Khủng hoảng Covid-19 tại Ấn Độ có mang lại cho Bắc Kinh "niềm vui" hay không, bởi Ấn Độ vừa là láng giềng lớn, vừa là đối thủ của Trung Quốc ? Trong bài viết "Đối phó với Covid-19, Bắc Kinh tỏ lòng ủng hộ New Delhi, nhưng sự cảnh giác vẫn còn đó", Le Monde nhấn mạnh mặc dù ngày càng có nhiều cử chỉ "tương thân tương ái", nhưng Bắc Kinh cũng không ngần ngại tận dụng cuộc khủng hoảng để quảng bá cho mô hình phát triển Trung Quốc.
Một nhóm người dân Ấn Độ biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc ở New Delhi để kỷ niệm chiến tranh năm 1962 giữa hai nước, ngày 20/10/2020. AP - Altaf Qadri
Chủ tịch Tập Cận Bình đã gửi điện chia buồn tới thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi vào ngày 30/04, cho biết sẵn sàng tăng cường hợp tác với Ấn Độ và hỗ trợ New Delhi. Theo hải quan Trung Quốc, vào cuối tháng 4, Bắc Kinh đã giao hơn 5.000 máy trợ thở, hơn 21.500 máy tạo ô-xy, hơn 21 triệu khẩu trang và gần 4 tấn thuốc cho Ấn Độ. Hôm 09/05, tàu chở hàng đầu tiên của Hội Chữ Thập Đỏ Trung Quốc đã đến Ấn Độ. Đại sứ Trung Quốc tại New Delhi đã kể rất nhiều chuyện về tình đoàn kết với Ấn Độ, mà ông gọi là "láng giềng và đối tác" của Trung Quốc.
Nhưng thông tín viên Le Monde nhận định đó chỉ là "vẻ bề ngoài lừa dối", không có gì cho thấy cuộc khủng hoảng này có thể giúp xây dựng mối quan hệ bền vững giữa hai đối thủ. Vào ngày 30/04, ngoại trưởng Ấn Độ đã phàn nàn với đồng nhiệm Trung Quốc rằng các công ty Ấn Độ đặt hàng Trung Quốc đang gặp vấn đề về hậu cần. Trên thực tế, lấy lý lo dịch tễ, các công ty vận tải hàng hóa của Trung Quốc đã ngừng chuyển hàng sang Ấn Độ từ tháng Tư.
Covid-19 cũng không ngăn cản New Delhi công bố, vào hôm 04/05, danh sách các công ty viễn thông nước ngoài được phép thử nghiệm 5G ở Ấn Độ, bao gồm một số nhà cung cấp nước ngoài (Vodafone, Ericsson, Nokia, Samsung), nhưng lại không có công ty nào của Trung Quốc. Còn Bắc Kinh trong cùng ngày lưu ý Bộ Quốc phòng Ấn Độ thông báo vị tướng Naravane, tướng lĩnh cấp cao nhất của nước này, đã đi thị sát dãy Himalaya. Thông điệp New Delhi gửi tới Bắc Kinh rất rõ ràng : Dịch bệnh không gây hại tới khả năng phòng thủ của Ấn Độ.
Trong khi đó, Bắc Kinh cũng coi việc công bố vào ngày 07/05 mối quan hệ đối tác kinh tế tăng cường giữa Ấn Độ và Liên Hiệp Châu Âu là một sáng kiến của New Delhi để chống Trung Quốc. Ngay tại Trung Quốc, hôm 01/05, một tài khoản chính thức của đảng Cộng Sản Trung Quốc trên mạng Weibo (Twitter của Trung Quốc) đăng tải hai bức ảnh : một về vụ phóng tên lửa Trung Quốc vào không gian ngày 29/04, một về vụ hỏa táng thi thể ở Ấn Độ và đều dùng chữ "phóng lửa". Bị chính nhiều cư dân mạng Trung Quốc chỉ trích, bài đăng nói trên đã bị gỡ bỏ sau vài giờ.
Quyết định hồi tháng Tư của New Delhi về việc ngừng xuất khẩu vac-xin sản xuất trong nước cũng là cơ hội cho Bắc Kinh bởi Ấn Độ là nhà xuất khẩu vac-xin lớn thứ ba thế giới, sau Liên Hiệp Châu Âu và Trung Quốc. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã nói với các đồng nhiệm Đông Nam Á hồi cuối tháng Tư là Trung Quốc có thể tiếp quản việc xuất khẩu vac-xin mà Ấn Độ đã tạm ngưng. Trong bối cảnh đó, mặc dù có tranh chấp với Bắc Kinh, Indonesia và Philippines đành hướng sang vac-xin Trung Quốc. Theo hãng tin Bloomberg, Trung Quốc đã xuất khẩu 240 triệu liều vac-xin và cam kết sẽ cung cấp thêm 500 triệu liều.
Vẫn về Châu Á, La Croix quan tâm đến "Sự hy sinh của giới trẻ Miến Điện". 100 ngày đã trôi qua kể từ vụ quân đội Miến Điện đảo chính lật đổ chính quyền của nhà lãnh đạo Aung San Suu Kyi, giới trẻ Miến Điện, bất kể giới tính, sắc tộc, ngành nghề, hiện giờ đang can đảm và đầy quyết tâm trên tuyến đầu cuộc đấu tranh đòi dân chủ, chống chế độ quân sự độc tài, bất chấp đã có gần 800 người biểu tình bị quân đội sát hại và hơn 3.000 vụ bắt giữ.
Giới trẻ Miến Điện, vốn dĩ được hưởng hạnh phúc nhờ có tự do, dân chủ từ chục năm nay, nay thấy không thể chấp nhận sống mà thiếu công lý, bị quân đội kiểm soát, trấn áp. Là giới trẻ được toàn cầu hóa, sống vô tư, tràn đầy năng lượng, kết nối với nhau và với thế giới bên ngoài qua các mạng xã hội, điện thoại di động… thanh niên Miến Điện có chiến lược đấu tranh lấy cảm hứng từ phong trào dân chủ Thái Lan, Hồng Kông.
