Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn cùng với Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper đã gặp nhau vào sáng ngày 23/3 tại Hà Nội. Một trong những nội dung cuộc gặp được cho biết là để chuẩn bị cho các chuyến thăm sắp tới của lãnh đạo cấp cao hai nước trong năm 2022.
Facebook U.S. Embassy in Hanoi
Phía Việt Nam đã đề nghị Đại sứ Mỹ phối hợp thúc đẩy các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước trong năm nay và trao đổi đoàn, tiếp xúc ở các cấp, các kênh, trong đó có kênh Đảng, Quốc hội, và đối ngoại nhân dân.
Nhân cuộc gặp mặt này, Đài Á Châu Tự do phỏng vấn một số chuyên gia về các vấn đề mà Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ bàn luận nếu lãnh đạo cấp cao hai nước có cơ hội trực tiếp gặp nhau, cũng như kỳ vọng về mối quan hệ Việt - Mỹ trong năm 2022.
Hai nước sẽ bàn về vấn đề gì ?
Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN - Mỹ dự kiến được tổ chức tại Washington DC vào cuối tháng ba và Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã xác nhận sẽ tham dự ; nhưng sau đó hội nghị này đã bị hoãn lại.
Nhà nghiên cứu Trần Thị Bích, thuộc Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm Nghiên cứu Chiến Lược và Quốc tế CSIS có trụ sở ở Washington DC, hy vọng Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - ASEAN đã bị trì hoãn sẽ được diễn ra trong năm nay. Nếu lãnh đạo hai nước có thể gặp nhau thì nội dung sẽ được bàn bạc có thể bao gồm những vấn đề sau :
"Về hợp tác chính trị và ngoại giao, nhân dịp này Việt Nam có thể đưa ra lời mời chính thức để tổng thống Biden đến thăm Việt Nam và nhân cơ hội đó có thể nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện hiện tại lên thành đối tác chiến lược.
Về hợp tác kinh tế thì tôi nghĩ rằng hai nước sẽ vẫn tiếp tục ưu tiên những mảng ví dụ như phục hồi và tăng trưởng kinh tế sau đại dịch, cải thiện sức chống chịu của các chuỗi cung ứng và đồng thời có thể giúp Việt Nam xây dựng những cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, còn có mảng về kinh tế số. Đó là vấn đề mà cả hai bên đều quan tâm. Dịch bệnh Covid-19 đang tạo ra một cú hích rất mạnh để buộc các nước, trong đó có Việt Nam phải chuyển giao nhanh chóng sang nền kinh tế số. Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề này, trong đó bao gồm việc nhân lực còn thiếu kỹ năng về thương mại điện tử và chất lượng dịch vụ Internet thì chưa cao và chưa có đồng đều.
Chuyển sang hợp tác an ninh và quốc phòng thì hai bên có thể thương lượng ví dụ như đề cập đến việc viếng thăm của tàu sân bay Mỹ có nên trở thành hàng năm hay không, hay chỉ nhân các dịp đặc biệt thôi.
Còn có một vấn đề đó là Mỹ có đạo luật chống lại đối thủ của Mỹ Thông qua các lệnh trừng phạt. Thông qua đạo luật này thì Hoa Kỳ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia mua vũ khí và trang thiết bị từ Nga. Mặc dù cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ đã xin Quốc hội miễn trừ trách nhiệm cho Việt Nam, nhưng quyết định cuối cùng thì vẫn chưa được đưa ra. Và cái sự việc gần đây khi mà Việt Nam bỏ phiếu trắng cho cái Nghị quyết về Nga và cuộc xâm lược Ukraine thì có thể sẽ ảnh hưởng tới quyết định cuối cùng của Quốc hội Mỹ".
Việt Nam - Hoa Kỳ cần gì ở nhau ?
Thạc sĩ, nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt, cho rằng Việt Nam và Mỹ đều muốn ngồi lại trao đổi với nhau, thúc đẩy nhiều vấn đề có lợi cho cả hai.
Theo ông, Mỹ muốn Việt Nam đóng một vai trò năng động hơn và ít nhất là mối quan hệ giữa hai nước được nâng lên một tầm cao mới, đó là đối tác chiến lược toàn diện. Đổi lại, Việt Nam muốn Mỹ giúp phát triển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, cũng như hỗ trợ Việt Nam ở Biển Đông :
"Thế còn Việt Nam muốn gì ở Mỹ. Thứ nhất là chúng ta có thể thấy là Việt Nam đang né tránh một số vấn đề liên quan đến quân sự, quân đội, đặc biệt trong bối cảnh này thì rất muốn phát triển về kinh tế.
Việt Nam cũng rất muốn Hoa Kỳ giúp Việt Nam phát triển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long khi mà dòng Mekong bị sự tác động rất nhiều ở thượng nguồn. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là cái vựa lúa của Việt Nam, có rất nhiều tiềm năng để phát triển, nhưng mà Việt Nam thiếu công nghệ, thiếu vốn…
Mỹ có thể giúp Việt Nam rất nhiều trong vấn đề này, chẳng hạn như các công ty, tập đoàn của Mỹ có thể đầu tư vào nhiều lĩnh vực ở Đồng bằng sông Cửu Long, ví dụ đầu tiên là phát triển về hạ tầng, sau đó có thể phát triển về kinh tế nông nghiệp xanh, theo các quan điểm mới của chúng ta là phát triển nhưng mà không có gây ảnh hưởng nhiều đến môi trường
Đây là một số ví dụ cơ bản cho thấy là Việt Nam mong mỏi Mỹ có một vai trò rõ ràng hơn ở đó.
