ thì ăn... lá khoai mì luộc, uống nước lá mì luộc nên bị say nôn. Đêm nằm có nhiều ảo giác ngất ngây, cứ như bị ai đó nắm chân dốc ngược lên trời, oẹ mửa thốc tháo ra tới mật xanh mật vàng, trông thật khủng khiếp.

Một đêm nọ vì quá đói, hai cha con lén vào rẫy nhà hàng xóm bới trộm khoai mì. Đang lúc hì hụt đào trộm thì cả bị nhóm "dân quân tự quản" đi tuần bắt quả tang. Thế là trong đêm tối, những ánh đuốc trong thôn thắp dọi lên theo tiếng gõ dồn dập của thùng thiếc, dân chúng vây quanh cha con kẻ trộm. Người cha đứng cúi gằm mặt im lặng bên cạnh đứa con gái mặt mày tái xanh, tay còn ôm rỗ khoai mì. Một cán bộ xã, người miền Bắc, dáng vạm vỡ bước xộc đến, vẻ mặt nghiêm nghị chỉ tay vào mặt người cha hống hách nói :

- Không "nao" động hả, ông thầy ? Bắt quả tang đang ăn trộm rồi nhá.

Rồi quay sang đám dân quân, người cán bộ này ra lệnh :

- Đưa về huyện nhốt, cho chúng nó bỏ thói "nười" !

Đang khi ông thầy còn lúng túng thì người cán bộ hùng hổ tiến tới túm lấy đôi vai gầy guộc của ông thầy, kéo xuống rồi lên gối một cái "huỵch" vào ngực. Đứa con gái thấy cha bị đánh liền thét lên : "Cha !", rồi quăng rổ khoai chạy tới nhưng bị hai người đàn ông khác nắm áo đẩy qua một bên té xuống đất. Mặt ông thầy tái lại, mắt mở to, sụm đầu gối, hai tay định ôm lấy ngực thì "bịch", một cú đấm mốc từ dưới lên tống vào mặt ông thầy làm ông chúi nhủi. Người đàn bà chủ rẫy thấy vậy thét lên : "Ngưng tay, tôi không thưa kiện gì hết". Bao nhiêu căm ghét kẻ trộm nơi bà bay biến đâu mất, bà nói : "Để hai cha con ông thầy mang rổ khoai về nhà". Mặc dù khoai củ ở vùng kinh tế mới trong mùa khô này rất quí, bà còn biếu cha con ông thầy 40 đồng tiền mới (bằng một phần năm số tiền nhà nước quy định đổi cho mỗi gia đình). Hai cha con ông thầy cúi đầu tạ ơn bà hàng xóm rồi lầm lủi đi về.

Nhưng người cha trở nên quẫn trí, thay vì dùng số tiền đó để mua khoai cho con ăn, ông ra chợ mua hai kí gạo và một con gà mang về nhà nấu một nồi cháo thật to cho con ăn. Đang lúc nấu, đứa con gái thấy cha nó vừa khóc vừa bỏ một thứ bột gì đó vào nồi bốc lên mùi nồng nặc khó ngửi nên nó bỏ chạy ra ngoài không chịu ăn. Nó vừa chạy vừa khóc trong đêm tối, ba cha con ông thầy tiếp tục ngồi ăn ngon lành. Sáng hôm sau người ta thấy xác ba cha con ông thầy nằm chết bên cạnh nồi cháo. Chính quyền địa phương không cho dân chúng chôn ba cái xác ấy ngay, họ được đắp chiếu để trước cửa 24 tiếng đồng hồ, bên cạnh là bản án có ghi hàng chữ "Tự tử là có tội". Vì chiếc chiếu không đủ che ba cái xác nên đôi chân cứng đờ và tái xanh của ông thầy lòi ra trông rất rùng rợn. Sang ngày hôm sau bà con lối xóm mới được phép chôn cất ba cha con ông thầy, đứa con gái 11 tuổi ấy theo đoàn người bỏ về thành phố rồi mất tích luôn.

Các vùng kinh tế mới đúng là địa ngục trần gian, con người bị cái đói và bệnh tật dằn vặt hàng ngày, dân chúng trốn về thành phố rất nhiều. Chính quyền địa phương dựng lên nhiều chốt ngăn chặn luồn người trốn về thành phố và tung chiến dịch tuyên truyền hứa "cứu đói". Nhưng không ai nói láo bằng "vẹm", chẳng ai đến cứu đói và dân cứ tiếp tục trốn về. Trong đêm tối, từng đoàn người lũ lượt gánh đồ, vác bị trốn về thành phố. "Về đi thôi, nếu có chết thì chết ở thành phố sướng hơn chết trên rừng", mọi người rỉ tai nhau.

Về được thành phố, họ ngủ trên các vỉa hè, bến xe, sạp chợ, kể cả trong các nghĩa địa. Họ lấy nền xi măng làm giường, bao ny lông làm chiếu, mùng màn thì không cần vì da thịt họ quá cằn cỗi, ruồi muỗi có viếng thì cũng bỏ đi thôi.

bongma2

Về được thành phố, họ ngủ trên các vỉa hè, bến xe, sạp chợ, kể cả trong các nghĩa địa. Họ lấy nền xi măng làm giường, bao ny lông làm chiếu…

Nhiều người còn cảm thấy vui thích được ngủ dưới trăng sao của thành phố. Họ nói trăng Sài Gòn đẹp hơn trăng vùng kinh tế mới : "trăng gì mà trắng bệch như... mặt người chết đói, thấy mà ghê". Mọi người sung sướng chia nhau cảm giác về lại quê xưa, dẫu cho thân thể có tồi tàn rách nát trở về sống tại quê nhà vẫn thích thú hơn.

Họ làm bài thơ sau đây hiến tặng độc giả :

Về đi thôi

Nhà nước nhà nôi thôi đừng nói nữa !

Nói đi nói lại cũng chừng đó thôi.

Nơi đây khốn khổ muôn người thiếu ăn,

Chỉ mong có gạo có khoai qua ngày.

Cuốc ngày cuốc tối, cuốc cả trời mưa,

Bụng thì cứ đói, ruột thì cứ than.

Tay chân bủn rủn, toàn thân bàng hoàng,

Đêm về chỉ thấy bầy con khóc rần.

Ở thì không được chỉ nước về thôi,

Về thì du kích hung hăn hầm hừ.

Trốn chui trốn nhủi mới về tới nơi,

Chẳng may bị bắt, tiêu tan cuộc đời.

Về lại thành phố có phiền ai đâu,

Không nhà không cửa, chúng tôi ngủ đường.

Ngày ngày sớm tối lang thang ngoài đời,

Đói thì đứng chợ ăn xin của người...

"Về đi thôi", tôi nghe thấy tiếng lòng thôi thúc. Mỗi đêm nhìn bà con lối xóm bỏ về, tôi cũng nôn nao. Được những người quen cho biết tin cha tôi lâm bệnh, tôi càng xót xa. Trước kia ông đi lập nghiệp ở khu kinh tế mới Tây Ninh, cạnh Núi Bà Đen cùng với mẹ và các em tôi. Mẹ tôi chẳng may mắc bệnh sốt rét rừng đã qua đời cách đây sáu tháng, cha tôi cùng các em đã trở về thành phố cách đây bốn tháng. Hiện cha tôi sống bằng nghề xin ăn, mỗi bữa ông đứng chực ở mấy cửa hàng ăn uống quốc doanh, chờ khi thực khách ăn xong, còn sót lại những thức ăn trên tô dĩa, ông vội vàng trút hết vào lon guigoz đem về nhà hâm lại cho các em tôi ăn. Xưa kia ông có lần dạy kèm Pháp văn cho trẻ nhỏ nên hiếm khi ông dám ngước nhìn thực khách hoặc chìa lon xin tiền vì sợ người quen nhận diện, ông chỉ nói lí nhí trong miệng. Tôi cứ lo âu hình dung cha tôi với mái tóc bạc trắng đứng bơ vơ bên đường, lỡ gặp cán bộ vạm vỡ nào đó túm áo mà xô đẩy thì sao.

Miên man nghĩ đến cha, rồi nhớ lại câu chuyện ba cha con ông thầy, tôi càng nôn nóng trở về hơn. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy nóng nặt, máu dồn lên óc. Cuối cùng thì gia đình tôi cũng chuẩn bị khăn gói lên đường. Thế là chúng tôi bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cả mảnh đất đang làm dở dang trên vùng kinh tế mới, theo chân những người đi trước trốn về thành phố.

Sau gần một tuần lễ lòn lách, trốn tránh các nút chặn trên các con đường rừng, chúng tôi về tới thành phố cũ với tên gọi mới. Sài Gòn vẫn còn đó nhưng đời sống đã khác xưa. Khu nhà tôi còn đây, nhưng căn nhà cũ không còn. Những người dân đi xây dựng vùng kinh tế như gia đình chúng tôi về lại phố cũ đều đau lòng nhìn các gia đình cán bộ tập kết miền Bắc đến xây nhà trên những nền nhà cũ của chúng tôi, họ ăn sung mặc sướng, đời sống sung túc, no đủ trong những căn nhà đep đẽ. Tôi mới chợt hiểu "cách mạng" không có nghĩa là xóa bỏ cái cũ để nâng cao mức sống người dân, mà là "loại bỏ" những người chủ cũ, những người thất trận và người dân nghèo như chúng tôi, ra khỏi thành phố, lùa họ vào những vùng đất chết để cho thiên nhiên, bệnh tật và đói khổ tiêu diệt. Còn tại thành phố, họ nâng cao mức sống cho những công bộc, dành những khu phố đẹp cho cán bộ cao cấp và gia đình họ ở. Trong những khu lao động, người nghèo khổ bị xua đuổi để lấy đất xây thêm những khu nhà mới, gọn đẹp hơn cho những cư dân mới, những người đến từ miền Bắc xa xôi, những gia đình "có công với cách mạng" (nằm vùng cũ) hay thành phần người giàu có mới.

Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như vậy chỉ là sự thay ngôi đổi chỗ giữa những thành phần giàu có mới và giàu có cũ. Những người nghèo khổ như chúng tôi không có chỗ đứng trong xã hội này, nếu có chăng thì ở chốn rừng sâu, nước độc. Nhiều người không biết cứ ngỡ rằng chế độ mới đã làm nhiều cố gắng cải thiện đời sống "nhân dân", nhưng nhân dân ở đây là "nhân dân cán bộ", thành phần ăn trên ngồi trốc. Những hào nhoáng bên ngoài có mục đích phô trương, khoe mẽ với các quốc gia khác, với Liên Hiệp Quốc rằng nhà cầm quyền cộng sản đang "thay da đổi thịt", lo lắng cho lớp người cùng khổ của xã hội miền Nam xưa kia, nhưng thật ra là gạt chúng tôi ra ngoài rìa xã hội, để phải sống lây lất trên các vỉa hè, nghĩa địa và hành nghề ăn xin.

Chúng tôi mới chính là người vô sản, nhưng vì là thành phần vô sản miền Nam nên chỉ hưởng đày đọa và hà hiếp. Chúng tôi không còn gì cả ngoài những thân hình ốm yếu, tật nguyền cùng với đàn con rách rưới, sống không có ngày mai và chết không ai thừa nhận. Chúng tôi không buồn vì bệnh tật ốm đau không được chữa trị, đói không được cho ăn, nhưng buồn vì quê hương thiếu vắng tình người. Những người "vô sản" ngày hôm qua đang đày đọa những người "vô sản" ngày hôm nay.

Không riêng gì dân chúng miền Nam, cả những người vô sản miền Bắc cũng là nạn nhân của nhà cầm quyền cộng sản. Họ được hứa hẹn đủ điều để rồi chỉ toàn bánh vẽ, nhà cầm quyền cộng sản luôn luôn hứa hẹn thực hiện cho cái "sẽ là", và cái "sẽ là" không bao giờ tới. Con cái họ tiếp tục vào Nam làm bia đỡ đạn, lúc chết xác thân không biết chôn vùi ở đâu, hòa bình trở lại họ trở về kiếp sống nông dân, bị bạc đãi và khốn khổ như chúng tôi. Trẻ em cũng bị lợi dụng, các khẩu hiệu ra vẻ yêu thương chăm sóc trẻ em chỉ là bánh vẽ, các em bé miền Bắc cũng như miền Nam ở thôn quê đều suy dinh dưỡng, bụng ỏng da chì trong khi con cái những cán bộ có chức có quyền ăn sung mặc sướng và được đi học. Những đứa trẻ con ông cháu cha này tiếp tục sẽ đè đầu đè cổ con cháu chúng tôi. Cuối cùng sau bao nhiêu năm sống dưới sự ách cai trị của cộng sản, dân chúng miền Bắc rủ nhau từng đoàn vào Nam... ăn xin như những người trốn từ vùng kinh tế mới về vậy.

* * *

Từ vùng kinh tế mới trở về, tôi thấy gì kể đó.

Vào thời điểm mà ly cà phê đen trộn bắp giá 150 đồng (năm 1981) thì trên các vỉa hè, góc phố bán đầy rẫy những quán hàng bán phở ruột bò 50 đồng một bát. Cứ mỗi buổi sáng, tại chợ Cầu Ông Lãnh những người lao động nghèo sống bằng đủ thứ nghề vặt vãnh, từ những anh em thương phế binh mua bán nhang đèn rong dạo, những quả phụ mua bán áo quần cũ ở những chợ trời, đến những em cô nhi, những người ăn xin và những người làm nghề khuân vác, đạp xe ba bánh, xích lô cùng những phu phụ hồ, v.v... thường xúm quanh những hàng quán phở ấy. Họ xì xụp ăn húp ngon lành những bát phở ruột bò, có người ăn hai ba bát mà vẫn còn thèm. Cơ khổ mới rõ điềm trời, nhiều người vừa mới ăn xong thì ngay lát sau bụng đã kêu đói lại rồi.