Từng ngây thơ nghĩ rằng Châu Âu, Mỹ và Liên Hiệp Quốc sẽ điều quân đến lật đổ tập đoàn quân sự Miến Điện, nay giới trẻ nước này đã hiểu ra rằng họ phải phản kháng dù có phải hy sinh, dù tay không họ cũng phải chống quân đội, những người đã cướp đi tương lai của họ, đẩy họ vào cảnh "không còn gì để mất".
Báo công giáo La Croix cũng quan tâm tình hình dịch Covid-19 tại quốc gia vốn được gọi là "nóc nhà thế giới" : Đất nước Nepal với 28 triệu dân, hệ thống y tế yếu kém, hôm 08/05/2021 ghi nhận tỉ lệ xét nghiệm dương tính lên tới gần 50%. Tương tự như nước láng giềng Ấn Độ, Nepal thiếu giường bệnh và ô-xy cho bệnh nhân Covid-19. Thủ tướng Nepal hồi tuần trước đã phải kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.
Chính phủ Nepal cũng bị chỉ trích là phản ứng quá chậm trước làn sóng dịch Covid-19 : cuối tháng Tư mới phong tỏa đất nước, từ ngày 05/05 mới đình chỉ nhiều tuyến hàng không, trong khi hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người Nepal làm việc tại Ấn Độ, ổ dịch thế giới trong những ngày qua, và thường qua lại biên giới mở dài tới 1850 km.
Bi kịch của Nepal phần nhiều bắt nguồn từ việc đất nước nghèo khó này phụ thuộc nhiều vào láng giềng Ấn Độ, mà Ấn Độ thì cũng lâm khủng hoảng nghiêm trọng, không thể giúp được nhiều cho quốc gia nhỏ bé kề bên. Một bác sĩ ở bệnh viện Bir, Nepal, dự báo với đặc phái viên La Croix tại Katmandou là tình hình chắc chắn còn xấu đi. Tuy nhiên, La Croix nhận định đất nước nhỏ bé nằm lọt thỏm giữa hai quốc gia khổng lồ Ấn Độ và Trung Quốc vẫn có thể hưởng lợi từ cuộc chiến ảnh hưởng của hai láng giềng khổng lồ.
Cũng liên quan đến virus corona, trong mục khoa học, báo Le Figaro nói về hiện tượng "Covid lâu dài". Theo một nghiên cứu trên 1137 bệnh nhân và mới được công bố hôm qua, 6 tháng sau khi nhiễm virus, 60% người nhiễm Covid-19 phải điều trị trong bệnh viện vẫn còn ít nhất một triệu chứng. 25% vẫn còn 3 triệu chứng, chủ yếu là mệt mỏi, khó thở, đau cơ và khớp ; 1/3 số bệnh nhân có việc làm trước khi nhiễm Covid-19 không đủ sức khỏe làm việc trở lại.
Nghiên cứu cũng cho thấy phụ nữ bị nhiễm Covid-19 nặng ngay từ đầu thường có nhiều nguy cơ bị "Covid lâu dài". Le Figaro kết luận virus corona tác động lâu dài đến nhiều cơ quan và hệ chức năng như hô hấp, thần kinh, tim mạch, tiêu hóa, chuyển hóa, tâm lý… của người bệnh và sẽ là gánh nặng lâu dài đối với sức khỏe người dân trên toàn thế giới.
Liên quan đến nước Pháp, Le Monde quan tâm đến giải pháp tìm lại khả năng cạnh tranh cho nền sản xuất Pháp, bởi trong năm 2020, thị phần của Pháp trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu chiếm 13,5% tổng doanh số bán hàng, so với tỉ lệ 18% vào năm 2000. Trong bài viết "Đi tìm tính cạnh tranh đã mất", nhà báo Béatrice Madeline nhận định đằng sau đó là cả một câu chuyện dài về xu hướng phi công nghiệp hóa, chuyển dịch sản xuất công nghiệp từ Pháp ra nước ngoài, điển hình nhất là sự biến mất của các nhà máy sản xuất xe hơi và "sự bốc hơi" của hàng trăm ngàn việc làm.
Trong năm 2020, chỉ tính riêng trên thị trường Châu Âu, thị phần của các sản phẩm Pháp đã giảm một điểm. Theo Viện COE-Rexecode, cơ quan công bố những số liệu nói trên vào tháng 03/2021, tất nhiên đó là do sự sụt giảm giao thương quốc tế do tác động nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng Covid-19 đến một số lĩnh vực xuất khẩu truyền thống, chẳng hạn như công nghiệp hàng không. Nhưng lý do không chỉ có vậy, bởi sự sụt giảm thị phần xuất khẩu xảy ra với mọi loại sản phẩm Pháp, một điều không xảy ra ở các nước láng giềng.
Tất nhiên, Pháp sẽ phải tiếp tục nỗ lực giảm thuế. Thuế sản xuất, đóng góp 3,2% cho GDP, đã giảm xuống 2,8%, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình 1,6% ở khu vực đồng euro, trong khi tỉ lệ này ở Đức chỉ là 0,4%. Tuy nhiên, ông Xavier Ragot, chủ tịch Đài quan sát kinh tế Pháp (OFCE), nhắc lại để cải thiện khả năng cạnh tranh, cần cải thiện toàn bộ môi trường kinh doanh : đào tạo, tính hấp dẫn của lãnh thổ, sự ổn định về hành chính, chính sách công nghiệp ... chứ không chỉ cần tập trung vào giảm thuế sản xuất.
Còn Patrick Artus, kinh tế gia trưởng tại ngân hàng Natixis, lưu ý điều đầu tiên cần làm là cải thiện năng lực của người lao động, bởi Pháp đang thiếu rất nhiều nhân lực tay nghề cao và kỹ sư, các chủ doanh nghiệp Pháp gặp khó khăn trong tuyển dụng. Chất lượng đào tạo đặc biệt cần phải được coi là trọng tâm bởi có ảnh hưởng trực tiếp tới một lĩnh vực khác : phát minh, nghiên cứu và phát triển, cũng như bằng sáng chế, những chìa khóa mang lại khả năng cạnh tranh ngoại hạng. Về vấn đề này, Pháp sẽ còn phải thay đổi mạnh. Chủ tịch Đài quan sát kinh tế Pháp (OFCE) nêu ví dụ một số công ty điện tử Hàn Quốc, đã chi gần 100 tỉ euro cho nghiên cứu trong 10 năm, nhiều tương đương với ngân sách kế hoạch tái thiết của Pháp.
