Hơn trăm ngàn đảng viên sai phạm - Sao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chưa chịu trách nhiệm ?
RFA, 23/08/2022
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa qua lại một lần nữa nhấn mạnh chỉ đạo "Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế", đồng thời khẳng định chưa bao tham nhũng bị xử lý mạnh mẽ, nghiêm minh như hiện nay. Một nhà quan sát bình luận chính trị đặt câu hỏi vậy trách nhiệm của ông Trọng ở đâu khi có đến hàng chục ngàn đảng viên sai phạm, bị kỷ luật trong 10 năm qua.
Tuổi Trẻ / RFA edited
Nói không đi đôi với làm
Vào hôm 22/8, tại Hội nghị của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng - tiêu cực, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu rằng "Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn ; lạm dụng, lợi dụng quyền lực cũng phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý vi phạm".
Phải "nhốt quyền lực vào lồng cơ chế" là một phương châm, chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, được ông đề cập trong một lần tiếp xúc cử tri Hà Nội từ năm 2016. Từ đó cho đến nay, câu nói này được nhắc lại nhiều lần trong các bài luận của các mạng báo là cơ quan ngôn luận của Đảng và nhà nước.
Năm 2016, ông Phạm Minh Chính, khi đó giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cũng từng phát biểu nhắc lại lời ông Nguyễn Phú Trọng rằng : "Hiện chúng tôi cũng đang xây dựng "cái lồng" để nhốt quyền lực. Dứt khoát là phải kiểm soát quyền lực…"
Luật sư Nguyễn Văn Đài, từ nước Đức nói với RFA rằng lời nói và hành động của ông Trọng không đi đôi với nhau. Trong khi luôn nhắc về "cái lồng cơ chế" để kiểm soát quyền lực, nhưng chính ông ấy là phá vỡ quy tắc của Đảng để được ở lại làm Tổng bí thư đến nhiệm kỳ thứ ba, dù đã quá tuổi và vi phạm Điều lệ đảng.
Do đó, theo ông Đài, dù ông Trọng phát biểu rằng "mọi quyền lực phải được kiểm soát", nhưng hiện nay không có một cơ chế hay điều lệ nào có thể kiểm soát được quyền lực của ông ấy cả :
"Ông Nguyễn Phú Trọng nói không đi đôi với làm. Ông ấy là người vi phạm Điều lệ Đảng. Theo Điều lệ Đảng thì không có quyền gia hạn đến nhiệm kỳ thứ ba của chức Tổng Bí thư, thì đó là điều vi phạm rất rõ ràng.
Nó cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ độc tài với người dân mà họ còn độc tài với ngay cả những người ở trong Đảng.
Chúng ta đã chứng kiến ông Nguyễn Phú Trọng vi phạm Điều lệ Đảng, cho nên Điều lệ Đảng đó đâu có tác dụng gì để ràng buộc quyền lực của ông Trọng.
Ngay cả Điều lệ Đảng mà không kiểm soát được quyền lực của ông ta thì không có một cái gì có thể kiểm soát được quyền lực của ông ấy cả".
Theo Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ban hành năm 2011, Điều 17 có quy định rằng "Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp".
Trách nhiệm của ông Trọng
Cũng trong hội nghị này, ông Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn khẳng định rằng "Chưa bao giờ chúng ta xử lý mạnh mẽ, nghiêm minh hành vi tham nhũng, tiêu cực như vừa qua".
Từ khi ông Nguyễn Phú Trọng trở thành người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam vào năm 2011, có đến 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang bị kỷ luật. Đây là con số được nêu ra trong Hội nghị Tổng kết 10 năm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012/2022, hôm 30/6 vừa qua.
Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội 13 năm 2021 đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có tám Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.
Cũng trong khoảng thời gian này, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng.
Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu - Ban Dân vận Trung ương, bình luận với RFA về tình trạng quan chức tham nhũng, tiêu cực dưới thời Nguyễn Phú Trọng như sau :
"Thời ông Trọng là nó nâng cấp lên thành tham nhũng nhà nước, trước đây là tham nhũng cơ sở thôi, nhưng từ thời ông Trọng nó phát triển thành những nhóm lũng đoạn nhà nước, dùng chính sách nhà nước, dùng thể chế nhà nước để ăn cướp của dân. Cho nên người dân có câu nói truyền tai rất hay :
"Ông Trọng có lò mới xây
Ông chặt làm củi những cây ông trồng"
Theo luật sư Nguyễn Văn Đài, ông Trọng đáng ra phải là người chịu trách nhiệm vì để xảy ra tình trạng quá nhiều cán bộ đảng viên tham nhũng trong suốt hơn 10 năm giữ vai trò lãnh đạo Đảng cộng sản Việt nam :
"Mặc dù trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, ông ta luôn nhấn mạnh cần phải cương quyết không cho bất kỳ nhân vật nào suy thoái đạo đức, lối sống, tham nhũng được vào Ủy viên Trung ương Đảng.