Anh em phế binh chúng tôi chú ý đến các em cô nhi, vì trong lúc chúng tôi ăn bát phở giá 50 đồng, có vài lát ruột bò xắt mỏng như giấy, thì các em cô nhi hoặc nhịn đói, hoặc kêu ăn những bát phở giá 30 đồng chỉ có nước lèo mùi ruột bò và bánh phở. Ăn xong, anh em phế binh ngồi trên ghế cóc phì phèo điếu "Hoa Mai" hay "Đà Lạt", thứ thuốc lá đen phế phẩm loại 3, bên ly cà phê đen trộn bắp, định hướng chia nhau khu vực bán nhang. Các em nhỏ cũng ngồi bệt dưới đất chia khu đi... lượm bọc ny lông, ve chai ở các thùng rác chợ và giấy vệ sinh ở những nhà cầu công cộng trên những "ao cá Bác Hồ".

Thời ấy người ta có phong trào lấy tên vị lãnh tụ "vĩ đại" đặt tên cho các công trình công cộng, những ao cá cũng vậy. Vì lúc ấy cái gì cũng có thể bán được cả, từ những bao ny lông tái sinh đen thủi đen thui đến những loại giấy vệ sinh tái sinh đi tái sinh lại đều có thể cân kí lô bán cho vựa ve chai nên các cán bộ có nhiệm vụ quản lý ao cá cũng tranh thủ làm... kinh tế. Vì thấy nguồn giấy "chùi" đáng kể ở các nhà cầu công cộng nên các em thường ngồi chầu chực đợi người ta vừa "vệ sinh" liền tranh nhau vào nhặt. Giấy vệ sinh vừa "dùng" xong liền đem ra sông giặt sạch, phơi khô, cân ký bán lấy tiền ăn cơm trưa. Nhưng nguồn giấy đó cũng là "tài sản của nhà nước", cán bộ giữ ao dọa nạt ngăn cấm các em không được vào nhặt. Một hôm cán bộ giữ ao túm được một em gái đang vào trộm "tài sản nhà nước xã hội chủ nghĩa" quăng xuống ao, trút sạch bao giấy của em vào giỏ đựng của nhà cầu công cộng "của" ông ta. Lúc bò lên bờ, chân nó bị mẻ chai cắt đứt nhiều chỗ, máu chảy đầm đìa. Người đi "vệ sinh" thường quăng mẻ chai xuống chỗ đi cầu dưới ao vì sợ cá tra tranh nhau ăn cứt, quậy nước dơ bắn lên người, do đó dưới ao toàn là mẻ chai.

Chiều hôm ấy các em có vẻ buồn buồn, chúng nó lo âu vì không biết làm sao để có tiền ăn cơm. Nếu đi xin thì dễ bị công an bắt và đưa đi "nuôi" ở mấy "trường cải tạo" giáo dục thiếu nhi, huấn luyện cho chúng biết "lao động là vinh quang". Người ta thường bảo "cái khó nó bó cái khôn" nhưng đối với các em trai thì không vậy, "cái khó nó ló cái khôn". Chúng bàn nhau chung sức để dành tiền rồi góp lại mua sắm những bình điện ắc quy loại 6 vôn. Chúng lượm những cái căm xe đạp rồi mài cho thật nhọn, gắn vào những khúc tre, từng cặp một chúng chờ đêm tối xuống cùng nhau mở những nắp cống thoát nước dọc các vệ đường quanh chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, An Đông, Hòa Bình và Bình Tây chui xuống rọi đèn đâm chĩa cá.

Có một thời dân chúng thành phố đổ tội cho những em này ăn cắp những nắp cống bằng gang đem bán. Thật sự thì cũng có chuyện đó, nhưng không phải mấy em này ăn cắp mà là người khác. Vì nắp cống quá nặng các em không khiêng nổi nên chỉ đủ sức nạy lên rồi đẩy qua một bên. Những "bạn hiền" đạp xích lô sáng sớm đi ngang thấy tiện "bợ nhẹ" đi luôn mà không cần biết hậu quả xảy ra cho người đi sau vô ý lọt xuống. Sau khi xảy ra nhiều tai nạn sụp lỗ cống, công an và dân quân canh gác ngày đêm những miệng ống cống, các em buộc phải mở những nắp cống ở xa để tránh dòm ngó, có khi phải khui những miệng cống từ các đường Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ (Phan Thanh Giản cũ), Hùng Vương, An Bình, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi... Mỗi lần chui xuống, các em cẩn thận đậy nắp miệng cống lại để tránh gây tai nạn. Vào lúc giữa khuya hay tờ mờ sáng, khi muốn lên các em cũng mở he hé miệng cống nhìn dáo dác chung quanh rồi mới vội vàng nhảy lên.

Đường cống dài, luồn lách quanh co và tối om, nhưng nhờ những cái bóng đèn nhỏ gắn ở trên đầu, ở trước trán, chúng lùng sục, săn tìm được cá. Nguồn cá khá nhiều nên các em nhỏ không những có ăn mà còn dư đem ra chợ bán nên chúng có vẻ rủng rỉnh tiền bạc. Kể từ đó, vào mỗi buổi sáng chúng cũng gọi những bát phở loại 50 đồng ăn đàng hoàng, cũng "bắt chước" những nhà "trí thức" phế binh (chúng gọi chúng tôi như vậy, vì hay hóng nghe những chuyện anh em phế binh kể về cuộc đời lính tráng) ngồi uống cà phê và hút thuốc lá cho đỡ lạnh. Nhờ đồng tiền kiếm được, chị và em gái của chúng cũng sắm thêm vài manh áo mới mua ở các chợ trời bán quần áo cũ, mặt mũi trông sạch sẽ hơn.

Thằng Nô (12 tuổi) và Phát (14 tuổi) thì không thấy mua sắm gì, các bạn gọi chúng nó là "trùm sô". Cả hai quê ở Long An, là con của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà dẫn hai con về Sài Gòn sống lang thang. Một hôm hay tin mẹ mất, bà gởi hai đứa nhỏ cho một gia đình phế binh rồi về quê luôn, bà sống bằng nghề đi mót lúa và ở tạm nhà người bà con. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng cha chúng đi lính mặc áo "hoa rừng" (nhảy dù) chết vào mùa mưa năm 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha nên mỗi khi thành phố vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha rồi chúng cố "làm ăn" cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Trong khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ đêm thì chúng tiếp tục lặn lội dưới các ống cống để tìm thêm cá. Có những buổi sáng chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm người dưới nước quá lâu.

Vào một đêm nọ, chúng tôi sắp đi ngủ thì thấy hai anh em thằng Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống. Khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp ầm ầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài đến sáng sớm. Các ống cống rút nước không kịp làm nước mưa tràn lên các đường phố, ngập gần đến gối những bạn hàng dọn chợ đêm. "Bình thường hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè cùng lứa dưới cống để đâm thêm cá, nhưng giờ này trời đã gần sáng mà sao lạ chúng vẫn chưa lên ?", tôi lo âu tự hỏi. Thôi rồi, tôi hốt hoảng chợt hiểu ra mọi sự. Anh em chúng tôi báo động với nhau, kẻ đi tìm người đi hỏi những đám nhỏ còn ngủ gà ngủ gật cạnh những đống rác "giữ chỗ" trước cho buổi sáng hôm sau, nhưng không ai thấy hai anh em thằng Phát đâu cả. Chúng tôi buồn bã bàn tán với nhau, hình dung cảnh tượng nguồn nước mưa tuôn ồng ọc vào các cống rãnh, hai đứa nhỏ mãi mê bắt cá không biết bên ngoài trời mưa lớn, đến khi thấy nước dâng lên quá nhanh thì đã quá muộn, dòng nước đã bít các lối chui lên và cuốn trôi hai xác thân nhỏ bé. Ôi, cuộc đời thật quá mong manh.

Cho đến một hôm, 33 ngày sau, một em bé trai khác đang lội bì bõm dưới các ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải cái gì giống như "trái dừa", nó nhặt lên soi nhìn trước ánh đèn thì liền hét lên bỏ chạy, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của những bạn hàng, mặt mày tái xanh. Nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ và ban quản lý cho người mở nắp cống dọi đèn tìm kiếm xác hai đứa nhỏ, nhưng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa và một nửa thân người còn lại. Người ta biết là thân xác còn lại của hai đứa trẻ bất hạnh và bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha.

Kể từ đó bọn trẻ ở các chợ Cầu Ông Lãnh, Bến Thành, An Đông, Hòa Bình, Bình Tây và các chợ nhỏ khác không dám chui xuống những đường cống thoát nước của thành phố để kiếm cá nữa, chúng sợ ma. Từ đó biết bao nhiêu chuyện đồn đại về những xác người bị giết và bí mật quăng xuống cống để phi tang. Không còn em nào dám mạo hiểm xuống các cống nước để kiếm cá dù có đói. Thế là bọn trẻ tiếp tục chia nhau đi lượm bọc ny lông, giấy vệ sinh và xin ăn trên hè phố. Không có ánh sáng ở cuối đường hầm cho những cô nhi.

* * *

Trong cuộc sống đầy gian khổ, tạm trú ở đầu đường xó chợ hay trên vỉa hè, những anh em phế binh còn độc thân hiếm khi có ý nghĩ tìm người bạn đường. Phế binh Phan Tiến Dũng, thủy quân lục chiến cụt một chân, cũng vậy. Mặc dù còn trẻ, hiền hậu và đẹp trai nhưng từ sáng đến tối anh vẫn lầm lủi đi đi về về một mình với những bao nhang đèn. Có lẽ vì chọn nơi tạm trú ồn ào bên cạnh chợ An Đông, Tiến Dũng ít khi rãnh rỗi nhìn lên trời cao để biết rằng có một vì sao đang chiếu mạng. Thật buồn cười, có nhiều người ước ao sống trong hạnh phúc nhưng không bao giờ bắt gặp, nhiều người khác không ao ước gì thì luôn gặp may.

Trong chợ An Đông, có một phụ nữ người Việt gốc Hoa thích nghe chuyện lính. Cô tên Vòng A Muội, nhưng không hiểu tại sao ở chợ người ta thường gọi là "A Chế", còn anh em chúng tôi thì gọi là "A Phụng". A Muội, A Chế hay A Phụng là một thiếu nữ còn trẻ, duyên dáng và thật thà, cô thường hay giúp Tiến Dũng sửa soạn nhang đèn, thích nghe kể chuyện lính tráng, đánh giặc, bị bắt làm tù binh, v.v... Có lẽ A Chế có cha đi lính đánh giặc và chết trận nên mến Tiến Dũng chăng ? Mặc kệ, đó là chuyện đã qua, còn bây giờ A Chế đang hiện diện trong tập thể "gia đình" anh em phế binh chợ An Đông. Nhiều lúc tôi thấy A Chế nhìn Tiến Dũng với ánh mắt đăm chiêu, không nói gì. Anh em chúng tôi thường đùa giỡn, mối mai, khuyến khích Tiến Dũng rủ A Chế đi ăn chè. Cô không những không từ chối mà còn giành trả tiền ăn mì, ăn cháo ban đêm rồi bao Tiến Dũng đi coi cải lương và xem xi nê. Tình cảm của hai người từ đó ngày thêm gắn bó, anh em chúng tôi rất mừng.

bongma3

Cuộc sống thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa sau chiến tranh - Ảnh RFA

Tuy vậy cuộc sống trên hè phố chợt thoáng rồi tan. Mới hôm qua còn gặp nhau đó ngày mai thì chia tay vĩnh viễn. Có những cuộc gặp gỡ chỉ được một lần rồi không bao giờ xảy ra nữa. Hiểu được những điều ấy, những người sống lang thang trên vỉa hè như chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận mất mát, rủi ro và bất hạnh. Nhưng chính trong cuộc sống vội vã này nảy sinh biết bao tình cảm chân thật, rụt rè khiến cho anh em xúc động và càng muốn vun đắp cho nhau. Huống chi Tiến Dũng là một người bạn tốt, nghèo nhưng sống có tình có nghĩa, anh thường hay giúp đỡ anh em mỗi khi hoạn nạn nên rất được lòng người.

Anh em để ý thấy Tiến Dũng chăm chỉ đi bán nhanh, lại biết dành dụm tiền bạc. Những buổi trưa, Tiến Dũng chịu khó lê cái chân giả (anh cụt chân trái, xương còn mọc nên hay bị đau, đi lại khó khăn) ra ga xe lửa Sài Gòn. Ở đấy, bên góc đường Hàm Nghi - Phạm Ngũ Lão có những người đàn bà gánh cơm bán dạo, những dĩa cơm ấy rẻ vì có độn bobo (lúa mì thô dành cho súc vật), thức ăn là những con cá lòng tong kho mặn hay những con tép, giá 500 đồng một dĩa, trong khi ở cửa hàng quốc doanh một dĩa cơm bình dân giá rẻ nhất cũng phải từ 2.500 đồng đến 3.000 đồng. Tiến Dũng đã ăn những bữa cơm như thế, anh muốn để dành tiền mua tặng A Chế một cái quần tây màu cà phê sửa, kiểu điếu thuốc xì gà, bởi vì qua những mẫu chuyện trao đổi, Tiến Dũng khám phá ước mơ thầm kín của người bạn gái.

Có lần A Chế kể cho Tiến Dũng nghe : "Nhà em ở xóm Gò Vấp gần khu quân sự, những ngày cuối cùng của tháng 4 quân cộng sản pháo kích lung tung, đạn lạc vào nhà dân. Hôm đó, em cùng hai em nhỏ đang ngồi ăn cơm với mẹ thì nghe một tiếng ầm khủng khiếp. Cả xóm kinh hoảng, lao nhao la lên : "Pháo kích, pháo kích, chạy đi bà con ơi !". Em vội thu xếp đồ đạc cùng mẹ dẫn hai em chạy ra ngoài đường theo những người hàng xóm. Chạy ngang nhà con nhỏ bạn định rủ nó cùng chạy giặc như em, nhưng... ôi thật khủng khiếp. Nhà của nó tan hoang, đồ đạc gãy nát, máu thịt văng tứ tung. Đạn pháo kích rớt trúng nhà nó, giết chết cả nhà. Con Hoa nằm ngữa, thân hình phủ đầy bụi đen xì, tóc tai rũ rượi phủ trên gương mặt trắng bệch, trên ngực nó máu me đầm đìa, cơ thịt cánh tay phải của nó còn giựt giựt nhưng bàn tay bay đâu mất rồi. Em nhìn nhỏ bạn nằm im không cục cựa, lòng se thắt lại nhưng cái quần tây màu cà phê sữa của nó vẫn còn "mô đen" quá. Em nghĩ nhỏ Hoa khi chết mà còn mặc cái quần tây như thế chắc cũng được thỏa lòng".

