Blogger của RFA Nguyễn Vũ Bình bị kết án 7 năm tù
RFA, 10/09/2024
Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ngày 10/9 đã kết án 7 năm tù giam đối với nhà báo độc lập, blogger của Đài Á Châu Tự Do (RFA) Nguyễn Vũ Bình về tội danh "tuyên truyền chống Nhà nước" theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự.
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình (phải) - Fb Nghiem Vietanh
Phiên tòa sơ thẩm diễn ra vào buổi sáng thứ Ba tại trụ sở của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội. Có ba luật sư bào chữa cho ông Bình gồm hai ông Lê Đình Việt và Lê Văn Luân, và bà Nguyễn Thị Trang. Chị ruột và con gái của ông Bình được vào phòng xử án để quan sát phiên toà.
Một luật sư muốn ẩn danh vì lý do an ninh, nói với RFA trên đường rời tòa án :
"Thân chủ của tôi thừa nhận hành vi thực hiện, nhưng không thừa nhận có tội mà chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận và biểu đạt theo Hiến pháp Việt Nam hiện hành và Công ước về quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết.
Ông cũng không đồng ý với cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát".
Vị luật sư này cũng cho biết trong phiên tòa, các luật sư được tự do trình bày bào chữa của mình trong khi ông Bình khá bình thản.
Luật sư nói ông Nguyễn Vũ Bình không kháng án cho dù không thừa nhận phạm tội, có lẽ là do "không tin vào tính công bằng của nền tư pháp Việt Nam và sẽ vô ích vì kháng án sẽ không thay đổi được gì như trong nhiều vụ án tương tự khác".
Luật sư không đồng tình với tính thuyết phục của bản án, và mức án nặng nề là do tòa án vận dụng tình tiết "tái phạm".
Năm 2003, ông Nguyễn Vũ Bình bị kết tội "gián điệp" với mức án 7 năm tù chỉ vì đã báo cáo về tình hình vi phạm nhân quyền ra nước ngoài.
Bà Nguyễn Thị Phòng, chị ruột của ông Bình trong tin nhắn gửi RFA trong trưa thứ Ba cho rằng "bản án quá nặng nề".
ĐÀi Á Châu Tự Do và Văn Bút Quốc Tế (PEN International) cùng Vietnamese Broad PEN Centre và PEN America vào cùng ngày ra thông cáo báo chí lên án mạnh mẽ việc kết án nhà báo Nguyễn Vũ Bình, gọi đây là một ví dụ nữa của việc đàn áp vô lý của Chính phủ Việt Nam đối với tự do báo chí, đe dọa các nhà báo và người viết.
RFA và các tổ chức quốc tế đồng thời kêu gọi việc trả tự do ngay lập tức và vô điều keienj đối với ông Nguyễn Vũ Bình.
Bị cáo buộc bình luận chính trị trên kênh YouTube của nước ngoài
Ông Nguyễn Vũ Bình, 56 tuổi, bị bắt vào ngày 29/2 vừa qua vì bị cáo buộc tham gia chương trình bình luận về chính trị, kinh tế, xã hội cùng với cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đài và phát trên kênh Youtube "TNT Media Live" trong ba tháng đầu năm 2022.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Vũ Bình bị truy tố theo điểm b "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân" của khoản 1 Điều 117 vì tham gia bình luận trong bốn video clip đăng tải trong tháng 1 và tháng 3/2022 chứa nội dung "tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân".
Ông Bình được cho là đã xác nhận nội dung trong các video clip là tin tức chính trị, kinh tế, xã hội được thu thập từ nhiều nguồn như mạng Internet, báo chí, mạng xã hội sau đó tổng hợp, phân tích, bình luận.
Theo đó, ông Nguyễn Vũ Bình biết kênh Youtube "TNT Media Live" do người nước ngoài lập nhưng không nhớ ai là người tạo lập, quản trị, sử dụng ; không biết ai là người đăng tải các video clip lên kênh Youtube nêu trên.
Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử không có thông tin, dữ liệu và không có biện pháp kỹ thuật cần thiết để xác định thông tin của kênh Youtube này.
Luật sư Nguyễn Văn Đài cho rằng việc bắt giữ và kết án ông Bình nằm trong chiến dịch trấn áp giới bất đồng chính kiến của ông Tô Lâm trong quá trình chuẩn bị trở thành nhà lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản cầm quyền. Từ Đức, ông nói với RFA sau khi có bản án :
"Chúng tôi đã chỉ lựa chọn những tin tức ở trong nước để đưa tin và bình luận theo quan điểm cá nhân, đó là quyền con người, quyền công dân được ghi trong Điều 25 của Hiến pháp Việt Nam 2013.
Đây là bản án bất công và phi lý, nó mang tính chất đàn áp người bất đồng chính kiến ở Việt Nam".
Đây là lần thứ hai ông Nguyễn Vũ Bình bị cầm tù. Năm 2000, sau khi bỏ việc ở Tạp chí cộng sản, ông tham gia viết bài về dân chủ, nhân quyền và có đơn xin thành lập đảng đối lập.
Hai năm sau, ông bị bắt giam vì gửi tài liệu do ông soạn thảo và tập hợp bị cho là "có nội dung xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam" cho nước ngoài. Năm kế tiếp, ông bị kết án bảy năm tù giam về tội danh "gián điệp".
Vì các hoạt động chính trị ôn hòa, ông được tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) trao giải thưởng danh giá Hellmann/Hammett dành cho các nạn nhân của đàn áp chính trị, vào năm 2002 và 2007.
Nguồn : RFA, 10/09/2024
***************************
HRW kêu gọi Việt Nam trả tự do cho nhà báo-blogger Nguyễn Vũ Bình
VOA, 09/09/2024
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) hôm 9/9 kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho blogger-nhà báo độc lập Nguyễn Vũ Bình và hủy bỏ mọi cáo buộc đối với ông, một ngày trước khi phiên tòa xử ông dự kiến diễn ra.
HRW kêu gọi Việt Nam trả tự do cho nhà báo-blogger Nguyễn Vũ Bình
Ông Nguyễn Vũ Bình, 56 tuổi, bị bắt vào ngày 29/2 năm nay với cáo buộc tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Nếu bị kết tội, ông có thể phải đối mặt với bản án lên tới 12 năm tù giam.
"Ông Nguyễn Vũ Bình đã vận động không mệt mỏi cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam trong hơn hai thập niên qua", bà Patricia Gossman, Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói trong thông cáo ngày 9/9, và khẳng định "Hành vi bày tỏ bất đồng chính kiến một cách ôn hòa của ông không phải là tội hình sự và vụ án nhằm vào ông cần bị hủy bỏ".
Theo HRW, vụ án xử ông Nguyễn Vũ Bình là vụ thứ tám kể từ khi ông Tô Lâm nhậm chức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.
Tổ chức nhân quyền đặc biệt lưu ý đến những vi phạm nhân quyền trong thời gian ông Tô Lâm lãnh đạo Bộ Công an, từ tháng 4/2016 đến tháng 5/2024. Tổ chức này nói trong thời gian đó công an Việt Nam đã bắt giữ ít nhất 269 người vì họ đã thực hành ôn hòa các quyền dân sự và chính trị của mình.
Riêng từ đầu tháng 8 đến nay, Việt Nam đã kết án và xử phạt ít nhất 7 nhà vận động nhân quyền, trong đó có ông Nguyễn Chí Tuyến, người bị bắt giam cùng thời gian với ông Nguyễn Vũ Bình, ông Trần Minh Lợi, Lê Phú Tuân, Phan Đình Sang, Trần Văn Khanh, Phan Ngọc Dung và Bùi Văn Khang với các bản án tù kéo dài vì phê phán chính quyền, vẫn theo HRW.
Tới tối 9/9 (giờ Hà Nội), Việt Nam chưa lên tiếng về lời kêu gọi "trả tự do" cho ông Nguyễn Vũ Bình của HRW, nhưng phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam trước đây từng cho rằng tổ chức nhân quyền này "thiếu khách quan", đồng thời nói rằng Hà Nội không bắt giam người bất đồng chính kiến mà chỉ kết án những ai vi phạm pháp luật.
Ông Nguyễn Vũ Bình trước đây từng làm việc gần 10 năm cho Tạp chí cộng sản, là cơ quan lý luận và chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam. Vào tháng 9/2000, ông xin thôi việc và làm đơn xin thành lập Đảng Tự do - Dân chủ.
Sau đó, ông cùng với 16 người khác viết một thư ngỏ gửi chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Ông cũng muốn thành lập một liên minh chống tham nhũng và trở thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ Dân chủ cho Việt Nam.
Công an đã bắt giữ ông Bình vào tháng 9/2002, với lý do ông nói xấu nhà nước Việt Nam trong thư điều trần gửi Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 7 cùng năm về các vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, và sau khi ông đăng trên mạng bài viết "Về vấn đề biên giới Việt-Trung", trong đó ông phê phán bản hiệp ước đường biên giới có nhiều vấn đề và chỉ trích chính phủ đã làm mất hàng trăm kilomet vuông đất đai của Việt Nam.
Vào tháng 12/2003, ông bị một tòa án xử 7 năm tù giam, 3 năm quản chế về tội "gián điệp" theo Điều 80 Bộ luật Hình sự.
Tháng 6/2007, ông được phóng thích trước thời hạn. Sau đó, từ năm 2015 đến năm 2024, ông trở thành blogger của Đài Á Châu Tự Do (RFA) và đã có hơn 300 bài được đăng.
Những chủ đề ông viết liên qua đến nhiều lĩnh vực, bao gồm vấn đề tham nhũng, quyền lợi đất đai, kinh tế, giáo dục, môi trường, quan hệ Việt – Trung và Trung – Mỹ, công an bạo hành, xét xử không công bằng, quyền biểu tình ôn hòa... Nhưng chủ yếu các bài viết của ông nhằm "vận động cho một nền dân chủ và pháp quyền thực sự ở Việt Nam", thông cáo của HRW nói.
Ông Nguyễn Vũ Bình từng được trao giải thưởng Hellman-Hammett hai lần, vào năm 2002 và 2007, một giải thưởng hàng năm dành cho những văn sĩ dũng cảm đương đầu với sự đàn áp chính trị.
Ông cũng là hội viên danh dự các tổ chức Văn bút Hoa Kỳ, Văn bút Canada, Văn bút Thụy Sĩ và Văn bút Sydney.
Nguồn : VOA, 10/09/2024
Nhà hoạt động Huỳnh Trương Ca mãn hạn tù : Muốn có nhân quyền phải đấu tranh !
RFA, 05/03/2024
Nhà hoạt động Huỳnh Trương Ca mãn hạn tù và trở về nhà vào ngày 04/3, ông nói người dân phải đứng lên đấu tranh cho các quyền của mình.
Nhà hoạt động Huỳnh Trương Ca ra tù hôm 4/3 - FB Van Cuong Ho
Ông Ca bị bắt ngày 04/9/2018 với cáo buộc "tuyên truyền chống Nhà nước" theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự sau khi tham gia cuộc biểu tình phản đối hai Dự luật Đặc khu Kinh tế và An ninh mạng ở thành phố Hồ Chí Minh.
Trong phiên tòa vào cuối năm đó, ông bị tòa án tỉnh Đồng Tháp kết án 5 năm 6 tháng tù và ba năm quản chế.
Do vậy, thay vì được về thẳng nhà trong ngày thứ Hai, ông lại bị cán bộ trại giam đưa về Uỷ ban Nhân dân thị trấn Thường Thới Tiền, huyện Hồng Ngự để bàn giao cho chính quyền địa phương. Vài tiếng sau ông mới được đưa về nhà.
Ông nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 05/3 :
"Tôi không chống ai hết mà tôi chỉ muốn đòi quyền con người và muốn đất nước có dân chủ. Khi tôi livestream, tôi kêu gọi mọi người cùng biểu tình để phản đối Dự luật Đặc khu Kinh tế".
Ông Ca là thành viên của nhóm Hiến Pháp, một nhóm bạn hữu cổ suý việc thực hành quyền công dân và quyền con người ghi trong Hiến pháp Việt Nam 2013.
Bên cạnh việc tham gia biểu tình vào ngày 10/6/2018 phản đối hai dự luật đang được bàn thảo ở Quốc hội, ông còn làm nhiều chương trình phát trực tiếp trên mạng xã hội để nêu lên hậu quả đến an ninh quốc gia, quyền con người nếu dự luật được thông qua thành luật.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp nêu rõ, từ ngày 23/3 ngày 19/8/2018, ông Huỳnh Trương Ca đã thực hiện 40 buổi livestream (phát trực tiếp) trên Facebook cá nhân "Thằng Nhà Quê", trong đó có 18 đoạn video bị cho là có "nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền, chống lại Nhà nước".
Ông Ca cho biết cuộc sống ở Trại tạm giam của Công an tỉnh Đồng Tháp trước khi ra tòa sơ thẩm vô cùng hà khắc, thiếu nước sinh hoạt trầm trọng, ông mô tả thức ăn "thua cả cho chó mèo" và phòng giam chật hẹp.
Ông không thuê luật sư bào chữa trong phiên tòa sơ thẩm vì mất niềm tin tin vào nền tư pháp Việt Nam. Ông nói về quyết định này :
"Đầu tiên là tôi tính mướn luật sư nhưng mà tôi thấy ở Việt Nam đã xảy ra rất nhiều vụ án chính trị thì luật sư không giải quyết được gì hết, giống như là để trang trí thôi. Chính vì thế mà tôi không thuê luật sư. Tôi muốn gửi một thông điệp : Tôi không tin vào nền tư pháp của họ".
Trong phiên toà, ông cũng không tự biện hộ bởi vì "tất cả là án bỏ túi".
Trong thời gian thi hành án ở Trại giam Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), ông bị giam chung khu với nhiều tù nhân lương tâm như : Phạm Chí Dũng, Nguyễn Văn Đức Độ, Huỳnh Đức Thanh Bình, và Nguyễn Ngọc Ánh.
Nhiều lần, cả nhóm đấu tranh đòi quyền lợi cho tù nhân, và từng có hai lần tuyệt thực ngắn để phản đối việc trại giam không cho tù nhân nhận sách từ gia đình và đòi cải thiện điều kiện giam giữ.
Trước khi bị bắt, ông Ca bị tai nạn giao thông. Sau khi bị bắt, di chứng của vụ tai nạn tái phát nhưng ông không được chữa trị đầy đủ và kịp thời. Do vậy, hiện ông bị đau chân và mắt bị mờ. Tuy nhiên, ông không nói nhiều về sức khoẻ của mình.
"Hiện nay tôi quan tâm nhất là sức khỏe của đất nước này dân tộc này còn sức khỏe của tôi nó nhỏ lắm !"
Ông muốn gửi thông điệp tới mọi người dân Việt Nam :
"Nếu chúng ta muốn đất nước chúng ta có dân chủ có văn minh thì nên đi đòi, phải nhiều người đòi thì chắc chắn chính phủ sẽ nghe !"
Ông Huỳnh Trương Ca, 53 tuổi, là một trong số chín thành viên của nhóm Hiến Pháp bị bắt năm 2018.
Truyền thông nhà nước đưa tin ông thừa nhận hành vi phạm tội và thành khẩn khai báo. Tuy nhiên, ông cho biết mình chỉ thừa nhận hành vi đã thực hiện và khẳng định các hành động của mình tuân thủ Hiến pháp Việt Nam hiện hành.
Tám thành viên còn lại bị kết án theo tội danh "phá rối an ninh" theo Điều 118 của Bộ luật Hình sự với mức án từ 30 tháng đến 8 năm tù. Hiện còn hai thành viên đang thụ án tù là hai bà Hoàng Thị Thu Vang và Nguyễn Thị Ngọc Hạnh.
**************************
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình bị tạm giam bốn tháng với cáo buộc "tuyên truyền chống Nhà nước"
RFA, 04/03/2024
Người nhà của nhà báo Nguyễn Vũ Bình mới đây được phía công an cho biết, ông bị bắt tạm giam với cáo buộc "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự.
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình - Fb Nguyễn Vũ Bình
Như chúng tôi đã thông tin, ông Bình bị Công an Hà Nội đưa về nhà khám xét và bắt tạm giam ngày 29/2 vừa qua.
Một người thân của ông Bình không muốn nêu danh tính vì lý do an ninh, nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) rằng gia đình trong sáng 04/3 đến trụ sở của Cơ quan An ninh Điều tra- Công an thành phố Hà Nội để hỏi thông tin về ông Bình :
"Một sỹ quan công an thông báo bằng miệng với gia đình của anh Bình rằng anh ấy bị khởi tố và điều tra theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Anh đang bị tạm giam bốn tháng ở Trại tạm giam số 1 của Công an thành phố Hà Nội".
Tuy nhiên phía công an vẫn chưa gửi văn bản chính thức về vụ bắt giữ cho gia đình, chỉ nói rằng sẽ chuyển sau. Gia đình cũng được hướng dẫn liên hệ trực tiếp với trại tạm giam để gửi quà và đồ dùng cho ông Bình.
Phóng viên gọi điện thoại cho điều tra viên Nguyễn Đức Hải, người phụ trách vụ án của ông Bình theo số máy di động, tuy nhiên người này không nghe máy. Phóng viên gọi điện đến Trại tạm giam số 1 của Công an thành phố Hà Nội nhưng cũng không có ai bắt máy.
Một người bạn thân của ông Bình tiết lộ, trước khi bị bắt ông bị bệnh tiểu đường tuýp 2 và cao huyết áp khiến cơ thể hay hoa mắt, chóng mặt.
Người này lo ngại bệnh tình của ông Bình sẽ biến chứng nhanh hơn nếu không được bác sĩ thăm khám và cung cấp thuốc đều đặn.
Một ngày trước khi bị bắt, ông Bình nhận được giấy triệu tập của Cơ quan An ninh Điều tra- Công an thành phố Hà Nội, để làm việc về chương trình phát trực tiếp video clip trên kênh YouTube //www.youtube.com/@TNTMediaLive/search?query=nguy%25E1%25BB%2585n%2520v%25C5%25A9%2520b%25C3%25ACnh" target="_blank">TNT Media Live mà ông tham gia cùng luật sư Nguyễn Văn Đài từ năm 2021 đến tháng 6/2022.
Kênh YouTube này thuộc sở hữu của Radio Tiếng Nước Tôi có trụ sở tại San Jose, California (Hoa Kỳ).
Theo luật sư Đài, giữa năm 2022, ông Bình đã bị công an triệu tập để làm việc trong nhiều ngày và phía công an yêu cầu phải chấm dứt tham gia làm chương trình trên.
Ông Bình bị bắt trong ngày 29/2 cùng với nhà hoạt động, Youtuber Nguyễn Chí Tuyến trong hai vụ án riêng rẽ liên quan đến cáo buộc "tuyên truyền chống Nhà nước" theo Điều 117. Cho đến nay truyền thông nhà nước hoàn toàn im lặng về hai vụ bắt giữ này.
Ông Nguyễn Vũ Bình, 56 tuổi, từng có thời gian làm phóng viên trong vòng 10 năm cho tờ Tạp Chí Cộng Sản, trước khi trở thành một nhà hoạt động nổi tiếng ở Hà Nội và có nhiều bài viết cộng tác cho trang blog của RFA.
Đây là lần thứ hai ông Bình bị bắt giữ. Ông bị bắt lần thứ nhất vào cuối tháng 9/2002 với cáo buộc "gián điệp" vì gửi các tài liệu do ông soạn thảo và tập hợp bị cho là "có nội dung xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam cho một số tổ chức phản động ở nước ngoài để những tổ chức này sử dụng vu cáo, chống lại Nhà nước ta".
Hơn một năm sau, trong một phiên tòa vào tháng 12/2003, ông bị tuyên phạt bảy năm tù giam. Ông được đặc xá tha tù trước thời hạn vào năm 2007 và tiếp tục tham gia các hoạt động ôn hòa cổ suý nhân quyền và dân chủ.
Vì các hoạt động ôn hòa của mình, ông Bình được tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) hai lần trao giải thưởng Hellman-Hammett vào năm 2002 và năm 2007, một giải thưởng hàng năm dành cho những văn sĩ dũng cảm đương đầu với sự đàn áp chính trị.
Ông cũng là Hội viên danh dự của bốn tổ chức Văn bút Hoa Kỳ, Văn bút Canada, Văn bút Thụy Sĩ, và Văn bút Sydney.