Quy mô doanh nghiệp cũng là một điều đáng lưu ý. Le Monde trích dẫn chuyên gia Denis Payre, theo đó bên cạnh những công ty lớn, rất mạnh, những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Pháp lại khá yếu và Pháp thiếu nhiều doanh nghiệp quy mô tầm trung. Số lượng các công ty công nghiệp quy mô tầm trung của Pháp đã giảm 40% từ năm 2000 đến năm 2016, trong khi con số này ở Đức đã tăng 2%. Hiện giờ, tại Pháp chỉ có khoảng 200 công ty công nghiệp có trên 5.000 nhân viên.
Việc các công ty của Pháp là "nhà vô địch Châu Âu" về dịch chuyển sản xuất ra ngoài lãnh thổ, thực hiện phần lớn hoạt động và đạt lợi nhuận bên ngoài nước Pháp, đã góp phần tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thay vì đầu tư trong nước và xuất khẩu. Những điều đó phần lớn có thể giải thích cho thâm hụt thương mại của Pháp. Hiện tượng này chủ yếu xuất phát từ năng lực cạnh tranh thấp của Pháp, và càng làm tăng sự yếu kém đó, tạo ra một vòng luẩn quẩn. Kinh tế gia của France Stratégie, Vincent Aussilloux giải thích cứ có 100 lao động trong nước thì các tập đoàn công nghiệp của Pháp sử dụng tới 62 lao động ở nước ngoài, con số này ở Đức chỉ là 38.
Mạng lưới sản xuất rất cần các công ty có quy mô bậc trung (ETI) đủ mạnh để tạo hiệu ứng lan tỏa trong các vùng lãnh thổ, tạo nền kinh tế theo quy mô cần thiết để giảm chi phí sản xuất, từ đó tăng khả năng cạnh tranh. Philippe Martin, chủ tịch Hội đồng Phân tích Kinh tế, cho biết : "Phát triển các công ty quy mô bậc trung sẽ là một chiến lược hiệu quả, bởi vì các công ty này có khả năng sáng chế cao hơn các tập đoàn lớn, còn các công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng sáng chế lại thường bị các công ty đa quốc gia hoặc doanh nghiệp nước ngoài mua lại". Ông Pierre-André Buigues, giáo sư của trường Toulouse Business School, lưu ý kể từ năm 2017, đã có khoảng 500 công ty khởi nghiệp của Pháp thuộc chương trình French Tech đã bị các công ty khổng lồ của Silicon Valley, Hoa Kỳ, mua lại.
Tuy nhiên, theo Le Monde, Pháp vẫn giữ được khả năng cạnh tranh trong một số lĩnh vực đặc biệt như chế tạo máy bay, công nghiệp hàng cao cấp. Pháp có nhiều thế mạnh về dược phẩm, công nghệ sinh học, hóa học xanh (hóa học bền vững)… Việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn cũng đầy hứa hẹn, với việc chính quyền mong muốn phát triển các ngành chế tạo pin điện, điện hydrogène.
Le Monde lạc quan cho rằng nươc Pháp cũng có thể có một vị trí trên thị trường thế giới về phát triển các công nghệ mới như máy tính lượng tử, trí thông minh nhân tạo, an ninh mạng và công nghiệp kết nối, với điều kiện đáp ứng được các điều kiện đã nêu về trình độ, chất lượng nhân công, sự hấp dẫn về lãnh thổ… Nói cách khác, nước Pháp cần có "một Nhà nước có chiến lược" và cần tận dụng cuộc khủng hoảng Covid-19 để khẩn trương tái xây dựng một chính sách công nghiệp hiện đại.
Trong lĩnh vực kinh tế, báo Les Echos cho biết Cơ quan Năng lượng Quốc tế lưu ý xu hướng chuyển đổi sang kinh tế không carbon sẽ đi kèm với sự bùng nổ nhu cầu về kim loại. Sự tập trung kim loại tại một vài quốc gia làm tăng nguy cơ gián đoạn nguồn cung hoặc gây biến động giá cả.
Theo báo cáo mới của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, việc sản xuất tuabin phong điện, tấm pin năng lượng mặt trời hoặc pin điện xe hơi cần rất nhiều kim loại. Nhu cầu lithium từ nay tới năm 2040 sẽ tăng 42 lần, graphite (25), cobalt (21) và nickel (19). Theo ước tính, nhu cầu khoáng sản của ngành năng lượng toàn cầu có thể tăng gấp 4 lần nếu thế giới tuân thủ các cam kết của Thỏa thuận Khí hậu Paris.
Rủi ro càng nhiều bởi những nguyên vật liệu nói trên chỉ tập trung ở một số ít quốc gia. Ba quốc gia khai thác 50% lượng đồng của thế giới là Chile, Peru và Trung Quốc. 60% cobalt đến từ Congo. Còn Trung Quốc khai thác 60% đất hiếm trên thế giới và kiểm soát hơn 80% quá trình tinh lọc.
Thùy Dương
Mai Vân, RFI, 23/12/2020
Sau hơn 40 ngày không có bất kỳ cuộc đối thoại nào, các nhà ngoại giao Trung Quốc và Ấn Độ đã gặp nhau ngày 18/12/2020 nhằm tìm kiếm giải pháp cho tình hình ở vùng biên giới trên bộ trên dãy Himalaya. Căng thẳng đã bùng lên cách nay tám tháng, với hàng chục ngàn binh sĩ của cả hai bên liên tục giám sát, theo dõi nhau, thường chỉ cách vài mét.
Cũng như nhiều lần trước, trong cuộc gặp gần đây nhất, hai bên vẫn chỉ tiếp tục cam kết duy trì "tham vấn chặt chẽ", những biện pháp xuống thang cụ thể hoàn toàn chưa có. Vấn đề là mùa đông đang đến và như nhiều nhà quan sát ghi nhận, đó sẽ là thử thách cực lớn cho cả hai phía.