Thạch Chia, phế binh Biệt Động Quân cụt chân phải, mặt đen như cột nhà cháy, nghe Tiến Dũng thuật lại liền nhe hàm răng ngựa cười khà khà :

- Còn chú rể nữa chi, hổng lẽ ngày lễ tuyên bố lại bận xà rong khoe cái giò bằng cây sao ?

Bà Hồng già, ho lao gần chết, phê bình A Chế :

- Đi lượm bọc ny lông mà bày đặt mặc áo bà ba - rồi bà lại hứa hẹn. Ê, đám cưới tụi bay tao đi nguyên con "dịt" cổ lùn Sa Đéc đó nghe !

Thạch Chia trề cặp môi dầy thâm xì :

- Ờ, con "dịt" của bà bằng mủ nhựa hả, ở Chợ Lớn bán thiếu gì. Nếu bà đi con "dịt" thì tui đi con heo Lái Thiêu !

Anh em cười hể hả. Thạch Chia bình thường ít nói, tính tình cộc cằn, nóng nảy, hôm nay hỗng hiểu sao như con nhồng lột lưỡi. Niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong anh em như áng mây bay làm dịu ánh nắng gay gắt ban trưa, nó như làn sinh khí thoáng lên bộ mặt xám ngoẹt của người hấp hối trước đi từ trần. Đang lúc những người khốn khổ đang quay quần đóng góp mỗi người một câu cho vui câu chuyện, cho đám cưới "tưởng tượng" ấy, chị Liên (quả phụ) bỗng nhiên lạc "tông", không hiểu sao lại tru tréo lên :

- Ôi giời ơi, nếu cộng sản đừng đánh vào miền Nam thì con tôi vẫn còn có cha.

Anh em chúng tôi biết là chị đang nghĩ tới đứa con trai duy nhất 8 tuổi của chị, thằng Đức, đang theo lũ trẻ cùng trang lứa moi móc, lặn lội trong những ống cống ngầm để tìm cá. Bà Hồng nhìn chị :

- Tháng này cũng bớt mưa rồi, không sao đâu mà ! - rồi bỗng dưng bà ấy thở dài nhìn các anh em phế binh nói tiếp. Giá mà tôi được sống lại giờ phút lịch sử ấy nhỉ. Tôi sẽ đến cùng anh em chiến sĩ, được chạm tay vào cò súng một lần thôi rồi lỡ có chết cũng cam lòng. Cứ đánh một trận cho tan tành té bẹ đi, ai xui thì chết, ai may thì sống, biết đâu sẽ hưởng được tự do.

Thạch Chia cười :

- Bà già cầm nổi cây M16 không ? Nếu nổi thì tui cõng bà nha, nhưng nhớ lỡ quýnh quá đừng có "xả" ướt lưng tui đó nha bà.

Bà Hồng già giả bộ không nghe trầm tư kể tiếp :

- Một hôm tui đang đi ăn xin, gặp trúng ngay nhà cán bộ, cha này người miền Nam tập kết ra Bắc hồi còn nhỏ, năm 1954. Tui lỡ bộ tính nói vài câu rồi rút êm, nhưng "ổng" nhìn tui có vẻ thông cảm. Cha này có vẻ "trí thức" chứ không phải bậm trợn dốt đặc cán mai như mấy thằng "cách mạng ăn theo" (còn gọi là bọn "30", hay "30/4").

Ổng kể : "Khi ấy tôi còn ở Tòa Thánh Cao Đài, chiếm được Tây Ninh và thấy cảnh sinh hoạt của dân chúng dưới chế độ mới, tôi hiểu là giải phóng rồi đồng bào miền Nam sẽ khổ như đồng bào miền Bắc nên chúng tôi đâu có muốn giải phóng thành phố Sài Gòn làm chi. Không hiểu sao lính miền Nam lại bỏ chạy, đầu hàng. Chỉ cần giữ vững tinh thần, cầm cự hơn tháng nữa thôi thì tụi nó sẽ kiệt quệ thôi, xe tăng hết nhiên liệu, đạn dược không được tiếp tế, tinh thần xuống thấp và nhất là đói".

Rồi ổng kêu "bả" (vợ ổng người miền Bắc, còn trẻ) vô lấy cho tui một kí gạo, dặn tôi nhớ né tránh mấy chỗ gác dân quân. Ổng nói : "Tụi nó còn hăng lắm, tập làm cách mạng, muốn lập công với đảng, chúng không ưa mấy người ăn xin bêu xấu chế độ đâu". Còn bả thì ân cần hỏi thăm tui bịnh lâu chưa, trời mưa có lạnh không, bả cho tui bộ quần áo rồi tâm sự : "Khi miền Nam giải phóng xong, tôi bỏ miền Bắc theo ông ấy vào trong này. Vì sau bao năm chịu đựng với nhà nước này, tôi hiểu ra một điều là đừng chờ đợi pháp luật hoàn tất, bởi vì pháp luật của nhà nước lập ra không phải vì nhân dân (mặc dù họ mượn danh nghĩa nhân dân, mà vì quyền lợi của nhà nước). Khi pháp luật chưa hoàn tất thì những người dân (ở trong Nam) hãy còn "kẽ hở" để mà sống, khi đã hoàn tất (như ngoài Bắc) thì chỉ có chết đói mà thôi". Bả còn nói thêm : "Miền Nam vẫn còn sung sướng hơn miền Bắc đấy chị ạ, cố mà sống và đừng nghe chính sách gì cả nhé bởi vì sẽ cứ thế mãi thôi. Họ lừa hết lớp người này xong lại tiếp tục lừa lớp người kế tiếp, ai cũng sợ hãi nên đành im lặng để mà sống".

Nghe xong tui nhìn bả ngỡ ngàng, tuyệt vọng. Một cặp vợ chồng được chế độ này ưu đãi đủ thứ mà còn nói như vậy thì kể gì đời sống của tui. Bả tiễn tui ra về : "Thôi, chị đi đi nhé, nói chuyện nhiều không ích lợi gì". Tui bật ra cơn ho rũ rượi, bả nhìn tui thương hại, bả biết là tui sắp "đi" rồi nên dặn nhỏ : "Xin đừng gọi chúng tôi là cách mạng".

Huệ và Đồng, hai người lính cũ, cùng nói :

- Té ra là người dân miền Bắc đâu có sướng gì. Họ cũng chỉ là nạn nhân của vụ lừa thế kỷ như miền Nam mà thôi. Trong khi chúng ta lấy ngày 30/4 (1975) là ngày quốc tang thì miền Bắc có ngày 10/10 (1954) làm ngày giỗ quê hương của họ.

Thạch Chia, vốn là con sâu rượu đế (anh còn có biệt danh "đại ca tiếu ngạo" vì hay cười cợt đời khi có rượu vô), thêm vào :

- Dzậy là đúng như bà Bình hay nói ở Hiệp định Paris : "Bình mới rượu cũ", chẳng có cải cách gì ráo trọi. Ôi, nói ba cái chuyện đó chi nghe bắt mệt. Ê, Lê A, mày tính đi đám cưới tụi nó cái gì đây ?

Lê A, phế binh Dù bị cụt cả hai chân phải gắn chân gỗ bước đi trên cặp nạng lều nghều như con cua, đáp :

- Tui chỉ cần đi một vòng chợ Hòa Bình, Nguyễn Tri Phương là đem về một bọc ny lông đầy đầu gà, cánh vịt, phao câu, "pê đan" giò dĩa, lòng mề đủ thứ cho anh "nhậm chẩu" mệt nghỉ.

Lê A triết lý thêm :

- Cái khổ của chúng ta là biết những cái mà chúng ta không giải quyết được. Khi mà mọi sự đã trở thành vô nghĩa, khi mà chúng ta bị hất ra bên lề đời sống và đã trở thành những bóng ma vật vờ trên những đường phố thì chúng ta hãy sống như những bóng ma, sống như kẻ vắng mặt trong cuộc sống hào nhoáng này, cứ để ngày tháng qua đi rồi cái gì phải tới sẽ tới. Thôi đừng mất thì giờ tìm ánh mặt trời vào giữa đêm khuya, không bao giờ có đâu. Đừng có được voi đòi tiên nữa, anh em hãy nhớ lại lúc ở kinh tế mới chúng ta mơ ước gì, chúng ta có khác gì con vật nay đang hưởng ân huệ của cuộc sống đây nè : được uống nước phông ten, được ăn đầu gà cánh vịt, được ăn "pê đan" giò dĩa, được "nhậm chẩu" còn gì sướng hơn. Hãy vui với những gì đang có.

Chị Liên thở dài u uất, tiếp tục lạc "tông" :

- Lạy Chúa của con ơi, Ngài có nghe không ? Người kiên trinh chung thủy sao lại bị bỏ rơi, kẻ man trá phản bội lại cứ được đền bù. Lũ Giuđa thời đại đang đè đầu cổ nhân dân đây này, lạy Chúa của con ơi.

Chị Liên nghĩ về chồng chị. Lần về phép sau cùng, anh biết cuộc chiến sẽ còn khốc liệt hơn nữa nhưng vẫn quyết chí ra đi bảo vệ đất nước. Giờ đây chung quanh chị bao nhiêu kẻ chạy theo cuộc sống mới, có ai cần gì đến lý tưởng. Kìa nhiều người còn chỉ lối, dẫn đường cho chế độ cộng sản khống chế cuộc sống nhân dân miền Nam, họ được đền bù bằng sự no đủ, ăn sung mặc sướng trong khi con chị, "giời ạ, giờ này đang chui đầu dưới ống cống". Chị nhìn bầu trời một hồi rồi mặc cả :

- Lạy giời, xin đừng mưa nữa, nhưng không mưa thì làm sao có cá. Thôi xin mưa nho nhỏ thôi, cho con tôi có được miếng ăn.

Trong lúc những anh em phế binh khốn khổ như Tưởng lù đù, Tài râu, Hùng cụt tay, Long què giò, Bin khờ... cứ chết dần chết mòn vì bệnh hoạn, bị bắt vào "nhà nuôi", thì trên đường phố xuất hiện nhiều gia đình miền Bắc đi ăn xin ở các hàng quán. Họ vào cả cơ quan nhà nước xin tiền tàu, vé xe để về lại quê. Họ không sợ gì cả. Họ đi từng làng, từng xã vào Nam. Họ có lý do để đi vì mất mùa, lũ lụt... Họ là những ngươi đã một thời tuân hành nghiêm chỉnh những chủ trương chính sách nọ kia của nhà nước cộng sản. Bây giờ nhà nước không còn quan tâm đến họ nữa, tất cả chạy theo chỉ tiêu "tưởng tượng", các báo chí, đài cứ lải nhải nói nọ nói kia, ngợi ca những con số, phóng đại những kế hoạch 5 năm, 10 năm, thậm chỉ lập kế hoạch cho nhiều thế hệ đến năm 2020. Nhân dân khốn khổ miền Bắc bị bỏ rơi cho nên bây giờ họ đi xin công khai đấy, nhà nước có giỏi thì cứ bắt đi, họ không đi lẻ tẻ, họ đi từng đoàn, ai mà đụng đến họ thì họ kéo cả bầy tới bao vây làm áp lực. Những cán bộ miền Nam sợ những đám bần dân này vì hễ gây khó khăn gì thì họ làm đơn khiếu tố, khiếu nại lên các cấp lãnh đạo gốc miền Bắc tại Sài Gòn. Họ dùng luật pháp nhà nước miền Bắc đặt ra để đòi hỏi, yêu sách ngược trở lại nhà nước miền Nam.

Thạch Chia tức lắm, trong khi anh là người "gương mẫu" tình nguyện đi xây dựng vùng kinh tế mới, thất bại trở về không nhà không cửa, vợ anh bị sốt rét rừng nằm rên ư ử như con chó, con anh 8 tuổi không biết chữ phải đi lượm rác (đi xin sợ bị bắt vào trường "giáo dục thiếu nhi bụi đời"). Anh đã nhìn thấy người ta giựt đứa con nhỏ ra khỏi tay người mẹ đang ngồi xin ăn rồi đưa đi cải tạo lao động, đứa bé 4 tuổi được đưa vào "nhà nuôi", một thời gian sau thì chết vì phổi có nước. Khi cải tạo về, người mẹ đến nhận con mới hay hung tin, từ đó bà trở thành người điên, ăn nói ngớ ngẫn, vô duyên. Biết thưa kiện ai trong xã hội này ?

Chưa phải hết, Thạch Chia còn buồn phiền cảnh đời thay đổi trắng đen. Có những anh em tàn phế như mình, trong cơn túng quẩn đến van xin anh giúp đỡ, hứa hẹn lung tung, khi được giúp rồi thì ôm tiền trốn luôn. Thật là phiền vì Thạch Chia dẫn những anh em đó đến giới thiệu với "anh Cả", một cựu sĩ quan cụt một chân, để đến chùa lãnh nhang về bán. Bán hết nhang những anh em này lo trả nợ nần riêng rồi đi luôn, ăn luôn cả vốn của mấy ông thầy, rồi ăn luôn cái chân cụt của người giúp đỡ mình. Thạch Chia xấu hổ với người "anh Cả", gầm lên : "Ta là một kẻ cương trường, một lần thất hứa còn gì thanh danh. Thôi lần này ra đi quyết không trở lại". Thế là Thạch Chia bỏ đất Sài Gòn, dẫn đứa con trai 8 tuổi vào Chợ Lớn... ăn xin.