Nguồn : RFA, 04/03/2024
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1916, tại xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cụ là một trong số ít người Việt Nam vượt qua tuổi 100 cực kỳ quý hiếm. Tham gia cách mạng từ năm 1936, khi phong trào Mặt trận Bình dân ở Pháp ảnh hưởng tới các thuộc địa. Năm 1939, Cụ được kết nạp vào đảng cộng sản. Trải qua rất nhiều cương vị công tác, từ nhỏ tới lớn (bí thư huyện ủy Đông Anh, bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc…), Cụ về hưu vào năm 1990. Trong quá trình công tác, cụ Nguyễn Trọng Vĩnh có thời gian tham gia quân đội và được phong hàm Thiếu tướng. Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh tốt nghiệp cao đẳng Tiểu học thời Pháp thuộc, là một trong số ít người hoạt động cách mạng trước năm 1945 có bằng cấp và kiến thức căn bản.
Nguyễn Trọng Vĩnh : giữa Việt Nam và Trung Quốc không có truyền thống hữu nghị và cũng không có tương đồng về cái gọi là "ý thức hệ"
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh trong thời gian công tác có giai đoạn 13 năm làm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, đó là giai đoạn căng thẳng, khó khăn nhất trong quan hệ Việt Nam và Trung Quốc (1974 - 1987). Trong thời gian này, khi Trung Quốc xua 60 vạn quân qua biên giới để "dạy cho Việt Nam một bài học" thì mặt trận ngoại giao cũng trở nên vô cùng khốc liệt. Chính thời kỳ này Cụ đã được chứng kiến, đã phải đối phó với những âm mưu, thủ đoạn và bản chất thực sự của đồng chí, bạn vàng cộng sản Trung Quốc. Trước đó, là cán bộ cao cấp, Cụ cũng có đầy đủ thông tin về những trái đắng mà đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam nhận được kèm theo sự giúp đỡ của đảng cộng sản và nhà nước Trung Quốc. Chính vì vậy, do hoàn cảnh công tác, Cụ là một trong số ít người hiểu được Trung Quốc vừa ở tầm chiến lược (vĩ mô), vừa ở những thủ đoạn, thủ thuật mà họ sử dụng.
Năm 2007, trước việc Trung Quốc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã có các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Bắt đầu từ đó, người dân Việt Nam ý thức hơn về các mối nguy, hiểm họa từ phía Trung Quốc. Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, cũng bắt đầu nêu vấn đề Trung Quốc với những âm mưu và thủ đoạn nhằm lũng đoạn và thôn tính đất đai, lãnh thổ lãnh hải của tổ quốc. Bởi vì giai đoạn đầu, Cụ Vĩnh còn niềm tin vào nhà cầm quyền trong việc tiếp nhận góp ý và bản thân Cụ là người tôn trọng nguyên tắc tổ chức, nên các kiến nghị, góp ý của Cụ chỉ gửi tới các địa chỉ là các cá nhân và tập thể của đảng và nhà nước. Sau này khi biết rõ những góp ý của mình và nhiều người khác không nhận được sự tôn trọng và tiếp thu, Cụ đã đưa các ý kiến trực tiếp lên mạng xã hội. Kể từ năm 2008 tới nay, cụ đã có tổng cộng hơn 50 bài viết cảnh báo về những âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực, khía cạnh và cập độ.
Những bài viết của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh về Trung Quốc là những thông tin, kiến thức rất bổ ích trong việc nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất, phương thức và thủ đoạn của nhà cầm quyền Trung Quốc trong việc lũng đoạn và phá hoại cũng như ý đồ làm suy yếu và thôn tính Việt Nam. Các bài viết của cụ Nguyễn Trọng Vĩnh bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, Nêu rõ mục tiêu bao trùm của Trung Quốc đối với Việt Nam trong mối quan hệ vừa là đồng chí, vừa là anh em từ những ngày đầu hai nước thiết lập quan hệ. Làm sáng tỏ những thủ đoạn của Trung Quốc trong việc cản trở, làm suy yếu và khống chế Việt Nam trong quá khứ.
Trong bài viết "Bộ mặt thật của những người lãnh đạo Trung Quốc trong quá trình dài quan hệ "môi răng" giữa Trung Quốc và Việt Nam" viết ngày 27/7/2012 (trong cuốn sách Phải, trái sự đời) cụ Nguyễn Trọng Vĩnh đã khái quát toàn bộ mục tiêu bao trùm, âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc trong mối quan hệ Việt - Trung.
- Tư tưởng xuyên suốt của lãnh đạo Trung Quốc là bành trướng, bá quyền ích kỷ nước lớn. Trước đó, trong bài viết "Thư gửi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết" tháng 9/2008, cụ Vĩnh đã viết : "13 năm làm đại sứ nước ta tại Trung Quốc, tôi rút ra được mấy nhận xét này : "Một nghìn năm nữa giới lãnh đạo Trung Quốc cũng chưa từ bỏ tư tưởng bành trướng bá quyền, ích kỷ nước lớn của họ. Muốn thực hiện nó, họ phải quyết vươn lên vị trí "đệ tam siêu cường". Khi chưa đạt, họ náu mình chờ thời…. Trung Quốc chưa bao giờ muốn nước ta thật mạnh, họ luôn mang tư tưởng biến nước ta thành "một đứa em yếu ớt dễ bảo".
- Những phương án thu phục Việt Nam là : 1. Thu phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông ; 2. Mạnh tay giúp xây dựng kinh tế để Việt Nam hàm ơn và phụ thuộc vào Trung Quốc ; 3. Hình thành hai gọng kìm nhằm uy hiếp và khuất phục Việt Nam.
- Giúp Việt Nam chống Pháp đồng thời hạn chế thắng lợi của Việt Nam làm Việt Nam suy yếu phải phụ thuộc Trung Quốc.
- Nhân dân Việt Nam quyết tâm chống Mỹ để thống nhất tổ quốc, Trung Quốc giúp Việt Nam và dùng Việt Nam làm con bài để làm ăn với Mỹ
Thứ hai, Khẳng định dứt khoát Việt Nam không còn nợ nần, ân nghĩa gì với Trung Quốc. Cụ Vĩnh đã lập luận : "Sự nhường cơm sẻ áo của nhân dân Trung Quốc giúp chúng ta khá lớn trong hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta, nhà nước ta rất biết ơn, coi như mắc một món nợ. Nhưng tháng Giêng năm 1974 nhà cầm quyền Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam - đang thuộc sự quản lý của Việt Nam Cộng hòa ; năm 1975, trang bị cho lực lượng vũ trang Polpot đánh phá phía Tây Nam nước ta ; tháng 2/1979, Đăng Tiểu Bình huy động 60 vạn quân xâm lăng, tàn phá triệt để các tỉnh biên giới nước ta, giết hại đồng bào ta… thì tự họ xóa hết nợ, hết ân nghĩa trước đây. Ngược lại, họ lại mắc nợ máu với nhân dân biến giới nước ta." (trong bài viết Hữu nghị hay mưu đồ thôn tính ? viết ngày 26/01/2014)
Thứ ba, Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh đã chỉ ra tất cả âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực, khía cạnh hợp tác, đầu tư, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đây là một kỳ công và tâm huyết của cụ Vĩnh, trong cuốn sách "Phải, Trái sự đời" chúng ta có thể bắt gặp hàng chục bài viết liên quan tới đề tài này. Đọc qua những bài viết với các tiêu đề : "Âm mưu thâm độc của Trung Quốc", "Lại một thủ đoạn của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đông", "Lại đường sắt cao tốc", "Cảnh giác với Trung Quốc, dân chủ với dân", "Sao lại đi học kẻ thù"…vv… có thể thấy cụ Vĩnh luôn đau đáu với sứ mệnh bảo vệ Việt Nam trước những âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc.
Thứ tư, Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh đã đưa ra giải pháp đúng trong việc bảo vệ biển đảo Việt Nam từ khá sớm. Cụ thể, trong bài viết "Đã đến lúc phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế" được cụ viết ngày 08/6/2014. Giải pháp này đến nay rất nhiều người Việt Nam yêu nước ủng hộ, nhưng nhà nước Việt Nam như thường lệ vẫn không chịu thực hiện việc bảo vệ chủ quyền biển đảo một cách đúng đắn và mạnh mẽ.
Gần đây nhất, ở tuổi 103, khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa Lý và nhiều tàu thuyền vào quấy rối và sách nhiễu ở bãi Tư Chính, trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cụ Vĩnh đã có bài viết, đã lên tiếng mạnh mẽ (ngày 18/10/2019) :
"Hiện nay đang có nhiều nước trên thế giới ủng hộ ta kiện Trung Quốc vì ta có chính nghĩa, và pháp lý đứng về phía Việt Nam.
Hơn nữa, tại sao ông (Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng) không tìm giải pháp ngay trong những ý tưởng, giải pháp đã nêu ra trong cuộc tọa đàm khoa học về vùng biển Tư Chính và Luật pháp quốc tế ngày 6/10 vừa qua ?
Vả lại, ngay các cơ quan chính thống của Đảng, Nhà nước cũng đã nhiều lần nhấn mạnh, Việt Nam có đầy đủ căn cứ, chứng lý về chủ quyền ở Biển Đông. Vậy còn trở ngại gì mà không đưa đơn kiện Trung Quốc ra các tòa án quốc tế ?"
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh không chỉ lên tiếng trong việc chống Trung Quốc mà còn góp ý cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam rất nhiều vấn đề, từ quốc kế dân sinh cho đến an ninh, chiến lược, từ việc lớn cho tới việc nhỏ. Đáng tiếc là cũng như bao góp ý của những người Việt yêu nước, đảng cộng sản đã bỏ ngoài tai, thậm chí còn vu oan giá họa cho những con người tâm huyết. Với tuổi đời vượt ra ngoài mong ước của nhiều người, cụ Nguyễn Trọng Vĩnh vẫn đau đáu cho nhân dân và đất nước, thật vô cùng khâm phục.
Hà Nội, ngày 22/11/2019
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 22/11/2019 (nguyenvubinh's blog)
Cuộc tổng biểu tình của người dân vào ngày 10/6/2018 vừa qua là một sự kiện chấn động trong lịch sử 43 năm cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam. Những nghiên cứu và đánh giá về ý nghĩa của sự kiện này sẽ còn được nhiều người thực hiện. Phong trào dân chủ Việt Nam cũng cần có cái nhìn toàn diện và rút ra những bài học cho bước đường tương lai.
Khi chế độ động tới điều thiêng liêng nhất, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc thì người dân không còn có thể ngồi yên được nữa.
Một cách cô đọng nhất, cuộc tổng biểu tình này chính là phép thử của lòng yêu nước khi mà những giá trị về tự do, dân chủ, nhân quyền chưa trở thành mối quan tâm và động lực chung của người dân. Năm 2014, trong một cuộc hội luận trên đài SBTN Úc Châu, có người đã đặt câu hỏi cho người viết bài này, khi chế độ cộng sản Việt Nam cạn kiệt nguồn lực, nếu như có sự trợ giúp của phía Trung Quốc cho việc duy trì chế độ, thì tình hình sẽ ra sao ?
Tôi đã trả lời, đại ý là, Trung Quốc và Việt Nam tuy có quan hệ đồng minh ý thức hệ, nhưng cả hai đều không tin tưởng gì nhau. Nếu như Trung Quốc có giúp đỡ Việt Nam thì họ cũng sẽ đòi hỏi một sự cam kết nào đó, ví dụ về chủ quyền, tức là phải nhượng lại hoặc bán lại chủ quyền ở đâu đó cho Trung Quốc. Nếu điều đó xảy ra, tức là phía Việt Nam bán chủ quyền thật, thì người dân sẽ nổi dậy và chế độ sẽ sụp nhanh hơn sự sụp đổ do khó khăn về kinh tế. Có nghĩa là, khi chế độ động tới điều thiêng liêng nhất, chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc thì người dân không còn có thể ngồi yên được nữa.
Dự luật đặc khu hành chính - kinh tế và cuộc tổng biểu tình ngày 10/6 vừa qua, có thể là một minh chứng cho nhận định đó.
I. Căn nguyên của cuộc tổng biểu tình 10/6
Kỳ họp thứ 5, Quốc Hội khóa XIV diễn ra từ ngày 21/5 đến ngày 15/6/2018 xem xét và thông qua 8 dự luật. Trong đó có hai dự luật được người dân đặc biệt quan tâm, đó là dự luật Đơn vị Hành chính đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc (gọi tắt là Dự luật Đặc khu) và dự luật An ninh mạng. Dư luận bắt đầu tìm hiểu và phân tích về dự luật Đặc khu và lên tiếng phản đối. Ban đầu người ta phản đối thời hạn cho thuê 99 năm trong Dự luật. Sau đó người dân phản đối việc cho người Trung Quốc thuê đất ở Đặc khu. Theo thời gian, các điều khoản của Dự luật cũng được tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ càng. Đồng thời, có một luồng dư luận về việc các quan chức cao cấp của đảng và nhà nước đã tập trung thu gom đất ở các đặc khu đó trước, để khi luật Đặc khu được thông qua sẽ bán cho người Trung Quốc với giá cao hơn nhiều lần, trục lợi.
Một dòng dư luận khác, không được tập trung và quyết liệt như dự luật Đặc khu, lên tiếng cảnh báo về dự luật An ninh mạng, về các điều khoản bịt miệng người dân trong dự luật. Người dân sục sôi trước hai dự luật, hẹn hò nhau xuống đường để phản đối. Nhà cầm quyền thấy sức nóng của nhân dân, đã ra quyết định lùi việc thông qua dự luật Đặc khu vào kỳ họp sau của Quốc Hội, đồng thời xem xét việc giảm thời hạn thuê đất từ 99 năm xuống còn 70 năm (ngày 08/6).
Nhưng ngày 10/6, hàng chục ngàn người đã xuống đường biểu tình phản đối dự luật Đăc khu và dự luật An ninh mạng. Có khoảng 10 tỉnh thành trong cả nước đã có người dân tham gia xuống đường biểu tình phản đối hai dự luật. Đó là Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Thuận, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Nghệ An, Hà Nội, Vĩnh Long, Kiên Giang (Phú Quốc), Đắc Lắc… Cuộc biểu tình bắt đầu từ ngày 09/6 (công nhân công ty PouYuen Vietnam ở Khu công nghiệp Tân Tạo, Sài Gòn), tập trung cao nhất vào ngày 10/6, và kéo dài tới ngày 11/6 ở một số nơi. Ở Bình Thuận đã xảy ra xô xát giữa người dân và cảnh sát, đốt phá trụ sở công quyền, ô tô, xe máy…
Trong các cuộc tiếp xúc cử tri mới đây của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc Hội đều có đưa ra chung một ý. Đó là dự luật Đặc khu đã lùi thời hạn thông qua, và xem xét giảm thời gian cho thuê đất từ 99 năm xuống còn 70 năm theo luật đất đai hiện hành, nhưng người dân vẫn xuống đường biểu tình. Điều đó chứng tỏ người dân biểu tình vì mục đích khác. Ý của hai vị này muốn nói, phản đối dự luật Đặc khu chỉ là cái cớ, chứ mục đích thật của người dân là phá rối, phá hoại…
Vậy căn nguyên của cuộc tổng biểu tình 10/6 là gì ?
Thứ nhất, với tất cả các kinh nghiệm của người dân sống trong lòng chế độ cộng sản, qua rất nhiều lần bị lừa dối, và chịu nhiều đau khổ, người dân đã có kết luận ngay cho mình, việc thông qua dự luật Đặc khu chính là hành vi bán nước. Dù văn bản Dự luật được soạn thảo như thế nào, câu chữ được che chắn ra sao, người dân không còn quan tâm nữa. Bởi vì, với cùng những văn bản kiểu như vậy, những địa điểm được người Trung Quốc thuê như Vũng Áng (Formosa), Bô xít Tây Nguyên, Nhiệt Điện Vĩnh Tân II, Dung Quất, v.v… đã quá đủ để người dân thấu hiểu việc nhà cầm quyền cho Trung Quốc thuê đất là như thế nào, hậu quả ra sao. Thời hạn 99 năm chỉ là một yếu tố, và không phải là yếu tố quan trọng nhất.
Có rất nhiều người nói rằng, đối với Trung Quốc, một ngày cũng không cho thuê đất của Việt Nam. Những kẻ bưng bô cho chế độ nói rằng, trong dự luật không có chữ nào nói đến việc cho Trung Quốc thuê đất. Nhưng người Việt Nam đã quá hiểu cộng sản, không chấp nhận việc giải thích như vậy và họ đã đúng. Những thông tin được tìm hiểu sau này cho thấy những cuộc hội thảo, thảo luận giữa Trung Quốc và Việt Nam về việc xây dựng đặc khu đã diễn ra từ mấy năm trước.
Thông qua sự việc này, chúng ta có thể hiểu thêm rằng, thực ra người dân biết và hiểu rất rõ những chiêu trò, những sự bịp bợm của nhà cầm quyền trong tất cả các lĩnh vực, hoạt động. Nhưng họ vẫn chịu đựng và chỉ đến khi có sự việc động chạm tới tình cảm thiêng liêng của mình, họ mới thực sự phản ứng, thể hiện thái độ. Một chi tiết thú vị là, trước cuộc tổng biểu tình 10/6, khắp hang cùng ngõ hẻm ở Việt Nam đều bàn tán xôn xao việc nhà cầm quyền bán đất cho Trung Quốc, và họ xuống đường là để phản đối hành vi bán đất đó.
Thứ hai, lùi thời điểm thông qua Dự luật Đặc khu không có nghĩa là hủy Dự luật. Giảm thời gian cho thuê đất không có nghĩa là không cho người Trung Quốc thuê nữa. Mặt khác, người dân thừa biết nhà cầm quyền chỉ dùng kế hoãn binh, sau đó sẽ lại tìm cách để thông qua Dự luật, đạt mục đích của mình. Chính vì vậy cuộc tổng biểu tình đã nổ ra.
Thứ ba, phản đối Dự luật Đặc khu vừa là nguyên nhân, nhưng cũng là ngòi nổ. Bao nhiêu sự dồn nén của người dân trong nhiều năm qua đã tích tụ lại, việc đưa ra Dự luật Đặc khu đã chạm vào điều thiêng liêng nhất của người dân, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Khi cảm xúc thiêng liêng bùng nổ, cũng là lúc mà những dồn nén bao năm bùng nổ theo, và điều tất yếu đã xảy ra, người dân đồng loạt xuống đường để phản đối nhà cầm quyền.
II. Những diễn biến chính của cuộc tổng biểu tình 10/6 và phản ứng, hành xử của nhà cầm quyền Việt Nam
1. Những diễn biến chính của cuộc tổng biểu tình 10/6
Ngày 07/6/2018, tại thị trấn Phan Rí Cửa, thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận đã có một cuộc diễu hành nhỏ, khoảng vài ba trăm người, vừa đi bộ vừa đi xe máy để phản đối Dự luật Đặc khu. Tiếp đến, ngày 09/6, hàng chục ngàn công nhân công ty PuoYuen Vietnam thuộc khu công nghiệp Tân Tạo, Sài Gòn đã đình công phản đối Dự luật Đặc khu mà họ cho rằng đó là bán đất đai cho Trung Quốc.
Ngày 10/6, cuộc tổng biểu tình đã diễn ra ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Ở Hà Nội, chỉ có khảng mấy chục người diễu hành từ phố cổ, chưa ra tới trung tâm Bờ Hồ đã bị bắt. Một số người dân túc trực quanh Hồ Gươm nhưng do không thấy những gương mặt biểu tình quen thuộc, lại nhìn thấy lực lượng công an, an ninh quá hùng hậu nên đã không thể khởi phát biểu tình. Ở Nghệ An, hàng ngàn giáo dân thuộc giáo phận Vinh đã xuống đường. Cùng lúc đó là các cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người ở Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận… Trong cuộc tổng biểu tình 10/6, có hai địa phương mà các cuộc biểu tình cần được trình bày đầy đủ, đó là Sài Gòn và Bình Thuận.
Cuộc biểu tình ở Sài Gòn đã huy động được hàng chục ngàn người xuống đường phản đối Dự luật Đặc khu và An ninh mạng. Ban đầu khi số lượng người tham gia còn ít, chưa tập hợp lại được, đã có sự đàn áp của công an, cảnh sát. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, lượng người tập trung quá đông, cảnh sát đã không thể đàn áp và ngăn chặn được cuộc biểu tình. Đã có hai đến ba địa điểm đoàn người biểu tình thành công, đi thành một khối người đông đảo, cảnh sát, an ninh và mật vụ đã không ngăn cản được đoàn người. Cuộc biểu tình ở Sài Gòn có những nơi đã kéo dài tới tận đêm khuya. Một khác biệt so với các lần biểu tình trước là người dân sử dụng cả phương tiện, tức là xe máy đi cùng với dòng người đi bộ. Việc có một số người đi xe máy để thăm dò các tuyến đường tránh các lực lượng cảnh sát, công an tập trung đông đảo để giăng bẫy hoặc ngăn chặn, cắt xé đoàn biểu tình là một sáng kiến hay của người dân. Trong cuộc biểu tình lần này, ngoài việc lượng người tham gia đông đảo thì thành phần có đủ nam, phụ, lão, ấu. Điều này chứng tỏ sự đồng thuận của người dân trong cả gia đình, chứ không chỉ là những người trưởng thành, có trách nhiệm như những cuộc biểu tình trước đây. Có thể nói, cuộc tổng biểu tình ở Sài Gòn đã bùng phát và thành công bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của nhà cầm quyền và những người quan tâm.
