Thế lưỡng nan của Việt Nam khi muốn đa dạng kho vũ khí ngoài 'nước bạn' Nga
BBC, 08/12/2022
Việt Nam đang có xu hướng giảm mua đáng kể vũ khí từ Nga và tìm nguồn cung thay thế, đặc biệt ở các nước có thể có loại vũ khí và phụ tùng tương thích với Moscow.
Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 đã khai mạc vào hôm nay 08/12
Dựa theo số liệu từ Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI), từ năm 1995 đến 2021, Việt Nam nhập khẩu tổng cộng 9,07 tỷ USD vũ khí, trong đó Nga chiếm 7,4 tỷ USD (81,6%).
Tuy nhiên xu hướng này đang giảm một cách đáng kể khi Việt Nam đang thực thi chiến lược đa dạng hóa.
'Xu hướng giảm'
Thời điểm Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất vũ khí từ Nga là 1 tỷ USD (2014), nhưng sau đó giảm đáng kể, chỉ còn 9 triệu USD (2020) một phần ảnh hưởng từ Covid và 72 triệu USD (2021), theo SIPRI.
Theo sau cuộc chiến tranh tại Ukraine, Việt Nam dường như đang tăng tốc đa dạng hóa kho vũ khí của mình ngoài Nga, thông qua mua vũ khí từ Mỹ, Israel, Hà Lan và Hàn Quốc.
Reuters ngày 06/12, dẫn nhận định từ các chuyên gia cho thấy Ấn Độ, Israel và các quốc gia Đông Âu đang được xem là các nhà cung cấp thay thế Nga đối với Việt Nam trong những năm gần đây.
Trả lời BBC News tiếng Việt, ông Hunter Marston, Nghiên cứu sinh tiến sĩ từ Đại học Quốc gia Australia cho rằng Việt Nam đã bắt đầu chiến lược đa dạng hóa kho vũ khí của mình cách đây vài năm và tính tương thích trong vũ khí sẽ là một vấn đề lớn.
"Số tiền Việt Nam nhập khẩu vũ khí từ Nga đã sụt giảm từ hơn 1 tỷ USD vào năm 2014 xuống chỉ còn 72 triệu USD vào năm 2021. Không rõ là sự chuyển biến này bền vững như thế nào hay Việt Nam muốn thay thế nguồn vũ khí từ Nga đến mức độ nào. Nhưng tính tương thích của vũ khí là một vấn đề lớn".
"Ví dụ, các hệ thống của Mỹ không được thiết kế để vận hành chung với các hệ thống của Nga hoặc Trung Quốc. Vì thế, các thiết bị của Hàn Quốc và Ấn Độ rất quan trọng cho sự chuyển đổi này nhưng sẽ phải thực hiện theo một cách khác, không rõ là Hà Nội có sẵn sàng để Mỹ bước vào với một tư cách quan trọng hay là không".
Thời điểm Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất vũ khí từ Nga là 1 tỷ USD (2014), nhưng sau đó giảm đáng kể, chỉ còn 9 triệu USD (2020) một phần ảnh hưởng từ Covid và 72 triệu USD (2021), theo SIPRI
Tiến sĩ Ian Storey, từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak) có trụ sở tại Singapore, hôm 08/12 nói với BBC News tiếng Việt.
"Cuộc xâm lược của Nga tại Ukraine sẽ mang đến động lực để Việt Nam đa dạng hóa việc nhập khẩu vũ khí ngoài nước Nga. Việt Nam sẽ ngày càng hướng về các công ty sản xuất vũ khí của châu Âu và Hàn Quốc".
"Tuy nhiên, với số lượng lớn vũ khí quân sự được sản xuất tại Nga, Việt Nam sẽ phụ thuộc vào Nga về đạn dược, nâng cấp vũ khí và các phần phụ tùng trong nhiều năm tiếp theo".
'Thế lưỡng nan'
Reuters dẫn lời của Nghiên cứu sinh tiến sĩ Nguyễn Thế Phương từ Đại học New South Wales (Úc) cho thấy đã có các cuộc thảo luận nội bộ tại Việt Nam về việc liệu quốc gia này có nên bán vũ khí cho Nga hay là không, mặc dù không thấy sẽ có một quyết định như vậy. Đại sứ quán Nga tại Việt Nam, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Việt Nam không phản hồi trước yêu cầu bình luận từ Reuters.
