Trong Lý Văn Trung Công toàn tập quyển 19, Lý Hồng Chương đã đề cập đến "những thay đổi chưa từng thấy trong ba nghìn năm". Hiện nay, những thay đổi được nhắc đến nhiều nhất là những thay đổi chưa từng thấy trong một trăm năm. Dù là trăm năm hay nghìn năm thì cũng phải thừa nhận rằng, thời đại của chúng ta đang nảy sinh những biến đổi chóng mặt.
Trung Quốc vẫn là quốc gia đông dân nhất thế giới, nhưng đang bắt đầu suy giảm dân số. Ảnh minh họa
Trong cuộc Cách mạng Trung Quốc năm 1949, người ta đã sử dụng các yếu tố nhân khẩu học để giải thích cho sự phát sinh của cuộc cách mạng này, nhưng sau đó, điều này đã bị các nhà sáng lập Trung Quốc Mới phủ nhận. Theo thiển ý của tôi, có sự hợp lý nhất định khi sử dụng việc dân số quá đông để giải thích cho sự phát sinh của cuộc Cách mạng Trung Quốc. Tất nhiên, nó không sâu sắc và hữu hiệu như lý thuyết của các nhà sáng lập.
Một vài người cho rằng, Trung Quốc hiện đang trải qua những thay đổi lớn lao chưa từng có trong một thế kỷ qua. Tôi không biết liệu tuyên bố này có được chấp nhận rộng rãi hay không. Tuy nhiên, hàng loạt những thay đổi nảy sinh từ sự biến động về nhân khẩu học là chưa từng có suốt một trăm năm qua. Bài viết này cung cấp một phân tích ngắn gọn cùng một triển vọng tương lai đối với vấn đề này.
1. Dân số tăng trưởng âm
Dân số đang trải qua những thay đổi lớn lao chưa từng có trong một trăm năm. Thay đổi mang tính biểu tượng là sự suy giảm mạnh mẽ của tỷ suất sinh. Sự sụt giảm mạnh mẽ này đã trực tiếp dẫn đến mức sinh của Trung Quốc suy giảm mạnh. Dân số Trung Quốc đã bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng âm vào năm 2022 và xu hướng này sẽ không có dấu hiệu kết thúc trong nhiều năm tới. Nói cách khác, trong vài thập kỷ tới, thậm chí hàng trăm năm tới, chúng ta sẽ không thể chứng kiến sự tăng trưởng của dân số Trung Quốc. Đây là thay đổi mà quốc gia này chưa từng trải qua trong suốt một trăm năm qua. Vào năm 1722 sau Công nguyên (năm thứ 61 dưới sự trị vì của Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh), dân số Trung Quốc vượt mốc 100 triệu người và đạt 430 triệu người vào cuối thời nhà Thanh ; trong cuộc điều tra dân số toàn quốc đầu tiên vào năm 1954, dân số Trung Quốc đạt 610 triệu người ; năm 1982 vượt mốc một tỷ và năm 2020 vượt quá 1,4 tỷ. Năm 2024, vị trí quốc gia đông dân nhất thế giới đã bị thay thế bởi Ấn Độ.
Trong vài thập kỷ hoặc thậm chí hàng trăm năm tới, hàng loạt thay đổi do tốc độ tăng trưởng dân số âm mang tới sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội và mọi mặt đời sống của người dân Trung Quốc. Điều này bao gồm sự hoang vu tại một lượng lớn các ngôi làng, sự mất mát dân số ở một số huyện và việc một số thành phố ở vùng sâu vùng xa bị gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí trở nên hoang phế do dân số sụt giảm.