Đối với vấn đề Biển Đông thì Mỹ thì muốn Việt Nam ít nhất là không bị lệ thuộc và e ngại sự đe dọa từ Trung Quốc. Đó là lý do mà Mỹ rất muốn giúp đỡ sức mạnh của đội Cảnh sát Biển Việt Nam và điều này thì Việt Nam cũng rất là đón nhận. Và đương nhiên phía Việt Nam cũng muốn Mỹ đóng một vai trò tích cực hơn ở Biển Đông để kiềm chế cái hành động hung hăng, đe dọa đối với khu vực Biển Đông của Trung Quốc".
Nhân quyền và mối quan hệ hai nước
Nhà nghiên cứu Trần Thị Bích cho rằng Mỹ đang muốn phát triển mối quan hệ với Việt Nam, tuy nhiên vẫn rất quan tâm đến vấn đề nhân quyền. Theo bà, Mỹ cần phải dùng từ ngữ mềm mỏng và sử dụng những khía cạnh phù hợp để giúp Việt Nam cải thiện tình hình nhân quyền :
"Tất nhiên là phía Mỹ rất quan tâm đến vấn đề nhân quyền, nhưng mà tôi nghĩ rằng họ sẽ tìm được những những cách để thúc đẩy Việt Nam cũng có nhân quyền mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ song phương.
Tôi đề nghị rằng là Mỹ hãy tiếp tục giúp Việt Nam trong việc củng cố nhân quyền nhưng mà sử dụng những từ ngữ mà không khiến cho Hà Nội cảm thấy là…, phía Mỹ nên dùng những từ ngữ nhấn mạnh vào các vấn đề như phát triển nguồn lực, hoặc các quyền của người lao động thì sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Tức là sử dụng những khía cạnh, góc độ để mà thuyết phục Việt Nam cải thiện nhân quyền.
Thứ hai nữa là nên sử dụng những hình thức đa phương, những tổ chức đa phương để giúp Việt Nam cải thiện nhân quyền. Ví dụ như khi hai nước thảo luận về việc tham gia TPP thì bên Mỹ và Việt Nam đã có ký một thỏa thuận riêng để đảm bảo rằng Việt Nam sẽ đảm bảo rằng Việt Nam sẽ tuân thủ những cái Luật lao động quốc tế".
Trong một ấn phẩm có tên "Can Human Rights survive in the Indo - Pacific order", tạm dịch là "Liệu Nhân quyền có thể tồn tại trong trật tự Ấn Độ - Thái Bình Dương"), bà Trần Thị Bích có nêu ra một số ví dụ về việc các thỏa thuận đa phương đã thành công trong việc tăng cường thực hành nhân quyền của Việt Nam.
Điển hình là Bộ luật Lao động năm 2019 của Việt Nam, được thông qua để đáp ứng Hiệp định Thương mại Tự do giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam. Bộ luật mới bảo vệ tốt hơn cho người lao động và đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam cho phép thành lập các tổ chức công đoàn độc lập.
Hoa Kỳ và các nước có cùng quan điểm có thể áp dụng cách tiếp cận tương tự trong nền kinh tế kỹ thuật số để thuyết phục Việt Nam điều chỉnh cả Luật An ninh mạng.
Kỳ vọng quan hệ Việt - Mỹ trong năm 2022
Theo đánh giá của cả hai vị chuyên gia thạc sĩ Hoàng Việt và nhà nghiên cứu Trần Thị Bích thì quan hệ Việt - Mỹ đã có rất nhiều tiến triển tốt đẹp trong thời gian vừa qua, và hứa hẹn sẽ còn tiến xa hơn nữa trong năm 2022 :
"Trong năm 2022 này, nếu như mà Tổng thống Biden có cơ hội đến Việt Nam hoặc là Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc có cơ hội đến thăm chính thức Hoa Kỳ thì đây sẽ là cơ hội tốt để để hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược".
Tuy nhiên, theo thạc sĩ Hoàng Việt, Việt Nam dù tỏ ra độc lập hơn trong các chính sách của mình và tìm được nhiều điểm chung với Hoa Kỳ, nhưng vẫn còn đang giữ một khoảng cách nhất định đối với Mỹ. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới hiện nay và tình hình chiến sự tại Ukraine thì việc nâng cấp mối quan hệ lên đối tác chiến lược là khó có thể xảy ra trong năm nay. Ông Việt nói :
"Trong năm nay, thứ nhất là kỷ niệm Chiến tranh Biên giới tháng 2/1979 thì cả Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và ông Thủ tướng Phạm Minh Chính đã lên khu vực Giếng nước Liệt sĩ ở trên đó. Đó là một cái hành động trước đây chưa bao giờ có.
Thứ hai là gần đây trong ngày kỷ niệm trận chiến Gạc Ma ngày 14/3, ông Thủ tướng Phạm Minh Chính đến khu tưởng niệm các chiến sĩ Gạc Ma thăm và tặng hoa, thì đây là việc mà trước đây cũng chưa bao giờ có.