Nghiên cứu sinh Hunter Marston nhận định khả năng tương thích của vũ khí Việt Nam với Nga : "Khoảng 80% kho vũ khí của Việt Nam là nhập khẩu từ Nga vì vậy các thiết bị do Việt Nam sản xuất có thể sẽ phần lớn tương thích với [phía Nga]".
Theo Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI) vào ngày 05/12 thì trong 100 công ty hàng đầu về buôn bán vũ khí trên thế giới thì có sáu công ty của Nga, với tổng doanh thu là 17,8 tỷ USD, tăng chỉ 0,4% so với năm 2020.
"Hiện có dấu hiệu trì trệ lan rộng trên khắp ngành công nghiệp vũ khí của Nga", bao cáo của SIPRI đề cập.
Theo SIPRI thì các công ty Nga đang gia tăng tốc độ sản xuất vì cuộc chiến tranh Ukraine, nhưng lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn chip bán dẫn, đồng thời chịu tác động từ các lệnh trừng phạt của Phương Tây như không thể nhận được phần thanh toán.
Hồi đầu tháng này, vũ khí Việt Nam được báo chí trong nước đề cập "Các loại vũ khí bộ binh của Việt Nam hoàn toàn có thể chen vai thích cánh với các "ông lớn" trên thị trường thế giới".
Tiến sĩ Ian Storey nói về thế lưỡng nan của Việt Nam đối với Nga, quốc gia mà Việt Nam luôn tuyên bố có "tình hữu nghị thủy chung, sâu sắc".
"Việt Nam đang đối mặt với thế lưỡng nan. Nga là người bạn lâu năm. Nhưng bởi vì Việt Nam lo lắng về việc Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông nên Việt Nam đang theo đuổi các mối quan hệ gần hơn với Mỹ".
"Nếu Việt Nam bán thiết bị quân sự cho Nga thì gặp rủi ro trở thành mục tiêu đối với các lệnh trừng phạt. Hà Nội có thể giữ lập trường trung lập và không thể bán vũ khí cho Nga hoặc Ukraine".
Khách hàng nào cho vũ khí 'Made in Vietnam' ?
Hôm nay, Việt Nam đã khai mạc Triển lãm Quốc phòng quốc tế 2022, "quảng bá, tuyên truyền năng lực, tiềm lực công nghệ, vũ khí trang bị do công nghiệp quốc phòng Việt Nam sản xuất đến bạn bè quốc tế, nhân dân trong nước", theo truyền thông Việt Nam .
Triển lãm có sự tham gia của các tập đoàn sản xuất vũ khí hàng đầu của Mỹ như Lockheed Martin hay Nexter của Pháp, Nga có Rosoboronexport.
Hồi đầu tháng này, vũ khí Việt Nam được báo chí trong nước đề cập rằng "Các loại vũ khí bộ binh của Việt Nam hoàn toàn có thể chen vai thích cánh với các "ông lớn" trên thị trường thế giới. Ngoài ra, vì một số vũ khí trang bị do Việt Nam sản xuất nhưng chưa được nội địa hóa 100% hoặc còn phụ thuộc vào bên thứ 3 (tức bên chuyển giao công nghệ) nên muốn xuất khẩu ta sẽ phải được sự đồng ý của những đối tác này".
Tiến sĩ Ian Storey cho rằng "Ngành kinh doanh vũ khí toàn cầu cực kỳ mang tính cạnh tranh và sẽ khó khăn cho một quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể tạo được sự tác động đáng chú ý".
Nghiên cứu sinh Hunter Marston nhận định khách hàng mua vũ khí của Việt Nam do sản xuất có thể là Lào và Campuchia.
"Xét về sự tập trung súng trường, súng máy và súng lục, thì Việt Nam có thể bán một số loại vũ khí này cho Lào và Campuchia, nhưng tôi không thấy có nhu cầu này nhiều xa hơn thế. Các loại drone của Việt Nam sẽ có thể được tìm kiếm trước sự nở rộ drone trong các hoạt động tác chiến những năm gần đây, như cuộc chiến Ukraine đã cho thấy".