2. "Làn sóng bạc"
Dân số tiếp tục suy giảm, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng và tỷ lệ người cao tuổi tiếp tục tăng. Một "làn sóng bạc" đang đến với Trung Quốc và làn sóng này sẽ kéo dài với một tỷ lệ nghiêm trọng hiếm thấy trên thế giới. Dự kiến vào khoảng năm 2035, tức là 11 năm tới, số người từ 60 tuổi trở lên ở Trung Quốc sẽ vượt 400 triệu người, chiếm hơn 30% tổng dân số và nước này sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số nghiêm trọng. Lúc đó, Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản, quốc gia có tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm 29,1% tổng dân số vào năm 2023 (đứng đầu thế giới). Đến năm 2050, số lượng người cao tuổi ở Trung Quốc sẽ đạt mức cao nhất là 487 triệu người, chiếm 35% tổng dân số. Quy mô và tỷ trọng người cao tuổi, tỷ lệ phụ thuộc của người cao tuổi cùng tỷ lệ phụ thuộc xã hội sẽ lần lượt đạt đỉnh. Khi đó, số lượng và tỷ lệ người cao tuổi ở Trung Quốc sẽ lớn đến mức không có đối thủ trên thế giới.
Làn sóng bạc mang đến những thách thức rất lớn đối với việc cung cấp dịch vụ công và sự phát triển bền vững của hệ thống an sinh xã hội. Chẳng hạn, liệu quốc gia này có đủ khả năng cung cấp một chế độ lương hưu cơ bản cho số lượng người cao tuổi sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai hay không, điều đó chắc chắn là một vấn đề rất lớn.
Sự tấn công dồn dập của làn sóng bạc có thể dẫn đến tình trạng thiếu sức sống và thiếu khả năng đổi mới trong toàn xã hội. Tất nhiên, cũng cần lưu ý rằng, làn sóng bạc có thể thúc đẩy nền "kinh tế bạc" tiếp tục tăng trưởng, đồng thời cũng sẽ nâng cao sức lao động và tiềm lực tự thân của người cao tuổi. Ngay cả vậy, vẫn thật khó để ngăn cản "buổi chạng vạng" của toàn xã hội.
Trong số các nền kinh tế lớn trên thế giới, Nhật Bản đứng đầu về tỷ lệ người cao tuổi trong 30 năm qua. Bên cạnh các dịch vụ phúc lợi và chăm sóc sức khỏe, Nhật Bản đã không ngừng mở rộng các lĩnh vực, chẳng hạn như đổi mới công nghệ, giải trí, cải tạo nhà ở và thậm chí cả dịch vụ tài chính cho người già, nhằm đảm bảo rằng người cao tuổi có thể tiếp tục tạo ra giá trị kinh tế, đây là những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc ứng phó với làn sóng bạc. Trong giai đoạn này, mặc dù năng lực đổi mới khoa học công nghệ của Nhật Bản không hề giảm sút nhưng nước này vẫn khó có thể ngăn chặn tình trạng già hóa trong toàn xã hội. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục suy thoái.
Trong tương lai, cách Trung Quốc phản ứng trước sự tấn công của làn sóng bạc sẽ rất quan trọng.
3. Những thay đổi trong giáo dục
Trong số các yếu tố ảnh hưởng tới mức giảm sinh, giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục, đặc biệt là sự phổ cập giáo dục đại học, đã khiến độ tuổi kết hôn lần đầu trung bình của phụ nữ muộn hơn đáng kể. Trong khoảng từ năm 1980 đến năm 2020, độ tuổi kết hôn lần đầu trung bình của phụ nữ Trung Quốc tăng từ 22,74 lên 27,95 tuổi. Ở một số thành phố lớn như Bắc Kinh và Thượng Hải, độ tuổi kết hôn lần đầu trung bình đã vượt quá 30 tuổi, điều này góp phần đáng kể vào sự suy giảm của tỷ suất sinh.
Sự sụt giảm của tỷ suất sinh dẫn đến việc dân số tiếp tục suy giảm, điều này sẽ mang đến tác động gây sốc cho nền giáo dục Trung Quốc trong tương lai. Hiện nay, số lượng trường mẫu giáo trên toàn Trung Quốc đã bắt đầu suy giảm. Trong 5 đến 10 năm tới hoặc thậm chí lâu hơn, việc hủy bỏ, sáp nhập hay thậm chí đóng cửa sẽ trở thành xu hướng. Tiếp đó, xu hướng này sẽ lan đến các trường tiểu học, trung học và thậm chí cả đại học. Trước mắt, số lượng trường đại học và số lượng tuyển sinh của Trung Quốc đã đạt mức cao mới, tuy nhiên không bao lâu nữa, tình hình sẽ nhanh chóng đảo chiều.