Cuộc biểu tình ở Bình Thuận, leo thang thành cuộc xung đột giữa cảnh sát và người dân bắt đầu từ thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Cuộc biểu tình ban đầu là ôn hòa, nhưng cảnh sát đã dùng hơi cay, vòi rồng, đánh đập và bắt đi một số người dân. Những người biểu tình đã tấn công lại cảnh sát và kéo đi đòi người. Theo một số nguồn tin, người dân đã không đòi được người lại bị lực lượng cảnh sát cơ động đánh tiếp. Chính vì vậy bạo động đã bùng nổ khi một số đông người bị kích động. Những người biểu tình tức giận đập phá, đốt xe và các trụ sở công quyền của tình Bình Thuận ở thành phố Phan Thiết và thị trấn Phan Rí Cửa. Có địa điểm, lực lượng cảnh sát cơ động sau mấy tiếng xung đột với người dân, thấy lực lượng chênh lệch, đã đầu hàng, cởi bỏ trang phục và được người dân phóng thích khỏi khu vực đang bị bao vậy. Cuộc biểu tình ở Bình Thuận kéo dài tới tận đêm khuya và sang ngày 11/6. Sau đó, lực lượng cảnh sát được tăng cường, người dân cũng đã giải tán. Bắt đầu một cuộc vây ráp, bắt bớ, tra tấn những người đã tham gia cuộc biểu tình biến thành bạo động ở Bình Thuận. Theo báo chí nhà nước, con số người bị bắt giữ ở Bình Thuận là trên 200 người, số người bị truy tố là gần 10 người…
2. Phản ứng và hành xử của nhà cầm quyền trong và sau cuộc tổng biểu tình 10/6
Trong tất cả các cuộc biểu tình xảy ra dưới chế độ cộng sản Việt Nam, ngoại trừ một vài cuộc biểu tình chống Trung Quốc ban đầu được nhà cầm quyền Việt Nam bật đèn xanh, đều có một công thức chung để xử lý. Trước thời điểm các cuộc biểu tình diễn ra, an ninh đã ngăn chặn, canh nhà những người hoạt động dân chủ, những người hoạt động xã hội và những gương mặt thường tham gia vào các cuộc biểu tình. Sau đó, an ninh tung lực lượng đón sẵn ở những địa điểm được thông báo trong các lời kêu gọi biểu tình để bắt giữ nốt những người trong giới đấu tranh chưa bị canh giữ hoặc đã tự thoát khỏi nhà trước đó. Nếu các cuộc biểu tình nổ ra, với số lượng người tham gia ít, an ninh sẽ ngay lập tức ra tay đàn áp, bắt giữ tất cả. Nếu cuộc biểu tình số lượng người lớn hơn số người của nhà cầm quyền (bao gồm công an, cảnh sát cơ động, an ninh, mật vụ, dân phòng và người của các đoàn thể được huy động), thì an ninh sẽ theo dõi và đánh tỉa những người cầm đầu, nổi trội. Trường hợp quá đông người biểu tình thì nhà cầm quyền không thể ngăn chặn nổi và đành quan sát, theo dõi cuộc diễu hành của người dân. Sau khi các cuộc biểu tình kết thúc, an ninh sẽ chắt lọc từ những camera, từ những clip quay được (số này rất nhiều vì an ninh bố trí người quay bằng điện thoại rất đông) về các đoàn biểu tình để tìm hiểu từng đối tượng, những người có biểu hiện nhiệt tình, chủ động, nổi trội hoặc chỉ đạo trong các cuộc biểu tình. Tất cả những người như vậy sẽ được đưa vào hồ sơ để nghiên cứu và tìm những đối sách thích hợp trong việc đàn áp hoặc cài cắm vào phong trào dân chủ.
Cuộc tổng biểu tình ngày 10/6 vừa qua, khi người dân bắt đầu manh nha tập trung lại, tức là mới có ít người, nhà cầm quyền đã thẳng tay đàn áp, bắt giữ và đánh đập người dân nhằm dập tắt cuộc biểu tình ngay từ đầu. Hàng loạt những hình ảnh công an, an ninh đánh đập người dân xuất hiện trên các video, trên mạng xã hội facebook. Nhưng khoảng gần 10 giờ, khi người dân tập hợp thành một khối, thì việc đàn áp đã giảm bớt và hầu như không xảy ra nữa. Do không ngăn cản và dập tắt được cuộc biểu tình ở Sài Gòn, nhà cầm quyền đã sử dụng vũ khí âm thanh, một loại vũ khí dùng cho việc tranh chấp trên biển để tấn công người dân biểu tình. Đây là hành vi vô nhân, cần lên án. Những diễn biến trên là tình hình tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Nha Trang, Biên Hòa…
Ở Bình Thuận, cảnh sát đã dùng hơi cay, vòi rồng để giải tán đoàn biểu tình, rồi bắt giữ, đánh đập một số người. Người dân đã bùng nổ và ném đất đá chống lại cảnh sát cơ động. Khi ít người và yếu thế hơn, cảnh sát cơ động đã đầu hàng và xin người dân tha thứ. Nhưng khi được tăng cường lực lượng, việc đàn áp và trả thù dã man đã diễn ra ở Bình Thuận.
Trong và sau cuộc tổng biểu tình ngày 10/6 vừa qua, nhà cầm quyền đã bắt giữ, đánh đập gần 1000 người ở tất cả các địa phương (Sài Gòn 310 người, Bình Thuận 208 người, Đồng Nai 52 người…), khởi tố và tạm giam gần 20 người. Đồng thời, vẫn kịch bản quen thuộc của nhà cầm quyền Việt Nam, họ đã rêu rao việc người dân đi biểu tình do sự xúi giục, kích động của kẻ xấu ; đi biểu tình được nhận 300 nghìn đồng/ngày ; người dân đóng giả công an để vu cho công an đàn áp… Điều đáng lên án nhất lại là một cuộc đàn áp khác xảy ra sau cuộc tổng biểu tình đúng một tuần, tức ngày 17/6. Ngày hôm đó, đã có các thông tin trên mạng xã hội kêu gọi người dân xuống đường tiếp tục cuôc biểu tình phản đối dư luật Đặc khu và luật An ninh mạng. Lần này thì nhà cầm quyền đã chuẩn bị một lực lượng chưa từng có để đối phó với cuộc biểu tình này. Tuy nhiên, cuộc biểu tình đã không nổ ra, chỉ có một số nhóm nhỏ, cá nhân chuẩn bị tinh thần xuống đường mà thôi. Cảnh sát, an ninh, mật vụ tràn ngập các địa điểm được kêu gọi tập trung biểu tình. Đã có hơn 200 người bị bắt khi họ chưa hề thực hiện một động tác nào của việc biểu tình. Có người đang ngồi quán café, có người đang đi trên đường, có người đang đi xe máy… Trong số hơn 200 người bị bắt tập trung về công viên Tao Đàn, có khoảng 1/3, tức là hơn 70 người là những người dân thường, không biết gì, không liên quan gì đến đến biểu tình. Tất cả đều bị đối xử thô bạo, bị đánh đập, quát nạt, bị bắt mở mật khẩu điện thoại để kiểm tra facebook, tin nhắn. Những người có liên quan ít nhiều tới việc cổ vũ hoặc ủng hộ biểu tình đều bị đánh đập hết sức dã man. Đã có rất nhiều tường thuật của những người trong cuộc cho thấy sự dã man, tàn bạo, phi nhân của lực lượng công an, an ninh đàn áp biểu tình ngày 17/6. Điều đáng nói là việc biểu tình chưa diễn ra, và rất nhiều người không liên quan bị bắt. Việc đàn áp của nhà cầm quyền ngày 17/6 đã chứng tỏ sự hoảng loạn của lực lượng an ninh và sự trả thù man rợ, hèn hạ của họ cho việc người dân biểu tình thành công ngày 10/6 vừa qua…
III. Vài điều cần lý giải và thông điệp của cuộc tổng biểu tình 10/6
Trong cuộc tổng biểu tình 10/6 vừa qua, có rất nhiều vấn đề và khía cạnh cần tìm hiểu để rút tỉa kinh nghiệm và lý giải sự vận động của thực tiễn. Nhưng có ba vấn đề lớn cần đặc biệt lưu tâm.
Một là, chúng ta có thể giải thích được số lượng người tham gia đông đảo vào cuộc biểu tình (hàng chục ngàn người) nhưng toàn bộ diễn biến cuộc biểu tình, từ việc tập hợp, phối hợp, diễu hành, đương đầu với cảnh sát tại sao người dân làm được trong khi không hề có một tổ chức, một sự điều phối chung, tổng thể nào ? Nói cách khác, điều gì, cái gì đã điều khiển thành công một cuộc biểu tình trong khi không hề có tổ chức điều phối chung và người dân không hề được tập dượt ? Chúng ta đều biết rằng, nhà cầm quyền đã phong tỏa hầu như toàn bộ những người hoạt động trong phong trào dân chủ và các tổ chức xã hội dân sự cũng như những người thường xuyên tham gia biểu tình. Nếu như có hạt nhân và tổ chức lãnh đạo, điều khiển thì sẽ là những người trong số người bị phong tỏa đó. Như vậy, tuyệt đại bộ phận người tham gia cuộc tổng biểu tình là những người dân thường. Nếu như có nhóm nào đó, có sự bàn bạc trước với nhau, thì số lượng này cũng rất hạn chế, và họ chỉ có thể điều phối được trong nhóm của mình mà thôi. Nhưng toàn bộ cuộc tổng biểu tình ở Sài Gòn, hàng chục ngàn người tại mấy điểm nóng đều thành công, đó là một kỳ tích không thể lý giải nổi ! ! ! Chính vì nghĩ rằng, những hạt nhân, những nhóm biểu tình thường xuyên, có kinh nghiệm đã bị phong tỏa thì các cuộc biểu tình không thể xảy ra, hoặc có xảy ra cũng như rắn mất đầu, không thể tập hợp và biểu tình thành công được, mà lực lượng an ninh, nhà cầm quyền đã vô cùng sửng sốt và hoang mang khi cuộc tổng biểu tình đã diễn ra thành công như vậy. Không chỉ an ninh và nhà cầm quyền, ngay cả những người quan sát, nghiên cứu tình hình Việt Nam cũng bị sốc khi cuộc tổng biểu tình với quy mô và sự thành công ngoài sức tưởng tượng này. Chỉ có thể giải thích được, hồn thiêng sông núi, một bàn tay vô hình, một lực lượng tâm linh đã dẫn dắt và điều phối chung cuộc tổng biểu tình ngày 10/6 mà thôi.
Hai là, tại sao cuộc tổng biểu tình 10/6 đã nổ ra ở nhiều địa phương ở miền Nam, với số lượng lớn người tham gia mà Hà Nội và miền Bắc lại hầu như không nổ ra, ngoại trừ giáo phận Vinh của Nghệ An ? Đây là câu hỏi nhức nhối nhưng vẫn phải đi tìm câu trả lời. Nói gì thì nói, người dân Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, có tinh thần vì nghĩa lớn hi sinh. Nguời dân miền Bắc cũng có tinh thần hi sinh vì nghĩa lớn, nhưng đôi lúc còn cân nhắc thiệt hơn. Quan trọng hơn, người dân miền Bắc có sự gắn bó hơn với hệ thống cầm quyền, theo nghĩa đen là gia đình nào cũng có những người đang trong guồng máy, hệ thống hiện hành dù nhiều dù ít. Người dân miền Bắc phần lớn chỉ coi nhà cầm quyền là sai lầm, thậm chí xấu xa nhưng không coi nhà cầm quyền hiện nay như một lực lượng chiếm đóng như người dân miền Nam. Chính vì ít nhiều có sự gắn bó và không coi nhà cầm quyền là lực lượng chiếm đóng nên khi chính phủ thông báo hoãn thời gian thông qua dự luật Đặc khu, người dân miền Bắc đã bị phân tâm, lưỡng lự. Cộng thêm việc một số người thuộc những nhóm biểu tình và thường phát động biểu tình công khai việc không đi biểu tình và khuyên người khác không nên đi biểu tình mà Hà Nội hầu như không thể khởi phát được cuộc biểu tình. Có người đã nói rằng, đã có rất đông người dân xung quanh hồ Hoàn Kiếm chỉ chờ cuộc biểu tình khởi phát của những gương mặt quen thuộc là tham gia, nhập cuộc. Tiếc rằng điều đó đã không xảy ra. Việc không xảy ra biểu tình ngày 10/6 vừa qua ở Hà Nội và miền Bắc chưa chắc đã là điều đáng mừng đối với nhà cầm quyền. Bởi vì điều đó chỉ thể hiện rằng, người dân miền Bắc có sức chịu đựng cao hơn người dân miền Nam. Đồng nghĩa với việc, sức nén càng cao thì sức bật càng khủng khiếp.
Ba là, chúng ta tham gia vào phong trào dân chủ, trong một chế độ độc tài toàn trị, dùng mọi nguồn lực và thủ đoạn để ngăn chặn sự phát triển và ảnh hưởng của phong trào. Nếu chỉ nhìn vào những tính toán tương quan lực lượng đơn thuần, chúng ta không có một hi vọng nào để có thể xóa bỏ chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay. Nhưng thông qua cuộc biểu tình ngày 01/5/2016, và nhất là cuộc tổng biểu tình 10/6 vừa qua, chúng ta đã nhận được thông điệp vô cùng quan trọng mà hồn thiêng sông núi đã gửi gắm. Hãy tiếp tục công việc của chúng ta một cách bền bỉ, kết quả sẽ đến trong một tương lai không xa và có thể hoàn toàn bất ngờ.
Cuộc tổng biểu tình 10/6 vừa qua cũng gửi tới nhà cầm quyền Việt Nam một thông điệp vô cùng nghiêm khắc và rõ ràng. Không có một chế độ phi nhân nào (dù có cả vũ khí nguyên tử) có thể ngăn cản được sức mạnh của hồn thiêng sông núi, của sự vận hành các lực lượng tâm linh khi mà chu kỳ tồn tại của chế độ cộng sản đã thực sự kết thúc. Với một lực lượng hùng hậu, phong tỏa hầu như toàn bộ phong trào dân chủ, mà một cuộc tổng biểu tình với lượng người tham gia cực lớn, lại diễn ra bất ngờ và thành công như vậy thì không điều gì là không thể xảy ra. Hãy dừng lại và trao trả quyền con người cho nhân dân, dân chủ cho đất nước khi còn có thể.
Hà Nội, ngày 25/6/2018
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 26/06/20148 (nguyenvubinh's blog)
Trong thời gian một vài năm qua, những diễn biến về tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam đã được hệ thống truyền thông độc lập, chủ yếu là mạng xã hội facebook thông tin kịp thời và đầy đủ tới người dân. Nổi bật trong dòng chảy thời sự là tình hình kinh tế, và công cuộc chống tham nhũng mà đảng cộng sản phát động và thực thi.
Trong cả hai năm 2017 và 2018, nhà nước vay tiền để bù đắp bội chi ngân sách và trả nợ gốc.
Để đi vào tìm hiểu bức tranh toàn cảnh của chế độ, có thể lấy các thông tin điển hình về từng lĩnh vực để phân tích và nhận định. Về lĩnh vực kinh tế, trong cả hai năm 2017, 2018 đều có thông tin về việc nhà nước vay tiền để bù đắp bội chi ngân sách và trả nợ gốc. Năm 2017, chính phủ đã vay 342.060 tỷ đồng (tương đương hơn 15 tỷ đô la), trả nợ khoảng 6,4 tỷ đô la. Năm 2018, số tiền phê duyệt vay là 384.000 tỷ đồng (tương đương 17 tỷ đô la), trả nợ gốc là 6,5 tỷ đô la.
Về chính trị, việc chống tham nhũng đang đi vào giai đoạn quyết liệt, một loạt các quan chức bị bắt và truy tố, đặc biệt có một ủy viên bộ chính trị, và một số tướng lĩnh ngành công an. Hiện tại, vẫn còn nhiều điểm nóng liên quan tới các quan chức cao cấp của chế độ như vụ AVG, vụ Đà Nẵng, vụ Sài Gòn…
Đối với lĩnh vực xã hội, chúng ta chọn sự kiện xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức sau một năm mừng chiến thắng tạm thời trong việc giữ đất. Ngoài ra, hình ảnh cán bộ, công nhân viên báo Công an Nhân dân căng biểu ngữ công khai đòi nhà chung cư khi đã đóng góp đầy đủ mà 8 năm qua vẫn chưa được nhận nhà, trong khi kế hoạch dự kiến chỉ là 2 năm.
Vấn đề đối ngoại, không còn sự kiện nào lớn và quan trọng bằng vụ nước Đức đang xét xử nghi can Nguyễn Hải Long, tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ Đức về, phục vụ cho việc chống tham nhũng.
Chỉ cần lướt qua những sự kiện tiêu biểu cho từng lĩnh vực, cùng với hiểu biết về nguyên nhân các sự kiện, chúng ta đã thấy hiện lên bức tranh toàn cảnh của chế độ. Không nghi ngờ gì nữa, đây là bức tranh hoàng hôn của chế độ. Nguyên nhân sâu xa là sự cạn kiệt nguồn lực, cùng với sự phá sản của mô hình độc tài toàn trị mà đảng cộng sản đã áp đặt lên đất nước hơn 70 năm qua.
Chúng ta đi vào phân tích từng lĩnh vực để nhận thức rõ hơn về xu thế sụp đổ không thể cưỡng lại được của chế độ.
1. Về kinh tế
Nhìn vào thông tin vay nợ của chính phủ trong hai năm qua, có thể thấy hai điều. Thứ nhất, bù đắp bội chi ngân sách và trả nợ gốc. Điều này chứng tỏ việc thu không đủ bù chi, nền kinh tế mà nhà nước quản lý làm ra giá trị không đủ cho chí phí duy trì hệ thống. Thứ hai, tiền vay và trả nợ năm sau cao hơn năm trước.
Trong khi đó, theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết, với một nền kinh tế có thu nhập vào khoảng 2.200 USD/người như ở Việt Nam, Ngân hàng Thế giới đã khuyến cáo chỉ nên thu thuế khoảng 18% GDP, không nên thu cao hơn để khoan sức dân, để người dân có lợi nhuận tái đầu tư. Song hiện nay Việt Nam đã thu thuế lên đến 32% GDP, tức là cao hơn nhiều so với khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Số liệu thống kê của Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) cho thấy, tỷ lệ đóng thuế phí của người Việt Nam vào ngân sách hàng năm là 21%, cao hơn Thái Lan là 16%, Philippines là 13,5%, Indonesia 12,4%, Malaysia 14%.
Tổng hợp những thông tin nêu trên, chúng ta có nhận xét, mặc dù đã tận thu đối với các khoản thuế phí, mức thu của nền kinh tế cũng không đủ chi trả cho toàn hệ thống, và vẫn phải đi vay nợ. Hiện trạng của nền kinh tế là vay để trả nợ trong khi giá trị làm ra không đủ chi trả.
Nguyên nhân của tình trạng này và xu thế của nền kinh tế có thể do những nguyên nhân sau đây chi phối :
- Động lực của nền kinh tế không còn. Động lực của các doanh nghiệp, của các hoạt động kinh tế chính là lợi nhuận. Vì một loạt những bất cập của nền kinh tế chưa phải thị trường, cộng với sự can thiệp của nhà nước mà việc một doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận quá khó khăn. Một doanh nghiệp muốn có lợi nhuận trong môi trường hiện nay ở Việt Nam, cần tạo ra được một sản phẩm, và bán sản phẩm đó với giá gấp 4, gấp 5 lần giá thành. Đây là điều hiếm có doanh nghiệp nào làm nổi. Động lực không còn thì các hoạt động của doanh nghiệp, của nền kinh tế chỉ còn là sự cầm chừng, cố gắng để duy trì sự tồn tại.
- Công cuộc chống tham nhũng quyết liệt vừa qua có thể tạo ra được hiệu ứng nào đó về mặt xã hội, nhưng đối với sự vận hành của nền kinh tế lại rất tai hại. Lý do là, các quan chức khiếp sợ, không dám và giảm bớt nhận hối lộ. Nhưng do sự vận hành trước đó của nền kinh tế, những khoản hối lộ là sự bôi trơn của guồng máy kinh tế. Nay khoản bôi trơn dừng lại, hoặc giảm bớt thì sự vận hành vì vậy cũng ngưng trệ theo. Các doanh nghiệp khi chưa đưa được các khoản hối lộ (như trước đây) cũng không dám triển khai, hoặc mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình. Nói như vậy không phải phê phán việc chống tham nhũng, mà vấn đề là chống tham nhũng phải đúng cách, phải triệt tiêu cơ chế đẻ ra tham nhũng thì nền kinh tế mới hoạt động bình thường được.