Điều đó cũng thể hiện là Việt Nam đang quan tâm hơn về vấn đề biển đảo và các chính sách của Việt Nam càng ngày càng tỏ ra độc lập hơn, chứ không còn e ngại Trung Quốc như trước nữa. Nó cho thấy là giữa Việt Nam và Mỹ đã tìm thấy rất nhiều điểm chung với nhau.
Trong chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, Mỹ đã nói rất rõ là không phải bắt các bên chọn bên, mà là muốn tạo ra một khu vực hòa bình, thịnh vượng và phát triển ở đây, và điều này thì chắc chắn là Việt Nam rất là mong mỏi. Cho nên chúng ta có thể nhận định một điều là quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam sẽ càng ngày càng phát triển hơn.
Phía Mỹ thì rất muốn Việt Nam Nâng tầm quan hệ, nhưng mà chắc chắn tôi biết rằng là với khả năng bây giờ, cách nghĩ của chính quyền Việt Nam cộng với sự kiện Ukraine thì có lẽ Việt Nam sẽ càng thận trọng hơn trong vấn đề này. Vì vậy, có lẽ là trong thời gian ngắn sắp tới thì quan hệ đối tác chiến lược của hai bên chưa thể đến được".
Hồi tháng tám năm ngoái, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đã tới thăm Việt Nam với cam kết thúc đẩy quan hệ hợp tác đối tác toàn diện với Việt Nam. Phó tổng thống Mỹ đã đề nghị nâng cấp quan hệ hai nước lên quan hệ đối tác chiến lược nhưng phía Việt Nam đã không trả lời đề nghị này.
Nguồn : RFA, 25/03/2022
*****************
RFA, 25/03/2022
Đối thoại Việt- Mỹ về Không gian Dân sự lần thứ ba vừa được diễn ra từ ngày 22 đến 24/3 vừa qua theo hình thức trực tuyến.
- AFP
Văn phòng Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thông báo về cuộc đối thoại vừa nêu sau khi hoạt động đó kết thúc. Theo đó, Đối thoại Việt- Mỹ về Không gian Dân sự lần thứ ba được tổ chức trong khuôn khổ nỗ lực chung giữa hai phía nhằm thực hiện khẳng định của phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng tám năm ngoái đối với tầm quan trọng của hai phía nhằm bảo đảm các hoạt động không gian dân sự được tiến hành một cách trách nhiệm và bền vững.
Đối thoại Việt- Mỹ về Không gian Dân sự lần thứ ba được cho biết tập trung vào hợp tác trong lĩnh vực quan sát Trái Đất trên cơ sở từ không gian. Đại diện hai phía tham gia thảo luận dự án có tên SERVIR-Mekong. Đây là một dự án với các đối tác USAID và Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA nhằm giúp các nước sử dụng dữ liệu vệ tinh để giải quyết các thách thức về an ninh lương thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, chất lượng không khí và thảm họa thiên tai.
Đại diện hai phía cũng thảo luận việc sử dụng công nghệ không gian địa lý để hỗ trợ công tác quản trị thiên tai, khoa học trái đất, và hiểu biết trong lĩnh vực biển dân sự.
Đối thoại Việt- Mỹ về Không gian Dân sự được nói khẳng định chiều sâu mối quan hệ hợp tác giữa hai phía và sức mạnh của mối quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam- Hoa Kỳ.
Hai cuộc đối thoại trước diễn ra vào các năm 2014 và 2015 lần lượt ở Washington DC và Hà Nội.
*******************
RFA, 24/03/2022
Nhà hoạt động người Nam Định bị tuyên y án sơ thẩm trong phiên xét xử phúc thẩm vừa diễn ra.
- Facebook Bong Tuyet
Sáng ngày 24 tháng 3, Tòa án cấp cao Hà Nội xét xử phúc thẩm đối với ông Đỗ Nam Trung do có đơn kháng cáo.
Hồi tháng 12 năm 2021, ông này bị tòa án Nam Định buộc tội "Phát tán tài liệu chống nhà nước" theo Điều 117 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, và bị kết án 10 năm tù.
Kết thúc phiên xét xử phúc thẩm, ông Đỗ Nam Trung bị tòa tuyên y án 10 năm tù giam và bốn năm quản chế.
Trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự do ngay khi biết kết quả phiên tòa, bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết, người chung sống với ông Đỗ Nam Trung, cho biết quan điểm của bà trong nghẹn ngào :
"Thực sự là trong suy nghĩ của tôi và gia đình thì nghĩ rằng bản án này sẽ không thay đổi gì cả, nhưng về phía bố mẹ thì bố mẹ vẫn mong là họ sẽ giảm cho anh Trung được một ít. Ông bà còn hy vọng chờ ngày con về vì bố mẹ dù sao cũng nhiều tuổi rồi, chỉ sợ lúc con ra tù thì ông bà không còn nữa.
Bản thân tôi thì tôi nghĩ chúng nó quá kinh khủng, quá tàn độc, quá dã man. Không còn lời gì để tả về chúng nó nữa".