Như thông lệ trong các sự cố biên giới gần đây có liên quan đến Trung Quốc, Bắc Kinh là bên gây sự trước, và hiện trạng căng thẳng ở vùng ranh giới trên bộ Ấn-Trung bắt đầu vào tháng 4 năm 2020, khi quân đội Ấn Độ ghi nhận nhiều động thái chuyển quân bất thường của Trung Quốc trên bờ bắc của Hồ Pangong, vùng Ladakh trên Himalaya, với việc thiết lập một số trại mới. Trên lý thuyết đây là vùng đệm và cả hai bên đều bị cấm thâm nhập.
Và như thông lệ, khi bị phản đối, Bắc Kinh biện minh là họ chỉ chiếm những vị trí mới nhằm đáp trả các dự án cơ sở hạ tầng mà New Delhi đã xây dựng trong vài năm qua trong vùng, đặc biệt là một con đường, một cây cầu và một sân bay.
Sau cuộc chiến năm 1962 với hệ quả là Trung Quốc sáp nhập gần một nửa tỉnh Ladakh của Ấn Độ, với mục đích thiết lập một hành lang nối liền Tây Tạng với Tân Cương, hai bên đã đồng ý duy trì hiện trạng dọc theo một đường ranh dài 872 km, ở độ cao hơn 4000 mét, gọi là Đường Kiểm Soát Thực Tế (LAC).
Vấn đề, như nhật báo Ấn Độ The Hindu đã nhắc lại vào mùa hè vừa qua, là đường ranh này "chưa bao giờ là chủ đề của một thỏa thuận", chưa bao giờ được vẽ rõ ràng trên bản đồ cũng như trên thực địa."
Căng thẳng đã gia tăng hẳn lên vào ngày 05/05, với một cuộc đụng độ đầu tiên trên bờ Hồ Pangong với việc binh sĩ Ấn Độ và Trung Quốc dùng đá tấn công lẫn nhau.
Hơn một tháng sau, vào ngày 15 tháng 6, tại thung lũng sông Galwan xa hơn một chút về phía bắc, một cuộc giáp lá cà dữ dội không dùng súng đạn đã nổ ra, khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng và một số thương vong không nhỏ phía Trung Quốc mà Bắc Kinh giữ kín. Theo giới quan sát, lần đầu tiên sau 45 năm máu đã đổ trong khu vực.
Kể từ đó, hai bên đã tăng cường lực lượng đến khu vực, mà số lượng được ước tính lên đến khoảng 50.000 quân ở mỗi bên. Dọc theo Đường Kiểm Soát Thực Tế, quân đội hai nước không ngừng thị uy, với các chiến đấu cơ Rafales phía Ấn Độ và J-11 phía Trung Quốc.
Theo tờ báo Ấn Độ The Indian Express, được tạp chí Pháp Courrier International số cuối năm 2020 trích dẫn, trong lịch sử quân sự, chưa bao giờ có một cuộc huy động lực lượng có quy mô như vậy đến một vùng núi cao chót vót với những điều kiện khắc nghiệt.
Trên đỉnh cao của dãy Himalaya, nơi căng thẳng đã tăng cao từ sáu tháng nay, quân đội Ấn Độ đang chuẩn bị cho thời tiết lạnh giá. Năm mươi nghìn binh sĩ được triển khai trong điều kiện sống khắc nghiệt. Trung Quốc cũng bố trí một số quân tương đương phía bên kia đường ranh giới.
Lực lượng Ấn Độ và Trung Quốc triển khai dọc theo Đường Kiểm Soát Thực Tế đang căng thẳng theo dõi nhau tại vùng cao nguyên Ladakh, đôi khi chỉ cách nhau vài trăm mét, nhưng cả hai đều phải đối mặt với cùng một kẻ thù đáng gờm : Đó là mùa đông buốt giá.
Mọi người đều nghĩ đến mùa đông Nga đã từng đánh bại cả Napoléon và Hitler trước đây, nhưng tình hình khu vực Đông Ladakh khắc nghiệt hơn Nga gấp bội, vì đây là nơi có những đỉnh núi cao hơn 5.500 mét. Việc dàn hơn 100.000 binh sĩ trên một chiều dài hơn 872 km quả là một điều chưa từng thấy, đặt ra vô số vấn đề.
Chương "Chiến đấu ở Ladakh" trong bộ "Lịch sử chính thức của Ấn Độ về cuộc xung đột với Trung Quốc năm 1962", xuất bản gần 30 năm sau sự kiện này đã ghi nhận : "Ở Ladakh, vấn đề đầu tiên mà một người lính phải đối mặt trước hết là làm sao sống sót, còn chiến đấu chống lại kẻ thù đến sau ... Đặc thù địa lý có ảnh hưởng chính đến chiến đấu và thành bại".
Vào thời điểm hiện nay, ở các vị trí tiền phương, nhiệt độ không quá 3° C, và có thể giảm xuống –10 / –15° C, thậm chí –30 / –40° C, và có tuyết rơi vào tháng 12 và tháng Giêng. Thêm vào đó là gió lạnh buốt. Những điều kiện khí hậu này "có thể gây ra các vết thương do lạnh tương tự như bị bỏng… Rất nguy hiểm khi chạm vào kim loại bằng tay không."
Bên cạnh đó, binh sĩ cả hai bên có nguy cơ bị những loại bệnh như say núi cấp tính, phù phổi do độ cao, những bệnh về tĩnh mạch hay não dạng nặng, rối loạn tâm lý. Khi nhiệt độ xuống quá thấp, sẽ có thể bị tê cóng, chưa kể đến da bị tróc do môi trường quá khô.
Các nguồn tin quân sự Ấn Độ cho biết ngay cả vào lúc này, khi những tháng khắc nghiệt nhất sắp đến, điều kiện "thời tiết lạnh giá" đang gây ra thương vong hàng ngày - nhiều binh sĩ đã được gửi trở lại tiền tuyến ngay sau khi bình phục. Các cuộc sơ tán cũng được phía Trung Quốc tiết lộ.