"Xét về sự phụ thuộc vũ khí vào Nga, tôi nghĩ Việt Nam đang tiếp tục kiên trì trong việc đa dạng hóa nguồn vũ khí nhập khẩu của mình. Dĩ nhiên nếu có sự thay đổi chính trị liên quan đến kết quả cuộc chiến tranh Ukraine và khi các lệnh trừng phạt của Phương Tây kết thúc. Có thể Việt Nam trở lại với nguồn cung vũ khí từ Nga, nhưng kịch bản này khó mà xảy ra".
Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 có sự tham gia của các tập đoàn sản xuất vũ khí hàng đầu của Mỹ như Lockheed Martin hay Nexter của Pháp, Nga có Rosoboronexport.
Phân tích của Reuters ngày 06/12 dẫn lời nhà nghiên cứu cấp cao từ SIPRI, Siemon Wezeman cho biết năng lực sản xuất vũ khí quân sự của Việt Nam rất hạn chế, và chỉ một số ích các drone trinh thám được giao hàng trong một thập kỷ vừa qua, mặc dù phía Việt Nam đã tăng cường năng lực lắp ráp radar, tên lửa và tàu do phía đối tác nước ngoài thiết kế.
Các công ty mua loại vũ khí nhỏ từ Việt Nam có thể là Lào và những nước châu Phi, vì Việt Nam có thể đưa ra giá cả mang tính cạnh tranh, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp từ ISEAS-Yusof Ishak Institute nói với Reuters.
Còn Nghiên cứu sinh Thế Phương nhận định các quốc gia Mỹ Latin và những nước Đông Nam Á có thể là khách hàng tiềm năng.
Nguồn : BBC, 08/12/2022
***********************
Việt Nam chuyển hướng mua bán vũ khí trong lúc nới lỏng quan hệ với Nga
Reuters, VOA, 08/12/2022
Việt Nam đang tập trung vào một sự thay đổi lớn trong quốc phòng khi tìm cách giảm phụ thuộc vào vũ khí của Nga và đẩy mạnh xuất khẩu vũ khí sản xuất trong nước, với bên mua có thể đến từ Châu Phi, Châu Á và có thể thậm chí là cả Moscow, theo lời các quan chức và nhà phân tích nói với Reuters.
Mẫu tàu ngầm Kilo trưng bày tại Triển lãm vũ khí Moscow vào năm 2015. Việt Nam là khách hàng mua tàu ngầm KILO của Nga.
Quốc gia Đông Nam Á là một trong 20 quốc gia mua vũ khí lớn nhất thế giới giữa bối cảnh căng thẳng leo thang với Trung Quốc, với ngân sách nhập khẩu vũ khí hàng năm ước tính khoảng 1 tỷ USD và sẽ còn tăng, theo GlobalData, nhà cung cấp dữ liệu toàn cầu về mua sắm quân sự.
Hầu hết ngân sách này trước đây đều được trả cho Nga, quốc gia trong nhiều thập niên là nhà cung cấp vũ khí và hệ thống phòng thủ chính của Việt Nam. Điều đó khiến Việt Nam trở thành một trong những khách hàng mua vũ khí hàng đầu của Nga, theo dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), cơ quan theo dõi chi tiêu quân sự toàn cầu.
Nhưng điều này đang thay đổi khi Việt Nam đang cố trở nên tự chủ hơn, có được những thiết bị tiên tiến mà Nga không thể cung cấp và đối mặt với áp lực của phương Tây trong việc giảm mua vũ khí từ Moscow giữa bối cảnh nước này xâm lược Ukraine, các nhà phân tích cho biết.
Thay vào đó, Việt Nam đang chuyển sang các nhà cung cấp từ Châu Âu, Đông Á, Ấn Độ, Israel và Hoa Kỳ, theo lời các nhà ngoại giao, quan chức và nhà phân tích. Việt Nam cũng đang thúc đẩy ngành công nghiệp quân sự trong nước với sự hỗ trợ từ Israel và các đối tác khác, đồng thời hy vọng sẽ có thể xuất khẩu vũ khí, vẫn theo lời các nhà phân tích và các quan chức.
Ông Nguyễn Thế Phương, trước đây là nhà nghiên cứu quốc phòng tại Đại học Quốc gia Việt Nam và hiện tại ở Đại học New South Wales, Australia, cho biết thậm chí đã có những cuộc thảo luận nội bộ vào tháng 10 về việc liệu Việt Nam có nên bán vũ khí cho Nga hay không, mặc dù chưa có quyết định nào về việc này sẽ sớm xảy ra.