Luật sư Đặng Đình Mạnh, người bào chữa cho ông Trung, cho biết trong phiên xét xử hôm nay, Hội đồng xét xử đã không những làm thay bổn phận của đại diện Viện kiểm sát, mà còn bỏ ngoài tai các ý kiến tranh luận của các luật sư, ông cho biết cụ thể như sau :
"Cái cô vị đại diện Viện kiểm sát chỉ tranh luận sơ sơ thôi, thế nên khi các luật sư tranh luận thì cái sự tranh luận của cô ấy nó không đi đâu vào đâu cả. Thế thì sau đó trong bản án xét xử thì hội đồng xét xử họ bác những cái yêu cầu, những đề nghị, và quan điểm của luật sư. Hầu như là họ thay mặt cô ấy và họ giải quyết giùm, họ lý giải tại sao họ không chấp nhận (các ý kiến của luật sư)".
Luật sư cũng cho biết những yêu cầu, đề nghị và quan điểm được nêu ra trong màn tranh tụng ở phiên toà.
Trong đó có việc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Nam Định từ chối đến tham dự phiên toà, mặc dù đây là đơn vị thực hiện việc giám định các bài đăng trên Facebook của ông Đỗ Nam Trung, và kết luận rằng những nội dung đó là vi phạm pháp luật.
Các luật sư cũng đặt vấn đề về tư cách tham gia tố tụng của cơ quan này bởi chính Sở Thông tin và Truyền thông là bên đã đâm đơn tố cáo hành vi của ông Trung với cơ quan chức năng, nhưng sau đó lại đứng ra giám định các nội dung mà bản thân họ tố cáo, như vậy là vừa đá bóng và vừa thổi còi, không đảm báo tính khách quan.
Theo cáo trạng của cơ quan công tố thì ông Trung đã đăng 13 bài viết và livestreams có nội dung bình luận về các vấn đề chính trị xã hội tại Việt Nam, và quan điểm cá nhân về ông Hồ Chí Minh, nhưng Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Nam Định lại kết luận là có tính chất "xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, và xúc phạm lãnh tụ".
Tính chất vi hiến của Điều 117 cũng được các luật sư nêu ra, bởi vì hiến pháp Việt Nam đã quy định rõ ràng công dân có quyền tự do ngôn luận, và bản thân Việt Nam cũng là quốc gia thành viên của Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị, trong đó có quy định quyền tự do ngôn luận.
Các luật sư đồng thời cho rằng việc giám định quan điểm, nhận thức, và tư tưởng chính trị của một người là vô lý.
Sau cùng, luật sư Đặng Đình Mạnh kết luận về phiên xét xử nhà hoạt động Đỗ Nam Trung rằng :
"Thật ra tất cả những cái sự cáo buộc một người theo tội danh của Điều 117 của Bộ Luật Hình sự, hay Điều 88 của luật cũ, theo quan điểm của luật sư là không chính đáng, là bất công".
Phản ứng trước phiên tòa phúc thẩm xét xử nhà hoạt động Đỗ Nam Trung, ông Phil Robertson, Phó giám đốc khu vực Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền, cho RFA biết :
"Nhà nước Việt Nam liên tiếp truy tố người dân chỉ vì đã bày tỏ quan điểm chỉ trích chính quyền, do vậy đã biến Việt Nam trở thành quốc gia nguy hiểm nhất ở khu vực Đông Nam Á để làm các công việc nhân quyền.
Đỗ Nam Trung đã không làm gì sai ngoài việc thực hành quyền tự do biểu đạt, vốn được quy định trong hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tự nguyện tham gia.
Chính quyền cần phải trả tự do cho Đỗ Nam Trung ngay lập tức và vô điều kiện. Và bãi bỏ tội danh "Tuyên truyền chống Nhà nước", vốn đã được sử dụng quá nhiều lần nhằm trấn áp những tiếng nói bất đồng".
Thụy My, RFI, 23/03/2022
Sáng 23/03/2022, tòa án Hà Nội đã tuyên phạt ông Lê Văn Dũng, biệt danh là Lê Dũng Vova 5 năm tù giam và 5 năm quản chế vì cáo buộc tuyên truyền chống Nhà nước. Luật sư của ông Lê Văn Dũng cho biết sẽ kháng cáo.
Nhà hoạt động Lê Văn Dũng trong phiên tòa tại Hà Nội, ngày 23/03/2022. TTXVN / AFP - STR
Theo cáo trạng, ông Lê Văn Dũng "thường xuyên gây rối, biểu tình". Năm 2017, ông lập tài khoản "Alfonso Vô va" trên Facebook và đến 2019 đã đăng tải 12 video, trong đó có 5 video có nội dung "tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước". Các video này còn "phỉ báng chính quyền nhân dân", "phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân như đóng cửa Formosa, toàn cảnh thảm họa môi trường biển Việt Nam…". Ông Lê Văn Dũng bị bắt ngày 30/06/2021 sau khi bị truy nã.
Một trong hai luật sư bào chữa cho ông Lê Văn Dũng là luật sư Đặng Đình Mạnh trên Facebook cho biết, nhà hoạt động này giữ thái độ bình thản trong suốt phiên tòa, mẹ và vợ ông không được tham dự dù phiên tòa được thông báo xét xử theo thủ tục công khai. Ông Lê Văn Dũng thừa nhận hoàn toàn các hành vi, tuy nhiên bác bỏ quan điểm cho rằng các phát ngôn trong các video của ông là bất hợp pháp.