- Xu hướng của nền kinh tế hoàn toàn không sáng sủa khi các hiệp định thương mại đã thay đổi nội dung hoặc dừng lại. Về bản chất, các hiệp định thương mại là sự ưu ái lẫn nhau giữa các quốc gia ký kết về vấn đề thương mại và giao thương kinh tế. Đối với nền kinh tế Việt Nam trong tình trạng nước đang phát triển thường được ưu đãi hơn, thậm chí có các khoản viện trợ kèm theo. Nhưng hai hiệp định thương mại quan trọng nhất, đó là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã bị thay đổi nội dung do Mỹ không tham gia nên không còn nhiều ý nghĩa. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đang bị đình trệ do nhà cầm quyền đàn áp giới bất đồng chính kiến và sai lầm trong đối ngoại. Như vậy, xu hướng tiếp tục ảm đạm của nền kinh tế là một sự hiện hữu.
2. Về chính trị
Chính trị có hai vấn đề quan trọng, nhưng cả hai đều không có giải pháp để giải quyết triệt để và rốt ráo.
2.1. Sự bế tắc về đường lối.
Đến thời điểm này :
+ khi mà các công cuộc đổi mới, các đợt cải cách nửa vời đã hết đà, hết tác dụng thì yêu cầu cấp thiết đặt ra cho nền kinh tế, cho toàn xã hội là một cuộc cải cách triệt để, thật sự. Nhưng đảng cộng sản vẫn khăng khăng bám giữ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bám giữ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bất chấp thực tế tan hoang của nền kinh tế, bất chấp số nợ gấp 3 lần GDP không cách gì trả nổi.
Khi mà toàn xã hội, từ người lao động, các doanh nghiệp, nhà quản lý đều nhận thức được việc vận hành nền kinh tế theo phương thức cũ là đưa tới thảm họa, sụp đổ nhưng đảng cộng sản và nhà cầm quyền vẫn không có ý định gì để thay đổi trạng thái dẫn tới việc toàn xã hội bế tắc, ngưng trệ. Sự ngưng trệ và bế tắc đang được dồn nén và đến một lúc nào đó sẽ nổ tung.
2.2. Công cuộc chống tham nhũng với cách làm như hiện nay dẫn tới sự hoang mang và hỗn loạn.
Công cuộc chống tham nhũng do đảng cộng sản phát động và thực hiện đến nay đã khẳng định được đó là việc làm nghiêm túc thật sự với nhiều quan chức cấp cao bị truy tố. Tuy nhiên, việc chống tham nhũng không đề cập và không đi cùng với việc giải quyết cơ chế tạo ra tham nhũng nên tất yếu dẫn tới hai hệ lụy sau :
+ Không tiêu diệt cơ chế đẻ ra tham nhũng thì tham nhũng vẫn tiếp tục hoành hành. Nó chỉ tạm lắng khi cao trào đấu tranh chống tham nhũng đang lên cao, và hiện tượng hối lộ, tham nhũng nhỏ vẫn tràn lan không bao giờ hết.
+ Vì cơ chế chung đẻ ra tham nhũng, nên tất cả đều tham nhũng. Nay có một bộ phận có quyền lực hơn, tấn công một bộ phận khác nhân danh chống tham nhũng thì trong nôi bộ, hệ thống không phục. Những người bị tấn công sẽ nảy sinh tâm lý bất mãn, phản kháng và chống đối. Việc chống đối có thể có nhiều cách khác nhau và chưa ai biết nội tình sẽ ra sao và đi tới đâu ?
Cơ chế tạo ra tham nhũng như thế nào ? Có hai vấn đề quan trọng.
Vì duy trì chế độ độc tài toàn trị mà nhà nước đã phải sử dụng một hệ thống nhân lực khổng lồ, số liệu chính thức là 11 triệu người ăn lương. Nhưng số liệu không chính thức, cộng với số người trong doanh nghiệp nhà nước, người về hưu (mà nhà nước bảo hộ và có thể luân chuyển nguồn lực), số người hưởng phụ cấp… thì tổng số khoảng từ 25-35 triệu người. Với một lực lượng lớn như vậy (với dân số tương đương, các nước chỉ có 2-3 triệu người) thì mức lương của cán bộ, công nhân viên chức không đủ sống. Mức lương không đủ sống nhưng lại là những người trong hệ thống quyền lực và quản lý thì tất yếu sẽ dẫn tới tham nhũng.
Vấn đề thứ hai, có một tổ chức, đó là đảng cộng sản, đứng ngoài và đứng trên chi phối ba hệ thống quyền lực thông thường của nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Tổ chức này lại không chịu bất kỳ một sự đối trọng quyền lực, bất kỳ một sự kiểm soát nào. Kết hợp hai vấn đề lại thì việc hình thành quốc nạn tham nhũng là điều hết sức bình thường.
3. Về xã hội
Những bất công và dồn nén của các giai tầng trong xã hội hiện nay đã được đề cập nhiều. Nhưng trong một vài năm trở lại đây đã có hai hiện tượng đáng chú ý, góp phần làm cho sự dồn nén ngày càng cùng cực hơn.
- Bất công đã tìm đến những người trong hệ thống, tức là những cán bộ công nhân viên chức, tầng lớp trung lưu của chế độ.
Vào ngày 05/4 và 18/4 vừa qua, những người mua chung cư mà chủ đầu tư là báo Công an Nhân dân tại vành đai 3 (Khuất Duy Tiến, Nguyễn Xiển, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đã căng băng rôn, biểu ngữ đòi nhà ngay tại công trình xây dựng. Họ là những cán bộ công nhân viên báo Công an Nhân dân, hoặc người thân, họ hàng đã đặt mua chung cư từ năm 2010, đã thanh toán hết số tiền mua nhà. Nhưng sau 8 năm (dự kiến kế hoạch 2 năm nhận nhà), họ vẫn chưa nhận được nhà, và chưa biết khi nào mới nhận được.
Ngoài ra, ngày 20/4 vừa qua, một đoàn cựu chiến binh tỉnh Lào Cai cũng căng băng rôn, khẩu hiệu ở trụ sở tiếp dân của tỉnh, rồi tuần hành tới Ủy ban Nhân dân tỉnh đòi quyền lợi, đòi nhà cầm quyền thực hiện đúng chế độ, chính sách.
Những vụ việc này phản ánh một điều, bất công không buông tha bất cứ ai. Nhưng lần này, đối tượng lại chính là những người trong hàng ngũ, trong hệ thống của nhà cầm quyền, những người đang ngày đem bảo vệ chế độ.
Cách nay hơn nửa tháng, trên mạng xã hội xuất hiện thông tin về việc bộ tài chính đề xuất đánh thuế nhà có giá trị trên 700 triệu đồng, ô tô trên 1,5 tỷ đồng thì không chỉ những người dân, những người phản biện xã hội lên tiếng mà chính báo chí chính thống cũng vào cuộc phản đối quyết liệt. Từ trước tới nay, bất công thường xảy đến với phần lớn người dân thường, nay chế độ cạn kiệt nguồn lực, đã tính đến việc tận thu đối với cả những người thuộc hệ thống của mình. Chính điều này đã hứa hẹn những sự phản kháng ngay trong nội bộ, và ngày càng khốc liệt.
- Sự kiện xã Đồng Tâm, Mỹ Đức là một sự kiện đặc biệt. Sự kiện này nằm trong số hàng trăm, hàng ngàn sự phản kháng của người dân ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực trên toàn quốc. Điều đặc biệt là người dân Đồng Tâm đã làm được một việc "động trời" (bắt giam 38 người gồm cán bộ, cảnh sát cơ động trong gần một tuần) với quyết tâm giữ bằng được đất đai của địa phương. Gần đây, đơn vị quân đội đã làm hàng rào bao quanh phần đất quốc phòng của họ, chứng tỏ phần đất còn lại không thuộc đất quốc phòng mà là của người dân Đồng Tâm. Có thể nói, người dân Đồng Tâm đã có chiến thắng tạm thời trước sự bạo ngược của nhà cầm quyền.
Không chỉ có những người dân giữ đất phản kháng lại nhà cầm quyền đạt ít nhiều kết quả. Công nhân một số công ty, nhà máy đình công cũng đã đạt được những thành công bước đầu. Một làn sóng phản kháng khắp nơi để bảo vệ các quyền lợi chính đáng đã và đang động viên, thức tỉnh người dân để trước hết đòi hỏi quyền lợi cụ thể, sau đó là đòi hỏi quyền làm người đầy đủ nhất.
4. Về đối ngoại
Có thể nói, chưa có bao giờ vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế lại xuống thấp như giai đoạn hiện nay. Sự tụt dốc uy tín của Việt Nam là do những nguyên nhân sau.
- Chiến dịch đàn áp khốc liệt giới đấu tranh, bất đồng chính kiến trong hơn một năm qua. Có thể nói, việc đàn áp tàn bạo mà nhà cầm quyền nhắm vào giới đấu tranh trong hơn một năm qua là chưa từng có trong lịch sử. Điều này làm sững sờ các quốc gia dân chủ, vốn ưu ái và hi vọng Việt Nam đi theo trào lưu, xu thế chung của nhân loại. Việc bắt giam và kết án nặng nề những người đấu tranh cũng được giới quan sát quốc tế coi như một sự tráo trở, thất tín vì những lời hứa Việt Nam đưa ra khi thương thảo các hiệp định thương mại. Vấn đề đàn áp người bất đồng chính kiến giai đoạn vừa qua đã dẫn tới việc quốc tế nhìn nhận lại về các mối quan hệ với Việt Nam.
- Sự cố ngoại giao nghiêm trọng trên đất nước Cộng hòa liên bang Đức, vụ việc an ninh Việt Nam tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã tạo ra vụ khủng hoảng ngoại giao và ảnh hưởng trực tiếp tới việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Trong thời điểm hiện tại, việc xử án nghi can Nguyễn Hải Long đang diễn ra càng phơi bày việc làm ngang ngược của nhà cầm quyền, cũng như sự dối trá, trơ trẽn khi thông tin Trịnh Xuân Thanh về đầu thú ở Việt Nam. Các nước trong EU và trên thế giới cũng định hình lại quan hệ với Việt Nam sau sự kiện này.
- Một vấn đề quan trọng nữa, vừa mới xảy ra. Khi nhà cầm quyền Syria (được Nga hậu thuẫn) sử dụng vũ khí hóa học tấn công người dân Syria trong cuộc chiến, vi phạm công ước quốc tế về sử dụng vũ khí hóa học, đã bị Mỹ và các nước đồng minh lên án và tấn công các cơ sở sản xuất vũ khí hóa học. Việt Nam đã cho dàn đồng ca báo chí quốc doanh lên án Mỹ và đồng minh, ủng hộ Syria và Nga. Đây là một sự ngu xuẩn trong đối ngoại mà nhà cầm quyền tạo ra nhằm cô lập chính mình.
Những diễn biến tiếp theo trên chính trường Việt Nam thật đáng mong chờ. Mặc dù bức tranh vô cùng tăm tối của chế độ như vậy, nhưng vẫn có thể đảo chiều bất cứ lúc nào để bừng sáng lên cho tương lai dân tộc, đất nước. Đồng thời, các quan chức, lãnh đạo cũng sẽ không quá đau đầu về tương lai hậu cộng sản của mình nếu họ biết thức tỉnh kịp thời.
Hà Nội, ngày 28/4/2018
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 28/04/2018 (nguyenvubinh's blog)
Hội Anh em dân chủ là một tổ chức tự nguyện của những người Việt Nam ở trong và ngoài nước đấu tranh bảo vệ các quyền con người và vận động xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ, công bằng và văn minh.
Vụ án Hội Anh em dân chủ : tâm điểm chú ý - đỉnh điểm phẫn nộ
Hội Anh em dân chủ được thành lập ngày 24/4/2013 trên mạng xã hội facebook. Trong thời gian Hội được thành lập, và sau đó một vài năm, một loạt các hội, nhóm xã hội dân sự Việt Nam cũng đã ra đời. Đó là Hội Bầu bí tương thân, Hội Cựu tù nhân lương tâm, Hội Phụ nữ nhân quyền, Hội Nhà báo độc lập, Văn đoàn độc lập, Hội Dân oan ba miền, Hội giáo chức Chu Văn An… Như vậy, Hội Anh em dân chủ ra đời cùng với nhiều hội nhóm khác, mong muốn đấu tranh, vận động để người dân có được tự do, đất nước có dân chủ. Hội Anh em dân chủ cùng với các hội, nhóm khác ra đời phản ánh mong muốn của người dân có được các quyền tự do dân sự cũng như đất nước có thể chế dân chủ, nền dân chủ. Đây là mong muốn hoàn toàn chính đáng của người dân.
Vậy Hội Anh em dân chủ đã làm gì ? Đây là những việc làm của Hội Anh em dân chủ được nêu ra trong cáo trạng của Viện Kiểm sát trong phiên tòa xét xử các thành viên chủ chốt của Hội ngày 05/4 vừa qua, điều này có nghĩa là nhà nước Việt Nam xác nhận những việc làm của Hội Anh em dân chủ, như sau :
1. Tổ chức hội họp trên mạng xã hội.
2. Có quan điểm chính trị dựa trên nền tảng kinh tế tư nhân.
3. Mong muốn xây dựng thể chế dân chủ đa đảng với tam quyền phân lập.
4. Kêu gọi quốc tế lên tiếng về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.
5. Phối hợp và giúp đỡ bà con dân oan và anh chị em công nhân khiếu kiện.
6. Hỗ trợ ngư dân phản đối công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải làm ô nhiễm môi trường biển 4 tỉnh miền Trung.
7. Thông qua các trang mạng xã hội để quảng bá "Nhân quyền và Dân chủ" đến người dân.
8. Kết nối quan hệ gắn bó với các tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài nước.
9. Tổ chức các lớp dạy tiếng Anh để thúc đẩy Việt Nam sớm có dân chủ.
Định nghĩa chuẩn trong từ điển về động từ lật đổ như sau : "lật đổ : dùng bạo lực tước đoạt quyền hành trong lĩnh vực chính trị".
Như vậy, diễn giải đúng nghĩa của tội danh "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", điều 79 bộ luật hình sự, sẽ là : Hoạt động sử dụng bạo lực nhằm tước đoạt quyền hành của chính quyền nhân dân.
Với tất cả định nghĩa, mục đích và những hoạt động của Hội Anh em dân chủ nêu trên, chúng ta đem so sánh với tội danh đã được diễn giải (hoạt động sử dụng bạo lực nhằm tước đoạt quyền hành của chính quyền nhân dân). Câu trả lời là hoàn toàn rõ ràng, Hội Anh em dân chủ không sử dụng bạo lực nhằm tước đoạt quyền hành của chính quyền nhân dân, Hội Anh em dân chủ không vi phạm pháp luật, và hoàn toàn không có tội. Vậy bản chất của vụ án là gì ? Đó là một nhà nước độc tài cộng sản, đàn áp những hội, nhóm vận động cho tự do, dân chủ ở Việt Nam.
1. Tâm điểm chú ý
Vụ án Hội Anh em dân chủ là tâm điểm chú ý của dư luận trong và ngoài nước bởi những lý do sau.
- Hội Anh em dân chủ và các hội, nhóm xã hội dân sự thành lập và hoạt động phản ánh xu hướng dân chủ hóa đất nước và nguyện vọng của người dân mong muốn có tự do, dân chủ. Việc đối xử với một hội, nhóm lớn và hoạt động có bài bản như Hội Anh em dân chủ chính là thái độ của nhà cầm quyền đối với xu hướng dân chủ hóa đất nước và nguyện vọng của người dân. Việc ra tay đàn áp, bắt giam và truy tố các thành viên chủ chốt của Hội Anh em dân chủ chứng tỏ nhà cầm quyền đã đi ngược lại xu thế dân chủ hóa đất nước và nguyện vọng chính đáng của người dân.
- Mặc dù không phải là một tổ chức chính trị, mà chỉ là tổ chức xã hội dân sự, nhưng Hội Anh em dân chủ là một tổ chức hoạt động bài bản (có ban lãnh đạo chung, có các vùng miền, có ban chuyên môn…). Đồng thời, Hội Anh em dân chủ được quản lý và điều hành bởi những người hoạt động (các thành viên chủ chốt bị bắt) có uy tín, bề dày và phần lớn đều đã bị tù đày (trong số 10 thành viên chủ chốt bị bắt, tính cả thầy giáo Vũ Hùng, chỉ có hai người chưa từng đi tù). Một tổ chức như vậy, đã hoạt động được 4-5 năm nay bị đàn áp, những thành viên chủ chốt bị bắt và đưa ra xét xử đã tạo ra một sự quan tâm lớn của dư luận trong và ngoài nước…
- Vụ án Hội Anh em dân chủ cũng nhận được sự quan tâm rất lớn của quốc tế bởi vì nó nằm trong chiến dịch đàn áp khốc liệt từ năm 2017, chiến dịch đàn áp chưa từng có của nhà cầm quyền Việt Nam trong mấy chục năm qua. Toàn bộ những vụ bắt bớ và xử án nặng nề gần 100 người trong năm 2017 đã tạo ra cú sốc đối với dư luận quốc tế. Các chính phủ và các tổ chức nhân quyền trên toàn thế giới đã lên án nặng nề, đồng thời có sự can thiệp, thậm chí đưa vào các thỏa thuận thương mại, mậu dịch với Việt Nam (ví dụ, Hiệp định thương mại Việt Nam - EU). Chính vì vậy, quốc tế rất quan tâm đến vụ xét xử các thành viên chủ chốt của Hội Anh em dân chủ. Mặt khác, trong các cuộc đàm phán các hiệp định thương mại trước đây, nhà cầm quyền Việt Nam luôn tuyên bố sẽ nhường không gian cho truyền thông phi chính thống và các hoạt động xã hội dân sự. Trên thực tế, việc nhà cầm quyền để các hội nhóm được thành lập và đi vào hoạt động được 3-5 năm vừa qua cũng đã thúc đẩy cho việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại rất nhiều. Nhưng đến nay, nhà cầm quyền Việt Nam lại đàn áp các hội, nhóm xã hội dân sự, dẫn tới việc quốc tế xem Việt Nam như một quốc gia thất tín và tráo trở.
- Sự phi lý trong việc áp đặt tội danh cho Hội Anh em dân chủ. Bất kể là ai, dù trong hệ thống cai trị hiện hành, hay những người quan tâm tới tự do, dân chủ và cả các quan sát viên quốc tế đều biết và hiểu rất rõ hoạt động của Hội Anh em dân chủ và các hội, nhóm khác là hoạt động ôn hòa hướng tới việc nâng cao nhân thức cho người dân về vấn đề tự do, dân chủ , những hoạt động giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ người dân, vv… Trong trường hợp thuận lợi nhất, và được nhiều người dân ủng hộ, thì những hoạt động của Hội Anh em dân chủ và các hội nhóm khác cũng chỉ đạt được sự nhượng bộ từ phía nhà cầm quyền, tốt đẹp hơn nữa là việc chuyển hóa chế độ trong hòa bình (tức là tổng tuyển cử tự do). Vậy tại sao lại áp đặt cho tội danh lật đổ chính quyền nhân dân, một tội danh mà không hề ăn nhập và liên quan gì tới mục đích, mục tiêu và các hoạt động của Hội Anh em dân chủ ? Sự nhố nhăng và kệch cỡm của nhà cầm quyền trong việc này là hoàn toàn không có giới hạn.
2. Đỉnh điểm phẫn nộ
Căn cứ vào những vấn đề được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, và kết quả của phiên tòa ngày 05/04/2018 xét xử các thành viên của Hội Anh em dân chủ, một làn sóng phẫn nộ trong và ngoài nước đang dâng cao hơn bao giờ hết. Sự phẫn nộ của dư luận là do những người quan tâm đã nhận ra những vấn đề sau kết quả phiên tòa xét xử các thành viên của Hội Anh em dân chủ.
Thứ nhất, nhà cầm quyền Việt Nam đã quyết tâm ngăn chặn xu hướng dân chủ hóa đất nước, đi ngược lại nguyện vọng, khát vọng chính đáng tự do, dân chủ của người dân. Không nghi ngờ gì nữa, nhà cầm quyền quyết tâm giữ độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản đối với đất nước tới cùng, bất chấp tất cả quy luật vận động của xã hội cũng như nguyện vọng của nhân dân. Bằng việc kết án nặng nề các thành viên chủ chốt của Hội Anh em dân chủ, cũng như chiến dịch đàn áp khốc liệt suốt trong năm 2017, nhà cầm quyền không chấp nhận bất cứ một sự vận động ôn hòa nào cho việc dân chủ hóa đất nước.