Đại sứ quán Nga tại Hà Nội và các bộ quốc phòng và ngoại giao của Việt Nam không bình luận gì với Reuters.
Theo Bộ Quốc phòng Việt Nam, bắt đầu từ thứ Năm, Việt Nam sẽ tổ chức hội chợ thương mại vũ khí quốc tế quy mô lớn đầu tiên, với hơn 170 công ty từ 30 quốc gia đã đăng ký.
Danh sách bao gồm các công ty phương Tây như nhà thầu quốc phòng Lockheed Martin của Hoa Kỳ, Nexter của Pháp, các nhóm quốc phòng từ Israel, Ấn Độ, Nhật Bản và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Sự kiện kéo dài ba ngày tại Hà Nội sẽ giúp Việt Nam "đa dạng hóa các kênh mua sắm và nguồn công nghệ để sản xuất thiết bị quân sự cho quân đội đất nước và xuất khẩu", Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết trong một tuyên bố vào tháng 11.
Chào hàng
Ngành công nghiệp quốc phòng của Việt Nam đang sản xuất các phương tiện vũ trang và vũ khí hạng nhẹ, chẳng hạn như tên lửa chống tăng, súng phóng lựu và súng máy, ông Nguyễn Thế Phương nói.
Ông cho biết thêm rằng Việt Nam đã bắt đầu phát triển các hệ thống công nghệ cao hơn, bao gồm máy bay không người lái, radar và tên lửa chống hạm, thường là hợp tác với các công ty nước ngoài.
Bộ Quốc phòng Việt Nam không trả lời yêu cầu bình luận của Reuters mà đề nghị chuyển các câu hỏi về công nghiệp quốc phòng của Việt Nam cho Bộ Ngoại giao.
Tuần trước, Bộ Quốc phòng trên tờ báo chính thức của mình cho biết công ty quân sự Z111 thuộc sở hữu nhà nước sẽ trưng bày súng ngắn, súng máy, súng trường tấn công và súng bắn tỉa tại hội chợ vũ khí, với mục đích xuất khẩu chúng.
Hàng chục công ty quốc phòng Việt Nam, bao gồm cả Viettel do quân đội kiểm soát, cũng sẽ trưng bày sản phẩm của họ. Chính phủ và các công ty quân sự không công bố dữ liệu về doanh số bán hàng.
Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu cấp cao tại SIPRI, cho biết khả năng sản xuất vũ khí của Việt Nam được biết đến là rất hạn chế, chỉ có máy bay không người lái trinh sát loại nhỏ được ra mắt trong thập niên qua, mặc dù nước này đã tăng cường khả năng lắp ráp radar, tên lửa và tàu do đối tác nước ngoài thiết kế.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một chuyên gia về mua sắm quân sự và là khách mời cấp cao tại Viện ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở tại Singapore, cho biết những bên mua vũ khí nhỏ có thể là Lào, quốc gia láng giềng của Việt Nam, và các nước Châu Phi, nơi Việt Nam có thể đưa ra mức giá cạnh tranh.
Các nước Mỹ Latinh và các quốc gia Đông Nam Á khác là những khách hàng tiềm năng, theo ông Nguyễn Thế Phương.
Gần mười công ty quốc phòng Nga đã đăng ký tham gia hội chợ ở Hà Nội, bao gồm cả Rosoboronexport, cơ quan nhà nước xuất nhập khẩu vũ khí.
Đa dạng
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, Việt Nam đang đàm phán các thỏa thuận khả thi để nhập khẩu vệ tinh và các sản phẩm lưỡng dụng khác từ các đối tác khác ngoài Nga.
Điều đó sẽ đẩy nhanh xu hướng giảm nhập khẩu vũ khí của Nga, với giá trị giảm xuống chỉ còn 72 triệu đôla vào năm ngoái (30% tổng lượng nhập khẩu) từ mức cao nhất năm 2014 là 1 tỷ đô la, chiếm gần 90% tổng số năm đó, theo SIPRI.
Nhập khẩu từ Nga đã giảm hàng năm kể từ đó, ngoại trừ năm ngoái, khi phục hồi nhẹ sau năm 2020. Năm đó, đại dịch Covid-19 làm giảm nhập khẩu quân trang của Việt Nam xuống chỉ còn 32 triệu đôla, trong đó 9 triệu đôla là vũ khí của Nga.