Theo Tướng A.P. Singh (đã nghỉ hưu), giám đốc hậu cần của Quân Đoàn 14, từng được phái đến khu vực giới tuyến từ năm 2011 đến năm 2013, mười năm trước đây, tỷ lệ tiêu hao binh lính là khoảng 20%, hầu hết là tổn thất y tế không gây chết người, "do trời tuyết hay tình trạng thiếu oxy".
Theo tướng PJS Pannu (đã nghỉ hưu), từng chỉ huy Quân Đoàn 14 từ năm 2016 đến năm 2017, không phải chỉ có người là chịu khổ. Xe thiết giáp, trọng pháo và các thiết bị khác cũng phải được bảo vệ khỏi giá lạnh : "Chúng tôi phải tăng cường trang thiết bị và thích ứng với mùa đông vì rất khó sửa chữa trong điều kiện nhiệt độ âm…. Tất cả các thiết bị có đường ống dẫn nước đều bị đe dọa do đóng băng…".
Theo tờ báo Ấn Độ, hiện nay, không ai có thể nói liệu việc triển khai dọc đường ranh giới LAC trong mùa đông này có kéo dài hay không, nhưng tình hình căng thẳng với Trung Quốc khiến một số người cho rằng khả năng phải bám trụ đang rỗ dần.
Nói cách khác, đối với vùng biên giới với Trung Quốc LAC có thể biến thành một mặt trận cần được thường trực bảo vệ giống như ở phía Đường Ranh Giới LoC với Pakistan.
Mai Vân
*********************
Trọng Thành, RFI, 22/12/2020
Áp lực của Bắc Kinh với khối ASEAN trong đàm phán về Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông là mối quan ngại hàng đầu của New Delhi. Hôm 21/12/2020, trong cuộc họp thượng đỉnh trực tuyến với đồng nhiệm Việt Nam, thủ tướng Ấn Độ đã kêu gọi đàm phán COC phải hướng đến bảo đảm công bằng lợi ích của tất cả các bên.
Báo chí Ấn Độ dẫn lời của thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ, bà Riva Ganguly Das, cho biết : "Thủ tướng (Ấn Độ) nhấn mạnh là Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông không được gây tổn hại đến quyền lợi của các quốc gia khác trong khu vực". Theo quan chức ngoại giao Ấn Độ, lãnh đạo Ấn Độ và Việt Nam khẳng định một khu vực hòa bình, ổn định, an ninh, tự do, rộng mở và không loại trừ ai, dựa trên luật pháp là có lợi cho tất cả.
Lãnh đạo Ấn – Việt cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của luật pháp quốc tế trên biển, đặc biệt là Công Ước Quốc Tế về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS). Lập trường của hai bên được công bố trong "Tuyên bố tầm nhìn chung Việt Nam - Ấn Độ về Hòa bình, Thịnh vượng và Người dân", ra mắt sau thượng đỉnh, văn kiện được coi là có ý nghĩa định hướng cho quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa hai nước trong những năm tới.
Tuyên bố Việt - Ấn nhấn mạnh đến việc "không quân sự hóa" Biển Đông, cũng như tầm quan trọng của việc "kiềm chế" tránh để căng thẳng leo thang, khiến tình hình thêm phức tạp. Riêng về Bộ Quy Tắc COC, quan điểm của lãnh đạo Ấn Độ và Việt Nam là thống nhất. Hai bên cùng kêu gọi đàm phán COC cần hướng đến một bộ tắc "có thực chất và hiệu quả", cụ thể là COC phải phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công Ước UNCLOS, không xâm hại đến quyền lợi của các quốc gia không tham gia đàm phán.
Theo nhiều nhà quan sát, trong những năm vừa qua, trong quá trình đàm phán về Bộ Quy Tắc COC, Bắc Kinh liên tục gây áp lực, để giới hạn sự tham gia của các nước bên ngoài vào Biển Đông, đặc biệt trong các hoạt động diễn tập, thao dượt quân sự với các quốc gia ASEAN tại vùng biển này.
Vẫn liên quan đến Biển Đông, theo thông báo của Hạm Đội 7, Hoa Kỳ, hôm nay, 22/12 tàu sân bay USS John S. McCain tiến hành cuộc tuần tra "bảo vệ tự do hàng hải’’ ở khu vực quần đảo Trường Sa. Đây là một trong những nơi có tranh chấp chủ quyền giữa nhiều quốc gia ven Biển Đông. Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận bảo vệ tự do hàng hải và trên không ở Biển Đông để phản đối yêu sách chủ quyền đơn phương của Bắc Kinh đối với gần như toàn bộ vùng biển này.
Trọng Thành
Việt Nam chỉ đủ sức đánh 'dập mũi' Trung Quốc nếu xung đột (BBC, 29/03/2018)
Quân đội Việt Nam thoạt đầu có thể khiến Trung Quốc 'dập mũi' trong đụng độ ngắn trên Biển Đông, nhưng sẽ thất bại nếu lâm vào xung đột cường độ cao và kéo dài.
Hải quân Việt Nam diễu binh trong buổi lễ tiếp đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi tháng 11/2017
Đó là nhận định của ông Prashanth Parameswaran, biên tập viên cao cấp của The Diplomat, tạp chí chuyên về an ninh và chính sách đối ngoại Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong email trả lời BBC hôm 28/3, ông Parameswaran cho rằng với tiềm lực quân sự quá khiêm tốn trước Trung Quốc, Việt Nam chỉ có thể cầm giữ trong cuộc đối đầu ngắn.
Thế nhưng, theo ông, xác suất một cuộc xung đột quân sự cường độ cao kéo dài là rất khó xảy ra giữa hai nước.
Thay vào đó, có thể chỉ là một cuộc đối đầu trên biển tương tự như hồi tháng 5/2014 sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu HD 981.
Liệu kịch bản đụng độ mùa hè 2014 có xảy ra vào mùa hè 2018 ?
Đồng tình với quan điểm này, Derek Grossman, nhà nghiên cứu quốc phòng của Rand Corporation, nói với BBC hôm 29/3 :
"Có lẽ kịch bản có khả năng xảy ra nhất là một sự đụng độ giữa thuyền đánh cá dẫn đến sự can thiệp của cảnh sát biển Trung Quốc và Việt Nam, và có thể leo thang từ đó",
Tuy nhiên, nếu Bắc Kinh quyết định tăng sức ép, Việt Nam sẽ gặp rắc rối khi phải tiến hành và duy trì tác chiến trên Biển Đông.