Những thay đổi trong giáo dục này có tác động to lớn đến toàn xã hội. Các cơ quan chính phủ và các nhà đầu tư ngoài công lập cần chuẩn bị đầy đủ tinh thần để ứng phó một cách tích cực.
4. Thị trường thu hẹp kéo theo sự suy giảm liên tục của bất động sản và các ngành nghề khác
Dân số vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng. Dân số tiếp tục giảm sút đồng nghĩa với việc thị trường sẽ bị thu hẹp, điều này sẽ tác động liên tục đến sự phát triển của mọi ngành nghề ở Trung Quốc. Trước mắt, bất động sản, ngành công nghiệp trụ cột của nền kinh tế Trung Quốc, sẽ là lĩnh vực đầu tiên phải hứng chịu sự đả kích này.
Trong bối cảnh nguồn cung bất động sản tiếp tục tăng và dân số tiếp tục giảm, cho dù có áp dụng biện pháp nào thì cũng chỉ có thể trì hoãn chứ khó có thể tránh khỏi xu hướng đi xuống của toàn bộ thị trường bất động sản. Lý do rất đơn giản. Năm 2023, diện tích nhà ở bình quân đầu người ở các thành phố và thị trấn của Trung Quốc sẽ lên tới 41m2. So sánh với con số 40 đến 60m2 ở các nền kinh tế lớn trên thế giới, như Úc 90,3m2, Canada 63,9m2, Mỹ 62,4m2, Đức 46,6 m2, Ba Lan 40m2, Vương quốc Anh 37,6m2, Pháp 36,5m2 và Nhật Bản 33,5m2, điều đó có nghĩa diện tích nhà ở của người dân Trung Quốc đã đạt đến mức của các nền kinh tế lớn trên toàn cầu. Nhu cầu nhà ở cơ bản của người dân Trung Quốc đã được đáp ứng ở mức độ cơ bản. Trong bối cảnh đó, dân số tiếp tục suy giảm, số lượng bất động sản tiếp tục gia tăng và xu hướng đi xuống của bất động sản là điều khó có thể thay đổi. Trong tương lai, người ta sẽ chứng kiến nhiều cư dân thành thị sinh vào những năm 1980 hay 1990 được thừa hưởng ít nhất một, thậm chí hàng chục căn nhà từ cha mẹ mình. Trong bối cảnh như vậy, xu hướng giảm chung của giá nhà ở Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi và khó có thể ngăn chặn. Tất nhiên, một số khu vực cốt lõi và khu vực đặc biệt ở các thành phố có tầm ảnh hưởng, chẳng hạn như khu vực thuộc Đường vành đai hai ở Bắc Kinh, vẫn sẽ tuân theo nguyên tắc thị trường "hiếm mới có giá trị" và có thể tăng nhẹ thay vì giảm, nhưng điều này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đánh giá tổng thể nêu trên.
5. Khó có thể thay đổi xu hướng co hẹp của nhu cầu tiêu dùng
Mức sinh giảm sẽ kéo theo sự suy giảm của số lượng dân số trẻ và dân số trong độ tuổi lao động. Song song với đó, số lượng người cao tuổi sẽ ngày càng tăng và nhu cầu tiêu dùng vật chất của họ là tương đối hạn chế. Trong khi đó, giới trẻ tuy có nhu cầu tiêu dùng lớn nhưng do số lượng giảm đi nên sẽ trực tiếp dẫn đến việc tổng nhu cầu tiêu dùng toàn xã hội bị suy giảm và co hẹp trong dài hạn. Điều này có nghĩa, với tốc độ tăng trưởng dân số âm và mức sinh giảm, nền kinh tế Trung Quốc sẽ không thể có được động lực nội tại để tăng trưởng bền vững và nhiều khả năng sẽ phát triển ở mức thấp trong một thời gian dài.