Hôm qua 22/03, Human Rights Watch (HRW) đã đòi hỏi chính quyền Việt Nam hủy bỏ các cáo buộc và trả tự do cho ông Lê Văn Dũng. Ngày mai 24/03 tòa sẽ xử phúc thẩm ông Đỗ Nam Trung, nhà hoạt động đã bị phiên tòa sơ thẩm tuyên án 10 năm tù giam và 4 năm quản chế cũng với cáo buộc "Tuyên truyền chống Nhà nước".
Thụy My
RFA, 24/03/2022
Ủy ban bảo vệ ký giả CPJ hôm 23/3 kêu gọi chính quyền Việt Nam nên trả tự do ngay lập tức cho nhà báo Lê Văn Dũng và chấm dứt việc bỏ tù các nhà báo.
- AFP
Tuyên bố được đưa ra ngay sau khi Tòa án Nhân dân Hà Nội tuyên phạt nhà báo độc lập Lê Văn Dũng (hay còn gọi là Lê Dũng Vova) với mức án năm năm tù giam và năm năm quản chế vì các công việc báo chí ôn hòa của mình.
Tòa án cáo buộc ông này phạm tội "tuyên truyền chống nhà nước" theo điều 88 Bộ luật hình sự cũ năm 1999.
Theo CPJ, ông Dũng đồng thời là thành viên của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự gồm 70 nhà báo địa phương vận động cho quyền tự do báo chí, bị chính quyền nhắm mục tiêu sách nhiễu và bắt giam.
Cũng theo tổ chức chuyên bảo vệ các nhà báo có trụ sở ở New York (Hoa Kỳ), Việt Nam nằm trong số những quốc gia giam giữ nhà báo tồi tệ nhất thế giới, với ít nhất 23 người đang ở sau song sắt của nhà giam theo thốn kê được tổ chức này công bố hồi tháng 12 năm 2021.
Bàn tới lịch sử của Cuộc chiến Việt Nam và kinh nghiệm bang giao với Mỹ, cần nhớ lại và mở một dấu ngoặc về "bài học" cũ của Việt Nam Cộng Hòa.
Trên boong tàu USS Carl Vinson
Viết về hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng, báo Lao Động thuật lại việc ông Timothy Liston, Phó Tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn lên thăm tàu và bế một cậu bé để cùng vỗ tay với những người bạn nhỏ.
Họ cùng hòa ca bài "Trái đất này là của chúng mình". Câu hát "màu da nào cũng quý cũng yêu" như chính thông điệp của cuộc gặp gỡ.
Tờ báo dẫn lời ông Liston về nỗ lực xây dựng niềm tin giữa hai nước khi ông nói : "Không chỉ có con tàu, chúng tôi đến để xây dựng lòng tin".
Nghe câu này, chắc nhiều người có thể phản hồi và đặt câu hỏi "nhưng liệu Việt Nam có tin được Mỹ hay không ?".
Đây cũng là câu hỏi của chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt ra cho Mỹ vào tháng Ba, 1975 (xem cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy, chương 9).
Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn
Như chúng tôi đã có dịp bình luận : câu trả lời là "tin được nếu" niềm tin ấy được xây dựng trên căn bản chắc chắn và bền vững là Quyền lợi chung của cả hai nước.
Tôi thật ấn tượng về câu nói của ông Henry John Palmerston, cựu Thủ tướng Anh nói tại Quốc Hội nước này ngày 1 tháng 3 năm 1848 :
"Nước Anh không có đồng minh vĩnh cửu, và chúng ta cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền lợi của chúng ta mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu".
Trong những thập niên 1950-60, vì quyền lợi của Mỹ đòi hỏi phải ngăn chặn Trung Quốc tràn xuống Biển Đông nên Mỹ nhảy vào Việt Nam.
Đến năm 1972 Nixon-Kissinger hòa hoãn được với Trung Quốc vì Kissinger nói với Mao và Chu khi bay qua Bắc Kinh là Mỹ sẵn sàng ký thỏa hiệp để ra đi khỏi Việt Nam và nếu sau khi chúng tôi đã ra đi vài năm mà Cộng sản tiến tới chiếm trọn Miền Nam Việt Nam thì Mỹ cũng không trở lại nữa.
Tin rằng Mỹ sẽ không trở lại nên Trung Quốc biến thành bạn và hành động ra vẻ như không còn đe dọa Mỹ ở Biển Đông nữa, để còn được hưởng những ân huệ lớn lao của Mỹ.
Khi Trung Quốc trở thành bạn rồi thì Mỹ không còn lý do gì để đổ xương máu tiếp tục ở Miền Nam Việt Nam, cho nên đã bỏ Miền Nam không thương tiếc.
Một trong những bài học rút ra từ cuộc chiến là như thế này : Mỹ nhảy vào Việt Nam không phải là để "bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam" như Washington luôn luôn tuyên bố (và nhân dân Miền Nam luôn luôn tin tưởng) mà là để bảo vệ quyền lợi của chính Mỹ.
Cho nên sau khi ông Nixon bắt tay được với ông Mao thì quyền lợi của Mỹ không còn đòi hỏi phải có một "tiền đồn" để chống Trung Quốc ở Biển Đông nữa : mở cửa Bắc Kinh đóng cửa Sài Gòn đơn giản là như vậy.