Thứ hai, qua kết quả phiên tòa, thể hiện bằng mọi giá giữ vững độc quyền lãnh đạo, nhà cầm quyền cũng bất chấp mối quan hệ đối ngoại, bất chấp các hiệp định thương mại. Điều này đồng nghĩa với việc bỏ qua lợi ích của các doanh nghiệp, người lao động và nền kinh tế để duy trì sự thống trị của mình.
Thứ ba, dù nhiều tiếng nói phê phán, nhiều phân tích về sự vô lý trong việc áp đặt tội danh không liên quan tới đối tượng, cho dù các luật sư và người bị truy tố phản bác hoàn toàn các luận cứ, dù quốc tế lên án và can thiệp, nhà cầm quyền vẫn dùng quyền uy để áp đặt những bản án bất công và nặng nề đối với các nhà hoạt động của Hội Anh em dân chủ. Đồng thời, việc xử án cũng đã vi phạm nhiều quy định tố tụng cũng như việc ngăn cản người hoạt động, bắt bớ người tham dự phiên tòa vẫn diễn ra như thường lệ.
Tóm lại, thông qua vụ án Hội Anh em dân chủ, nhà cầm quyền đã gửi đi thông điệp, họ sẽ chơi sát ván, chơi tất tay với nhân dân trong những giờ phút tồn tại cuối cùng của mình.
Hà Nội, ngày 09/04/2018
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA,09/04/2018 (nguyenvubinh's blog)
Trong quá trình tham gia tương tác trên mạng xã hội facebook, ngoài những điều tích cực như nhận thức của người dân được nâng lên, số người mở rộng tầm nhìn, hiểu biết ngày càng tăng, thì có những hiện tượng chúng ta không thể không chú ý.
Bản tính thứ nhì - Ảnh minh họa
Điều đầu tiên là những bạn bè của những người có sự phản biện xã hội dần rời xa họ, hủy kết bạn thậm chí block. Đây là tình trạng phổ biến của những người mới thức tỉnh và tham gia phản biện, trao đổi những vấn đề thuộc về mặt trái của xã hội và chế độ. Vấn đề tiếp theo, với những thông tin nhiều chiều, vừa lý luận vừa thực tiễn, đôi khi là những vấn đề rõ ràng, dễ hiểu nhưng chúng ta vẫn chưa (không) thuyết phục được những người tham gia tương tác trên mạng xã hội thay đổi cách nghĩ một chiều, và tất nhiên là sai lầm về chế độ.
Thú vị và khó hiểu hơn cả, đó là có rất nhiều người tham gia phản biện xã hội nhưng lại có những phản ứng hoặc nhận thức rất kỳ lạ, mâu thuẫn với những quan điểm, bài viết của mình trước đó. Điển hình nhất là có một nhà thơ, có rất nhiều bài thơ phê phán, phản biện xã hội và chế độ được mọi người yêu thích. Nhưng thỉnh thoảng nhà thơ này lại có những bài thơ, hoặc bài viết ca ngợi cá nhân quan chức cộng sản, hoặc bảo vệ cho một sự việc của chế độ. Điều này làm sững sờ rất nhiều người vì họ không hiểu nổi tại sao lại có sự mâu thuẫn, sự khác lạ đến bất ngờ như vậy. Nói về nhà thơ này, người viết chỉ đưa ra ví dụ có tính điển hình để đi vào lý giải nguyên nhân, chứ không phải nhắm vào việc phê phán nhà thơ đó. Bởi vì, có rất nhiều người đang tham gia phản biện xã hội, thậm chí đấu tranh dân chủ cũng có những điều rất giống với nhà thơ nói trên, đó có thể gọi là hiện tượng tương đối phổ biến.
Việc đưa ra các quan điểm, nhận thức ngược lại với những gì mình đang nói, đang viết, bất chấp cả logic hình thức, và việc này không chỉ một lần mà thỉnh thoảng lặp lại chứng tỏ trong nhận thức của những người đó ẩn chứa một sức mạnh, một niềm tin và một bản tính nào đó mà chính chủ thể cũng không nhận ra. Tương tự như vậy, nếu những điều thuộc về sự thật, chân lý rõ ràng không khó về mặt nhận thức mà nhiều người vẫn không tiếp thu, không hấp thụ được chứng tỏ trong con người họ cũng có những sức mạnh vô hình không cho tiếp nhận những sự thật hiển nhiên như vậy. Hiện tượng bạn bè rời xa người phản biện xã hội, cá nhân đấu tranh hơi khó xác định hơn. Nhưng những người từ bỏ bạn bè cũng thường là những người dần rời xa mạng xã hội facebook, và để rời xa mạng xã hội thú vị và hữu ích như vậy, bên trong con người họ cũng phải có những lực đẩy mạnh mẽ.
Nói tóm lại, những hiện tượng nêu trên không đơn thuần là ý thức, nhận thức nhất thời của cá nhân, mà tiềm ẩn bên trong là một bản tính được định hình nhưng chủ thể có thể không nhận thức được. Có thể tạm gọi đó là bản tính thứ nhì của họ, những người sống trong chế độ cộng sản. Bản tính thứ nhì này được hình thành do một nền giáo dục áp đặt kết hợp tuyên truyền, và nỗi sợ hãi của con người trước hoàn cảnh xã hội mà họ đã và đang sống.
Đã có nhiều người nói về việc người dân, nhất là quan chức và công chức, sống trong xã hội cộng sản là những con người nhị nhân cách. Tuy nhiên, điều này là đúng và dễ hiểu đối với tầng lớp cán bộ nói chung, vì gắn chặt quyền lợi vào guồng máy. Nhưng còn người dân thường, và những người không còn nhiều mối liên hệ lợi ích với chế độ, trong hoàn cảnh xã hội ít nhiều cởi mở như hiện nay thì vấn đề không rõ ràng như vậy. Chỉ có thể gọi là bản tính thứ nhì (và tiềm ẩn) chứ chưa thể gọi là nhân cách thứ hai được.
I. Bản tính thứ nhì
Muốn tìm hiểu bản tính thứ nhì, chúng ta cần hiểu bản tính thứ nhất của con người.
Bản tính thứ nhất là những lẽ thông thường của con người, đó là yêu chuông chân lý, tôn trọng sự thật khách quan, đứng về phía lẽ phải, bảo vệ công lý. Bản tính thứ nhì hình thành chủ yếu do một nỗi sợ hãi nào đó, có thể là sự an toàn cho bản thân, có thể nỗi sợ mất quyền lợi… vì vậy, bản tính thứ nhì là sự đồng tình với hệ thống cai trị, là sự bảo vệ tính chính danh của chế độ bất chấp chân lý, sự thật khách quan.
Bản tính thứ nhì không chỉ dẫn tới thái độ sai lầm mà còn ngăn cản chủ thể không đi tới tận cùng của sự nhận thức. Điều đặc biệt nhất, đó là chủ thể hầu như không nhận ra điều này, tức là bản tính thứ nhì chỉ tiềm ẩn, phảng phất và có tác động tới chủ thể một cách rất khó để nhận biết…
Bản tính thứ nhì được hình thành như thế nào ? Có nhiều cách thức đối với từng thành phần và đối tượng khác nhau.
- Những người đã từng được chứng kiến quá trình hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu, được chứng kiến việc thanh toán những thành phần mà đảng nói là việt gian, phản động. Những người chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất, việc con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, trò đấu tố thầy… họ chứng kiến những cái chết tức tưởi, vô cùng vô lý giai đoạn đầu xây dựng chế độ. Sau đó họ chứng kiến những cái chết, những sự đày đọa khủng khiếp chỉ vì không hợp tác, không nghe theo và không đồng tình với cộng sản… tất cả những điều đó tạo ra một nỗi sợ hãi và dần hình thành trong con người họ một bản tính tuân phục, đồng tình và thậm chí bảo vệ chế độ. Đây là quá trình hình thành tự nhiên trong tâm trí để cá nhân tự bảo vệ mình trước hoàn cảnh thực tế vô cùng nghiệt ngã, tàn bạo. Sự ám ảnh khi chứng kiến và trải qua giai đoạn lịch sử tồi tệ cũng đồng thời tạo nên bản tính thứ hai của phần lớn những người thuộc thế hệ từ 70 tuổi trở lên hiện nay.
- Thế hệ dưới 70 tuổi, hoặc sinh ra từ năm 1950 trở về tuy không còn phải chứng kiến những cái chết oan nghiệt, tàn bạo, vô lý nhưng sự đày đọa khi những người phản kháng hoặc không đi theo, không đồng tình với đường lối chính sách của đảng và nhà nước vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Đồng thời, với sự bưng bít thông tin và sự tuyên truyền, nhồi sọ, họ đã không thể phân biệt được đúng, sai. Khi đã không phân biệt được đúng sai, lại sống trong môi trường bị phân biệt đối xử, phân chia giai cấp, thành phần cũng dẫn tới thế giới quan a dua, toa rập và lệch lạc. Như vậy, việc hình thành bản tính thứ nhì đối với thế hệ này là để tránh sự đày đọa và phân biệt đối xử, và đến giai đoạn đổi mới, mở cửa là vì quyền lợi, lợi ích.
- Đối với thế hệ trẻ hơn, sinh từ năm 1975 trở lại đây, khi họ lớn lên, xã hội đã sang một thời kỳ mới. Sự tàn bạo, đày đọa con người do khác biệt chính kiến, quan điểm không còn khắc nghiệt nữa, nhận thức được mở rộng hơn nhưng cũng hỗn loạn hơn. Đây là thế hệ khổ sở về mặt nhận thức bởi những lý do sau :
Thứ nhất, họ không được trang bị kiến thức và phương pháp nhận thức xã hội đúng đắn do sự thất bại liên miên của giáo dục và cải cách giáo dục.
Thứ hai, toàn bộ hệ thống giá trị, thế giới quan, nhân sinh quan mà họ được đào tạo, giáo dục đã thất bại hoàn toàn, đã bị nhân loại bác bỏ nhưng họ vẫn phải học, phải bị nhồi nhét. Trong khi thực tế cuộc sống cũng đi ngược lại toàn bộ những điều được dạy trong sách vở.
Đối với thế hệ sinh sau 1975, họ không hình thành bản tính thứ nhì dựa trên những nỗi sợ hãi. Nhưng do những giá trị xã hội đảo lộn, hỗn loạn mà việc hình thành bản tính thứ nhất bị khiếm khuyết. Xã hội không có những chuẩn mực để định hình những giá trị cần thiết của bản tính thứ nhất. Chính vì vậy, việc hình thành lý tưởng của thế hệ này khó hơn các thế hệ trước, phần lớn họ nhắm tới các lợi ích ngắn hạn, trước mắt có thể xấu hoặc tốt.
Trong bối cảnh độc tài toàn trị của đất nước, thì lợi ích luôn song hành với sự tung hô, đồng tình và bảo vệ chế độ. Như vậy, dù không có bản tính thứ nhì, không bị chi phối bởi bản tính thứ nhì nhưng do xu hướng nhắm tới các mục tiêu trước mắt mà thế hệ này cũng khó tiếp cận với chân lý và hiện thực khách quan.
II. Nâng cao nhận thức
Khi chúng ta nói tới việc nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng luôn có hai yếu tố có tính chất quyết định, đó là nhận thức và thái độ. Xét đến cùng thì thái độ cũng là nhận thức nhưng ở tầng mức cao nhất, tổng quát nhất và toàn diện nhất.
Lấy một ví dụ, có người chưa hiểu nhiều, chưa hiểu hết về chế độ cộng sản, vẫn đang trong quá trình tìm hiểu, nhưng họ đã xác định, chế độ cộng sản là chế độ tàn bạo, vô nhân gây ra nhiều tội ác đã bị nhân loại phỉ nhổ và loại bỏ… thì người đó có thái độ đúng, cũng chính là có nhận thức tổng quát đúng. Với thái độ đó, không khó để người này tiếp cận các tư liệu, tài liệu, sách vở để hiểu được những vấn đề phức tạp của chế độ cộng sản. Nếu thái độ không đúng, dù có nhiều dẫn chứng và bằng chứng, người ta vẫn có thể tìm ra những lý do để biện minh, bào chữa cho sự sai trái và tội ác.
Nếu thái độ đúng nhưng không triệt để, thì họ sẽ bị sa vào những mâu thuẫn không thể lý giải nổi. Ví dụ, nhiều người cho rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam, hay chủ trương đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam đến năm 1975 là đúng, hoăc đến khi đổi mới là đúng. Sau năm 1975, hoặc sau đổi mới đảng cộng sản mới tha hóa, biến chất… Nhưng khi hỏi rằng, nếu đến năm 1975, hoặc đến đổi mới là đúng thì tại sao lại có cải cách ruộng đất, tại sao lại có đánh tư sản miền bắc, đánh tư sản miền nam và nhiều tội ác khác của đảng cộng sản ?
Tất nhiên, nếu một người tìm hiểu, nghiên cứu với một thái độ khoa học, tức là tôn trọng lịch sử và sự thật khách quan, nhận thức sẽ đưa tới thái độ và những kết luận tổng quát chính xác và hoàn chỉnh. Để vượt qua được tất cả những khúc mắc, những lực cản tâm lý, ảnh hưởng của bản tính thứ nhì và những toan tính trước mắt, chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn và triệt để về chế độ cộng sản nói chung và chế độ cộng sản Việt Nam nói riêng…
- Trong quá trình nghiên cứu một đối tượng, một chủ thể thì cách tiếp cận chiếm một vị trí quan trọng. Rất nhiều người chưa xác định được cách tiếp cận đúng, nên thường dẫn tới việc không xác định được bản chất sự việc. Đi vào tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, nhưng ít ai đặt vấn đề mục tiêu, mục đích thật sự của chủ nghĩa cộng sản là gì ? Tất nhiên, hoàn toàn không phải là mục tiêu mà lý tưởng cộng sản vẫn nêu ra, bởi nếu mục tiêu như vậy, đã không bao giờ dẫn tới những thực tế khủng khiếp mà cộng sản tạo ra.
Mục tiêu của các quốc gia cộng sản, đó là đảng cộng sản muốn thống trị nhân dân ở các quốc gia. Mục đích sau cùng của chủ nghĩa cộng sản, đó là thống trị nhân loại. Đây mới chính là mục tiêu, mục đích thật sự của các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản. Với mục tiêu này, các đảng cộng sản đã làm như thế nào ? Hay nói cách khác, ho đã sử dụng phương pháp nào để đạt mục đích ?
Các đảng cộng sản đã tổ chức, chủ động tạo ra sự hỗn loạn (hoặc dựa vào thời thế) để cướp chính quyền, sau đó xây dựng một cơ chế triệt tiêu tinh thần phản kháng của người dân. Chỉ có tiêu diệt tinh thần phản kháng của nhân dân, các chế độ cộng sản mới áp đặt và duy trì được sự thống trị của mình (mời tham khảo bài viết : Phác họa lại chân dung một chế độ). Như vậy, với cách tiếp cận nghiên cứu cơ bản, tìm ra mục đích và phương thức đạt mục đích của chủ thể, đối tượng nghiên cứu, chúng ta mới hiểu được đúng bản chất của các chế độ cộng sản, của chủ nghĩa cộng sản.
- Trên một phương diện khác, khi bám sát vào quy luật bản chất hiện tượng, chúng ta cũng có thể xác định được bản chất của chủ thể, của đối tượng nghiên cứu. Nếu một chủ thể có bản chất tốt đẹp, bao giờ cũng có biểu hiện ra bên ngoài bằng những kết quả tốt đẹp, hoặc cơ bản là tốt đẹp. Ngược lại, một chủ thể không thể có bản chất tốt đẹp nếu như thể hiện ra bên ngoài là một loạt những sự sai lầm, xấu xa và tàn bạo.
Soi chiếu vào quá trình hoạt động và lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta không tìm đâu ra được một công việc nào, một sự nghiệp nào có kết quả tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước. Ngược lại, một chuỗi những sự kiện mà đảng cộng sản đã thực hiện đã đưa nhân dân và đất nước đi hết từ thảm họa này tới thảm họa khác. Việc tiêu diệt các đảng phái khác, những tổ chức, cá nhân không cùng lý tưởng ngay từ khi đảng công sản ra đời, việc cướp chính quyền trong lúc giao thời, công cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản hai miền… cùng với một loạt các sự kiện tương tự như vậy, không còn ai có thể biện minh cho một chế độ gây đau thương và tai họa cho người dân và đất nước được.
- Một trong những khúc mắc trong nhận thức của nhiều người, đó là người ta không đánh giá, không nhận thức về chế độ dưới góc nhìn một cơ chế, một thể chế. Chính vì vậy mới có những người nhận thức chưa tới, nửa vời và cho rằng các thế hệ lãnh đạo chế độ cộng sản giai đoạn đầu trước năm 1975, hoặc trước đổi mới vẫn có công lao và đạo đức, liêm khiết. Chỉ sau này đổi mới, các thế hệ lãnh đạo mới tha hóa, biến chất.
Với mục đích thống trị người dân, thế hệ lãnh đạo ban đầu đã xây dựng một cơ chế triệt tiêu tinh thần phản kháng của người dân. Trong quá trình đó, họ đã thực hiện việc tiêu diệt các đảng phái khác, cải cách ruộng đất, đánh tư sản để bần cùng hóa người dân áp đặt sự thống trị… Tất cả những thế hệ lãnh đạo sau này đều nằm trong guồng quay của cơ chế mà thế hệ lãnh đạo ban đầu tạo dựng lên. Khi các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, để thích ứng với tình hình mới, đảng cộng sản đã phải thực hiện công cuộc đổi mới. Đó là một thủ đoạn để duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng. Mục tiêu thống trị nhân dân theo phương thức cũ (cơ chế cũ) không còn nữa, mà thay bằng mục tiêu duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản.
Việc nhìn nhận, đánh giá chế độ dưới góc nhìn cơ chế, thể chế cũng giúp chúng ta không đi vào việc so sánh các cá nhân lãnh đạo, tôn sùng người này, người kia. Đồng thời chúng ta cũng thấy được mức độ khó khăn của công cuộc đấu tranh dân chủ mà người dân theo đuổi và hằng mong ước. Đó là việc thay đổi cơ chế, thể chế hiện hành chứ không phải việc thay thế thế hệ lãnh đạo hoặc cá nhân người này, người kia.
- Một vấn đề quan trọng nữa cần đề cập. Có nhiều người cho rằng, với tình trạng hiện nay của đất nước, vẫn có thể sửa đổi từng vấn đề, từ nhỏ tới lớn, từng bước một để chế độ và xã hội tốt đẹp lên. Câu trả lời là, dù với một việc nhỏ, cả chế độ này cũng không thể làm tốt lên được, chứ không phải sẽ làm tốt được và tiến tới làm tốt tất cả các lĩnh vực khác và toàn bộ vấn đề của đất nước. Một chế độ toàn trị, với một cơ chế duy nhất để tiêu diệt, triệt tiêu tinh thần phản kháng của người dân, và chế độ chỉ quan tâm tới mục tiêu này. Chính vì vậy, tất cả các lĩnh vực khác đều là sự sai trái, chắp vá và trục lợi. Những nền tảng đã sai từ đầu và kéo dài mấy chục năm ở tất cả các lĩnh vực hỏi rằng đến bây giờ còn lực lượng nào, còn ai có thể làm tốt được ?...
Chúng ta lấy một ví dụ để chứng minh cho nhận định này. Đó là vấn đề giao thông ở các thành phố lớn, ví dụ ở Hà Nội. Vấn đề giao thông ở thành phố lớn như Hà Nội không phải là vấn đề nhỏ, nhưng đối với một quốc gia, đó cũng không phải là vấn đề lớn. Để giải quyết tình trạng giao thông ở Hà Nội, chúng ta cần hiểu được chuẩn mực giao thông ở các thành phố lớn trên thế giới và cách thức phối kết hợp để xây dựng hệ thống giao thông hoàn chỉnh.
Đối với tiêu chuẩn chung của thế giới, điều đầu tiên là quỹ đất dành cho giao thông (tức là làm đường đi, bãi đỗ xe…) bao giờ cũng chiếm tỷ lệ từ 15-20% tổng quỹ đất thành phố (trung tâm). Trong khi đó, ở Hà Nội, quỹ đất dành cho giao thông chưa tới 5% tổng quỹ đất !
Vấn đề thứ hai, bản thiết kế xây dựng hệ thống giao thông thành phố từ ban đầu đã có quy hoạch tổng thể, với dự kiến dân số thành phố, các trục đường chính với các thiết kế phù hợp với hiện tại và tương lai, tính ổn định và kế thừa là nguyên tắc luôn được giữ vững.