6. Cách mạng hôn nhân
Trong số các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh giảm, cách mạng hôn nhân đóng một vai trò không thể thiếu. Cách mạng hôn nhân chỉ sự thay đổi căn bản trong quan niệm của con người về hôn nhân, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi hôn nhân của con người. Sợ kết hôn và sinh con đã trở thành thái độ và quan điểm của rất nhiều người trẻ ngày nay. Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, quan niệm và tư tưởng của con người cũng phát triển hơn. Ngày càng có nhiều người giữ thái độ hoài nghi đối với hôn nhân, bất kể nam hay nữ.
Khi xã hội ngày càng phát triển, phụ nữ ngày càng trở nên ưu tú và độc lập hơn. Điều này mang lại sự độc lập về tính cách và sự thức tỉnh về ý thức đối với nữ giới. Nhiều phụ nữ thấy rằng, hôn nhân sẽ chỉ trói buộc họ với gia đình và hôn nhân mang một giá trị tiêu cực. Khi nữ giới hình thành hiểu biết này, họ sẽ lựa chọn rời đi một cách dứt khoát. Đây là một trong những nguyên nhân khiến tỉ lệ ly hôn ở Trung Quốc ngày càng tăng cao.
Số liệu cho thấy, tỷ lệ ly hôn ở Trung Quốc đã tăng 17 lần, từ 0,18% vào năm 1978 lên 3,09% vào năm 2023. Con số này hiện đã vượt qua Nhật Bản và Hàn Quốc. Song song với đó, tỷ lệ kết hôn đã giảm từ 9,9‰ vào năm 2013 xuống còn 4,8‰ vào năm 2022 ; số cuộc hôn nhân được đăng ký vào năm 2013 là 13,47 triệu và giảm xuống còn 6,83 triệu vào năm 2022, đánh dấu 9 năm suy giảm liên tiếp.
Chính bởi thái độ hoài nghi về hôn nhân mà ngày càng có nhiều người trẻ lựa chọn không kết hôn. Đồng thời, tình trạng chung sống khi chưa kết hôn cũng không ngừng gia tăng. Mô hình hôn nhân truyền thống đang dần tan rã hoặc lụi tàn.
7. Biến động trong hộ gia đình
Tác động của cách mạng hôn nhân cũng ảnh hưởng trực tiếp đến những biến động trong hộ gia đình.
Quy mô hộ gia đình trung bình ở Trung Quốc tiếp tục bị thu hẹp. Theo cuộc điều tra dân số lần thứ hai vào năm 1964, một hộ gia đình Trung Quốc có quy mô trung bình là 4,43 người, nhưng đã giảm chỉ còn 2,62 người vào năm 2020.
Có rất nhiều loại hình hộ gia đình. Một lượng lớn các gia đình độc thân, gia đình đơn thân, gia đình chỉ có một con và gia đình chỉ có người già sống một mình đã được hình thành. trong tổng số gia đình. Tỷ lệ gia đình đơn/độc thân do ly hôn hoặc không kết hôn trong tổng số hộ gia đình tăng đều đặn, tỷ lệ gia đình tái hôn, gia đình chuyển dịch và gia đình có cha mẹ đi làm xa cũng tiếp tục gia tăng. Ngoài ra, số lượng hộ gia đình "tổ trống" cũng đang tăng lên nhanh chóng. Không chỉ có sự gia tăng tổ trống ở lớp người cao tuổi mà hiện tượng "tổ trống ở tuổi trung niên" cũng rất phổ biến.
Sự chuyển dịch dân số theo đơn vị gia đình đã tăng lên rõ rệt. Năm 2020, Trung Quốc có 376 triệu người dân lưu chuyển, tăng khoảng 70% so với năm 2010. Trong đó, chuyển dịch theo gia đình là xu hướng chủ đạo.
Hiện tượng ly hôn đang diễn ra rất nghiêm trọng. Hiện tượng chia ly trong các hộ gia đình phần nào đó thể hiện mức độ nghiêm trọng của tình trạng ly hôn. Năm 2020, Trung Quốc có 493 triệu người sống trong các hộ gia đình ly hôn, tăng 88,52% so với năm 2010.