Hai ông Nixon-Kissinger đã hùng hồn biện hộ cho Trung Quốc khi Kissinger soạn bài cho Tổng thống Nixon trả lời Quốc Hội Hoa Kỳ rằng :
"Trung quốc và Hoa Kỳ chia sẻ nhiều quyền lợi song hành và có thể cùng nhau hành động để làm cho đời sống của nhân dân hai nước thêm phong phú".
Nhưng lịch sử đã diễn ra ngược lại : sau 40 năm ru ngủ được Mỹ, hứa hẹn sẽ tuân hành các quy tắc của luật kinh tế thị trường để Mỹ chấp thuận cho Trung Quốc vào WTO (Tổ chức thương mại thế giới) giúp sản xuất và bán thật nhiều hàng qua Mỹ và thị trường thế giới, Trung Quốc đã làm giàu quá nhanh, trở thành cường quốc kinh tế số hai.
Vì Trung Quốc cạnh tranh bất chính với Mỹ, không tuân thủ các quy luật thị trường cho nên bây giờ nhiều người Mỹ tiếc rẻ đã cho Trung Quốc vào WTO, giúp nước này mạnh đủ để ra mặt chống Mỹ.
Nixon-Kissinger đã sai lầm mà cho rằng quyền lợi của Mỹ đi đối với quyền lợi của Trung Quốc vì nước này đã thành bạn đồng phường của Mỹ (Kissinger quá siêu trong việc thuyết phục Nixon về điểm này).
Hoa Kỳ đang hối tiếc ?
Bây giờ Mỹ rất hối tiêc về sự sai lầm ấy. Và Kissinger phải chịu trách nhiệm rất lớn cho sự sai lầm này cùng những thiệt hại to lớn của nước Mỹ về địa chính trị và chiến lược toàn cầu.
Giao lưu hải quân Mỹ - Việt nhân sự kiện các tàu chiến Hoa Kỳ tới Đà Nẵng đầu tháng 3/2018.
Mỹ bừng tỉnh nhưng đã quá muộn ! Dù sao thà rằng muộn còn hơn là không bao giờ ("better late than never"), Mỹ phải gấp rút xoay trục về Biển Đông.
Và khi muốn quay về Biển Đông thì Mỹ rất cần Việt Nam vì đây là "địa điểm chiến lược quan trọng nhất" như Bộ ngoại giao đã phân tích ngay từ năm 1950 (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, chương 3).
Một điều chắc chắn : đó là từ nay, sẽ không bao giờ Trung Quốc bỏ tham vọng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông, rồi ra khỏi Tây Thái Bình Dương, rồi khỏi các đại dương khác.
Cho nên vì quyền lợi an ninh lãnh thổ của chính mình, Mỹ sẽ không bao giờ phạm phải lầm lỗi lần thứ hai là tháo chạy khỏi Biển Đông nữa.
Tại sao Trung Quốc sẽ không bao giờ ngừng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông để rút về tới bờ California ?
Lý do là vì Bắc Kinh đã đặt ra một mục tiêu chiến lược bí mật và quan trọng nhất : đó là tới năm 2049 khi kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nước này sẽ thay thế Mỹ để trở thành cường quốc số một trên thế giới.
Tác giả nổi tiếng về Trung Quốc, ông Michael Pillsbury đã ra cuốn sách 'The Hundred Year Marathon' (Cuộc chạy đua 100 năm - xuất bản năm 2015) làm thức tỉnh các nhà chiến lược Mỹ.
Pillsbury là một chuyên gia về Trung Quốc đã từng làm việc với tất cả các tổng thống Hoa Kỳ kể từ thời Nixon, và như ông viết, "tôi đã có thể có nhiều thông tin của các cơ sở tình báo và quân sự của Trung Quốc hơn bất kỳ người phương Tây nào khác".
Ông viết :
"Từ hàng thập kỷ nay, chính phủ Hoa Kỳ đã quá hào phóng, trao thật nhiều thông tin, công nghệ, bí quyết quân sự, thông tin tình báo và những lời cố vấn về các khía cạnh chuyên môn cho người Trung Quốc. Thật vậy, rất nhiều điều đã được cung cấp và cung cấp quá lâu... không thể có kế toán đầy đủ được về việc này ! Và những gì chúng ta đã không đưa cho người Trung Quốc, thì họ đã ăn cắp".
Tất cả chỉ để phục vụ cho tham vọng trở thành siêu cường số một để thay thế cho Mỹ khi Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày ông Mao Trạch Đông tiến vào Bắc Kinh.
Chỉ còn 31 năm nữa là tới năm 2049 cho nên từ nay Mỹ sẽ phải luôn luôn việc tập trung vào chiến lược 'chặn lại tham vọng của Trung Quốc'. Vì vậy mới có kế hoạch điều động tới 60% của hải lực Mỹ về Thái Bình Dương vào năm 2020.
Tất cả 14 Tổng thống Mỹ kể từ Harry Truman tới Donald Trump đều muốn duy trì vai trò lãnh đạo số một của nước Mỹ trên thế giới này - một vai trò phát xuất từ sau Thế Chiến 2, nhưng 13 ông trước chỉ nói úp úp mở mở.