Dữ liệu của SIPRI cho thấy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã mua thiết bị quân sự từ các nhà cung cấp mới, bao gồm Hoa Kỳ, Israel, Hà Lan và Hàn Quốc.
Với cuộc chiến ở Ukraine, mà Nga gọi là "chiến dịch đặc biệt", Việt Nam dường như đang tăng tốc đa dạng hóa.
Các nhà phân tích nói Ấn Độ, Israel và các nước Đông Âu có vị thế tốt hơn trong tư cách là nhà cung cấp thay thế vì họ có thể cung cấp vũ khí tương thích với các hệ thống của Nga hiện vẫn chiếm 80% kho vũ khí của Việt Nam.
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia về ngoại giao Việt Nam tại Học viện Quốc phòng Úc ở Canberra, nói đối với các hệ thống tiên tiến hơn, các nhà sản xuất ở Tây hoặc Đông Á cũng có thể là những nhà cung cấp tiềm năng cho Việt Nam.
Reuters)
Nguồn : VOA, 08/12/2022
*************************
Chuyên gia nhận định khác nhau về vấn đề nhân quyền trong việc phương Tây bán vũ khí cho Việt Nam
RFA, 08/12/2022
Các phương tiện chiến đấu, giải pháp công nghệ, vũ khí trưng bày tại không gian ngoài trời - Ảnh : VGP/Nhật Nam
Vấn đề nhân quyền ở quốc gia độc đảng ít có ảnh hưởng đến kế hoạch mua vũ khí của Việt Nam từ Hoa Kỳ và nhiều nước phương Tây, theo học giả Hoàng Việt từ Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên Giáo sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc lại cho rằng Mỹ và Liên Âu có thể dừng việc bán vũ khí khi cân nhắc vấn đề quyền con người.
Ý muốn tăng cường mua sắm vũ khí từ phương Tây nằm trong kế hoạch đa dạng hoá và hiện đại hoá quân đội của Việt Nam trong bối cảnh chủ quyền đất nước ở Biển Đông bị đe doạ.
Trong lễ khai mạc Triển lãm Quốc phòng quốc tế 2022 ở Hà Nội sáng 08/12, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính nói sự kiện này giúp Hà Nội "mở ra các cơ hội hợp tác, cùng tìm hiểu nghiên cứu xu hướng phát triển của trang bị kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng an ninh trên thế giới ; đa dạng hóa các kênh mua sắm, tiếp nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài và sản xuất, trang bị khí tài, hậu cần đáp ứng cho lực lượng vũ trang để phục vụ nhu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân trước những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống".
Nói về sự liên hệ giữa việc mua sắm vũ khí và nhân quyền của Việt Nam, thạc sĩ Hoàng Việt nói với Đài Á Châu Tự Do :
"Cá nhân tôi cho rằng vấn đề nhân quyền không cản trở nhiều đến việc mua bán vũ khí của Việt Nam. Mỹ và phương Tây đặt lợi ích địa chính trị quan trọng hơn vấn đề nhân quyền. Do vậy, trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tìm kiếm mua vũ khí từ phương Tây sẽ không bị cản trở vì vấn đề nhân quyền".
Ông cho rằng mặc dù đảng Dân chủ của Tổng thống Joe Biden luôn thúc đẩy các hoạt động dân chủ, nhưng Nhà Trắng đã coi Trung Quốc là đối thủ quan trọng nhất, nguy hiểm nhất có thể thách thức vị trí siêu cường số một thế giới của Hoa Kỳ cũng như tìm cách thay đổi trật tự thế giới mà Bắc Kinh có đủ ý chí và quyền lực để làm việc đó thì phương Tây không đặt nặng vấn đề nhân quyền.
Việt Nam bị Hoa Kỳ và nhiều quốc gia dân chủ chỉ trích về hồ sơ nhân quyền tồi tệ vì giam giữ nhiều tù nhân lương tâm chỉ vì họ thực hiện các quyền tự do cơ bản như ngôn luận, hội họp, biểu tình…
Theo thạc sĩ Hoàng Việt, cách đây hơn 10 năm người ta nhận ra rằng quân đội Việt Nam quá phụ thuộc vào vũ khí của Nga và Nhà nước Việt Nam có kế hoạch đa dạng hoá nguồn vũ khí từ lâu.