Và ông ta, với vai trò là Tổng bí thư kiêm trưởng tiểu ban nhân sự của Đại hội Đảng, nghĩa là tất cả các nhân vật ứng viên vào Trung ương đều do ông ta là người trực tiếp kiểm soát.
Nhưng mà ngay khi Đại hội nhiệm kỳ 13 vừa rồi diễn ra sau hơn một tháng, ông Trần Văn Nam là bí thư Bình Dương đã bị ngã ngựa, bị cách mọi chức vụ.
Rõ ràng ông Nguyễn Phú Trọng phải chịu trách nhiệm cao nhất. Bởi vì ông ấy đã không thể nào sàng lọc, lựa chọn được những cán bộ trong sạch để vào ban chấp hành Trung ương.
Điều này thể hiện một vấn đề nữa là không có người tốt để ông ấy lựa chọn. Ông ấy chỉ có thể lựa chọn quan tham nhũng ít hay là quan tham nhũng nhiều, hay là những người thuộc phe cánh của mình để vào trung ương mà thôi".
Theo quy định Điều lệ đảng, trước mỗi kỳ Đại hội đảng, Bộ Chính trị sẽ trình Trung ương quyết định việc giới thiệu nhân sự ứng cử các chức danh lãnh đạo cấp cao của nhà nước trước khi Bộ Chính trị chính thức giới thiệu nhân sự để Quốc hội xem xét, bầu hoặc phê chuẩn theo thẩm quyền.
Hồi tháng 12/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu thời gian tới sẽ thực hiện thí điểm chủ trương những người đứng đầu được lựa chọn, giới thiệu nhân sự phải chịu trách nhiệm về việc tiến cử cán bộ của mình.
Nguồn : RFA, 23/08/2022
********************
Công nghiệp quốc phòng bao giờ thành 'mũi nhọn' của Việt Nam ?
RFA, 23/08/2022
Lãnh đạo Việt Nam vừa yêu cầu phải phát triển công nghiệp quốc phòng thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.
FP PHOTO
Yêu cầu vừa nói được Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra khi tham dự Hội nghị ‘Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo’, do Quân ủy Trung ương tổ chức tại Hà Nội hôm 22/8/2022.
Ông Phạm Minh Chính còn dẫn chứng, công nghiệp quốc phòng của Việt Nam thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, sản phẩm quốc phòng ngày càng đa dạng, chất lượng, góp phần tự chủ bảo đảm vũ khí trang bị…
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu và phân tích chính trị Việt Nam thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) của Singapore vào tối 23/8 nhận định với RFA về vấn đề này :
"Công nghiệp quốc phòng Việt Nam rất yếu, không thể gọi là thế mạnh được. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị Việt Nam về công nghiệp quốc phòng đến năm 2030, chỉ là chữ thôi. Từ mũi nhọn nó không rõ là cái gì, đi đâu cũng nói mũi nhọn, nó trừu tượng. Việt Nam nhập 81% vũ khí và thiết bị quân sự từ Nga, không có nghĩa là Việt Nam phụ thuộc vào Nga. Vận hành 100% Việt Nam, bảo trì 99% do Việt Nam".
Để Việt Nam có thể xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh trong tương lai, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp đưa ra khuyến nghị :
"Việt Nam cần làm từ con người trước - phải có chuyên gia, kỹ sư, máy móc hiện đại. Trong đó chuyên gia là quan trọng nhất, phải có bộ luật hiện đại về công nghiệp quốc phòng, khích lệ sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân. Nếu không có doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp quốc phòng, sẽ không bao giờ có sản phẩm quốc phòng tốt".
Số liệu về ngân sách quốc phòng của Việt Nam lâu nay đều là số liệu thống kê, tính toán do các tổ chức quốc tế đưa ra. Đơn cử như Viện Nghiên cứu Hòa bình Thế giới Stockholm - SIPRI từng ước tính rằng năm 2015 Việt Nam chi 4,4 tỉ đô la cho quân sự và tăng lên 5 tỷ đô la trong năm 2016 và 6,2 tỷ đô la năm 2020.
Tuy nhiên, những năm gần đây Sách trắng Quốc phòng của Việt Nam lại công bố các con số cho thấy ngân sách của Hà Nội dành cho quốc phòng theo phần trăm GDP. Cụ thể theo Sách trắng Quốc phòng công bố năm 2019, Việt Nam đã chi 2.36% GDP năm 2018, tương đương khoảng 5,8 tỷ USD.