Vấn đề thứ ba, dân số toàn thành phố và từng khu vực cũng như từng dãy phố phải bảo đảm một tỷ lệ nhất định so với số km đường… đối với vấn đề này, chúng ta chỉ cần nhìn các khu chung cư hiện nay mọc lên như nấm, mật độ dân số các khu vực đó và toàn thành phố như hiện nay thì ai có thể giải quyết nổi vấn đề tắc đường, kẹt xe ở Hà Nội ?
Chưa kể một loạt các vấn đề đưa tới sự hỗn loạn trong giao thông như việc mua bằng lái xe và tình trạng mãi lộ của cảnh sát giao thông và rất nhiều vấn đề khác.
III. Đứng về phía người dân, sự thật và công lý
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về chế độ cộng sản, nếu như chúng ta chỉ đọc sách và suy nghĩ để đưa tới kết luận, trong khi từ nhỏ tới lớn sống trong môi trường giáo dục và xã hội của chế độ sẽ rất khó vượt thoát để có cái nhìn đa chiều, đúng đắn. Có một số người vô tình trải qua những cú sốc tâm lý, dẫn tới việc họ tự tìm hiểu về bản chất thật sự của chế độ. Và thật kỳ lạ, chỉ sau một thời gian rất ngắn, họ đã hiểu ra những điều mà trước đây họ chưa từng biết, chưa từng hiểu mà rất nhiều người mất rất nhiều năm cũng không nhìn ra được.
Điển hình là, có một cô gái ở Hà Nội, cô còn rất trẻ và không bao giờ quan tâm tới vấn đề xã hội, chính trị. Cô vẫn nghĩ rằng xã hội giống như những điều mà cô được học ở trường, tức là những điều tốt đẹp và công lý tối thiểu phải có trong xã hội này. Biến cố đến với cô là ngày cha cô đi xe ôm, ngồi sau xe không cài mũ bảo hiểm trong lúc đứng chờ ở ngã tư đèn đỏ, đã bị công an bắt. Vì nghĩ rằng xe đang không lưu thông và việc chưa cài mũ bảo hiểm chưa thể coi là vi phạm lỗi tham gia giao thông, cha cô đã lên tiếng để phản đối việc phạt vi phạm giao thông của công an. Sự việc rất đơn giản như vậy, nhưng cha cô đã bị bắt giữ và bị công an đánh chết trong phòng tạm giữ.
Cô gái và gia đình bàng hoàng nhờ pháp luật và công luận (báo chí) can thiệp. Quá trình giải quyết vụ việc và liên quan đến vụ kiện của gia đình cũng như những kết quả của vụ án đã làm cô bị sốc trước thực tế trần trụi và tàn bạo của xã hội hiện nay. Trong quá trình giải quyết vụ việc của cha mình, cô cũng đã gặp gỡ những gia đình có hoàn cảnh tương tự như của mình, cũng như nhiều hoàn cảnh đau lòng và khổ sở hơn. Cô đã đi vào tìm hiểu thêm về thực trạng xã hội theo hướng phản biện. Kết quả là chỉ sau một thời gian ngắn, cô đã hoàn toàn hiểu được bản chất của chế độ hiện hành, và cô đã dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự thật, công lý và lương tâm.
Đối với những người muốn tìm hiểu về bản chất chế độ, mà chưa đưa ra được kết luận, có thể cần những trải nghiệm thực tế để làm "cú hích" tâm lý cho việc tìm hiểu, nghiên cứu của mình. Có một cách không cần trải qua cú sốc tâm lý, chỉ cần tiếp cận với những người dân đang bị áp bức, đàn áp để thăm hỏi, giao lưu và tìm hiểu. Có thể tới gặp gỡ những gia đình có nhà cửa, đất đai bị giải tỏa ngay tại trung tâm Hà Nội, Sài Gòn. Tìm hiểu và giúp đỡ những người này nói lên sự thật. Đó là những việc làm hoàn toàn bình thường, hợp pháp và nhân văn. Nếu ai làm những việc này, sẽ có những trải nghiệm, cọ sát với những mặt trái của xã hội, của chế độ ngay lập tức. Trong một phạm vi nhất định, đó sẽ là những trải nghiệm hữu ích cho việc xác định thái độ và định hướng nghiên cứu của họ.
Lùi về lịch sử, năm 1954, có hơn một triệu người miền Bắc (phần lớn là người Công Giáo) đã di cư vào miền Nam. Mới chỉ tiếp xúc với người cộng sản, đảng cộng sản một thời gian ngắn, bằng thực tế trải nghiệm của mình, họ đã hiểu ngay ra được bản chất vấn đề và sợ hãi bỏ chạy. Trong khi đó, một số trí thức, trong đó có những trí thức lừng danh như triết gia Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường v.v… lại từ kinh đô ánh sáng, thủ đô Paris của Pháp về nước tham gia phục vụ chính quyền mới, cách mạng. Kết cục số phận của hai người này cũng là câu trả lời quá rõ ràng đối với giới trí thức Việt Nam.
Như vậy, cùng với việc nâng cao nhận thức, chúng ta cần đứng về phía người dân, đứng về phía sự thật và công lý. Chúng ta sẽ có trải nghiệm để làm tiền đề, chất xúc tác và cú hích cho việc nghiên cứu của mình ngõ hầu nhanh chóng hiểu ra được bản chất của chế độ cộng sản, bản chất xã hội mà chúng ta đang sống.
Hà Nội, ngày 27/3/2018
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 27/03/20148 (nguyenvubinh's blog)
Trong thế kỷ 20, Việt Nam có hai cuộc di dân vĩ đại của người Việt : năm 1954 và năm 1975. Cả hai cuộc di dân này đều có nguyên nhân trực tiếp, đó là người dân Việt chạy trốn chế độ cộng sản.
Cuộc di dân năm 1954, như mọi người đều biết, khoảng một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam, trong đó có hơn 600.000 người theo đạo Công giáo.
Từ sau ngày 30/4/1975 cho đến những năm đầu của thế kỷ 21 này, Việt Nam còn có một cuộc di dân khác, tuy diễn ra một cách âm thầm nhưng liên tục trong suốt hơn 1/3 thế kỷvới gần 3 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Việt Nam ngày nay nằm trong tốp 10 quốc gia có số dân di cư ra nước ngoài nhiều nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương.
Cuộc di dân lặng lẽ này là câu trả lời xác đáng nhất cho bản chất chế độ cộng sản Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình trong cuộc trao đổi với nhà báo Trần Quang Thành đã đề câp đến nguyên nhân thúc đẩy người ra đi, các sắc thái di dân và phải chăng một ngày náo đó sẽ có một sự trở về của những con dân Việt trong tương lai.
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình trao đổi với nhà báo Trần Quang Thành, nội dung cuộc trao đổi như sau, kính mời quí vi cùng nghe :
Trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều cuộc di dân, nhưng có hai cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử cận đại. Đó là hai cuộc di dân năm 1954 và năm 1975. Cả hai cuộc di dân này đều có nguyên nhân trực tiếp, đó là tỵ nạn cộng sản. Một cuộc di dân thứ ba, về số lượng không kém hai cuộc di dân trước đây, nhưng diễn ra âm thầm, lặng lẽ và trải dài qua nhiều năm. Theo tờ báo Vietnam Finance online ra ngày 24/7/2016, từ năm 1990 đến năm 2015, đã có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài (nguồn : số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế IMO lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hợp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội). Như vậy, tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100.000 người Việt di cư ra nước ngoài. Ngân hàng Thế giới cho biết, Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia di cư ra nước ngoài nhiều nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương tính đến năm 2013.
Lao động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình EPS. Ảnh : dolap.gov.vn
Những cuộc di dân lặng lẽ này là câu trả lời xác đáng nhất cho bản chất chế độ cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cần nghiên cứu toàn diện về bối cảnh đất nước, những nguyên nhân thúc đẩy người ra đi, các sắc thái di dân và cuối cùng là liệu có một sự trở về của những con dân Việt trong tương lai hay không ?
I. Bối cảnh đất nước
Chúng ta lấy năm 1990 là năm xuất phát để tìm hiểu bối cảnh đất nước. Lý do là, công cuộc đổi mới mà đảng cộng sản Việt nam phát động bắt đầu từ cuối năm 1986, nhưng để chuyển đổi toàn diện đời sống kinh tế - xã hội, cũng như các cơ chế, chính sách đổi mới đi vào cuộc sống cũng mất vài ba năm.
Ở Việt Nam, nếu chúng ta lấy số liệu thống kê các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước và báo chí để đánh giá, nhìn nhận thì không một ai hiểu nổi, tại sao với một cuộc sống ngày càng đi lên, thu nhập tăng liên tục, các mặt của đời sống xã hội đang phát triển tốt đẹp mà người dân lại bỏ nước ra đi với con số kinh hoàng như vậy. Đầu tiên là chỉ số về tăng trưởng kinh tế. GDP của Việt Nam tăng trưởng qua các năm là niềm mơ ước của nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1990, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5%, cho đến hết năm 2017, tức là 27 năm, tốc độ tăng trưởng GDP đều trên 5%,trừ duy nhất năm 1999, tăng trưởng 4,8%. Một nền kinh tế từ chỗ quy mô hạn chế, được đầu tư do mở cửa và đổi mới, tốc độ cao hàng năm cũng là điều bình thường. Nhưng khi đã đổi mới được 20-25 năm rồi, tốc độ tăng trưởng vẫn ở mức 6-7% thì quả là điều kỳ diệu (tăng trưởng GDP năm 2016 là 6,21%, năm 2017 là 6,81%).
Từ tốc độ tăng trưởng GDP, chúng ta có mức tăng thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP cũng thuộc diện ước mơ trên thế giới. Nếu như thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP năm 1992 mới là 140 USD, thì năm 2012 đã là gần 1.600 USD, và năm 2017 là 2.385 USD. Ngoài ra, các chỉ số về phát triển con người, xã hội và môi trường đều chứng tỏ Việt Nam là nơi đáng sống, không chỉ với người Việt, mà còn cả của người dân các nước khác nữa. Vậy nhưng, người Việt vẫn cứ ra đi, thật là một nghịch lý !
Sự phát triển của các quốc gia cộng sản sau sự kiện sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, mà đại diện là Việt Nam và Trung Quốc, là một điều khó hiểu đối với nhiều nhà quan sát. Có một số người, ngay từ đầu của những công cuộc cải tổ, đổi mới đã nhìn nhận ra vấn đề, nhưng họ quá lẻ loi và chưa có những số liệu để hỗ trợ nhận định của mình. Tuy nhiên, trong hai năm trở lại đây (2016, 2017), tất cả đã rõ ràng. Không chỉ là số liệu mà toàn bộ thực trạng của nền kinh tế, của đất nước đã chứng minh nhận định của họ.
Công cuộc đổi mới của đảng cộng sản Việt Nam thực chất là một thủ đoạn để duy trì chế độ, duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sự tăng trưởng, các con số tăng trưởng chỉ là kết quả của hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất, sự cởi trói của nền kinh tế từ kế hoạch - bao cấp sang thị trường tự do. Ở đây chúng ta cần hiểu đúng, cởi trói nhưng cởi đến mức nào ? Cởi hoàn toàn hay chỉ là trong phạm vi nào đó ? Đến thời điểm này, chúng ta có thể hình dung nền kinh tế Việt Nam được cởi trói như sau. Trước đây, nền kinh tế như một con người bị bó chặt dây thừng quanh người từ chân lên tới đầu, chỉ hở mũi để thở. Công cuộc đổi mới đã cởi cuộn dây thừng bó quanh người, chỉ còn trói từng tay, từng chân vào bốn sợi dây thừng mà đảng nắm giữ. Như vậy, con người từ chỗ bất động, đã đứng lên, đi lại, tay chân vung vẩy được cũng đã tạo ra một xung lực mới cho sự phát triển. Nhưng khi đi lại, vung vẩy hết tầm sợi dây thì phải dừng lại. Hoặc khi vung tay quá đà, chân bước quá xa đều bị sợi dây kéo lại. Sự đình trệ của nền kinh tế trong những năm gần đây đã chứng minh cho nhận định này.
Yếu tố thứ hai, kết quả của những tăng trưởng ngoạn mục hóa ra là kết quả của những đầu tư bằng việc đi vay và đảo nợ. Những tiết lộ về số nợ công của nhà cầm quyền Việt Nam trong hai năm qua đã cho thấy rất nhiều vấn đề, mà đầu tiên là giải thích cho sự khó hiểu về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đến thời điểm này, không còn một ai tự hào về những con số tăng trưởng kinh tế 5-7% GDP, con số vài nghìn đô la thu nhập đầu người… khi mà tổng số nợ của Việt Nam hiện tại đang gấp 3 lần GDP, tức là khoảng hơn 600 tỷ đô la, và quan trọng hơn, không có một mảy may trả nợ lãi, chưa nói nợ gốc.
Như vậy, bối cảnh của đất nước trong khoảng 25-30 năm trở lại đây chính là việc đảng đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam cởi trói phần nào nền kinh tế, và các lĩnh vực khác, đổi lấy sự hội nhập và các khoản vay, viện trợ để duy trì chế độ độc tài toàn trị, duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Đồng thời, các thế hệ lãnh đạo đảng, nhà nước cũng như quan chức trong bộ máy đã tạo ra một bộ máy tham nhũng khủng khiếp, vơ vét hàng trăm tỷ đô la dẫn tới số nợ khổng lồ cũng như sự phá hủy hoàn toàn môi trường sống, nền tảng đạo đức, văn hóa xã hội của đất nước.
II. Nguyên nhân của những cuộc ra đi
Để tìm hiểu nguyên nhân người dân ra đi, từ bỏ quê hương, đất nước để tới sống ở một nơi xa lạ, một quốc gia khác, chúng ta cần hiểu tâm lý của người dân. Đối với người dân, họ không quan tâm tới chỉ số tăng trưởng kinh tế, không quan tâm tới thu nhập bình quân đầu người. Họ chỉ quan tâm tới công việc, nghề nghiệp, thu nhập, mức sống và cảm nhận thực tế cuộc sống với những lợi ích sát sườn của mình. Mặt khác, chúng ta tìm hiểu môi trường học tập, làm việc, công tác để từ đó tìm ra nguyên nhân của việc người dân không còn thiết tha với cuộc sống tại chính quê hương mình. Tựu trung lại có những lý do sau đây.
1. Thu nhập và mức sống của người dân
Thu nhập và mức sống của người dân là vấn đề quan tâm hàng đầu, là nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của người dân. Không một người dân nào không cảm nhận sự thay đổi về thu nhập sau công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, mức tăng về thu nhập của người dân đã không theo kịp với những chi phí và nhu cầu tiêu dùng của người dân dẫn tới cuộc sống khổ sở, vật lộn mưu sinh mà tuyệt đại đa số người dân phải đối mặt. Công cuộc đổi mới, phúc lợi của tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thu nhập của người dân, nhưng đồng thời cũng xã hội hóa những lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, v.v… Việc xã hội hóa là cần thiết nhưng nó đã không có được cơ chế minh bạch, kiểm tra và giám sát của người dân. Cùng với tệ nạn sách nhiễu, lạm thu và tham nhũng, hối lộ, người dân đã bước vào một chu kỳ tiêu dùng mới với những khoản đóng góp, phí, lệ phí và rất nhiều khoản chi tiêu khác. Niềm vui của việc tăng thu nhập không thể bù đắp được nỗi lo cho những khoản chi phí mới phát sinh. Đối với những người công chức, viên chức làm công ăn lương, với công nhân và nông dân, tuyệt đại đa số đều rơi vào tình cảnh thiếu trước hụt sau và hoàn toàn không có tương lai đối với cuộc sống hiện tại.
2. Môi trường kinh doanh
Khi công cuộc đổi mới được khởi phát, một phần do sự hồ hởi của tình hình, một phần các cơ quan chưa kịp xây dựng các quy định, quy tắc về môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp và doanh nhân còn có được môi trường thông thoáng và thuận lợi để kinh doanh. Nhưng càng ngày, các quy định, quy tắc, luật lệ cùng với sự sách nhiễu của các cơ quan quản lý, các ban ngành liên quan, môi trường kinh doanh ngày càng đông cứng và khó khăn cho tất cả các doanh nghiệp. Mặt khác, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng tạo ra vô vàn khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, viêc thị trường bất động sản được hình thành và hoạt động không minh bạch đã đẩy giá nhà đất, giá nhà xưởng, giá thuê văn phòng lên mức phi lý, khiến cho việc kinh doanh bị méo mó, đẩy giá thành các mặt hàng và dịch vụ lên đã làm cho các doanh nghiệp không thể tồn tại. Chưa kể việc sách nhiễu của các cơ quan chính quyền, đoàn thể địa phương địa bàn nơi doanh nghiệp hoạt đông. Tổng hợp tất cả các khó khăn mà doanh nghiệp phải đối diên, chỉ có những doanh nghiệp nào có mức lợi nhuận gấp 4-5 lần chi phí mới có thể tồn tại được trong môi trường hiện nay. Như vậy, môi trường kinh doanh ở Việt Nam hiện nay đang tiêu diệt các doanh nghiệp, và không có hi vọng nào khi nhà nước không thực tâm cải thiện môi trường kinh doanh.
3. Môi trường công tác
Môi trường công tác cũng là một trong những lý do để người dân không muốn gắn bó với quê hương đất nước mình. Nói về môi trường công tác có ba vấn đề cần quan tâm, đó là vấn đề tuyển dụng, thi thố khả năng (cống hiến) và đãi ngộ. Đối với vấn đề tuyển dụng, xin việc làm hoàn toàn không phụ thuộc khả năng, năng lực mà phụ thuộc vào mối quan hệ, vào đút lót, mua suất biên chế. Ở Việt Nam hiện nay, không có một suất biên chế nào mà không có một giá cả nhất định. Chỉ có một số rất ít con cháu, thân nhân của lãnh đạo trực tiếp xin việc mà không mất tiền. Khi đã vào làm việc, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào năng lực và kết quả công việc, mà bằng mối quan hệ, bằng sự luồn lọt, nịnh hót nên cũng triệt tiêu động lực cống hiến của những người có tâm huyết. Vấn đề đãi ngộ cũng không khác hai lĩnh vực kia, đó là đồng lương rẻ mạt và sự bất bình đẳng, bất công bằng. Với mức lương rẻ mạt, lại phải bỏ tiền mua suất biên chế, xin việc nên những cán bộ, công chức tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để sách nhiễu, lạm thu, tham nhũng nhằm thu hồi số tiền đã bỏ ra cũng như kiếm chác cho bản thân và có tiền mua quan, bán tước. Như vậy, môi trường công tác đã làm tha hóa con người, làm con người biến chất, bán lương tâm lấy vinh hoa phú quý.
4. Môi trường sống
Môi trường sống cũng là mối quan tâm lớn của người dân hiện nay. Có ba lĩnh vực cần quan tâm.
- Môi trường sống tự nhiên. Môi trường sống tự nhiên bao gồm hai yếu tố quan trọng, nguồn không khí và nguồn nước. Cả hai vấn đề này ở Việt Nam hiện nay đều bị ô nhiễm nặng nề. Môi trường không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn khói bụi và các chất ô nhiễm đã vượt rất nhiều lần mức độ cho phép. Các chỉ số của không khí bị ô nhiễm đều thuộc tốp đầu thế giới. Môi trường nước cũng đang trong tình trạng tương tự, phần lớn các con sông ở Việt Nam đều ô nhiễm khủng khiếp, một số là những con sông chết. Đặc biệt, môi trường biển bốn tỉnh miền trung vừa bị hủy hoại bởi nhà máy thép Formosa, biển đã chết ở bốn tỉnh miền trung. Trong số những điều mà cộng sản hủy hoại, thì môi trường luôn đứng đầu cả ở Việt Nam và Trung Quốc.
- Môi trường xã hội. Vấn đề nhức nhối và đáng buồn nhất trong môi trường xã hội ở Việt Nam, đó là việc cộng sản đã hủy diệt tình người, tình yêu thương của con người. Với mục đích thiết lập và duy trì sự thống trị, cộng sản đã hủy hoại tình người một cách có bài bản và hệ thống. Việc tấn công hủy diệt các tôn giáo chính là hủy diệt cơ sở của tình yêu thương của con người. Sống dưới chế độ cộng sản, con người trở nên thờ ơ, vô cảm, ích kỷ và ác độc với nhau. Rất nhiều những dẫn chứng có thể đưa ra chứng minh cho việc con người đối xử với nhau tàn nhẫn, độc ác. Vừa qua, trong dịp Tết Mậu Tuất, đã có hơn 4.000 người người nhập viện vì đánh nhau trong cả nước (có năm kỷ lục là 6.000 người).