Bà quản lý Chợ Lớn Mới (chợ An Đông) là một phụ nữ mập ú, thân hình tròn như cái lu, trên khuôn mặt bánh bèo lủng lẳng một cặp má heo, nung núc những thịt và mỡ. Bà ngồi chễm chệ giữa chợ, giương cặp mắt cú vọ quan sát khắp nơi qua cặp kiếng trắng gọng vàng nằm ở xệ ở chóp mũi. Cặp mắt kiếng không làm tăng thêm vẻ "trí thức" sỏi đời mà chỉ tạo cho bà nét nghiêm khắc, soi mói lỗi lầm của người khác. Một ngày kia nhìn thấy hai cha con Thạch Chia đang ăn xin ở dãy hàng thịt, bà dẫn hai dân quân cầm AK47 tiến đến, bắt quả tang thằng nhỏ đang chìa nón xin tiền một khách hàng. Thế là... "chách" một cái, bà vả vào mặt thằng nhỏ thật mạnh làm nó khóc rống lên. Nghe tiếng con khóc, Thạch Chia đang khất thực bên dãy kia vội vàng chống nạng lò cò (anh không mang chân giả khi đi xin) nhảy đến cạnh bà quản lý chợ, rồi bất thần khom người xuống... "huỵch" một cái, anh thúc cùi chỏ vào mặt bà quản lý làm bà ngã bệt xuống vũng nước hôi hám ở hàng thịt, áo quần bê bết sình đen, cặp mắt kiếng cũng văng sang một bên. Hai dân quân ngơ ngác, người đi chợ đứng nhìn. Vừa lồm cồm ngồi dậy vừa quơ tay tìm cặp mắt kiếng, bà hầm hầm chỉ tay vào mặt Thạch Chia hét lên :

- Bớ người ta ! Quân ăn cướp ! Trời ơi quân ăn cướp đánh người ! Ngụy quân, bà con ơi. Ngụy quân làm loạn. Ăn cướp, ăn cướp, bắt nó lại, bớ người ta !

Thạch Chia quơ nạng trước mặt bà hăm dọa :

- Đ... mẹ, ăn hiếp con nít hả mậy ! Đồ heo nái...

Chưa nói kịp hết câu thì... "bộp" một cái, báng súng của một dân quân thúc vào miệng của anh, máu tuôn xối xả. Hàm răng đang còn ê ẩm, chưa kịp phản ứng gì thì "bịch" một cái nữa, lưng anh bị dân quân kia nện cho một cây gậy. Sau đó là những tiếng "thình thịch" vang lên, hai dân quân đấm đá loạn xạ vào người anh như đánh trống cúng đình trong ngày giỗ hội. Thạch Chia chỉ biết khom người ngồi xuống, hai tay che mặt, che đầu. Dân chúng hai bên bất mãn đứng nhìn, một ông già la lên :

- Tụi bây muốn giết người hả ? Bộ không thấy nó què giò hay sao mà đánh đập dã man như vậy ?

Thạch Chia nằm lăn lộn giữa vũng sình hôi hám, người ngợm đen sì, hai tay ôm đầu tránh né đòn thù. Đánh đá một hồi, bà quản lý giả bộ đứng ra can và phân trần với bà con :

- Thằng này là ngụy quân, nó định giết tôi. Coi nè (bà chỉ vào má bên trái vừa bị Thạch Chia thúc cho một cùi chỏ còn tím bầm), nó tính ám sát tôi đó thấy không.

Bà con trong chợ nhìn bà quản lý một cách khinh bỉ, nhiều chị phụ nữ còn che miệng cười khúc khích. Một dân quân túm áo lôi cổ anh dậy, dân quân kia trói quặt hai tay anh ra phía sau. Thạch Chia gào lên giữa hai hàm răng loan đầy máu đỏ :

- Các người biết sống thì cũng để cho người khác sống với chớ. Tui cũng là con người, tôi cũng muốn sống như mọi người chớ có giựt đồ ai đâu ?

Bà quản lý sửa lại cái kính, giả bộ hỏi :

- Nó nói vậy là sao ?

Một dân quân nét mặt hầm hầm hô lên :

- Đưa nó về trụ sở, để nó ở đây mất "quan điểm" với nhân dân.

Thằng con anh may mắn trốn thoát chạy về báo động, ai cũng khuyên nó ngồi yên nghe ngóng. Về tới trụ sở, Thạch Chia chửi bới một hồi thì bị một dân quân khác tát vào mặt mấy cái rồi đá một cú giò lái vào bụng, anh ngã quỵ xuống nằm im bất động. Chiều hôm đó, người ta lôi anh ra xích vào một cây cột giữa trời trong nghĩa địa Triều Châu, nay là Khu Du Lịch Đầm Sen. Cũng may là cây cột bị mục. Trời mát dần, Thạch Chia hồi tỉnh lại, anh đứng một chân chịu đựng từ buổi chiều đến tối. Vào lúc giữa khuya, bọn dân quân ngủ gà ngủ gật, anh lấy tay lay cho cây cột mục ngả xuống rồi từ từ rút tay bị xiềng ra khỏi thân cột. Anh vác sợi dây xích nặng 12 kí lô lên vai, nhảy lo cò ra ngoài lộ đón xe xích lô về gặp lại anh em. Vợ anh sụt sùi khóc và xoa muối ở các chỗ đau bị bầm tím trên thân mình anh. Chưa hả giận, Thạch Chia nói với vợ :

- Mài cho tui cái rựa, tui không sợ thằng nào hết, phải ăn thua đủ với tụi nó thôi. Ai cũng một lần chết, tui phải chết anh hùng, không chịu nhục được nữa. Tui có trời độ mà đừng lo.

Mọi người khuyên can mãi Thạch Chia mới nguôi. Rồi những khó khăn thường nhật trong cảnh sống bần cùng cứ bẻ gãy dần ý chí "đứng thẳng người" của anh em phế binh. Làm sao đứng thẳng được khi chỉ còn một chân, tay này chống nạng tay kia chìa ra xin tiền bố thí. Làm sao đứng thẳng khi đàn con nheo nhóc kêu khóc vì thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu học. Thạch Chia nhìn thẳng vào cuộc đời trước mắt, chịu đựng và nhịn nhục. Ai sống thì cứ sống, ai chết thì cứ chết. Thạch Chia bất lực và tuyệt vọng.

Bà Hồng già chết rồi. Bà chết khi đang đi xin ở chợ Nguyễn Tri Phương. Bà được một bạn hàng cho một trứng hột vịt lộn, khi đang ăn thì máu từ miệng ộc ra, bà mắc nghẹn ngộp thở chết. Những anh em khác khôn ngoan hơn tìm đường ăn xin ở những vùng xa. Vào những dịp lễ lớn như Tết Nguyên Đán, họ xin ăn ở Thánh Thất Cao Đài Tây Ninh. Công an và cán bộ có trách nhiệm thu gom không bắt họ ngay mà chờ cho họ xin năm ba ngày, khoảng mùng 6 hay 7 gì đó rồi mới ào tới bắt và tiền xin được bị tịch thu sung vào "công quỹ" riêng. Anh em nào có kinh nghiệm, chỉ xin ăn một hai ngày rồi chuồn đi thì thoát nạn, hoặc là ra mấy tiệm vàng ở chợ Long Hoa mua vài ba phân vàng cất vào túi, lỡ khi bị bắt trong các chiến dịch thu gom thì dúi cho nhân viên thi hành số vàng đó để họ ngó lơ rồi trà trộn vào nhà dân tẩu thoát. Nhưng cũng phải cẩn thận vì nhiều khi "tiền mất tật mang", cán bộ thu gom ác ôn vừa lấy tiền vừa bắt giam người.

Những loại tin như vậy càng làm anh em mệt mỏi và nản lòng vì khi ấy chưa có các hội đoàn nhân đạo và ân nhân tại hải ngoại biết đến hoàn cảnh của anh em phế binh trong nước để mà giúp đỡ. Cuộc sống của người nghèo khổ rất là khắc nghiệt, mọi người cảm thấy như nghẹt thở trong nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa này. Những khẩu hiệu, bích chương, biểu ngữ loại "đánh cho Mỹ cút, đánh Ngụy nhào", không còn gây chú ý cho bất cứ ai trong thành phố. Riêng anh em phế binh, cô nhi, quả phụ chúng tôi thì thấm thía câu "đình đám người, mẹ con ta" vào những ngày lễ mừng "quốc khánh" như ngày 2/9 này. Trong lòng chúng tôi tuy không dám nói ra vì sợ trả thù, khủng bố, tù đày nhưng lúc nào cũng ngầm ngầm "nỗi hờn vong quốc" và những cảm xúc giận hờn không biết phải trút vào đâu.

* * *

Trở lại cuộc tình giữa Tiến Dũng và A Chế. Thấm thoát đã ba năm hai người hiểu nhau khá lâu và cảm thấy cần phải có nhau trong đời. Anh em cũng mừng vì cuộc đời phế binh vẫn còn có người thương mến và cũng nhân dịp gặp lại nhau, thăm hỏi, vui chơi và ăn uống cho bỏ những ngày cực khổ lang thang đó đây. Vả lại, những dịp lễ "quan trọng" của người cộng sản như thế này, kinh nghiệm cho anh em biết là không nên đi đứng ngoài đường lêu têu dễ bị chiến dịch "làm sạch đẹp tành phố" thu gom lắm. Thế là anh em quyết định chọn một chỗ gần chợ An Đông, nơi "cư ngụ" của Tiến Dũng và A Chế làm lễ cưới.

Hôm ấy mỗi người một chút tùy theo khả năng mà đóng góp. Chú rể và cô dâu "chịu" năm kí gạo ngon và một kí cá biển, mắm muối, bột ngọt, v.v... Anh em khoảng chừng mười mấy người, toàn là phế binh què cụt, vài bà quả phụ cũng đến chung vui, mỗi người góp thêm vài bó rau sống và những nhúm mì vụn mà các em cô nhi đi xin được. Lê A giữ lời hứa "danh dự" đi bán nhang một vòng đường Nguyễn Tri Phương, vừa mua vừa đổi nhang mang về một bọc gần ba kí đầu gà, cánh vịt, lòng mề, ruột heo và những cái chân vịt quay. Thành và Bé Ba thì đi một vòng chợ ca bài "Qua Cơn Mê" nên cũng đem về đóng góp vài trăm gờ ram chả cá. Chị Mạc vì chồng mới chết nên anh em cảm thông không để chị đóng góp, nhưng chị cũng xà vào phụ với cô dâu và mấy bà quả phụ khác nấu nướng.

Người vui nhất có lẽ là Thạch Chia, không biết bằng cách nào anh đã mang đến một can mười lít rượu đế, gọi là để "mừng đôi trẻ" nên duyên chồng vợ. Chú rể Tiến Dũng mặc cái áo sơ mi trắng dài tay, cái quần xanh nước biển càng khiến anh ra vẻ học trò. Cô dâu A Phụng thì mặc cái quần tây màu nâu kiểu điếu thuốc xì gà và chiếc áo bà ba cùng màu, theo cách nói của Thạch Chia, ra vẻ "tân cổ giao duyên" nhưng mà "kệ bà nó". Thạch Chia mở đầu buổi lễ :

- Hôm nay chúng ta đều có mặt đầy đủ, chỉ thiếu bà già Hồng, thôi kệ bả, mình cúng bả một ly khai màn là được rồi.

Vừa nói anh vừa đổ một chút rượu xuống đất, rồi anh đưa lên môi uống một cái ực chỗ còn lại. Anh thì thầm : "Kính lão đắc thọ". Anh gắp cái mề gà, đôi cẳng vịt quay bỏ vào cái dĩa mời bà Hồng già "về" ăn. Tiếp đó anh em nâng ly chúc cô dâu A Chế và chú rể Tiến Dũng được nhiều may mắn trong cuộc sống, sớm thoát ly cuộc đời nghèo khó, có đàn con đông v.v...

Thức ăn gồm ba món để trong nồi, ai ăn nấy múc, tô dĩa của khách để dưới nền gạch. Đầu tiên mỗi người làm một tô cơm với cá kho cho chắc bụng, sau đó là cuộc nhậu gồm một món canh hầm bà lằng đủ thứ nấu với xương heo, phổi, huyết, bao tử cùng những thứ rau cải, giá, hẹ, mì vụn... và những con cá nục chiên sốt cà chua. Món đầu gà, cánh vịt của Lê A được chiếu cố kỹ lưỡng vì mùi vị thơm thơm của nó gợi cho anh em cảm giác về những món ăn mà trước kia anh em đã từng được thưởng thức.

Câu chuyện trở nên rôm rả hơn khi có thêm mấy người anh em từ Thủ Đức cùng đến chung vui. Họ đem theo mười mấy ổ bánh mì, vài bịch huyết luộc và một kí lô ruột bò. Vài người làm nghề bốc vác quanh chợ cũng nhào vô nhập cuộc, đóng góp mười lít bia hơi cùng hai kí phá lấu vụn. Mãi vui, trời đã về chiều, chợ đã dẹp xong, anh em mỗi người góp vui một bài ca nào đó. Thạch Chia lúc này mặt mày đỏ như con tôm luộc, gõ đũa vào dĩa nước chấm, ca bài "Xuân này con không về". Lê A ngâm nga bài "Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Huệ khen cô dâu : "Đẹp ghê nơi đó à nha". Nãy giờ chú rể không uống rượu, bấy giờ "hội đồng" bắt phạt hai người phải hát bản nhạc Tàu "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài". Đồng hứng quá hát bài "Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi...". Riết rồi mỗi người chêm vào một câu, mạnh ai nấy nói. Tự nhiên giữa lúc mọi người đang chan hòa niềm vui, chị Liên lại lạc "tông" :

- Giời ạ, nước mất nhà tan, gia đình ly tán thế này mà còn vui nỗi gì !

- Trời đất, đám cưới mà thế này thì xui quá - Thạch Chia sắp sửa rầy chị thì ở góc đường xuất hiện hai dân quân, tay đeo băng đỏ và cầm gậy đi tuần.

Anh em im bặt vì nhận ra họ là những người có trách nhiệm giữ an ninh ở khu chợ này. Họ bước đến gần, người to lớn vạm vỡ hất mặt hỏi :

- Này, mấy người làm cái gì ở đây mà ồn ào thế hả ? Âm mưu gì đó ? Định tụ tập gây rối trị an, làm xáo trộn đời sống của nhân dân hả ?

Vừa hỏi xong, người to lớn thò đầu vào bàn nhậu quan sát. Tiến Dũng còn tỉnh táo, vội phân trần :

- Dạ, tụi em đâu có làm gì đâu, đồng chí.

- Câm mồm ! - người to lớn nạt nộ. Ai đồng chí với lũ Mỹ Ngụy chúng mày.

Tiến Dũng vội nói :

- Dà, anh Hai tha lỗi, bữa nay đám giỗ ông bà, tụi em lỡ vui quá.