Lý do là Việt Nam có quá ít, thậm chí không có kinh nghiệm, hoạt động trong khu vực cả trên không và trên biển, ông Grossman, người từng phụ trách thông tin về an ninh Châu Á Thái Bình Dương tại Lầu Năm Góc, nhận định.
Quân đội Việt Nam có những đặc điểm gì ?
Trong bài viết với tiêu đề "Quân đội Việt Nam có thể chống chọi trước Trung Quốc trên Biển Đông ?" hồi 1/2018, ông Grossman phân tích cụ thể những điểm mạnh và yếu của Việt Nam, trước khả năng xung đột quân sự với Trung Quốc.
Đầu tiên, các tướng lĩnh Việt Nam vẫn muốn đem chiến lược chiến tranh du kích và khái niệm "cuộc chiến toàn dân" trên đất liền áp dụng vào chiến lược tác chiến trên không và trên biển, Grossman phân tích.
Tuy chiến lược này có một số điểm mạnh vì lợi thế địa lý bờ biển Việt Nam, chiến lược tác chiến trên không và ngoài biển khơi lại còn rất sơ sài, chưa có tiến bộ gì.
Thứ hai, nguồn quân lực của quân đội còn tập trung quá nhiều vào lục quân.
Hải quân Việt Nam chỉ có 40 nghìn quân, và binh chủng Phòng không và Không quân ở con số 30 nghìn, kể từ 2009.
Tân Hoa Xã tung ra các ảnh chụp đợt diễn tập gồm không quân và hải quân của Trung Quốc ở Biển Đông vào cuối tháng 3/2018 trong lúc có nhà quan sát sẽ diễn tập 'hàng tháng' tại vùng biển này
Trong khi đó, lục quân vẫn đông nhất, khoảng 400.000 người, theo một báo cáo năm 2017.
Cuối cùng là khả năng Nhận thức Vấn đề Vùng Biển (Maritime Domain Awareness) và tương tác giữa các hệ thống quân sự tương đối thấp. Khả năng tình báo và khai thác thông tin trên biển của Việt Nam vẫn còn kém.
Thêm vào đó, vì khoản ngân sách khiêm tốn, Việt Nam sở hữu một hệ thống vũ khí "đa chủng loại" từ nhiều quốc gia khác nhau, dẫn đến tương tác giữa các thiết bị không hiệu quả.
Tuy nhiên, Derek Grossman đánh giá Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể và đúng hướng trong việc hiện đại hóa quân sự trong nhiều năm qua.
Theo ông, việc Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng từ khoảng 4 tỷ đô la lên 6,2 tỷ đô la vào 2020, và đây là chỉ dấu họ nỗ lực tập trung hiện đại hóa quân sự.
Thêm vào đó, việc mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga và một phi cơ chiến đấu đa năng Sukhoi và xây dựng hệ thống tên lửa đối hạm (ASCM), và nhiều thiết bị phòng thủ khác, Việt Nam cho thấy có thể gây ra thiệt hại không nhỏ cho Trung quốc nếu xảy ra đụng độ.
Hàng chục tàu chiến cùng một hàng không mẫu hạm Trung Quốc bắt đầu vào tập trận ở Biển Đông, theo Tân Hoa Xã hôm 26/3. Hình tàu Liêu Ninh chỉ có tính minh họa
"Tôi thực sự nghĩ rằng Việt Nam đang có tất cả các bước đi đúng đắn trong việc hiện đại hóa quân sự", Derek Grossman nói với BBC Tiếng Việt.
"Thực tế khắc nghiệt là Việt Nam không thể làm được nhiều, một quyền lực hạng trung, so với nguồn lực khổng lồ của Trung Quốc. Và Việt Nam tất nhiên hiểu rất rõ điều này".
Ngân sách quốc phòng của Việt Nam, ước tính khoảng 5-6 tỷ đôla, chỉ là "chú lùn" so với ngân sách ước tính 175 tỷ đôla của Trung Quốc, theo ông Grossman.
Còn ông Prashanth Parameswaran thì cho rằng :
"Thách thức chính đối với Việt Nam bây giờ là sự kiểm soát của Trung Quốc ở Biển Đông đang diễn ra nhanh hơn nhiều so với các nỗ lực xây dựng năng lực phòng thủ bằng quân sự của các nước còn lại".
Cả Grossman và Parameswaran cho rằng phương án tốt nhất mà Việt Nam vẫn đang nỗ lực làm là xây dựng các mối quan hệ đối tác quốc phòng với các quốc gia có thể hỗ trợ Việt Nam.
Có thể không nhất thiết phải hỗ trợ về mặt quân sự nhưng ít nhất về mặt ngoại giao, tạo vị thế cho Việt Nam thuyết phục Trung Quốc thoái trào.
Việt Nam cũng tìm cách gia tăng mối quan hệ đối tác với các nước thành viên thuộc nhóm Tứ Cường (Quad), bao gồm Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản.
Derek Grossman cũng đưa ra một số đề nghị mà Hoa Kỳ có thể hỗ trợ Việt Nam tuy nhiên, cảnh báo Việt Nam sẽ không sẵn sàng tiếp nhận, vì Hà Nội vẫn còn thái độ ngờ vực đối với Hoa Kỳ và luôn lưỡng lự không muốn có những hành động khiêu khích Trung Quốc.
Trung Quốc tung ra các ảnh chụp đợt diễn tập gồm không quân và hải quân ở Biển Đông vào cuối tháng 3/2018, khiến có nhà quan sát bình luận rằng Trung Quốc sẽ diễn tập 'hàng tháng' tại vùng biển này, chứ không chỉ hàng năm như trước.
Báo Anh cũng đưa tin về 'cuộc diễn tập lớn chưa từng có' của Hải quân Trung Quốc ở Biển Đông sau khi Bộ trưởng Gavin Williamson tuyên bố chiến hạm HMS Sutherland của Anh có kế hoạch tuần tra để bảo vệ tự do hàng hải ở vùng biển này.