- Thực phẩm. Đến thời điểm này, có lẽ không ai ở Việt Nam không biết và không ghê sợ tình trạng thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan không cách gì kiểm soát được. Thực phẩm bẩn và độc hại đến từ hai nguồn, nhập khẩu từ Trung Quốc và người Việt tự tạo ra để trục lợi. Nhà cầm quyền hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát nguồn thực phẩm độc hại, trong khi vẫn duy trì những cơ quan kiểm tra, giám sát, kiểm nghiệm thực phẩm. Hậu quả trực tiếp là số người bị ung thư của Việt Nam là 94.000 người mỗi năm. Tốc độ tăng số người bị ung thư nhanh nhất thế giới. Năm 1990, cả nước ước tính có 70.000 ca ung thư, đến năm 2015 là 150.000 bệnh nhân mới.
Tổng hợp tất cả các nguyên nhân trên, tất nhiên vẫn còn một số nguyên nhân nữa, người dân Việt Nam đã cảm nhận được sự bế tắc và tương lại xám xịt ngay chính trên quê hương, đất nước mình. Vì vậy, khi có bất cứ cơ hội nào, họ đều bỏ nước ra đi tìm cho mình một tương lai mới, tươi sáng hơn.
III. Các sắc thái của cuộc di dân
Gia đoạn từ 1990 tới nay, phần lớn những người ra đi là sự lựa chọn tự nguyện. Tuy nhiên, vẫn còn một số nhỏ người tỵ nạn chính trị, việc ra đi là do sức ép trực tiếp từ phía nhà cầm quyền. Đó là những người sắc tộc thiểu số, những người Thượng, những người theo đạo ở Tây Nguyên bị đàn áp, bắt bớ đã phải bỏ trốn sang những nước lân cận như Cam-pu-chia, Thái Lan. Một số người là nạn nhân của chính sách cướp đất và đàn áp tôn giáo như giáo dân giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng… cuối cùng là những người hoạt động, đấu tranh dân chủ lánh nạn ở các nước xung quanh, và những người đang trong nhà tù, ra đi để thoát cảnh tù đày và tiếp tục đấu tranh tại các quốc gia họ định cư. Tỵ nạn chính trị giai đoạn này không còn là lý do bảo vệ sinh mạng mà chỉ do cộng sản triệt đường sống và thoát khỏi sự tù đày.
Đối với những người tự lựa chọn ra đi, không phải lý do chính trị, chúng ta thấy có những vấn đề xung quanh cuộc di dân lặng lẽ sau đây.
1. Những người ra đi vì động cơ kinh tế
Thật ra, không có ai, hoặc có rất ít người ra đi đơn thuần vì động cơ kinh tế. Vấn đề chỉ là trong các thứ tự ưu tiên thì động cơ kinh tế xếp ở vị trí số một, nên chúng ta tạm gọi họ ra đi vì động cơ kinh tế. Đây là động cơ của phần lớn những người ra đi, và thực tế số lượng cũng là nhiều nhất. Đó là những người đi xuất khẩu lao động, cả chính thức và xuất khẩu chui. Một làn sóng xuất khẩu lao động để giảm biên chế cuối những năm 80 ; làn sóng vượt biên sang Hồng Công cũng trong thời kỳ đó… Cuộc sống của những người này ở các quốc gia mới định cư không hề dễ dàng, cũng rất vất vả nhưng thu nhập và môi trường sống vẫn hơn hẳn Việt Nam. Trong số những thành phần này, phần lớn vẫn muốn tiếp tục cuộc sống ở các quốc gia định cư, và tìm cách ở lại, gia hạn hoặc trở về rồi đi tiếp. Một số nhỏ trở về vì không hội nhập được, hoặc gia đình ở Việt Nam cần họ hơn.
2. Du học và định cư ở nước ngoài
Từ khi hội nhập trở lại với thế giới, số lượng du học sinh của Việt Nam ngày càng gia tăng. Những năm gần đây, số du học sinh tăng mạnh. Hiện tại có trên 130.000 du học sinh ở gần 50 quốc gia trên thế giới. Với nền giáo duc nhồi sọ và thất bại toàn diện hiện nay, nhiều người đã ví việc học sinh, sinh viên đi du học là tình trạng tỵ nạn về giáo dục. Đa số du học sinh ra nước ngoài đều mong muốn được tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến và để có công việc tốt hơn trong tương lai. Khi đã tiếp xúc với nền giáo dục và xã hội các nước phát triển, phần lớn du học sinh không muốn trở về Việt Nam để làm việc, công tác. Tình trạng này nhiều người đã gọi là quá trình “chảy máu chất xám”. Đây là nỗi đau của một dân tộc khi những con người tài năng, trí tuệ không được làm việc và cống hiến cho quê hương, đất nước. Một ví dụ điển hình, 16 học sinh đạt quán quân cuộc thi Đường lên đỉnh Olimpia (mỗi năm một học sinh) đến nay duy nhất có một người trở về làm việc ở Sài Gòn, số còn lại đều đầu quân cho các trường đại học và công ty ở Úc.
3. Các quốc gia định cư và cuộc sống mới của người Việt
Về các quốc gia mà người Việt định cư, cũng theo bài viết trên báo Vietnam Finance, hầu hết người Việt Nam di cư đến các nước phát triển, trong đó tập trung đông nhất là ở Mỹ (hơn 1,3 triệu người), Pháp (125,7 nghìn người), Đức (gần 113 nghìn người), Canada (182,8 nghìn người), Úc (227,3 nghìn người), Hàn Quốc (114 nghìn người),... Tại các nước Đông Âu, và một số nước châu Á như Lào, Campuchia, Malaysia mỗi nước có khoảng trên 10.000 người Việt di cư đến đây.
Cuộc sống của người Việt, như đã đề cập, không hề dễ dàng tại những quốc gia định cư. Ngôn ngữ và văn hóa mới là những rào cản buộc họ phải vượt qua. Nhưng với phẩm chất cần cù, chịu khó và nỗ lực bền bỉ, phần lớn người Việt đã hội nhập thành công. Một số ít còn làm được những việc đáng tự hào, đó là thành tích trong học tập, sáng tạo ở các lĩnh vực. Đã có nhiều người có ý kiến rằng, với con người Việt Nam, tư duy tiểu nông, có nhiều tật xấu dù có ở đâu cũng không phát triển được (ám chỉ tình trạng của Việt Nam ngày nay là do tính cách và phẩm chất, tật xấu của người Việt), thì những thành tựu mà người Việt Nam đạt được, đã đập tan luận điệu thổi phồng tật xấu và đổ thừa cho người dân thay vì nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đất nước hiện nay là do cơ chế, do bản chất chế độ hiện hành.
IV. Đàn Chim Việt sẽ trở về
Với tình trạng đất nước như hiện nay, việc người Việt ra đi mặc dù tạo ra một cảm giác bùi ngùi, nuối tiếc cho người ở lại, nhưng ai cũng hiểu được và chia sẻ. Có một câu hỏi đặt ra, nếu quê hương không còn cộng sản, một chế độ dân chủ sẽ thay thế chế độ độc tài toàn trị cộng sản, người Việt sẽ có về quê hương xây dựng lại đất nước hay không ? câu trả lời là có, không phải tất cả nhưng sẽ là phần lớn bởi những lý do sau.
- Lòng yêu nước của người Việt là một dấu son, điểm sáng. Nói đến lòng yêu nước, không ít người sẽ liên tưởng tới việc lạm dụng thuật ngữ này của cộng sản, sử dụng vào những mục đích kinh tởm. Nhưng bản thân ngôn ngữ không có tội, khi gọi đúng tên sự vật hiện tượng, nó còn có tác dụng khích lệ và động viên tinh thần rất lớn. Người Việt yêu nước với một tình cảm đặc biệt, đã được kiểm chứng trong lịch sử. Lòng yêu nước là nguyên nhân cốt lõi để người Việt giữ được nước Việt hàng ngàn năm trước một lân bang hùng mạnh và luôn nhòm ngó, cũng như khi có cơ hội là thôn tính. Lòng yêu nước khiến cho người Việt xa xứ dù đã có gia đình, nhà cửa, cuộc sống đầy đủ ở cách xa hàng vạn dặm vẫn ngày đêm đau đáu, trăn trở và thao thức cùng vận mệnh dân tộc. Hàng ngày họ vẫn lên mạng xã hội để tìm kiếm những thông tin về tình hình đất nước, về tình hình phong trào dân chủ. Họ cũng giao lưu, trao đổi và chia sẻ với anh em, bạn bè, các hội nhóm những hiểu biết và kinh nghiệm của họ trong cuộc sống cũng như khi đối đầu với cộng sản. Không những vậy, rất nhiều đồng bào còn lo lắng, giúp đỡ cho những anh chị em đấu tranh bị bắt, tù đày và đánh đập. Họ giúp đỡ tận tình, vô tư trong khả năng của mình… Chính lòng yêu nước sẽ là sợi dây, kết nối và khi đất nước không còn cộng sản sẽ kéo họ trở về trong lòng dân tộc. Tôi hoàn toàn tin tưởng sự trở về của những con dân Việt, ít nhất đó là những người có tuổi thơ ở Việt Nam.
- Phần lớn những người di cư, cả trước đây và trong cuộc di dân lặng lẽ, đều còn gốc rễ ở Việt Nam. Đó là cha mẹ, hoặc anh chị em ruột, họ hàng, bạn bè của họ. Chỉ có một số rất ít không còn gốc rễ và không còn người thân, liên đới ở Việt Nam. Nhu cầu giao lưu tình cảm với người thân, họ hàng và bạn bè cũng là một nhu cầu quan trọng. Mặt khác, dù ở các quốc gia có điều kiện sống, có cuộc sống đầy đủ bao nhiêu chăng nữa thì nơi đó cũng không phải là môi trường tự nhiên của họ. Môi trường tự nhiên là nơi mà ngôn ngữ, văn hóa bẩm sinh của con người, ai nói gì, làm gì, sinh hoạt ra sao chỉ cần nhìn qua là biết, là hiểu. Họ chỉ tách khỏi môi trường tự nhiên khi cuộc sống quá khó khăn, khổ sở. Khi cuộc sống khó khăn khổ sở qua đi, được trở lại với môi trường tự nhiên của mình, rất ít người từ chối. Chỉ có những người Việt thế hệ thứ hai, thứ ba ở các quốc gia tạm cư, vấn đề trở về Việt Nam mới đặt ra thành thử thách. Bởi vì những người này sinh ra và lớn lên chính trong môi trường quốc gia tạm cư, nên môi trường tự nhiên của họ lại là ở các quốc gia họ đang sống. Thế hệ những người ra đi trong cuộc di dân lặng lẽ phần lớn đều sinh ra và có tuổi thơ ở Việt Nam, nên sự trở về của họ sẽ rất nhẹ nhàng, đơn giản.
- Lý do cuối cùng cho sự trở về của người dân Việt, đó là việc xây dựng một chế độ, một nhà nước mới tạo ra vô số cơ hội cho những người có khả năng để thi thố. Với các quốc gia tạm cư, tất cả mọi vấn đề đã ổn định, đã đi vào nề nếp từ rất lâu, cơ hội để thể hiện, sáng tạo không nhiều như ở quê hương khi xây dựng lại đất nước. Một chế độ, một thể chế mới được xây dựng vừa kích thích tinh thần sáng tạo, vừa là cơ hội để lưu danh sử sách sẽ thu hút được rất nhiều nhân tài đất Việt rải rác muôn phương về tụ hội. Điều này cũng trở nên khả thi hơn khi cùng với những thuận lợi vừa nêu, những người trở về còn có cơ hội đóng góp để khôi phục quê hương, đất nước thân yêu của mình.
Khi chế độ cộng sản sụp đổ, Đàn Chim Việt sẽ trở về để khôi phục, xây dựng lại quê hương. Đó là điều người viết bài này và rất nhiều người khác mong đợi, tin tưởng. Và ngày đó chắc chắn sẽ không còn xa nữa.
Hà Nội, ngày 24/02/2018
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 24/02/2018 (nguyenvubinh's blog)
Trong một số bài viết trước đây, tôi có đề cập tới vấn đề chiến tuyến trong đấu tranh của phong trào dân chủ. Tuy nhiên, đó chỉ là sự đề cập mở rộng chủ đề của đề tài chính. Thời gian gần đây, có rất nhiều sự việc, sự kiện gây mâu thuẫn, chia rẽ trong phong trào dân chủ. Loại trừ những kẻ có chủ đích đẩy sự việc tới mâu thuẫn, hoặc làm trầm trọng thêm mâu thuẫn thì một nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa xác định được, chưa ý thức được vấn đề chiến tuyến trong đấu tranh dân chủ hiện nay.
Chiến tuyến xác định ranh giới giữa phong trào dân chủ
và đối tượng đấu tranh của phong trào dân chủ
Trong cuộc đấu tranh này, có một số vấn đề về nhận thức tương đối phức tạp. Những vấn đề mới nghe qua thì đúng, hợp lý nhưng đi sâu phân tích, đặt trong bối cảnh của cuộc đấu tranh và nhất là soi chiếu trên phương diện chiến tuyến của cuộc đấu tranh, nó không còn đúng và hợp lý nữa. Đây chính là những "điểm mờ về nhận thức" mà thế lực cầm quyền lợi dụng và thường xuyên tấn công gây chia rẽ và mâu thuẫn trong phong trào dân chủ. Chính vì vậy, việc phân tích rốt ráo vấn đề chiến tuyến trong đấu tranh dân chủ là việc làm cần thiết và ý nghĩa.
1. Chiến tuyến xác định ranh giới giữa phong trào dân chủ và đối tượng đấu tranh của phong trào dân chủ
Cuộc đấu tranh cho tự do - dân chủ ở Việt Nam là một cuộc đấu tranh vô cùng phức tạp, gian khó. Cốt lõi của cuộc đấu tranh chính là vấn đề nhận thức. Tại sao chúng ta lại nói, cốt lõi của cuộc đấu tranh là vấn đề nhận thức ? bởi vì quy luật về quá trình tự sụp đổ của các chế độ cộng sản do sự cạn kiệt nguồn lưc và sức nặng của chính nó đang diễn ra cùng lúc với nhận thức của người dân đang ngày một nâng cao. Nhận thức của người dân đang dội ngược lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và mấu chốt đẩy nhanh tiến trình sụp đổ đó chính là sự thay đổi nhận thức của những người đang trong guồng máy và hệ thống vận hành. Điều mà thế lực cầm quyền đang hàng ngày hàng giờ lo sợ chính là quá trình tự diễn biến của đội ngũ vận hành hệ thống. Để ngăn cản quá trình này diễn ra, thế lực cầm quyền có nhiều biện pháp, mà một trong số những biện pháp được dùng là tạo ra sự hỗn loạn trong nhận thức, xóa nhòa ranh giới của cuộc đấu tranh cùng lúc gây mâu thuẫn, chia rẽ trong phong trào dân chủ.
Đối tượng đấu tranh của phong trào dân chủ được xác định về mặt nhận thức, đó là phương thức tổ chức xã hội sai lầm, cụ thể là thể chế độc tài toàn trị cộng sản. Đồng thời, chúng ta cũng đấu tranh với chủ trương đường lối phát triển đất nước sai lầm về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chúng ta đấu tranh với chính sách sai lầm, trục lợi, những hoạt động triển khai thực hiện đường lối chính sách đã đưa ra ; cuối cùng chúng ta đấu tranh với những sự tha hóa, tiêu cực, tham nhũng của toàn bộ hệ thống.
Đối tượng đấu tranh của phong trào dân chủ về khía cạnh con người và lực lượng đương nhiên là đảng cộng sản, tổ chức áp đặt, thực hiện và duy trì chế độ độc tài toàn trị cộng sản. Tiếp sau đó là hệ thống nhà nước, chính phủ vừa là hiện thân của chế độ, vừa thực hiện chủ trương đường lối để duy trì tình trạng độc quyền của đảng cộng sản ; thấp hơn một chút là những lưc lương thực hiện các chính sách và các hoạt động triển khai đường lối chính sách… cuối cùng là những tập thể và cá nhân tha hóa, tiêu cực tham nhũng và trục lợi. Tóm lại, chúng ta đấu tranh với thế lực cầm quyền, bao gồm cả khía cạnh nhận thức và lực lượng.
Đối tượng đấu tranh trực tiếp, trực diện của phong trào dân chủ chính là bộ máy tuyên truyền và bộ máy đàn áp của chế độ. Bộ máy tuyên truyền đang hàng ngày, hàng giờ tô hồng chế độ, lừa bịp người dân, vu khống cho người đấu tranh. Bộ máy đàn áp, ngoài việc đàn áp người dân trong các chính sách ăn cướp của mình (như cướp đất), còn đàn áp người đấu tranh và phong trào dân chủ. Đây là hai lực lượng đại diện trực tiếp của thế lực cầm quyền.
Một lực lượng không kém phần nguy hiểm mà phong trào dân chủ cần cảnh giác và đấu tranh, đó là lực lương dư luận viên, dư luận viên trá hình và dân chủ cuội. Đây chính là lực lượng gây hỗn loạn trong nhận thức và gây mâu thuẫn chia rẽ trong phong trào dân chủ. Ngoài dư luận viên là đối tượng tương đối dễ xác định thì lực lượng dư luận viên trá hình và dân chủ cuội lại rất khó điểm mặt, chỉ tên. Dân chủ cuội gây hại cho phong trào dân chủ trên nhiều phương diện, trong đó có vấn đề nhận thức, quan điểm. Chúng ta cần đặc biệt lưu tâm đến khía cạnh này.
2. Xác định chiến tuyến để bảo vệ người đấu tranh và phong trào dân chủ
Theo lo-gic thông thường, chúng ta đều biết rằng, trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, ngoài việc nhận diện đối phương, chúng ta cũng cần phải nhận diện đồng đội, người cùng chí hướng và chiến tuyến với mình. Nhận diện được đồng đội thì mới có sự giao lưu, trao đổi và tạo ra mối liên hệ để cùng nhau hành động. Sức mạnh của phong trào chính là sức mạnh từ những mối liên hệ, liên kết và sức mạnh tổng hòa của số đông. Việc xác định chiến tuyến, hay nhận diện những người thuộc phong trào dân chủ cũng dựa trên hai tiêu chí căn bản, đó là lực lượng và nhận thức (quan điểm).
Phong trào dân chủ có nhiều người tham gia ở từng cấp độ, mức độ khác nhau, do nhận thức và bản lĩnh, cũng như điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng người. Chúng ta biết, có nhiều người là những người phản tỉnh, có nhận thức khác, ngược với những quan điểm của đảng cộng sản tuyên truyền hiện nay. Có nhiều người, có bất đồng với những quan điểm của chế độ ở nhiều mức độ khác nhau. Đó gọi là những người bất đồng chính kiến. Có những người có những hành động mạnh mẽ để thể hiện quan điểm, họ đã rời khỏi những vị trí công tác trong hệ thống đảng, nhà nước để phản đối và cất lên những tiếng nói của mình, họ chính là những nhà ly khai. Lại có những người đã có những hành động phản kháng lại những chủ trương, đường lối, và những hoạt động cụ thể của nhà cầm quyền. Ví dụ những người phản đối đường lưỡi bò, phản đối quan hệ lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc thông qua các cuộc xuống đường, biểu tình và những lễ tưởng niệm. Hoặc có những người phản đối việc chặt hạ cây xanh, xả thải làm ô nhiễm môi trường biển miền trung Việt Nam. Những người phản kháng cũng là thành phần quan trọng của phong trào dân chủ.. Tiếp sau đó, là những người hoạt động nhân quyền, đấu tranh cho nhân quyền, quyền con người ở nước ta. Cuối cùng, đó là những người đấu tranh cho dân chủ, những người ý thức hoàn toàn về việc cần đấu tranh để thay đổi chế độ độc tài toàn trị bằng một chế độ dân chủ pháp quyền cho đất nước. Như vậy, về cơ bản, phong trào dân chủ bao gồm những thành phần sau : những người phản tỉnh, những người bất đồng chính kiến, những người ly khai, những người phản kháng, những người hoạt động và đấu tranh nhân quyền, cuối cùng là những người đấu tranh dân chủ.