- Im ngay, không thì tao cho một cái tát vào mặt bây giờ. Ăn với nhậu - người to lớn lừ con mắt nghiêm nghị. Ngày xưa tụi tao ở trong rừng, ăn củ năng ấy mà còn đánh giặc, có đâu ăn nhậu lười biếng như chúng mày, không đóng góp gì cho nhân dân, cho cách mạng cả.

- Còn mày ? - người trẻ tuổi dựa hơi "cách mạng" hất hàm hỏi Lê A, lúc đó đang mặc chiếc áo lính màu hoa rừng còn tươm tất. Ngày xưa giết được bao nhiêu Việt Cộng rồi, cấp bậc gì, sĩ quan hả ?

     Thạch Chia mặt đỏ gay, ngước mắt nhìn người dân quân trẻ, trả lời thay :

- Nó ở kinh tế mới về, bị sốt rét rừng, đi bán nhang thấy... mẹ luôn. Vì ít bữa nữa cũng tới lễ quốc khánh 2/9 rồi, nó ghé đây ăn mừng mà. Sĩ quan gì cha nội.

Người to con bước xấn tới, hất đổ ly rượu trước mặt Thạch Chia :

- Ai hỏi mày mà thay lay.

Quá mức chịu đựng rồi, giọt nước đã làm tràn ly. Thạch Chia bật đứng dậy và... trời ơi anh có võ Tàu. Hai ngón tay của Thạch Chia chĩa tới như hai cái dùi đâm vào mắt người to con theo thế "song long sang châu" (con rồng cướp trái châu). Nhưng người to con cũng không phải tay vừa, hắn ngửa mặt ra phía sau né đòn rồi nghiêng người quét ngang chân phải vào cái chân còn lại của Thạch Chia (anh quên mang chân giả vào). Thạch Chia mất thăng bàng té ngồi xuống đất, người to con xông tới, hai người vật nhau lăn lộn dưới đất. Người to con đè đầu Thạch Chia xuống, thét bảo người trẻ tuổi phụ trói Thạch Chia đưa về trụ sở. Lê A nãy giờ cố gắng nhịn nhục, liền lao tới đập cái tô canh vào đầu người trẻ tuổi. Chú rể không uống rượu, bấn loạn tâm thần, cũng bước tới túm tóc người to con lôi dậy, quất cái chân giả vào mặt một cái "bộp", máu rỉ ra nhền nhệt. Say máu vì thấy người to con tay còn nắm tóc Thạch Chia, Tiến Dũng co tay quất thêm một cái nữa vào đầu khiến người to con chúi nhủi về phía trước. Huệ và Đồng nhào tới, chị Liên thét bảo con tìm cục gạch. Những tiếng thoi, đập vang lên liên hồi. Hai dân quân quên cả đau lật đật ngồi dậy, bỏ chạy.

Chưa đầy mười phút sau, anh em phế binh cùng bạn bè chưa kịp chạy trốn thì một toán dân quân khoảng hơn chục người cầm gậy gộc và súng AK chạy tới bao vây các ngõ chợ. Trời vừa xẩm tối, mạnh ai nấy chạy. Toán dân quân hễ cứ thấy ai mặc áo lính, què cụt, bước chân dậm dệch là nhào tới đánh đập. Thạch Chia bị nện báng súng tới tấp vào mình, Huệ và Đồng bị hai dân quân khi nãy nhận diện nên bị đánh hội đồng, Huệ mềm người gục xuống, máu từ miệng ồng ộc chảy ra... Chủ rể nhờ khuôn mặt hiền hậu, đẹp trai, mặc áo sơ mi trắng, quần xanh dương, dáng học trò nên dân quân sơ ý không nhìn thấy cái chân giả, thoát nạn. Anh cùng cô dâu trốn ra khỏi chợ, ngồi co ro ở một góc đường. Những người dự tiệc bị bắt dẫn đi. Thạch Chia cũng bị lôi theo, hai tay bị trói tay quặt ra đằng sau, nhảy cà nhắc theo toán dân quân. Chú rể thấy người anh của mình bị hành hạ, định bước ra can thiệp, cô dâu A Chế nắm chặt tay Tiến Dũng, nhìn anh với vẻ van nài tha thiết :

- Không làm được gì nữa đâu, anh !

Thấy cô dâu chú rể đứng bên kia góc đường lẫn lộn với đám người hiếu kỳ, Thạch Chia mặc dầu bị lôi đi xềnh xệch vẫn tìm cách quay đầu lại nói với đám đông :

- Đừng làm gì vô ích anh em ơi. Chúc cô dâu chú rể hạnh phúc.

Tiến Dũng im lặng nhìn những bạn đồng cảnh ngộ bị giải về trụ sở dân quân, lòng đau như cắt. Anh bất lực. Cuộc đời kham khổ của những anh em phế binh trở về những tháng ngày đen tối.

Đoàn người bị trói tay đi theo toán dân quân đằng đằng sát khí, tay cầm gậy gộc, súng ống, miệng thì chửi bới tục tằn, họ hùng hùng hổ hổ như thể sắp lôi ra pháp trường hành quyết những kẻ thù không đội trời chung.

Chúng tôi có làm gì để trở thành kẻ thù của ai đâu, chúng tôi chỉ muốn được vui chơi như mọi người khác trong một tiệc cưới mà cũng không yên. Lê A chịu không nổi cảnh kham khổ trong trại cải tạo đã chết một năm sau đó, để lại hai đứa con gái hiện đang hành nghề bia ôm trên các vỉa hè.

Viết lại theo lời thuật của Nhị Nguyên

Mục lục :

NMĐRN 1.0 - Lời tựa 

NMĐRN 1.1 - Có một niềm tin 

NMĐRN 1.2 - Những bóng ma trên hè phố 

NMĐRN 1.3 - Chúng tôi phải sống 

NMĐRN 1.4 - Cuộc đời tưởng đẹp như bài thơ

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển
Published in Tư liệu
samedi, 18 décembre 2021 15:17

NMĐRN 1.1 - Có một niềm tin

1.1. Có một niềm tin

 

Sau biến cố 30/04/1975, gia đình và bản thân tôi nói riêng và đại gia đình anh em phế binh nói chung sống những ngày đen tối. Vì bị chế độ mới xếp vào loại "thành phần xấu", chúng tôi bị áp bức đủ điều. Nhà cửa của chúng tôi vốn đã không có gì bị cưỡng đoạt, thân thể không nguyên vẹn của chúng tôi cũng bị cưỡng chế và chịu đựng đủ mọi nhục hình. Một số anh em chúng tôi bị cưỡng bức đưa đi "tập trung cải tạo". Tập trung cải tạo ở đây phải hiểu là đi ở tù, tâm hồn và thể xác bị hành hạ. Nhà tù ở đây cũng không phải là nhà tù trong những thành phố mà là giữa chốn rừng sâu, khỉ ho cò gáy, trong những căn cứ của cộng sản cũ, thiếu thốn trăm bề. Nhiều anh em chúng tôi đã bỏ mình, thân thể nằm lại vĩnh viễn tại những chốn này, mồ hoang cỏ lạnh và bị đời quên lãng.

ktm1

Người ta cưỡng bức gia đình chúng tôi ra khỏi thành phố và đưa vào những vùng kinh tế mới giữa chốn rừng thiêng nước độc. Ảnh minh họa 

Gia đình chúng tôi cũng không thoát nạn. Người ta cưỡng bức gia đình chúng tôi ra khỏi thành phố và đưa vào những vùng kinh tế mới giữa chốn rừng thiêng nước độc. Ông già, bà cả, vợ con tay yếu chân mềm, chưa bao giờ biết chặt cây phá rừng, đào mương phát rẫy, đều phải vật vả làm lụng mới có ăn. Những người bị thương tật như chúng tôi, không đủ sức cày sâu cuốc bẩm, khai phá núi rừng, đã bị chói nước rét rừng ngã bệnh nặng trong các vùng kinh tế mới. Tại những nơi này, người ốm đau không có thuốc men chữa trị, người không có sức lao động không có cơm ăn, trẻ em không biết trường học, ông già bà lão thì thiếu ăn thiếu áo. Sau một thời gian, phần lớn những người đi vùng kinh tế mới đều lén trở về thành phố, trong đó có chúng tôi vì không muốn bỏ mình trong chốn rừng sâu.

Trở về thành phố (Sài Gòn) thân yêu, dù phải hành khất xin ăn, lượm vỏ ve chai hoặc bọc ny lông cũ, sống trong cảnh đói khổ kiệt cùng chúng tôi cũng cam chịu. Vì nhờ đó chúng tôi có tiền mua gạo nấu cơm ăn cho đỡ đói. Đêm đêm chúng tôi phải ngủ bụi ngủ bờ, đầu đường xó chợ, vì không nhà không cửa và không có người quen thân để có chỗ che mưa trú nắng.

Ngày ngày chúng tôi chống đôi nạng gỗ lê lết tấm thân tàn đi xin ăn hết nơi này đến nơi khác, gặp gì lượm đó. Cũng nhờ bà con cô bác rủ lòng xót thương, bố thí cho chút tiền mọn hay chén cơm bạc, chúng tôi cũng sống tạm qua ngày. Nhiều lúc quá mỏi mệt, sức lực kiệt cùng, anh em chúng tôi bạ đâu ngủ đó, ngủ thiếp đi lúc nào không biết đến khi bị "người của xã hội này" bao vây tứ phía lúc đó mới tỉnh dậy thì quá muộn màng. Người ta lùa anh em chúng tôi lên xe bít bùng, đánh đập những người chống cự và chở vào trại tập trung. Về đến trại, dù với tấm thân tàn phế, anh em chúng tôi cũng bị đày đọa dầm sương, dãi nắng suốt ngày. Từ sáng sớm, từng tốp người chống nạng lò cò, lọt thọt, bị chia toán đi lao động, nhóm thì cuốc đất trồng khoai, tưới nước ở những miền đất xa, nhóm thì ở lại trại rào kẽm gai, nhổ cỏ. Mỗi ngày người ta chỉ cho ăn tiêu chuẫn mỗi bữa một chén cơm bạc với muối hoặc một củ khoai nướng khét.

Không chịu nổi cảnh khổ cực, đày ải trong các trại tập trung lao động đó, nhiều anh em đã tìm cách trốn trại về lại thành phố. Những ai không may bị phát hiện thì coi như lúa đời, hình phạt dành cho những người trốn trại rất là tàn ác. Mỗi khi nghe tiếng kêu la thảm thiết vọng về từ phòng tra tấn, chúng tôi ai nấy đều xót thương cho những anh em xấu số. Không hiểu tại sao cũng là người như nhau mà người ta có thể tàn ác với nhau đến như vậy, kinh ngạc hơn nữa là tàn ác với những người tàn tật chỉ vì quá sợ họ mà tìm đường trốn thoát. Trưa hôm sau, một vài anh em chúng tôi được gọi lên văn phòng dìu người bạn xấu số về lại phòng giam. Không ai cầm được nước mắt và căm hận khi thấy dáng người phế binh nằm bất động, máu me be bét, hơi thở khó khăn, mặt mũi sưng vù đầy vết tím đen. Những người quản trại dùng báng súng đánh vào đầu anh, dùng chân đá vào người anh và lấy cây đánh cả vào vết thương đã lành nơi khúc chân bị cưa. Máu từ vết thương cũ ở khúc chân cứ ri rỉ theo tiếng rên. Làm sao với một thân hình ốm yếu, cụt què như anh ta chịu nổi đòn thù. Vài ngày sau, anh bạn xấu số kia lìa đời, xác thân bị chôn vùi nơi chốn trại này. Chúng tôi cúi đầu nhìn người ta mang xác anh thảy vào một hố đất ở bìa rừng. Xét cho cùng, chúng tôi là những người thất trận và thật bại trước bạo tàn. Chúng tôi đã không bỏ xác trên chiến trường nhưng đã ngả gục nhục nhã nơi đây bởi những con người hèn mọn.

Thời gian cứ trôi qua. Chúng tôi chứng kiến hàng ngày cảnh đời trái ngang và đau lòng đó. Và chúng tôi là một trong những số ít người may mắn sống sót trong những trường trại đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại làm chứng nhân những điều mắt thấy tai nghe và thét lên tiếng kêu cầu cứu giùm những người không còn tiếng nói. Tưởng nhớ lại những người anh em xấu số bị hành hạ và phải bỏ mạng trong nỗi nhục đó, nước mắt chúng tôi cứ tuôn trào.

ktm2

Người thương phế binh cụt hai chân băng qua đường giữa Sài Gòn nắng gắt năm 1980 - Ảnh Nam Úc tuần báo

Chúng tôi là những nạn nhân thiệt thòi nhất trong cái xã hội này, một xã hội mang tên xã hội chủ nghĩa nhưng bóc lột không ai bằng. Không những thế nó còn tàn ác hơn cả thú dữ, cảnh đánh đập, chửi bới người cùng khổ xảy ra hàng ngày và công khai. Chính quyền cộng sản đã không làm một cử chỉ gì giúp chúng tôi cải thiện cuộc sống mà còn tìm cách vùi dập, đàn áp không cho chúng tôi xuất hiện trước mắt người khác. Họ chỉ muốn chúng tôi chết đi cho khuất mắt họ, họ không muốn lương tâm họ bị dằn vặt bởi cuộc sống khó khăn do chính họ gây ra. Chúng tôi có làm điều gì ác đức đâu để phải bị hành hạ như vậy, chỉ vì quá nghèo đói chúng tôi phải lang thang cầu thực, chúng tôi có cướp bóc, lường gạt ai đâu mà bị đối xử vô nhân đạo như thế ? Những người đại diện chế độ này không có tình người, họ không những ăn sung mặc sướng, ỷ lại chức quyền, cướp của công, ăn hối lộ và làm tiền người khác mà còn ruồng bỏ, hất hủi những người đã bị họ lợi dụng.