Cho tới nay, ngoài Nga, Việt Nam đã mua vũ khí từ một số quốc gia khác, trong đó có Ấn Độ, Israel, và Hoa Kỳ.
"Kể từ đó đến nay Việt Nam đã làm (tăng cường mua sắm vũ khí phương Tây - PV), đặc biệt sau cuộc chiến ở Ukraine người ta thấy rằng vũ khí của Nga có nhiều lạc hậu", học giả đến từ Thành phố Hồ Chí Minh nói.
Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch đẩy mạnh mua sắm vũ khí của Việt Nam từ các quốc gia phương Tây sẽ không dễ dàng vì hai vấn đề chính : Giá cả đắt đỏ và khác biệt về hệ thống vũ khí.
Ông nói rằng vũ khí của phương Tây đắt hơn nhiều so với vũ khí của Nga, khách hàng cung cấp vũ khí lớn nhất và quen thuộc với Việt Nam từ nhiều thập niên qua.
Quân đội Việt Nam từ lâu đã sử dụng hệ thống vũ khí có từ thời Liên Xô và sau đó là Nga, do vậy, việc thay thế các loại vũ khí hiện có bằng vũ khí của phương Tây sẽ không hề dễ dàng cho Việt Nam. Việc này đòi hỏi có thời gian dài để quân đội đào tạo và thích ứng, và cần phải có sự tương thích của các loại vũ khí trong một hệ thống.
Ông ví dụ trong cuộc chiến ở Ukraine, các binh sĩ Ukraine có thể sử dụng dễ dàng vũ khí do Nga và các nước từng theo xã hội chủ nghĩa sản xuất. Tuy nhiên, họ gặp khó khăn khi sử dụng vũ khí của phương Tây, và cần thời gian dài để thích nghi.
Giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Úc ở Canberra cho rằng Việt Nam đã cho thấy họ có khả năng mua sắm vũ khí và công nghệ quân sự từ các nguồn không phải của Nga, chẳng hạn như Israel, Hàn Quốc và Hoa Kỳ.
Ông cũng nói Hà Nội nhận thức được rằng Hoa Kỳ và các quốc gia trong Liên minh Châu Âu có thể viện dẫn các cân nhắc về nhân quyền để cắt giảm hoặc ngăn chặn việc bán vũ khí nhằm đối phó với các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng vào bất kỳ thời điểm nào.
Tuy nhiên, từ thống kê mua vũ khí của Việt Nam trong thời gian gần đây thì Giáo sư Carl Thayer có nhận xét :
"Việt Nam không có khả năng mua các mặt hàng ‘có giá trị lớn’ từ Hoa Kỳ hay Châu Âu và có khả năng chờ xem cuộc xung đột ở Ukraine sẽ được giải quyết như thế nào.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ có thị trường cho các công nghệ thích hợp như radar bờ biển, phòng không, máy bay không người lái (UAV), tên lửa chống UAV, không gian mạng, ."..
Ông cho biết trong giai đoạn từ 2014- thời điểm Nga sáp nhập Crimea, cho đến 2021, việc mua sắm vũ khí của Việt Nam giảm chóng mặt, đặc biệt là từ Nga.
Nhập khẩu vũ khí từ Nga của Việt Nam đã giảm từ 1,056 tỷ đô la Mỹ năm 2014 xuống chỉ còn 72 triệu năm 2021, ông nói.
Giáo sư Carl Thayer nói trước đại dịch Covid-19, Việt Nam phân bổ khoảng 2% GDP cho ngân sách quốc phòng hàng năm.
Từ năm 1995 đến năm 2021, Việt Nam đã mua vũ khí và công nghệ quân sự từ 27 quốc gia. Sáu quốc gia hàng đầu, tính bằng đô la Mỹ là : Nga (7,4 tỷ USD), Israel (550 triệu USD), Ukraine (273 triệu USD), Belarus (263 triệu USD), Hàn Quốc (120 triệu USD) và Hoa Kỳ (108 triệu USD).
Trong triển lãm vũ khí quốc tế lần đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam, giáo sư Carl Thayer cho rằng Hà Nội có ba mục tiêu chính, đó là giới thiệu ngành công nghiệp quốc phòng của mình, xác định khách hàng cho các sản phẩm nội địa của mình, và tham gia vào các thỏa thuận chuyển giao công nghệ đồng sản xuất để thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng của mình.
Nguồn : RFA, 08/12/2022