Khi đã nhận diện được những thành phần thuộc về lực lượng, phe và chiến tuyến của mình, chúng ta cần có ý thức để bảo vệ nhau. Việc bảo vệ lẫn nhau giữa những người trong phong trào dân chủ cũng có hai phương diện, bảo vệ ở ngoài đời và bảo vệ quan điểm của nhau cũng như quan điểm chung. Chúng ta đã chứng kiến việc những người trong phong trào dân chủ bảo vệ nhau ở ngoài đời. Đó là việc trong khi biểu tình, có cá nhân hoặc nhóm nhỏ bị bao vây, vây bắt, tất cả những người biểu tình đã quây lại để bảo vệ họ thoát khỏi cảnh sát. Khi người đấu tranh bị đánh, cũng có những người lao vào bảo vệ… khi bị bắt về đồn công an, anh chị em tổ chức đi đòi người. Có nhiều những ví dụ sinh động về việc những người đấu tranh bảo vệ lẫn nhau ở ngoài đời chúng ta có thể kể ra được. Ngoài ra, chúng ta cũng cần biết, việc giúp đỡ những cá nhân, những nhóm nhỏ và phong trào dân chủ trong nước về mọi mặt của đồng bào hải ngoại, của các tổ chức đấu tranh hải ngoại là một phương diện quan trọng trong việc hỗ trợ, giúp đỡ và bảo vê lẫn nhau của phong trào dân chủ. Phong trào dân chủ nói chung, và phong trào dân chủ trong nước nói riêng có được bước phát triển như ngày hôm nay, ngoài tinh thần hy sinh, sự đấu tranh của những người dấn thân thì sự giúp đỡ và hỗ trợ vô tư của đồng bào hải ngoại, của các tổ chức đấu tranh trải dài qua thời gian là không thể đo đếm và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Vấn đề bảo vệ quan điểm, nhận thức trên không gian mạng của phong trào dân chủ không được sôi động và hiệu quả bằng việc bảo vệ nhau trước sự tấn công và đàn áp ở ngoài đời. Chúng ta còn né tránh những vấn đề gai góc, chưa có sự tập trung trong việc bảo vệ các quan điểm đúng đắn, bảo vệ những người đưa ra các quan điểm đúng đắn. Một thiếu sót là đôi khi chúng ta ngại sự va chạm, động chạm. Có thể có nhiều lý giải cho việc này. Thứ nhất, chúng ta chưa có văn hóa tranh luận, nên rất nhiều người sợ và ngại bảo vệ quan điểm của nhau, cho nhau. Thứ hai, nhiều người chưa thấu suốt được các vấn đề, không đủ khả năng để trao đổi, tranh luận hoặc bảo vệ đồng đội. Thứ ba, lực lượng dân chủ cuội, dư luận viên trá hình chủ động làm rối loạn nhận thức, tình hình trong khi trao đổi, tranh luận.
Một vấn đề quan trọng, đó là phong trào dân chủ cần chủ động bảo vệ người dân, đấu tranh cho quyền lợi của người dân. Đây vừa là mệnh lệnh từ lương tâm, vừa là nguyên tắc đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của người dân. Chỉ khi nào chúng ta có ý thức bảo vệ lẫn nhau, thì mối liên hệ trong phong trào dân chủ mới mạnh và bền chặt, người có cảm tình với phong trào dân chủ được khích lệ. Chỉ khi nào chúng ta đứng về phía người dân, bảo vệ quyền lợi của người dân thì chúng ta mới có hi vọng đại diện cho người dân trong cuộc đấu tranh vô cùng cam go, khắc nghiệt này.
3. Vạch rõ ý đồ xóa nhòa ranh giới, chiến tuyến để gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ phong trào dân chủ
Trong chiến lược đối phó của nhà cầm quyền và an ninh Việt Nam với phong trào dân chủ, việc cài cắm người vào phong trào dân chủ là một chiến lược ưu tiên. Với những mục tiêu quan trọng của chiến lược, thu thập thông tin để nắm bắt tình hình của các cá nhân, hội nhóm và của cả phong trào, từ đó lên kế hoạch đối phó. Mục tiêu thứ hai, đó là gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ phong trào dân chủ. Trong mục tiêu thứ hai này, một chiến lược quan trọng đó là gây mâu thuẫn chia rẽ thông qua việc gây nhiễu loạn thông tin, gây hỗn loạn trong nhận thức và quan điểm. Người ta đã thực hiện việc này bằng cách nào ? Người ta sẽ sử dụng một sự kiện, một sự việc có sẵn hoặc chủ động tạo ra một sự kiện. Sự kiện này có đặc trưng nằm trong ranh giới giữa sự đúng, sai tùy theo cách hiểu của mỗi người. Sau đó, họ tạo ra các cuộc tranh luận, từ các cuộc tranh luận sẽ dẫn tới tranh cãi và sau cùng là mâu thuẫn, chia rẽ. Chúng ta biết rằng, môi trường của chế độ độc tài toàn trị là vô cùng phức tạp, người dân phần lớn bị hệ thống giáo dục tuyên truyền và nhồi sọ, nên việc nhận thức về thực tại xã hội, lý giải các sự việc là vô cùng khác nhau. Trong khi xã hội chưa hề có sự phản biện, có nghĩa là chưa có văn hóa tranh luận. Chính vì vậy mà khi đưa ra những sự kiện, hoặc đề tài nào phức tạp, bình thường đã không có sự thống nhất về nhận thức và quan điểm, vậy mà những kẻ chủ mưu còn chủ động lựa chọn, thực hiện bài bản, từng bước để tạo ra sự tranh cãi thì làm sao mà không chửi nhau, hủy kết bạn và block nhau ?
Ngoài việc gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ phong trào dân chủ,thế lực cầm quyền còn nhắm vào hai mục đích. Một là, gây hoang mang trong chính nội bộ những người đấu tranh vì không kết luận được đâu là đúng là sai, là hay là dở. Không biết được điều gì cần nói và điều gì không cần viết ? Hai là, những người có cảm tình với phong trào dân chủ, ủng hộ phong trào dân chủ cũng hoang mang, cả về nhận thức và cách ứng xử trong nội bộ phong trào dân chủ.
Trong quá trình thực hiện chiến lược gây mâu thuẫn chia rẽ nội bộ phong trào dân chủ, bằng việc gây hỗn loạn về nhận thức và quan điểm, an ninh Việt Nam đã chỉ đạo dư luận viên trá hình và dân chủ cuội sử dụng hai chiến thuật song song.
- Bảo vệ các quan điểm đúng một cách lý thuyết, chung chung không gắn với thực tế ở Việt Nam và nhất là không gắn với cuộc đấu tranh mà phong trào dân chủ đang theo đuổi. Có rất nhiều quan điểm cho vấn đề này, ví dụ : phê phán và lên án tất cả những cái sai, bất kể là sai như thế nào, bất kể là ai sai. Cộng sản sai cũng phê phán, dân chủ sai cũng phê phán. Chống độc tài nói chung chứ không chỉ chống độc tài cộng sản, cần bạch hóa tất cả để chứng tỏ người đấu tranh và phong trào là minh bạch, trong sáng. Những vấn đề này, mới nghe qua thì có vẻ hợp lý, nhưng trong môi trường của Việt Nam, và gắn với cuộc đấu tranh với đối tượng độc tài toàn trị là vô cùng tai hại và nguy hiểm.
- Không cần có chiến tuyến, không cần bảo vệ nhau giữa những người cùng trong phong trào, thậm chí cùng hội nhóm. Chỉ có đúng và sai (lý thuyết) chứ không cần gắn với môi trường và cuộc đấu tranh nào.
Với hai chiến thuật tinh vi và thâm độc này, an ninh Việt nam đã không ít lần gây sóng gió và gây mâu thuẫn, chia rẽ trầm trọng trong phong trào dân chủ. Có một điều cần nhấn mạnh, không chỉ môt số kẻ dư luận viên trá hình, dân chủ cuội mà còn không ít những người đấu tranh dân chủ thực sự, do nhận thức chưa tới, nhưng lại có cá tính mạnh tham gia vào các cuộc tranh luận, tranh cãi để bảo vệ quan điểm của mình vô tình gây ra tình trạng chia rẽ, mâu thuẫn. Mặt khác, chúng ta không thể biết được ai, kẻ nào là dư luận viên trá hình, dân chủ cuội đã và đang thực hiện việc gây mâu thuẫn, chia rẽ này. Nhưng chúng ta biết một điều, những mâu thuẫn và chia rẽ trầm trọng về mặt nhận thức, quan điểm chắc chắn có bàn tay an ninh đạo diễn.
4. Một số vấn đề cần quán triệt
Trước âm mưu và thủ đoạn của thế lực cầm quyền, những người đấu tranh dân chủ, phong trào dân chủ cần làm gì để hóa giải hay hạn chế hậu quả của chiến lược thâm độc này ? Chúng ta cần quán triệt một số vấn đề về nhận thức và tư tưởng sau.
a. Ý thức về vấn đề chiến tuyến
Đây là vấn đề quan trọng nhất để hóa giải chiến lược gây mâu thuẫn, chia rẽ nói chung cũng như trong lĩnh vực nhận thức, quan điểm nói riêng. Khi người đấu tranh có ý thức về vấn đề chiến tuyến, ý thức được môi trường và cuộc đấu tranh mà chúng ta đang tham gia, thì tự khắc sẽ có những ứng xử và hành động phù hợp. Chúng ta sẽ không làm phức tạp thêm tình hình cũng như không rơi vào bẫy gây mâu thuẫn, chia rẽ của thế lực cầm quyền. Ý thức được chiến tuyến, có nghĩa là chúng ta ý thức được chúng ta là anh em, có cùng mục đích, lý tưởng đấu tranh cho một xã hội tự do - dân chủ. Ý thức về chiến tuyến sẽ có những tác động tới các khía cạnh tâm lý sau.
- Trao đổi, tranh luận quan điểm, nhận thức trên tinh thần tương kính. Đây là yêu cầu, cũng là tiền đề để xây dựng văn hóa tranh luận mà chúng ta chưa có. Khi tranh luận có sự tương kính, có văn hóa thì rất hiếm khi xảy ra mâu thuẫn, chia rẽ. Nếu xác định chúng ta cùng một chiến tuyến, là anh em thì trước sau gì cũng sẽ có sự tương kính, đạt được sự tương kính.
- Xác định là anh em cùng chiến tuyến, chúng ta còn có sự nhường nhịn, hạn chế được tính hiếu thắng trong tranh luận của mỗi người. Khi đã có sự nhường nhịn lẫn nhau, các cuộc tranh luận sẽ không thể đi tới sự chia rẽ và mâu thuẫn mà đối phương mong đợi.
- Ứng xử cao nhất trong tinh thần anh em cùng chiến tuyến, đó là việc bảo vê lẫn nhau trước sự tấn công của đối phương về nhận thức và quan điểm. Nếu không hoặc chưa xác định là anh em, có khi chúng ta cũng ngại tham gia vào các cuộc tranh luận rất lung tung hiện nay. Nhưng khi xác định là anh em, chúng ta sẵn sàng bảo vệ những người đồng đội của mình, tất nhiên là bằng những lập luận và nhận thức đúng.
b. Trang bị nhận thức đúng về những vấn đề phức tạp, dễ gây tranh cãi
Như phần trên có đề cập, khi muốn gây sự hỗn loạn trong nhận thức, quan điểm thì thế lực cầm quyền luôn nhắm tới những "điểm mờ" trong nhận thức. Đó là những vấn đề mới nghe qua thì đúng, hợp lý trên khía cạnh lý thuyết, không đặt trong bối cảnh cụ thể nào. Hoặc đánh đồng bối cảnh của Việt nam với các nước khác, khi mà những nước đó đã có những quyền tự do cơ bản cũng như tự do dân sự. Trong khi người dân Việt Nam chưa hề có các quyền con người và đang đấu tranh để có được các quyền đó, bằng cách tác động để thay đổi chế độ độc tài toàn trị hiện hành. Về cơ bản, an ninh Việt Nam chỉ đạo đội quân nằm vùng tấn công vào các vấn đề sau đây, để làm rối loạn nhận thức và gây chia rẽ trong phong trào dân chủ.
Thứ nhất, đánh đồng quan điểm làm chính trị và đấu tranh dân chủ. Đây là lập luận rất thâm độc tung ra nhằm vào những người chưa hiểu rõ được, chưa phân biệt được hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Làm chính trị là việc đấu tranh nghị trường bằng các tổ chức chính trị, đảng phái nhằm giành quyền lãnh đạo, quản lý đất nước và bảo vệ lợi ích nhóm. Làm chính trị chỉ có khi người dân, nhân dân ở các quốc gia đã có các quyền con người và các quyền tự do dân sự. Trong khi đó, đấu tranh dân chủ là việc tham gia đấu tranh để thay đổi chế độ xã hội hiện hành, xây dựng thể chế dân chủ. Từ thể chế dân chủ, người dân mới có các quyền cơ bản và quyền dân sự của mình. Chúng ta chưa có các quyền cơ bản và quyền dân sự, chưa có các đảng phái, tổ chức chính trị đại diện cho mình thì làm sao lại gọi chúng ta là làm chính trị được, chúng ta lấy gì để làm chính trị ?
Sử dụng việc đánh đồng hai vấn đề khác nhau đó, bọn bồi bút và tay sai thường tấn công vào các luận điểm như :
- Những chức sắc, tu sĩ tôn giáo không nên tham gia làm chính trị, tôn giáo không nên làm chính trị. Chúng ta sẽ trả lời rằng, đúng là các tôn giáo, chức sắc và tu sĩ không nên làm chính trị, tức là không nên lập ra các đảng phái để mưu cầu cho cá nhân và lợi ích nhóm (trên thực tế không ai làm vậy cả). Nhưng tôn giáo, các chức sắc và tu sĩ cần phải lên tiếng chống lại cái sai, cái xấu, cái bất công và cái ác của xã hội, của nhà cầm quyền. Không một tôn giáo, không một giáo lý của tôn giáo nào cấm điều này và hầu như đều khuyến khích và tôn vinh những người chống lại cái sai, cái xấu và cái ác.
- Làm chính trị là thủ đoạn, là bẩn thỉu và mọi người không nên tham gia, dây vào làm gì. Đối với guồng máy và hệ thống của chế độ cộng sản, nếu quan niệm việc đấu đá, tranh giành của quan chức và những kẻ trong guồng máy là làm chính trị, đó đúng là những việc làm hèn hạ, bẩn thỉu. Những người đấu tranh dân chủ không phải là làm chính trị, họ đấu tranh để chống lại cái sai, cái xấu và cái ác, đồng thời đòi hỏi các quyền con người của họ và nhân dân, hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
- Làm chính trị phải bài bản, phải là những người có trình độ, được đào tạo… không có trình độ thì làm chính trị làm gì ? vẫn là lập luận đánh đồng quen thuộc. Đúng là làm chính trị phải có trình độ, nhưng người dân lên tiếng về những bất công, về những quyền con người bị tước đoạt, người dân bị cướp, bị đàn áp lên tiếng đâu có phải là làm chính trị. Việc đấu tranh cần sự góp sức của tất cả mọi người, ai tham gia được nhiều, được ít đều hoan nghênh. Chỉ khi toàn dân đứng lên đấu tranh thì mới đạt kết quả sau cùng, và đó hoàn toàn không phải làm chính trị. Về vấn đề này, xin tham khảo thêm bài viết của tôi, Cần phân biệt giữa đấu tranh dân chủ và hoạt động (làm) chính trị (1).
Thứ hai, lên án, phê phán cái sai, bất kể là sai cái gì, bất kể là ai sai. Độc tài sai cũng lên án, dân chủ sai cũng phê phán. Đây chính là điều mới nghe qua thì rất hợp lý, nhưng nó lại là sự đánh đồng và ngụy biện nguy hiểm. Trước hết, đánh đồng dân chủ và độc tài đều có cái sai và ngầm ý là sai như nhau nên phải cùng lên án và phê phán như nhau. Đối với chế độ độc tài, quản lý sinh mạng con người, tiền bạc và nhiều vấn đề quốc gia. Nó không chỉ có sai, mà còn có xấu và ác khi đưa ra chính sách cướp đất khiến hàng triệu người bị oan khuất, án oan khiến hàng triệu người tù đày và khổ cực, chính sách đầu tư tham lam và sai lầm khiến toàn bộ bốn tỉnh miền trung biển chết, cá chết… đó là những cái ác và những cái xấu, không thể nói đơn giản đó là cái sai chung chung và so sánh với cái sai (nào đó) của phong trào dân chủ. Những người đấu tranh dân chủ, chỉ cất lên tiếng nói của mình, không quản lý sinh mạng của ai, không quản lý tài sản nào thì cái sai (nếu có) chỉ là cái sai trong sinh hoạt, tại sao lại đánh đồng hai chủ thể khác nhau vào cùng một nội dung ?
Phong trào dân chủ đang trong cuộc đấu tranh với một đối thủ có cả một bộ máy và hệ thống đàn áp, tuyên truyền, cộng thêm sự gian manh, xảo quyệt mà chúng ta lại có quan điểm lên án, phê phán những cái sai của phong trào dân chủ, bất kể đó là sai gì, sai như thế nào thì chúng ta chắc chắn sập bẫy của cộng sản. Những người đấu tranh là những người cùng một chiến tuyến, cùng một chiến hào trong khi con người không ai có thể nói giỏi, nói hay không có lỗi lầm, không sai phạm. Tuy nhiên, lỗi lầm sai phạm của những người đấu tranh (nếu có) chỉ là những lỗi lầm trong sinh hoạt vì họ không phải là độc tài. Như vậy, trên nguyên tắc, những người cùng chiến tuyến cần phải bảo vệ nhau và những cái sai cũng không phải là điều gì đó gây tai họa. Tất nhiên, nói như vây không có nghĩa là chúng ta bao che, xí xóa cho những điều sai trái gây hại tới nhau và tới phong trào. Nhưng nếu xác định cùng chiến tuyến, chúng ta cần có cách ứng xử tế nhị, khéo léo, từ thấp tới cao. Khi đã sử dụng hết các cách, nếu những người có sai lầm không nhận thức và thay đổi được, chúng ta cũng buộc phải phê phán và lên án. Đăc biệt chú ý, chỉ phê phán và lên án những cái sai trực tiếp của đối tượng.
Thứ ba, cần bạch hóa tất cả để chứng tỏ phong trào dân chủ, những người đấu tranh trong sáng, trong sạch. Liên quan tới vấn đề này, có một số việc người trong phong trào tham gia làm từ thiện, cứu trợ người dân vùng thiên tai, lũ lụt. Đây là vấn đề tế nhị và phức tạp. Một số người kêu gọi bạch hóa, có các bảng kê khai thu chi như các tổ chức từ thiện bình thường của người dân hoặc nhà nước. Về việc này, trước hết cần tuyệt đối nhấn mạnh, những người trong phong trào dân chủ nếu như bị tố giác có chứng cứ ăn chặn, xà xẻo vào tiền từ thiện thì chúng ta cũng lên án và tuyệt đối không bênh vực. Nhưng còn quan điểm cần bạch hóa như các tổ chức từ thiện bình thường khác thì cần xem xét lại. Lý do là, những người trong phong trào dân chủ, người đấu tranh có làm từ thiện, cứu trợ lũ lụt thì cũng là những người dân có cảm tình, và đồng bào hải ngoại có cảm tình với phong trào dân chủ và cá nhân người đó. Họ gửi tiền từ thiện thông qua cá nhân trong phong trào dân chủ đôi khi họ không muốn lộ diện. Mặt khác, có người không chỉ gửi tiền từ thiện mà còn gửi kèm cho những người đấu tranh, tù nhân lương tâm vv… và điều này cũng khó có thể công khai hoàn toàn. Như vậy, trong vấn đề này, chúng ta chỉ kêu gọi những người gửi tiền kiểm tra, giám sát tiền gửi của mình là phù hợp hơn cả.
Thứ tư, có những người đặt vấn đề chống độc tài nói chung, chứ không chỉ chống độc tài cộng sản. Điều này nghe qua thì rất đúng, hào sảng. Nhưng vấn đề là, đối với Việt Nam hiện nay, chỉ có độc tài cộng sản, chứ làm gì còn độc tài nào khác ? Khi đặt vấn đề như vậy, vô hình chung, đã làm mất sự tập trung vào mục tiêu chính, quan trọng. Hoặc có thể, người ta nhầm lẫn giữa độc tài và sự độc đoán, gia trưởng trong phạm vi một hội, nhóm nào đó. Độc tài gắn liền với thể chế, và thể chế chỉ có một, nên chỉ có độc tài toàn trị cộng sản. Chúng ta tuyệt đối không nên nhầm lẫn để mất tập trung vào mục tiêu chính.
Có thể còn có những nội dung khác, mà sự nhận thức và phân định không dễ dàng. Nhưng dù nội dung nào, nếu người đấu tranh xác định và giữ vững ý thức về vấn đề chiến tuyến, sẽ giảm bớt và hạn chế được rất nhiều những sự chia rẽ và mâu thuẫn trong nội bộ phong trào dân chủ. Đồng thời làm thất bại âm mưu của thế lực cầm quyền hiện nay.
Hà Nội, ngày 25/12/2017
Nguyễn Vũ Bình
Nguồn : RFA, 25/12/2017