Trên bước đường ăn xin, chúng tôi còn chứng kiến bao cảnh trái ngang của những gia đình "cách mạng", có nhiều "liệt sĩ" bị hất hủi, bị bỏ quên bởi chính đồng đội cũ của con cháu mình. Không những thế những đám thanh niên vừa mới lớn lên, a dua theo chế độ này, còn vênh vặt chửi bới những "bà mẹ chiến sĩ" buôn thúng bán bưng lấn chiếm lòng lề đường. Ôi, cảnh đời thật quá bất công ! Chúng tôi chỉ là những kẻ sống bên lề cuộc sống, không có quyền gì cả, kể cả quyền đi ăn xin.

ktm3

Chúng tôi là những chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu anh dũng với kẻ thù - Ảnh thomasviet.wordpress.com

Những khi bị đời hất hủi, chúng tôi chỉ tìm an ủi khi nhớ lại dĩ vãng xa xưa. Dù sao chúng tôi cũng có một thời oanh liệt và đáng tự hào, chúng tôi là những chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu anh dũng với kẻ thù, trừ gian diệt bạo trên khắp nẻo đường Việt Nam thân yêu, đem lại bình yên cho đất nước, yên bình cho muôn dân. Chẳng may khi bị thương, anh em chúng tôi phải bỏ đi một phần thân thể, giã từ vũ khí trở về đời sống dân sự.

Trước kia, chúng tôi được mọi người kính mến, nhân phẩm được tôn trọng, nhưng từ sau 30/04/1975 chúng tôi sống trong hỏa ngục. Làm sao có cuộc sống bình thường khi mỗi ngày phải tìm cách đối phó những nanh vuốt, tránh né những đòn thù của kẻ ác. Vũ khí tự vệ của chúng tôi là chịu đựng và niềm tin.

* * *

Riêng về cá nhân tôi, thời trai trẻ đã tham gia nhiều cuộc hành quân diệt giặc. Chẳng may năm 1970, trong một trận đánh, tôi đã để lại một khúc chân trên rừng núi Tây Ninh. Trở về đời sống dân sự, cuộc sống của tôi cùng với gia đình cũng tạm yên. Nhưng không ngờ đất nước thân yêu rơi vào tay giặc, cuộc sống bình yên bị cướp, chúng tôi trở nên nghèo khổ. Chúng tôi bị phân biệt đối xử, sống trên quê hương tưởng như sống trong vùng đất lạ, chúng tôi không có quyền gì cả, kể cả quyền ăn xin. Chúng tôi sống trong sự kềm kẹp, trên đe dưới búa, và không còn ai nâng đỡ trong quảng đời tàn phế này. Chúng tôi đã gào thét lên đến trời xanh : "Tại sao cuộc đời anh em chúng con quá vô phước, bất hạnh thế này", mà trời cao nào có thấu cảnh đời đen tối mà anh em chúng tôi đang trải qua, một cuộc sống khổ nhục tuyệt vọng không có ngày mai.

Có lần đi ngang qua cầu Sài Gòn, anh em chúng tôi nắm tay nhau định nhảy xuống sông để tự tử nhưng nghĩ đến mẹ già, vợ dại, đàn con thơ không ai chăm sóc, chúng tôi chỉ biết ôm nhau khóc thương cho số phận. Lúc đó tôi chợt nhớ đến lời người bác tôi nói một câu như thế này : "Con chó nó còn muốn sống để ăn, tại sao tụi mày lại muốn chết ? Phải sống để nhìn đời. Thà chết trên chiến trường còn hơn chết trên đường người ta đi". Từ đó chúng tôi có lại niềm tin, tin rằng sẽ có một ngày mai tươi sáng, tươi sáng cho chính chúng tôi và tươi sáng cho đất nước này. Chân trời sáng đó đã đến.

Một hôm đang trên đường khất thực, chúng tôi được một người tốt bụng nói rằng ở hải ngoại có nhiều người giàu lòng nhân ái muốn giúp đỡ anh em phế binh đang sống khổ sở tại quê nhà. Hay được tin này, anh em chúng tôi vui mừng quá cỡ, mừng đến rơi nước mắt, thân thể run rẫy. Một trong những người đó là bác sĩ Phan Minh Hiển, với tấm lòng bao dung bác sĩ Hiển đã lao mình xuống hố sâu kéo anh em phế binh chúng tôi lên bờ danh dự.

Bác sĩ Hiển đã tặng cho anh em chúng tôi mỗi người tùy theo thương tật một cặp nạng hay một xe lăn, sau đó tùy hoàn cảnh của mỗi người tặng cho chúng tôi tiền. Ôi, còn gì sung sướng cho bằng, sung sướng không những cho anh em phế binh chúng tôi mà sung sướng cho cả gia đình. Chưa bao giờ chúng tôi được nghe lại những tiếng cười rộn rã của gia đình và vợ con đến như vậy. Trong giờ phút lâm nguy, nghĩa cử cao đẹp đó thật là quí.

Kế là các ký giả Nguyễn Văn Huy (báo Thông Luận, Ngày Nay và Việt Luận), Yên Mô - Cao Sơn (Thời Báo), Lê Quang Vinh (báo Phổ Thông), Gàn Bát Sách (báo Tiền Phong)... đã liên tục gióng lên những hồi chuông nhân ái, tiếng vang của những bài báo viết từ hải ngoại đã vọng về đến Việt Nam. Nhiều ân nhân và hội đoàn thiện nguyện khác đã tìm cách giúp đỡ anh em phế binh chúng tôi. Ông Lê Đình Vọng, chủ tịch hội Huynh Đệ Chi Binh tại Hoa Kỳ, đã hết lòng cứu giúp anh em phế binh.

Nhờ quí ân nhân giàu lòng nhân ái ở hải ngoại cho chút ít tiền, nhiều người trong chúng tôi đã tìm lại nhân phẩm, không phải ăn xin ở khắp nẽo đường. Những món tiền tuy nhỏ nhưng đượm biết bao tình, lòng chúng tôi được sưởi ấm trở lại. Chúng tôi tin rằng bên cạnh sự ác độc vẫn có tình yêu, một thứ tình người chân thật, chỉ tiếc rằng ngày nay trở nên hiếm thấy.

Anh em chúng tôi thành thật cảm ơn, và không biết nói gì hơn là cầu nguyện Thượng Đế ban phước lành cho quí vị ân nhân phương xa vạn dậm được an lành và thành công trên mọi lãnh vực. Chúc quí ân nhân dồi dào sức khỏe và gia đình hạnh phúc. Nhờ số tiền do quí ân nhân ở hải ngoại giúp đỡ, anh em chúng tôi làm vốn mua nhang đi bán dạo trên khắp nẻo đường Việt Nam, từ Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Bảo Lộc, Di Linh, Tây Ninh, Sài Gòn xuống đến Long An, Bến Lức, Mỹ Tho, Bắc Mỹ Thuận, Rạch Giá, Bạc Liêu rồi về tận cùng mũi Cà Mau. Không làng xã, chợ búa ở thôn quê nào chúng tôi không đi qua. Nơi đâu chúng tôi cũng chỉ thấy cảnh người nghèo bị bạc đãi, đất nước điêu tàn và lòng người oán hận.

Những lúc từ thành phố (Sài Gòn) về các địa phương, anh em chúng tôi chứng kiến nhiều cảnh thương tâm : những người bạn phế binh ở những cầu phà, bến xe, chợ búa, tay cầm gậy tay cầm cây đàn dắt nhau vừa xin vừa hát lại những bản nhạc xưa nghe thật nảo lòng. Chúng tôi đã chia sẻ với nhau nỗi bất hạnh và cùng ngậm ngùi cho cảnh ngộ không may.

Có lần tôi nghe một người anh em hát lên bản nhạc mà tôi nhớ không lầm là bản "Anh đi chiến dịch", trong có đoạn như vầy : "Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than". Một bản nữa mang tên "Cho người vào cuộc chiến", anh bạn đó hát : "Anh bỏ trường xưa, bỏ áo thư sinh theo tiếng gọi lên đường, anh đi vì đất nước khổ đau, anh đi anh quên thân mình, dù anh trở về trên đôi nạng gỗ, dù anh trở về bằng chiếc xe lăn". Rồi nào là "Năm cụm núi quê hương", trong đó câu : "Chiều nay có người thương binh không về với bàn tay năm ngón, nhưng về với vạn chiến công, anh mất đi bàn tay".

Anh em hát trong nghẹn ngào để được bà con cô bác bố thí ít tiền mua cơm. Mỗi lần nghe là mỗi lần buồn tủi. Nòng súng nhân đạo của chúng tôi đã mòn, cò súng nhân đạo chúng tôi đã sét, chúng tôi không cứu được chính chúng tôi thì làm sao cứu được những người lầm than. Anh em chúng tôi chỉ biết đến với nhau chia sẻ nỗi đau trong nước mắt.

Một hôm đến Bắc Mỹ Thuận, tôi gặp một phế binh cầm chiếc đàn ghi ta cũ nát ngâm bài thơ, nghe thật não lòng. Tôi hỏi xin bài thơ này, anh nói : "Thơ của Khất Vương mà người anh em xin làm gì". Tôi không hiểu, hỏi lại anh : "Khất Vương là gì ?". Anh tươi cười trả lời : "Là vua đó, nhưng là vua ăn mày", rồi đưa tay vào bị lôi ra một tờ giấy đưa tôi và nói : "Cho anh bài thơ này đó, về ngâm chơi cho đời bớt khổ".

Xin gởi tặng lại quí ân nhân bài Mùa xuân chết của Khất Vương để làm chút quà tri ơn :

Mùa xuân chết

Hai mươi hai năm khắp nẻo non sông

Tôi là sương gió long đong bể đời

Trăng xuân đưa cảnh tuyệt vời

Gió xuân mang mác vọng lời âm ba

Hai mươi hai năm không cửa không nhà

Bạt màu áo trận nhạt nhòa xác xơ

Ngồi buồn đưa cảnh vào thơ

Gối đầu hiện tại tôi mơ thanh bình

Hai mươi hai năm từ cõi u minh

Nhớ gì tôi viết vào linh cảm này

Hai mươi hai năm dài biết bao nhiêu

Mộng mơ phủ kín sông dài núi cao

Khất Vương

Cuộc chiến đã tàn, anh em phế binh chúng tôi sống trong một xã hội đầy bất công và đen tối, nó kéo dài hơn hai mươi bốn năm nay và nó chỉ mang lại cho anh em chúng tôi nói riêng và cho nhân dân nói chung cuộc sống bầm dập, đầy đói rách và đau khổ. Anh em phế binh chúng tôi tin rằng sau cơn mưa trời lại sáng. Chúng tôi cầu mong cộng đồng người Việt hải ngoại sớm mang lại bầu trời tươi sáng đó cho Việt Nam, trong đó sẽ không còn ai thấy cảnh bất công đau khổ trong quảng đời tàn phế còn lại của anh em chúng tôi.

Mong rằng quí ân nhân cùng các chiến hữu thân thương nơi hải ngoại nghe và hiểu những lời tâm sự này mà những người bạn phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã và đang gánh chịu cảnh sống ngục tù trong tủi nhục và nước mắt.

* * *

Một hôm trên đường khất thực, anh em chúng tôi đi ngang qua Nghĩa Trang Quân Đội cũ ở Thủ Đức. Khi nhìn vào thì thấy một cảnh tượng rất đau lòng, những ngôi mộ của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đều bị mục nát, rêu phong phủ kín vì thiếu người chăm sóc. Những chiến sĩ này đã nằm xuống, đã hiến dâng cuộc đời mình cho tổ quốc Việt Nam thân yêu, thế mà cũng không được nằm yên. Những người cộng sản đã đập phá mồ mả các anh, dày vò xương cốt các anh.

ktm4

Những ngôi mộ của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong Nghĩa Trang Quân Đội cũ ở Thủ Đức đều bị mục nát, rêu phong phủ kín vì thiếu người chăm sóc, không những thế mồ mả còn bị đập phá, đào xới

Tại nhiều nơi khác, chính quyền cộng sản sang bằng các nghĩa trang để xây nhà cửa, nhà văn hóa hay vườn trẻ. Trong những nghĩa trang quân đội ở các tỉnh nhỏ, phần lớn các bia mộ đều bị đập phá, có ngôi bị cỏ đất lấp vùi bia tự không còn đọc được nữa như những mộ hoang. Các anh đúng là "bạc màu áo trận", hương tàn khói lạnh, nhưng vẫn còn chút an ủi. Nhờ có một số anh em phế binh lớn tuổi ở gần các nghĩa trang hoang vu cô quạnh đó ráng chống nạng gỗ vào nhổ cỏ, dựng lại mộ bia, đắp đất, quét lại vôi... rồi đốt cho các anh vài nén hương xin lỗi thay cho những con người tàn ác và cầu chúc các anh được ấm lòng nơi chín suối.

Cảm nhận sự an ủi đó, anh em chúng tôi cũng lần vào hỏi thăm, bà con cô bác gần đó cho biết có vài anh em phế binh chế độ cũ đã có lòng từ tâm, thỉnh thoảng lén vào nghĩa trang sửa sang mồ mả những đồng đội cũ đã nằm xuống, tránh những con mắt cú vọ của những đại diện chế độ. Chúng tôi đã gặp lại nhau, hàn huyên trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau trong việc chăm lo mộ phần những chiến sĩ vô danh. Mỗi khi thực hiện xong những việc làm nhỏ nhặt này chúng tôi cũng cảm thấy được an ủi phần nào vì chính nhờ họ mà tổ quốc Việt Nam đã tồn tại ít ra cho đến ngày 30/04/1975.

Mỗi đêm anh em chúng tôi thường nhìn một góc trời xa xôi tự hỏi thiên đàng có thật không mà sao số phận chúng tôi đau thương đến như vậy. Chúng tôi đang sống trong một cơn ác mộng, trong sự nhẫn nhục triền miên. Chúng tôi phải đối phó hàng ngày với một bầy sư tử chỉ chực chờ vồ nuốt mạng sống chúng tôi. Mong rằng sẽ có một ngày anh em chúng tôi cũng như những anh em phế binh may mắn khác được cộng đồng người Việt trong và ngoài nước chiếu cố tới. Đó là những điều mà chúng tôi ước ao : "Mong rằng ai kia ở nơi xa xôi nghe và hiểu được nỗi lòng của anh em chúng tôi", được như thế anh em chúng tôi vô cùng cảm kích.