Các sự kiện này xảy ra sau khi Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào thăm Đà Nẵng đầu tháng 3 năm nay như một dấu hiệu quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt tiến triển hơn trước.
********************
Tháng Ba 2018 : Việt Nam nỗ lực tìm đối trọng với Trung Quốc tại Biển Đông (RFI, 28/03/2018)
Đối với một quốc gia mà theo truyền thống không muốn khoa trương trên mặt ngoại giao để khỏi phải đối đầu một cách không cần thiết với người láng giềng phương Bắc to lớn hơn nhiều, thì Việt Nam trong tháng 3 này đã có một loạt hoạt động nhằm củng cố sức răn đe đối với Trung Quốc ở Biển Đông.
Lễ đón tiếp chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang tại phủ tổng thống Ấn Độ, New Delhi, ngày 03/03/2018 - Prakash SINGH / AFP
Trong bài viết mang tựa đề rất dài "Vì sao tháng Ba năm 2018 đã trở thành một tháng năng động đối với Việt Nam trong nỗ lực tìm đối trọng chống Trung Quốc ở Biển Đông", tờ báo Nhật Bản The Diplomat đã điểm lại một số sự kiện nổi bật liên quan đến Việt Nam để cho rằng những hoạt động đó đã phần nào cho thấy sự chuyển biến trong chiến lược phòng thủ của Việt Nam mà mục tiêu là chống lại đà bành trướng quân sự và thái độ quyết đoán của Trung Quốc trong vùng, đang càng lúc càng khiến Việt Nam lo ngại.
Sự kiện nổi bật đầu tiên được chuyên gia kỳ cựu về an ninh quốc phòng Derek Grossman, thuộc cơ quan nghiên cứu Mỹ Rand Corporation, tác giả của bài phân tích ghi nhận là chuyến thăm Ấn Độ vào đầu tháng Ba của chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang.
Ngày 02/03, ông Trần Đại Quang viếng thăm Ấn Độ, gặp thủ tướng Narendra Modi. Ngày mùng 3, hai lãnh đạo ra thông cáo chung, tiếp tục công cuộc hợp tác về quốc phòng, bao gồm cả đối thoại cấp cao, cung cấp vũ khí, lẫn kế hoạch cho tàu chiến và tàu tuần duyên ghé thăm cảng của nhau và các đề án xây dựng năng lực quốc phòng. Hai ông Modi và Trần Đại Quang cũng khẳng định tầm quan trọng của tự do hàng hải và hàng không ở vùng Biển Đông cũng như giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Việt Nam chấp nhận khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương
Nhưng điều đập mắt nhất chính là quyết định của Việt Nam đi thêm một bước, xác nhận sự cần thiết đối với Việt Nam và Ấn Độ là phải hợp sức tạo nên một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương hòa bình và thịnh vượng. Đây có lẽ là lần đầu tiên mà một lãnh đạo Việt Nam có tuyên bố như vậy về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Điểm chắc chắn là chủ tịch Việt Nam muốn đáp ứng mối quan tâm và lợi ích địa chiến lược của Ấn Độ, vì New Delhi từ mấy năm qua nói rõ quan điểm của họ về Biển Đông. Việc ông Quang sử dụng từ ngữ Ấn Độ-Thái Bình Dương hay Ấn Độ-Châu Á-Thái Bình Dương, như trong phát biểu ngày 04/03, cho thấy là Hà Nội đã sẵn sàng chấp nhận khái niệm mà Hoa Kỳ đã cố thúc đẩy, theo đó các đối tác trong vùng cùng làm việc với nhau để làm đối trọng và tạo sức răn đe đối với các hoạt động của Trung Quốc.
Đối với ông Grossman, sự kiện Việt Nam công nhận khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương đã đưa Việt Nam xích lại gần hơn với mục tiêu của nhóm Quad - tức nhóm đối tác chiến lược giữa bộ tứ : Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc – nhằm đối phó với đà vươn lên của Trung Quốc. Việc lên tiếng công nhận rất có ý nghĩa, nhưng không hoàn toàn gây ngạc nhiên vì Việt Nam đã nhanh chóng thắt chặt quan hệ quốc phòng với tất cả các thành viên của bộ tứ Quad.
Đón tàu sân bay USS Carl Winson, ý muốn răn đe Trung Quốc ?
Sự kiện nổi bật thứ hai được nêu lên, diễn ra ngày 05/03, khi Việt Nam đón chiếc USS Carl Winson, hàng không mẫu hạm Mỹ đầu tiên ghé cảng Việt Nam từ sau khi chiến tranh kết thúc.
Quyết định đón tàu sân bay biểu tượng của sức mạnh Mỹ là một dấu hiệu rõ ràng về ý muốn răn đe Trung Quốc. Chuyến ghé cảng đó đã thu hút sự chú ý của thế giới trên quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đã tiến triễn mạnh từ tháng 5/2016, khi tổng thống Obama đến Hà Nội và tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đối với Việt Nam.
Trong chuyến đi Việt Nam để thảo luận chi tiết về chuyến ghé cảng của tàu sân bay Mỹ, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis đã nói về quan hệ Việt-Mỹ như là một quan hệ giữa các "đối tác cùng ý hướng", gợi lên khả năng là quan hệ quốc phòng song phương sẽ còn phát triển hơn nữa trong tương lai.
Tập trận Milan
Rồi từ ngày 06 đến 13/03, Việt Nam là một trong 16 nước tham gia cuộc tập trận Hải Quân Milan, tổ chức hai năm một lần. Do Ấn Độ bảo trợ, phiên bản 2018 đã diễn ra ở phía đông Ấn Độ Dương, ở Port Blair, trong vùng quần đảo Andaman và Nicobar. Đây là lần đầu tiên Việt Nam công khai xác nhân việc tham gia cuộc diễn tập Milan, trái với phiên bản 2012, khi đã có những thông báo trái ngược nhau về sự có mặt của Việt Nam.