Tới thời ông Trump - một con người bộc trực , bị coi là đồng bóng - thì ông thẳng thừng đưa ra chính sách "America First" - không chỉ có nghĩa là dành mọi ưu tiên kinh tế, thương mại, nhập cư để phục vụ quyền lợi vật chất của người Mỹ mà nó còn có một ý nghĩa chiến lược sâu xa : ông Trump muốn vãn hồi vai trò lãnh đạo của Mỹ vốn đã phai mờ đi trong thập niên vừa qua.
Lập trường này làm cho tất cả các đồng minh đều nhìn vào Trump với con mắt nghi ngờ.
Nhưng Washington đồn rằng Trung Quốc rất e ngại tính "đồng bóng" ấy của Tổng thống Trump, nhất là vì họ biết rằng về hải lực thì Trung Quốc còn thua Mỹ quá xa về mọi mặt : từ chiến hạm, tầu ngầm, hàng không mẫu hạm tới kinh nghiệm hải chiến, không chiến nên không có đòn bẩy răn đe là bao nhiêu đối với Mỹ.
Khi ông Trump ân cần tiếp đón ông Tập Cận Bình ở Florida ngay từ đầu nhiệm kỳ, và ông Tập nghênh tiếp ông Trump hết sức linh đình ở Bắc Kinh, ngược hẳn với việc đón tiếp cựu Tổng thống Barack Obama đầu tháng 11/2017, dư luận cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến lại gần nhau hơn nữa.
Nhưng chỉ bốn tháng sau chuyến đi, dư luận đã giật mình khi nghe tin ông Trump thông báo sẽ đánh thuế thép 25% và nhôm 10% - chủ yếu nhắm vào Trung Quốc vì nước này đã xuyên qua nhiều nước để lợi dụng những kẽ hở của WTO, APEC, NAFTA gián tiếp nhập thép, nhôm vào Mỹ - việc mà ông Trump gọi là "trans-shipment" (thực ra là re-export).
Đằng sau lệnh tăng thuế chính là ông Peter Navarro, một ngôi sao đang sáng lên ở Tòa Bạch Ốc. Navarro nổi tiếng về lập trường chống Bắc Kinh. Cuốn sách của ông "Death By China" (Chết bởi tay Trung Quốc) đã giúp vào việc đánh thức nước Mỹ và được ông Trump đặc biệt chú ý. Navarro cáo buộc Trung Quốc đã "biến thành kẻ sát nhân hiệu quả nhất trên hành hành tinh này" (nguyên văn : "turning into the planet's most efficient assassin").
Navarro đang thuyết phục Trump áp dụng thêm những biện pháp chế tài đối với vi phạm của Trung Quốc về quyền sở hữu trí tuệ. Rồi tới hai biện pháp khác : ngăn chặn Bắc Kinh ép buộc các công ty Mỹ phải chuyển giao công nghệ cho các đối tác, và ngăn chặn các công ty quốc doanh Trung Quốc (doanh nghiệp nhà nước) mua lại các công ty của Hoa Kỳ.
Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc trong một lần đến Hong Kong
Vậy ta có thể kết luận rằng ít nhất trong Thế kỷ 21 quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông đi song hành và trực tiếp với quyền lợi của Việt Nam.
Việt Nam là địa điểm chiến lược quan trọng nhất ở Biển Đông, nhưng đồng thời, cái vị thế ấy luôn đặt nước này vào cái thế gọng kìm giữa các cường quốc.
Hơn nữa Việt Nam lại nằm sát cạnh Trung Quốc nên áp lực của Trung Quốc rất là mạnh mẽ. Vì vậy có lẽ Việt Nam không còn một con đường nào khác ngoài chiến lược cân bằng ("đu dây") giữa hai cường quốc để sống còn.
Tuy nhiên vì áp lực của Trung Quốc càng ngày càng gia tăng nhanh - một cách nguy hiểm - cho nên chính cái chiến lược cân bằng lại là lý do thúc đẩy Việt Nam nên gần Mỹ hơn để lấy lại và duy trì thế cân bằng.
Những lý do để tin được Hoa Kỳ
Vì vậy, có khả năng là quan hệ Việt - Mỹ sẽ sớm tiến tới "đối tác chiến lược toàn diện" - trở thành quan hệ thứ tư sau ba quan hệ Việt - Nga, Việt - Trung và Việt -Ấn.
Nếu như vậy thì Việt Nam có cả ba cường quốc : Nga, Ấn và Mỹ để đối đầu với Trung Quốc.
Sự lo ngại còn lại của Việt Nam là : Việt Nam Cộng Hòa từng là đồng minh thân thiết như vậy mà còn bị bỏ rơi thì nước Việt Nam hiện nay làm sao có quan hệ tốt bằng được ? Nếu Việt Nam nghiêng về Mỹ thì có chắc chắn không, hay Mỹ Trung lại bắt tay nhau thì Việt Nam lại bị bỏ rơi ?
Đây là câu hỏi thật chính đáng, nhưng phân tích lịch sử cho kỹ và nhìn vào bối cảnh ngày nay thì thấy Việt Nam không cần phải e ngại. Đó là vì ba lý do :
Thứ nhất, vấn đề bỏ rơi không đặt ra vì hai hoàn cảnh lịch sử khác hẳn nhau : trước đây, vì vấn đề kinh tế khó khăn (cảnh nghèo sau 10 năm Chiến tranh Đông Dương 1945-1955) Việt Nam Cộng Hòa phải lệ thuộc vào Mỹ hầu như hoàn toàn cả về quân sự lẫn kinh tế (xem Khi Đồng minh tháo chạy, Chương 19).