Biết rằng ước mơ đó đối với anh em chúng tôi rất là mong manh, nhưng chúng ai cũng hy vọng. Hy vọng rồi sẽ có một ngày chúng tôi có được cuộc sống như mọi người bình thường khác, không phải ăn xin ăn chực nơi cuối đầu đường góc chợ, con cái được đi học hay đi bán vé số mà không phải đi theo cha ăn xin hay lượm bao ny-lông, giấy vụn. Đến đây anh em chúng tôi đã trình bày hết tâm tư đau buồn và nguyện vọng của những người tàn phế, mong được trời xanh thấu cho mà đối với chúng quí vị ân nhân tại hải ngoại là bầu trời xanh.

Anh em chúng tôi viết ít, ngắn gọn xin quí vị ân nhân hiểu nhiều. Anh em phế binh chúng tôi trước đây chỉ là những chiến sĩ giữ gìn đất nước chớ không biết cầm bút viết văn. Kính xin quí độc giả và ân nhân đọc xong nếu có điều gì sơ sót kính xin được thông cảm mà bỏ qua cho. Đó là những lời nói chân thành xuất phát từ đáy lòng và con tim của anh em phế binh chúng tôi đang sống tại quê nhà. Đối với những anh em thương phế binh như chúng tôi, không có gì quí hơn tự do và nhân quyền, sống mà không có tự do và nhân quyền giống như thể xác mất đi hơi thở.

Sau đây xin kính tặng quí vị độc giả bài thơ do tôi đột ngẩu sáng tác :

Người sống từ vực thẳm

Nhìn trời nước mắt tuôn rơi,

Nào ai thấu hiểu cuộc đời phế binh.

Đêm đêm ngủ bụi ngủ bờ,

Áo không đủ mặc, cơm thời chẳng no.

Cơm chang nước mắt nhạt nhòa,

Dù đời tàn phế nhưng tôi không tàn.

Tôi đây chịu cảnh lầm than,

Cuộc đời là thế ai buồn như tôi.

Mong sao đất nước yên bình,

Không nghe hành khất bên đường van xin,

Không còn thấy cảnh tan thương,

Anh em đoàn tụ huy hoàng vui xuân.

Viết lại theo lời kể của Độc Cước,

một phế binh ở Sài Gòn

Mục lục :

NMĐRN 1.0 - Lời tựa 

NMĐRN 1.1 - Có một niềm tin 

NMĐRN 1.2 - Những bóng ma trên hè phố 

NMĐRN 1.3 - Chúng tôi phải sống 

NMĐRN 1.4 - Cuộc đời tưởng đẹp như bài thơ

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển
Published in Tư liệu
samedi, 18 décembre 2021 13:57

NMĐRN 1.0 - Lời tựa

Vài lời về Phan Minh Hiển

Tôi vừa tiễn Hiển về nơi an nghỉ cuối cùng, Nhà hỏa táng Crematorium de Champigny sur Marne, tỉnh Val de Marne, ngoại ô Paris, lúc 16 giờ ngày 17/12/2021. Lễ nhập quan trước đó đã được tổ chức tại Nhà Vĩnh Biệt, Bệnh viện Jossigny, lúc 14 giờ.

Bác sĩ Phan Minh Hiển đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 12g12 ngày 12/12/2021 tại Bệnh viện Grand Hôpital de l'Est Francilien, thị xã Jossigny, tỉnh Seine et Marne, sau hai tuần hôn mê vì bạo bệnh Covid-19. Hiển giã từ cõi đời này vào tuổi 65 (21/11/1956-12/12/2021).

Trước đó vài ngày, vào đầu tháng 11, Hiển đã mời tôi cùng hai người bạn gần gũi nhất dự buổi tiệc giã từ nghề bác sĩ để về hưu. Nhưng không ngờ… chỉ vài ngay sau tôi đã mất vĩnh viễn một người bạn sau 38 năm quen biết.

pmh1

Bác sĩ Phan Minh Hiển (ảnh chụp tại phòng mạch số 215 avenue Pierre Brossolette, 94170 Le Perreux - France)

Tôi được một tàu buôn Pháp, Le Chevalier Valbelle, thuộc công ty hải hành La Compagnie générale maritime, trên đường đến Nhật Bản vớt ngoài khơi bờ biển Vũng Tàu và đưa vào Hồng Kông tháng 4/1983. Sau 4 tháng bị giam trong trại cấm Argyle II ở Kowloon, cuối tháng 8/1983 những người trong chuyến tàu của chúng tôi được đưa sang Pháp. Tôi cùng vài bạn đồng thuyền được đưa về Besançon (miền đông nước Pháp), những người khác được phân tán khắp nước Pháp : Lyon, Nancy, Troyes, Monceau les Mines… Vào đầu tháng 11, một vài bạn đồng thuyền ở Nancy liên lạc được với tôi và nhắn phải tìm cách lên Nancy (phía đông-đông bắc nước Pháp) gấp để gặp một nhân vật độc đáo có cùng lý tưởng với tôi. Những người bạn ở Nancy đã gặp may mắn vì ở đây có một cộng đồng người Việt, do anh Vũ Dương Tự đại diện, đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn hội nhập. Cuối tháng 11 tôi lên Nancy gặp những người bạn đồng thuyền và anh Tự.

Tại đây anh Tự giới thiệu với chúng tôi Phan Minh Hiển, người vừa về lại Pháp sau hai tháng cứu người trên biển. Hiển cho biết lúc đó vừa chấm dứt chương trình nội trú bác sĩchuyên khoa bệnh nhiệt đới và điều hành y tế công cộng tại Bordeaux nên đã tình nguyện tham gia công tác cứu người trên Biển Đông từ năm 1980 đến 1982 do bác sĩ Bernard Kouchner, thuộc Hội Médecins du Monde, khởi xướng. Hiển được Bernard Koutcher chấp nhận tham gia chương trình năm 1982 và được gởi lên tàu Goélo và chiến hạm Le Balny tham gia công tác vào tháng 6.

Sau buổi họp mặt này, chúng tôi gồm vợ chồng anh Vũ Dương Tự, Phan Minh Hiển và tôi thành lập hội Đường Mới (La Nouvelle Voie) đầu năm 1984 nhằm giúp đỡ người tị nạn đến định cư tại thành phố Troyes, tỉnh Aube (phía đông-bắc Paris). Trong suốt năm 1984, mỗi cuối tuần, vợ chồng anh Tự, Hiển và tôi đến trang trại cách thành phố Troyes vài chục cây số, được một gia đình Pháp tặng, để lập trại chăn nuôi giúp người tị nạn. Chúng tôi tân trang lại nội thất căn nhà, dựng lại hàng rào, phát hoang và kêu gọi đồng hương tới ở miễn phí (được nuôi ăn, hướng dẫn học tập, chăm sóc sức khỏe…). Nhưng chờ đến suốt năm không người tị nạn nào ngỏ ý muốn đến thăm, chưa nói đến ở, vì không ai muốn sống ở vùng thôn quê hẻo lánh. Cuối cùng chương trình này đành phải bỏ dỡ, trang trại được giao lại cho chủ cũ và chúng tôi ai về nhà nấy, tiếp tục cuộc sống thường ngày.

Năm 1988, tôi rời Besançon lên vùng Paris tìm việc khác và gặp lại Phan Minh Hiển, lúc này đã là bác sĩ khá nổi tiếng và nhất là đã lập gia đình với Nguyễn Thị Huỳnh Liên và có một con trai, Phan Hiển Đạt. Hai chúng tôi như đã tìm được cái phân nửa của mình bị thất lạc. Công tác cứu trợ người kém may mắn trong nước của hai chúng tôi gia tăng vận tốc. Hiển vận động tài chánh, tìm người để giúp đỡ, tôi viết bài, vận động giới truyền thông hỗ trợ, nhất là tại Mỹ.

Ban đầu là giúp sư cô Huỳnh Thị Thành, pháp danh Thích Nữ Quang Đạo, trụ trì ở chùa Tịnh Quang, huyện Long Thành có thêm điều kiện để giúp đỡ trẻ em mồ côi và bụi đời có nơi ăn ở và học tập, xây dựng nhà nuôi dưỡng người già tứ cố vô thân (cf. Những tâm hồn cao quý). Tiếp theo là giúp những gia đình nghèo con đông, và sau cùng là cứu trợ những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị cuộc đời bỏ rơi ra khỏi vùng bóng tối (cf. Ai đền ơn đáp nghĩa những người này ?). Không ngờ, công tác kêu gọi giúp đỡ ni cô Quang Đạo thành công ngoài dự đoán. Cái am nơi sư cô Quang Đạo tu tịnh lúc ban đầu đã trở thành một ngôi chùa khang trang, phạm vi hoạt động nhân đạo của ni cô lan ra tận miền Trung, với những căn nhà dưỡng lão ngày càng đông người đến ở. Nhưng bất hạnh thay, sư cô Quang Đạo bị buộc phải giao lại những cơ sở vật chất (chùa chiềng và viện dưỡng lão đã xây dựng do tiền của cộng đồng người Việt hải ngoại quyên tặng) cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tức Giáo hội Nhà nước, quản lý. Quá buồn phiền, sư cô Quang Đạo đã qua đời liền sau đó.

Công tác cứu trợ anh em thương phế binh trong nước, do cách tổ chức giúp đỡ khá đặc biệt : người giúp và người nhận giao tiếp trực tiếp với nhau, đã được sự tiếp tay tận tình của những hội đoàn từ thiện ở nước ngoài, nhất là Hoa Kỳ (báo Ngày Nay, Houston, do ký giả Trương Trọng Trác tận tình tiếp trợ) và Pháp (hội Nạng Gỗ do ông Nguyễn Quang Hạnh tiếp tay quảng bá), và ở trong nước với sự hưởng ứng của Dòng Chúa Cứu Thế ở Kỳ Đồng và chùa Liên Trì ở Thủ Thiêm (cf. SOS Phế binh Việt Nam). Có thể nói cho đến nay gần như tất cả những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong nước còn sống đều đã ít nhất một lần được giúp đỡ.

Trong buổi tiệc giã từ nghề y sĩ để về hưu, Hiển nói sẽ chấm dứt công tác cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa vì đa số đã già, rất nhiều người đã mất, những người khác đã được con cháu chăm sóc tận tình. Đối với Hiển, công việc giúp người cùng khổ ở Việt Nam của Hiển coi như đã hoàn tất. Có lẽ vị Thiên sứ đã hoàn thành nhiệm vụ ở cõi trần này nên đã được gọi về nước Trời để nhận nhiệm vụ giúp đỡ nhân loại ở một nơi khác !

pmh01

Trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp những bài viết về cô nhi, quả phụ và anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, trong tuyển tập "Những mảnh đời rách nát" do Ngày Nay Houston xuất bản năm 1999 (1). Một cách để nhớ tới Phan Minh Hiển.

Nguyễn Văn Huy

(22/12/2021)

(1) Quốc Phương, Gặp gỡ đồng tác giả 'Những mảnh đời rách nát'BBC tiếng Việt, 17/09/2018

 

----------------------------

Thay lời tựa

 

Những Mảnh Đời Rách Nát là tuyển tập những bài viết ngắn do các anh em thương phế binh và quả phụ trong nước gởi ra hải ngoại. Đây là tuyển tập đầu tiên ghi lại cuộc sống cùng nỗi đau thương mà chính các anh em thương phế binh, cô nhi, quả phụ đã và đang trải qua từ sau ngày 30/04/1975 cho đến nay.

tpb10

Ảnh : hung-viet.org

Phan Minh Hiển đảm nhận phần liên lạc và góp nhặt tài liệu, tôi phụ trách phần biên soạn. Vì phải đối diện thường trực với những đe dọa đến từ mọi phía và, hơn nữa, vì không phải là những người có tài viết văn, tác giả các bài viết chỉ thuật lại một cách trung thực và mộc mạc những cảm nghỉ về thương tật hay hoàn cảnh họ đang sống và ủy nhiệm chúng tôi quyền trau chuốt câu văn, bổ túc những dữ kiện để nội dung từng bài viết thêm phần mạch lạc và chính xác.

Mục đích ra mắt tuyển tập vào lúc này nhằm đánh động lương tâm dư luận quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại về những bất công và chèn ép mà các anh em thương phế binh, cô nhi, quả phụ trong nước đã và đang gánh chịu dưới chế độ cộng sản, đồng thời cũng để tỏ lòng biết ơn những tấm lòng cao cả trong cộng đồng người Việt hải ngoại, sau bao nhiêu năm xa lìa tổ quốc, vẫn còn thương tưởng đến những nạn nhân của một thời chinh chiến đã qua.

CAMBODIA WAR-WOUNDED

Ảnh : hung-viet.org

Tuyển tập này là một đóng góp quan trọng và hữu ích cho những người nghiên cứu lịch sử, chính trị và xã hội miền Nam Việt Nam sau ngày 30/04/1975. Nó cung cấp những dữ kiện mới về thực trạng đời sống dân chúng miền Nam dưới một khía cạnh khác, "xã hội vỉa hè", do chính những người trong cuộc kể lại. Nó cũng là tiếng la cầu cứu của những người không có chỗ đứng và không có tiếng nói sau cuộc đổi đời khắc nghiệt. Nó còn là tiếng chuông đánh động lương tâm chúng ta và nhân loại, hòa bình đã trở lại trên quê hương nhưng chưa có thật trong lòng mọi người.

Tuyển tập được chia ra làm hai phần. Phần một, phần chính, "Những Bóng Ma Trên Hè Phố", là những mẫu chuyện chung do các thương phế binh và quả phụ kể về cuộc sống thường nhật của họ trên các vỉa hè. Phần hai, "Những Kiếp Sống Gian Truân", thuật lại những mảnh đời đau thương dưới dạng hồi ký.

Vietnam War Fall of Saigon

Ảnh : vnchdalat.blogspot.com

Một cảm giác thường được tỏa ra trong các bài viết là sức sống mãnh liệt của những người ở nấc thang cùng thấp nhất của xã hội. Dù bị vùi dập trong bất cứ hoàn cảnh nào, tất cả đều ao ước ao được sống. Sống để làm chứng nhân và sống để nuôi hy vọng. Gần một phần tư thế kỷ đã đi qua, thân thể tàn phế của những thanh niên ở lứa tuổi 20 năm 1975 ngày nay suy kiệt, nhiều người đã chết trong chốn rừng sâu, trên vùng kinh tế mới hay trên các vỉa hè, số người còn lại thưa dần với thời gian.