Thêm vào đó, cuộc tập trận Milan lại diễn ra trong lúc đảo Maldives bị khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. Trung Quốc hỗ trợ tài chính cho tổng thống đương nhiệm, Abdulla Yameen, điều mà Ấn Độ rất quan ngại vì ông Yameen có thể bảo đảm cho Trung Quốc sử dụng Maldives về mặt quân sự.
Maldives rất quan trọng về địa chiến lược, vì có thể được dùng làm bàn đạp để từ đấy triển khai lực lượng giành lợi thế ở khu vực trung tâm Ấn Độ Dương và dọc con đường nối liền Vịnh Aden với eo biển Malacca. Và Việt Nam đã tham gia cuộc diễn tập Milan vào lúc căng thẳng giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong lãnh vực hàng hải đang lên cao.
Việc Việt Nam hợp sức với Ấn Độ trong cuộc tập trận chung vào thời điểm tế nhị nói trên là viên thuốc đắng mà Trung Quốc phải nuốt trôi, nhưng một số phản ứng của Trung Quốc lại nhắm vào Ấn Độ. Hoàn Cầu Thời Báo đã nhận định : "Việt Nam là các bàn đạp để Hải Quân Ấn Độ vươn ảnh hưởng từ Ấn Độ Dương sang Tây Thái Bình Dương". Tác giả bài nhận định còn giải thích là Ấn Độ đang hoàn tất điều này, một phần bằng cách lôi kéo Việt Nam vào Milan.
Cho dù vậy, khi tham gia cuộc tập trận hỗn hợp Milan 2018, Việt Nam đã gởi thông điệp rất rõ ràng đến Trung Quốc là Việt Nam sẽ thắt chắt quan hệ với các đối tác có thể giúp giữ nguyên trạng ở Biển Đông nếu Trung Quốc tiếp tục thách thức.
Quan hệ ‘chiến lược’ với Úc và New Zealand
Sự kiện nổi bật thứ ba là chuyến thăm New Zealand và Úc từ ngày 12 đến 18/03 của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.
Tại New Zealand, ông Phúc và thủ tướng Jacinda Ardern cam kết nâng quan hệ song phương lên cấp "chiến lược" vào 2019. Và khi đến Canberra thì ông Phúc và thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đã nâng quan hệ lên cấp đối tác chiến lược.
Mặc dù không đặc biệt đề cập đến khái niệm "Ấn Độ-Thái Bình Dương", bản tuyên bố chung của Việt Nam với New Zealand và Úc đã nhấn mạnh trên những nguyên tắc được áp dụng cho vùng này, bao gồm nhu cầu duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như tôn trọng pháp luật và các thủ tục ngoại giao để giải quyết tranh chấp.
Chỉ riêng điều đó thôi cũng đã chứng minh cho Bắc Kinh thấy rằng Việt Nam có các đối tác sẵn sàng ủng hộ lập trường của mình trong các diễn đàn khu vực.
Khi tăng cường quan hệ song phương với Úc, và lên kế hoạch tương tự với New Zealand, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc giao lưu quốc phòng với các nước phương Tây sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc chuyên nghiệp hóa lực lượng Hải Quân và Cảnh Sát Biển.
Việt Nam cẩn trọng
Câu hỏi mà chuyên gia trên tờ The Diplomat đặt ra là rút tỉa được gì từ các hoạt động tích cực của Việt Nam vào tháng Ba này ?
Đối với Derek Grossman, hoàn toàn có thể cho rằng tháng Ba bận rộn của Việt Nam nhằm mục đích cải thiện vị thế quốc phòng của đất nước trước mùa đánh cá ở Biển Đông, bắt đầu vào tháng 5, một giai đoạn thường làm tăng căng thẳng Trung Quốc-Việt Nam với việc ngư dân và lực lượng tuần duyên của hai bên chạm trán nhau thường xuyên hơn.
Grossman còn nhắc lại sự cố vào tháng 5 năm 2014, Bắc Kinh đơn phương cắm một giàn khoan dầu vào vùng biển đang tranh chấp với Việt Nam, gây nên một cuộc đọ sức trên biển kéo dài hàng tháng, với việc lực lượng hải giám Trung Quốc hung hăng tấn công tàu Việt Nam. Đó là một thảm hoạ cho Hà Nội, và cũng có thể dịp để Việt Nam thấy là cần phải tăng cường ngoại giao quốc phòng với các đối tác có thể trợ giúp - thậm chí chỉ bằng lời nói – buộc Trung Quốc xuống thang trong trường hợp có sự cố mới nẩy sinh.
Trên bình diện khu vực, chắc chắn là cuộc bầu cử vào tháng 6 năm 2016 ở Philippines đưa Rodrigo Duterte lên cầm quyền đã thúc đẩy Việt Nam cân nhắc lại cách tiếp cận của mình. Tổng thống Duterte đã tìm cách hòa hoãn với Bắc Kinh về các tranh chấp và gác bỏ phán quyết của Tòa Trọng Tài La Haye. Quyết định hòa dịu với Trung Quốc đó đã biến Việt Nam thành nước duy nhất phản đối đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Sự kết hợp của hai nhân tố nói trên có lẽ đã thúc đẩy Hà Nội tiếp tục củng cố vị trí của mình trong khu vực bằng nền ngoại giao quốc phòng.
Tuy nhiên, chuyên gia Grossman cũng đánh giá là điều quan trọng cần thừa nhận là việc Hà Nội tăng cường quan hệ quốc phòng với các quốc gia có thể giúp Việt Nam trên vấn đề Biển Đông sẽ không nhất thiết thúc đẩy các nước đó bạo dạn hơn đối với Trung Quốc. Hà Nội chẳng hạn, trước áp lực của Trung Quốc, một lần nữa lại quyết định hủy bỏ hoạt động khoan dầu của tập đoàn năng lượng Repsol (Tây Ban Nha) trong vùng biển đang tranh chấp lần thứ hai trong năm. Điều này cho thấy Hà Nội sẽ tiếp tục ưu tiên và quản lý các mối quan hệ với Bắc Kinh ở Biển Đông, ngay cả khi cùng lúc Việt Nam vẫn cố gắng giành lợi thế bằng cách thu hút các đối tác khác để kháng lại sự phát triển của Trung Quốc.
Mai Vân