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, khi nhận định với RFA hôm 23/8 cho rằng, cũng có một số thiết bị quốc phòng Việt Nam có thể tự sản xuất :
"So với các nước trong khu vực Đông Nam Á phải nói rằng nền công nghiệp quốc phòng của Việt Nam là không thua kém. Nhưng ở đây không nói đến những vũ khí phải mua từ nước ngoài, mà phải nói rằng những vũ khí tự chế của Việt Nam trong 15 năm qua theo tôi là có một bước tiến rất đáng kể như đạn pháo, các thiết bị bay không người lái, các tên lửa được cải tiến từ việc mua bản quyền của nước ngoài, rồi đến việc sản xuất vũ khí tiểu liên - trung liên và các loại đạn đặc thù…"
Nhưng so với nhu cầu phòng thủ đất nước, đảm bảo phù hợp tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam thì theo Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, còn lâu lắm nền công nghiệp quốc phòng của Việt Nam mới có thể đảm đương được nhiệm vụ thay thế hàng nhập khẩu của nước ngoài. Ông Phúc nói tiếp :
"Việt Nam sử dụng quá nhiều vũ khí từ nhiều nguồn khác nhau cung cấp, ví dụ như 60 % vũ khí từ Nga hoặc được khối xã hội chủ nghĩa việc trợ trước năm 1975, rồi sau đó một số vũ khí được nhập từ Israel, Ấn Độ và một số nước Châu Âu… thì liệu rằng với sự đa dạng đó so với trình độ quản lý tác chiến của quân đội nhân dân Việt Nam có phù hợp hay không ? Chúng ta biết rằng không phải cứ vũ khí hiện đại là có thể tác chiến được mà phải đồng bộ trong huấn luyện và trong phối hợp chiến đấu thì mới hiệu quả. Do đó tôi thấy rằng đây là một bài toán mà Việt Nam phải tính tới khi việc nhập khẩu vũ khí từ Nga bắt đầu trở nên khó khăn khi có lệnh cấm vận từ Mỹ và các nước phương Tây, cũng như vấn đề mua bản quyền phải tốn rất nhiều ngoại tệ".
Chính vì vậy ông Phúc cho rằng, các nhà khoa học của Việt Nam, nhất là các nhà khoa học quân sự phải tập trung để phát triển vũ khí cho riêng mình, phù hợp với trình độ tác chiến của quân đội Việt Nam.
Theo số liệu của công ty phân tích dữ liệu GlobalData, để bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Đông cùng với việc hiện đại hoá lực lượng hải quân và không quân, Việt Nam đã gia tăng chi tiêu quốc phòng các năm qua với mức tăng hàng năm là 8,1% và có thể đạt tới con số 8,5 tỷ đô la vào năm 2027.
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhận định thêm :
"Theo tôi, phấn đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam từ nay đến năm 2025 /2030 là phải tiến lên chính quy hiện đại theo từng binh chủng, phù hợp tình hình mới, vũ khí trang bị, phương châm chiến tranh nhân dân… phù hợp bước đi của Việt Nam so với nền quốc phòng của các nước. Tôi thấy trong 10 năm, 20 năm nữa thì những vũ khí phục vụ chiến thuật thì Việt Nam có thể đảm nhận, còn những vũ khí mang tầm chiến lược như là tên lửa tầm xa, máy bay tiêm kích, tàu chiến đấu đa năng trên biển… thì dứt khoát Việt Nam phải học hoặc mua bản quyền của nước ngoài, nhập khẩu hoàn toàn… điều đó là tất yếu".
Từ đầu năm 2019 đến nay, đã có hàng chục tướng, tá quân đội và công an bị kỷ luật, xử lý vì để xảy ra những vi phạm trong công tác quản lý đất đai. Điển hình như trường hợp của Đô đốc Nguyễn Văn Hiến.
Ngoài ra, trong danh sách tướng, tá quân đội bị kỷ luật vì đất đai còn có Thượng tướng Phương Minh Hòa, Trung tướng Nguyễn Văn Thanh, Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Đại tá Trương Thanh Nam, Đại tá Nguyễn Hải Châu, Đại tá Phạm Ngọc Dũng, v.v.
Ngoài tham nhũng trong đất đai, việc mua sắm trang thiết bị, vũ khí cho Bộ quốc phòng cũng được nêu lên nhiều dấu hỏi về những khoản ‘lại quả’ ‘hoa hồng’…
Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, Việt Nam nằm trong top 10 nước mua nhiều thiết bị quân sự nhất trên thế giới. Cụ thể trong giai đoạn từ 2014 tới 2018, số vũ khí nhập khẩu của Việt Nam chiếm 2,9% tổng số vũ khí bán ra trên toàn cầu.