Nếu những phế binh còn lại không có tiếng nói, các thế hệ mai sau sẽ không bao giờ biết có những người tàn phế vì đã chiến đấu bảo vệ miền Nam tiếp tục bị đày đọa sau ngày mất nước. Những phế binh đang lang thang cầu thực trên các vỉa hè là những chứng nhân của cuộc tranh chấp vô lý vừa qua, người Mỹ đã về nước, người cộng sản lên ngôi và những người thua cuộc không có chỗ đứng.

tpb40

Ảnh : vnchdalat.blogspot.co

Trong cuộc đổi đời không may này, hy vọng là nguyên do duy nhất nuôi dưỡng quyết chí sinh tồn của những người không còn gì để mất. Hy vọng cũng có lẽ là mẫu số chung giữa những người Việt trong và ngoài nước, tất cả chúng ta đều hy vọng sớm thấy một đất nước có lại tình người, nụ cười nở lại trên môi trẻ thơ, niềm vui trong ánh mắt cụ già và các anh em phế binh được sống trong danh dự.

Qua những mẫu chuyện ngắn này, độc giả sẽ thấy chúng ta là những người may mắn. May mắn vì đã ra khỏi cuộc chiến một cách lành lặn trong khi nhiều người thân thể đã không toàn vẹn còn phải chịu đựng biết bao điều khổ nhục. May mắn vì đã thăng hoa trong những xã hội dân chủ tự do và nhân quyền trong khi những người ở lại chỉ biết câm lặng cúi đầu mà vẫn không được yên. May mắn vì bản thân, gia đình và con cái sống trong ấm no và hạnh phúc trong khi nhiều người vẫn còn mò mẫm trong vùng bóng tối kiếm miếng sống hằng ngày. Chúng ta không thể không chia sẻ những may mắn đó với những người thua thiệt, vì họ là một phần thịt da chúng ta đang còn rên xiết.

* * *

Nhìn lại cộng đồng người Việt hải ngoại, chúng ta đã sống gần một phần tư thế kỷ trên đất khách quê người, quê hương vẫn là tiếng gọi thiết tha. Cuộc sống mỗi người nếu không khá hơn thì cũng đã ổn định, những chập chững lúc ban đầu đã qua đi, một tương lai sáng lạn chờ đón trước mắt. Tiếp xúc với các xã hội dân chủ Tây phương, cách nhìn và cách sống của chúng ta có nhiều thay đổi mà thay đổi lớn nhất là cách nhìn của chúng ta đối với đất nước. Thay vì cắt đứt quan hệ với tổ quốc, cộng đồng người Việt hải ngoại đang nhìn về đất nước với tất cả yêu thương và đùm bọc. Những bực bội ban đầu đối với một chế độ bất dung đã vơi đi, nhiều người trong chúng ta đã về thăm lại đất nước. Không những chúng ta đã giúp gia đình và thân nhân vượt qua nỗi khó, chúng ta còn chia sẻ nỗi đau của người cùng khổ. Giúp đỡ những người bất hạnh có lẽ là trọng tâm chính của cộng đồng người Việt hải ngoại trong những năm gần đây.

Chính qua cách nhìn này, chúng tôi muốn mượn tuyển tập Những Mảnh Đời Rách Nát đề cao tinh thần tương thân của cộng đồng người Việt hải ngoại, nó đánh dấu sự trưởng thành của một cách sống và sự lớn mạnh của một cộng đồng.

tpb50

Tết Trung Thu ở trường Việt Ngữ Thăng Long, Virgina, Hoa Kỳ (Ảnh : Sơn Tùng)

Tìm một thống kê chính xác những công tác xã hội do cộng đồng người Việt hải ngoại thực hiện trong nước rất khó. Khác với các hội đoàn thiện nguyện quốc tế, sự giúp đỡ của chúng ta có tính cá biệt, nó không công khai và cũng không rầm rộ nhưng vô cùng hiệu quả. Cách thức cưu mang, giúp đỡ đồng bào trong nước thiên hình vạn trạng, ở mỗi nơi vào mỗi lúc chúng ta có những phương thức riêng để tặng phẩm đến tay người nhận. Ai cũng có thể giúp, ai cũng có thể nhận. Nó trực tiếp và không qua trung gian bất cứ một tổ chức hay chính quyền địa phương nào.

Sự giúp đỡ ban đầu mang tính tự phát, càng về sau càng được sự hưởng ứng của nhiều người, phong trào cứu trợ người cùng khốn trong nước lớn rộng và mang một tầm vóc mới. Nhiều tổ chức, nhiều hội đoàn thiện nguyện đã được thành lập, chương trình giúp người nghèo khó trong nước đến được nhiều nơi, ban đầu tập trung tại một vài thành phố lớn, về sau đến tận các làng xã xa xôi. Chu kỳ và trọng lượng của sự giúp đỡ tăng cùng với thời gian, trong vài trường hợp có thể nói ngang bằng tầm vóc của các tổ chức thiện nguyện quốc tế.

Hơn các tổ chức quốc tế, lần này chính người Việt đứng ra cưu mang người Việt. Không những cộng đồng người Việt hải ngoại đang trực tiếp giúp đỡ đồng bào ruột thịt trong nước mà còn tha thứ cho một đất nước đã từng bội tình bạc nghĩa. Ngoài vòng đai thân tộc, không người Việt hải ngoại nào đã không một lần giúp một người không may trong nước, sợi dây thân ái giữa người Việt trong và ngoài nước ngày càng thắt chặt. Qua những giúp đỡ này, chúng ta xứng đáng với chính chúng ta. Đây là điểm son nổi bật của cộng đồng người Việt hải ngoại, chúng ta đang chứng tỏ với thế giới và các quốc gia cưu mang chúng ta : Việt Nam sau này sẽ là một dân tộc lớn.

Người trong nước cũng đang nhìn đồng bào ruột thịt ngoài nước với con mắt khác. Trước đây, do chính sách bế quan tỏa cảng của chế độ chỉ một số ít người được về thăm nhà, sự huênh hoang quá lố của những người này lem luốt hóa cộng đồng hải ngoại. Ngày nay, lượng người về nước ngày càng đông hơn, cuộc sống tại hải ngoại của chúng ta được người trong nước biết rõ, nhân cách của chúng ta được thêm kính trọng. Người trong nước đã không ngần ngại trao đổi tâm tình, hoàn cảnh khốn khó của họ đã được biết đến và mong đợi cánh tay nối dài từ hải ngoại. Chúng ta là những phao cấp cứu cho những người đang còn ngụp lặn trong sự nghèo khổ.

Trái với những lời chỉ trích bi quan cho rằng gởi tiền và quà về cho người nghèo khó trong nước là tiếp tay giúp chế độ cộng sản kéo dài. Ngược lại, công tác nhân đạo này là một thắng lợi lớn về mặt tinh thần và chính trị. Giúp người nghèo khó là điểm đúng vào tử huyệt của chế độ. Công bằng bác ái là những khẩu hiệu khi phong trào cộng sản khởi đầu, cũng chính nhờ khẩu hiệu đó mà đông đảo quần chúng đã nghe và đưa họ lên cầm quyền. Nhưng người cộng sản lại rất mau quên, khi nắm được chính quyền họ bỏ rơi quần chúng lao động, bỏ rơi luôn cả những người đã từng vì họ hy sinh. Chủ nghĩa xã hội đang áp đặt tại Việt Nam không phải chủ nghĩa của người nghèo khó, nó là chủ nghĩa của kẻ cướp ngày. Chính quyền cộng sản đã chọn thế đứng của giai cấp bóc lột, một giai cấp mà họ đã từng mạt sát và tiêu diệt xưa kia. Ngày nay những người cộng sản không còn tư cách để nhân danh giai cấp vô sản khi chính họ đang chà đạp những người đang ở nấc thang thấp cùng nhất của xã hội. Những chiêu bài ý hệ của người cộng sản chỉ là những khẩu hiệu bịp bợm.

Vai trò đang đảo ngược. Chúng ta đang giành trên tay chế độ cộng sản quyền chăm sóc đồng bào nghèo khổ trong nước, một quyền mà bất cứ chính quyền nào cũng phải ưu tiên thực hiện. Chúng ta không thể để chính quyền cộng sản tiếp tục bạc đãi đồng bào trong nước, kềm hãm đà tiến của một dân tộc. Quyền chăm sóc đồng bào ruột thịt ngày nay không còn là của riêng một tổ chức tôn giáo, xã hội hay chính trị nào, nó ở trong tầm tay của tất cả mọi người, những người bình thường như chúng ta giàu lòng nhân ái.

Dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc nghèo hèn, chúng ta không xứng đáng với số phận đó. Đất nước chúng ta có đủ điều kiện để vươn lên nhưng cơ cấu tổ chức chính trị hiện nay không tạo cơ hội đó. Cộng đồng người Việt hải ngoại không thể bình yên đứng nhìn dân tộc Việt Nam bị trói tay, cúi đầu đi vào tương lai trong hổ nhục. Hổ nhục không những cho chúng ta trong đời này mà cho cả con cháu chúng ta đời sau. Không, chúng ta không chấp nhận tương lai đó và sẽ không cho phép chính quyền cộng sản tiếp tục khống chế dân tộc. Giúp đỡ đồng bào nghèo khó trong lúc này là góp phần xây dựng tương lai Việt Nam. Chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cứu trợ đồng bào nghèo khốn trong nước.

Yêu nước trước hết là yêu đồng bào, yêu niềm vui cùng thương nỗi khổ. Nhưng niềm vui thì ít nỗi khổ thì nhiều, chúng ta không thể làm ngơ. Xoa dịu nỗi đau của người cùng khổ chính vì vậy cao đẹp như bàn tay người mẹ vuốt tóc con thơ. Giúp đỡ người thiếu thốn không cần một chủ thuyết cao siêu, chỉ cần một tấm lòng. Mang lại hạnh phúc cho người khốn khó trong lúc này là rất cần thiết, nó là mẫu số chung kết hợp những tấm lòng quảng đại. Nếu hận thù đã chia rẽ chúng ta hôm qua, tình thương đang kết hợp chúng ta hôm nay và mai sau, chúng ta muốn thấy Việt Nam sau này là miền đất hứa của tình anh em tìm lại.

Ước muốn là như vậy nhưng cũng phải nhìn thẳng vào sự thật. Làm công tác từ thiện trong những điều kiện hiện nay trong nước rất là khó khăn, chính quyền cộng sản không muốn để cộng đồng người Việt hải ngoại là một sức mạnh, họ không cho chúng ta quyền chăm sóc người nghèo khó trong nước. Họ không có phương tiện giúp đỡ nhưng cũng không khuyến khích chúng ta làm thay. Nhưng những khó khăn đến từ phía chính quyền cộng sản không thể ngăn cản quyết tâm của chúng ta. Ngoài sự quyết tâm, chúng ta phải tôn trọng một số nguyên tắc để công việc cứu trợ tiến hành dài lâu.

Trước hết là sự kín đáo. Kín đáo để bảo vệ những người đang cần sự giúp đỡ vì các chính quyền địa phương thường nhìn một cách ác cảm những ai được cộng đồng người Việt hải ngoại cứu trợ. Đối với những người làm công tác nhân đạo trong nước, ngưỡng cửa của tự do và ngục tù không có làn ranh. Chỉ cần một chút sơ suất cánh cửa tự do sẽ bị khép lại.

Thứ hai là tính hiệu quả. Hiệu quả là với món quà tặng, người cho muốn nó đến tận tay người nhận không phải qua một trung gian, không bị mất mát và đến tận những thôn xóm xa xôi.

Thứ ba là lòng nhẫn nại. Nhẫn nại nhưng khôn khéo. Làm công tác từ thiện trong bối cảnh đất nước hiện nay phải có tấm lòng thật bao dung để phẩm vật đến tận tay người nhận, chúng ta sẽ không được đền bù gì ngoài niềm vui mang lại cho người khác và lương tâm được thanh thản.

Trong ba nguyên tắc vừa kể, khó ai có thể bảo đảm một kết quả trọn vẹn. Trước đây đã có rất nhiều cá nhân hoặc nhiều tổ chức từ thiện hải ngoại thực hiện công tác cứu trợ người bất hạnh trong nước, nhưng phạm vi hoạt động có phần giới hạn. Chỉ những người trong vòng quen biết mới nhận được sự giúp đỡ, hơn nữa sự giúp đỡ này cũng không đều đặn, vì khả năng tài chánh giới hạn hoặc vì thiếu thông tin. Tài chánh là vấn đề mà mọi ân nhân đều muốn rõ ràng. Có người muốn cá nhân hay hội đoàn đứng ra tổ chức làm những báo cáo chi tiêu rõ ràng gởi đến họ, việc này không phải là vấn đề đối với những tổ chức đã từng có kinh nghiệm thực hành, nhưng nó đòi hỏi nhiều thời gian và tiền bạc. Trả lời thư tín và in ấn tài liệu cũng là một gánh nặng cho những người tổ chức.

Tuy nhiên với những kinh nghiệm đã thực hiện trong những năm qua con đường đã mở sẵn. Một phương thức đã được tìm ra : người cho liên lạc và gởi quà trực tiếp đến người nhận. Mỗi ân nhân có thể chọn một phương án thích hợp với khả năng mình, tiền nhiều giúp người khốn khó nhiều, tiền ít giúp người khốn khó ít. Người cho và người nhận liên lạc trực tiếp với nhau. Công việc cứu trợ như vậy không còn là độc quyền của bất cứ một ai, nhưng phần lớn những người giàu lòng nhân ái đặt hết niềm tin vào một vài cá nhân hay hội đoàn từ thiện có uy tín và nhờ họ thay mặt mình chọn và giúp người cần giúp.

Nguyễn Văn Huy

Paris, Xuân 1999

--------------------

Mục lục :

NMĐRN 1.0 - Lời tựa 

NMĐRN 1.1 - Có một niềm tin 

NMĐRN 1.2 - Những bóng ma trên hè phố 

NMĐRN 1.3 - Chúng tôi phải sống 

NMĐRN 1.4 - Cuộc đời tưởng đẹp như bài thơ

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển
Published in Tư liệu