Trong thực tế, Việt Nam Cộng Hòa trở thành "client state" (quốc gia lệ thuộc) và Mỹ thành "patron state" (quốc gia bảo trợ).Việt Nam ngày nay đã hoàn toàn tự lập, còn xuất siêu sang Mỹ tới trên 38 tỷ USD (2017). Về quân sự thì Việt Nam cũng đã có một lực lượng đáng kể và sẵn sàng bỏ tiền ra mua khí giới, kể cả của Mỹ.
Trong dịp Tổng thống Trump thăm viếng Hà Nội, Việt Nam đã đặt 10 tỷ USD mua hàng của Mỹ (hy vọng cán cân thương mại Mỹ - Việt năm 2018 sẽ giảm xuống còn - 30 tỷ USD).
Thứ hai, chắc chắn rằng Mỹ sẽ không bao giờ yêu cầu Việt Nam cho đóng quân hay duy trì căn cứ quân sự lâu dài. Vì vậy Mỹ sẽ không phải đổ máu và tốn kém tiền bạc như trong 'Vietnam War' cho nên dân chúng Mỹ không chống đối, ngược lại còn ủng hộ việc Mỹ nối tay với Việt Nam để chống Trung Quốc.
Thứ ba, như đề cập trên đây, ngày trước Mỹ xây tiền đồn chống Trung Quốc ở Miền Nam vì Trung Quốc đe dọa quyền lợi an ninh của mình ở Biển Đông.
Vì vậy, khi hòa hoãn được với Trung Quốc thì Mỹ sai lầm mà tưởng rằng hiểm họa Trung Quốc đã chấm dứt cho nên rút khỏi Miền Nam và ra khỏi Biển Đông. Bây giờ thì Mỹ hối tiếc vì nhận thức rằng : trong Thế kỷ 21, Trung Quốc còn đe dọa Mỹ gấp mấy lần như đã đe dọa trong Thế Kỷ 20.
Phó Đô đốc Phillip G. Sawyer, Tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, chào đón các quan chức Việt Nam sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng hôm 5/3/2018.
Việc Tổng thống Trump vừa chỉ định Giám đốc CIA Mike Pompeo thay thế Ngoại trưởng Rex Tillerson - theo Jim Cramer từ CNCB bình luận là để gửi một thông điệp gây sửng sốt cho Trung Quốc : "Các ông là kẻ thù của chúng tôi". Pompeo cho rằng Trung Quốc là kẻ thù cả về tinh thần lẫn vật chất.
Khi Việt-Mỹ đi tới đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam sẽ có nhiều lợi ích vì "toàn diện" bao gồm cả an ninh cả kinh tế. Về an ninh quốc phòng, khi có hàng không mẫu hạm Mỹ ra vào Đà Nẵng và chiến hạm, tàu ngầm Mỹ ra vào Cam Ranh, tất nhiên Trung Quốc sẽ phải cân nhắc cho thật kỹ khi muốn gây hấn với Việt Nam - thí dụ như khi Trung Quốc tính toán để gây thảm hại ở Trường Sa lần thứ hai ?
Dĩ nhiên là về mặt chính sách, Việt Nam cũng phải để cho hàng không mẫu hạm của mọi quốc gia ra vào Đà Nẵng tự do như Mỹ, nhưng trong thực tế, Trung Quốc chỉ có một con tàu cũ Liêu Ninh - mua lại của Ukraine - thì ra vào để làm gì ?
Về kinh tế, thì thị trường Mỹ - hiện đã là thị trường để Việt Nam xuất cảng nhiều nhất - sẽ mở rộng ra thêm nữa cho Việt Nam với những lợi ích về đầu tư, kỹ thuật, thông tin, và ưu đãi về thuế nhập cảng, như thép, nhôm - miễn là không phải xuất xứ từ Trung Quốc.
Dĩ nhiên là Mỹ cũng sẽ yêu cầu Việt Nam nhập thêm hàng Mỹ giúp cho cán cân thương mại bớt chênh lệch.
Từ Thế Chiến 2, chưa có nước nào trên thế giới này từ Đức, Pháp, Anh, Ý tới Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Thái Lan giàu mạnh lên được mà không nhờ thị trường Mỹ.
Mặt khác, qua cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 và việc Trung Quốc gây thảm sát trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988, cùng với việc Chủ tịch Mao - người đã cáo buộc "Chủ nghĩa đế quốc Mỹ là kẻ thù hung ác nhất của nhân loại" đã ôm thật chặt Nixon năm 1972, Việt Nam cũng đã thấy rõ ràng rằng Trung Quốc chẳng có bạn vĩnh cửu, và cũng chẳng có thù vĩnh viễn. Quyền lợi của Trung Quốc mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.
Cách ứng xử của Việt Nam đang phản ánh sự thay đổi trong nhận thức như thế.
Nguyễn Tiến Hưng
Nguồn : BBC, 14/03/2018
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, hiện định cư tại bang Vỉginia, Hoa Kỳ. Ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).