Đồng thời, các mối quan hệ gia đình đang thể hiện xu hướng bình đẳng và dân chủ hóa. Quyền uy của người lớn tuổi trong mối quan hệ giữa các thế hệ có xu hướng suy yếu. Sự chuyển dịch dân số ồ ạt đã làm suy yếu chức năng phụng dưỡng của các gia đình nông thôn, phương thức chăm sóc người già theo kiểu truyền thống đã chịu tác động lớn. Quan niệm về gia đình đang phát triển từ "mô hình phản hồi" truyền thống giữa các thế hệ sang hướng xã hội hóa.
Từ những thay đổi trên, có thể rút ra kết luận sau: Trong tương lai không xa, khi tính cách và sự độc lập của con người ngày càng phát triển, ý thức của người phụ nữ được thức tỉnh và chức năng an sinh xã hội được nâng cao thì những biến động trong gia đình sẽ càng nhanh hơn nữa. Và có lẽ, sự tan rã của gia đình sẽ là diễn biến cuối cùng.
8. Sự xuất hiện của các nhà máy sinh sản
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong y học, công nghệ sinh sản đã phát triển nhanh chóng và việc thị trường hóa sinh sản đã mang đến cho con người không gian tưởng tượng để tránh khỏi sự suy giảm dân số mạnh mẽ trong tương lai. Tất nhiên, nó cũng đem đến nhiều vấn đề về đạo đức.
Quá trình sinh sản tự nhiên của con người bao gồm các bước như quan hệ tình dục, thụ tinh trong ống dẫn trứng, làm tổ trong tử cung và mang thai trong tử cung. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là phương pháp thay thế một hoặc toàn bộ quá trình sinh sản tự nhiên nêu trên. Với sự phát triển của các kỹ thuật y khoa, các phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo đã trở nên khả thi. Điều này đã mang lại tin vui cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, đồng thời phá vỡ lối sống và quy trình sinh sản tự nhiên của con người.
Có một trường hợp thú vị như sau, một người phụ nữ đưa hai con đến thăm tỷ phú người Mỹ Elon Musk. Ngay khi vừa gặp mặt, người phụ nữ lập tức bảo hai đứa trẻ gọi Elon Musk là cha. Elon Musk đã rất sốc khi biết rằng đây là hai đứa trẻ được sinh ra nhờ tinh trùng của chính mình.
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là quy trình y tế được thiết kế để giúp đỡ các cá nhân gặp khó khăn trong sinh sản hoặc không thể có con đẻ. Từ đây, có thể liên tưởng như sau: Trong những năm tới, bằng cách kết hợp tinh trùng do ngân hàng tinh trùng cung cấp với trứng do ngân hàng trứng cung cấp, dưới bối cảnh đảm bảo rằng phôi được cung cấp là khỏe mạnh và không mang những rủi ro có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh, con người sẽ có thể sản xuất hàng loạt trẻ em theo kiểu nhà máy thông qua sự tiến bộ của công nghệ sinh sản để bù đắp cho sự suy giảm tăng trưởng dân số.
Trong quá trình này, sẽ có nhiều thách thức về đạo đức và pháp lý phát sinh, nhưng sự hợp tác chân thành giữa các nhà khoa học, nhà luân lý học và luật gia cuối cùng sẽ tìm ra cách để thực hiện được những yêu cầu trên.
9. Chính trị quốc tế đối mặt với nhiều thách thức
Thế giới đang hướng tới một tương lai với tỷ suất sinh thấp và điều này sẽ gây ra tác động to lớn đến chính trị quốc tế trong tương lai.
Sự suy giảm tỷ suất sinh không phải chỉ xảy ra ở Trung Quốc. Tổng tỷ suất sinh của phụ nữ toàn cầu đã liên tục sụt giảm trong nửa thế kỷ qua. Từ mức hơn 6 vào những năm 1970, đến nay tỷ suất sinh đã giảm xuống mức thay thế chỉ khoảng 2,1. Dân số toàn cầu có thể sẽ không bao giờ vượt quá 10 tỷ người. Hiện nay, tổng tỷ suất sinh của phụ nữ ở các nền kinh tế lớn đã giảm xuống dưới mức thay thế, Trung Quốc và Hàn Quốc thậm chí còn ở dưới mức 1,1. Các nhà nhân khẩu học đã đưa ra con số dự báo rằng, đến năm 2050, 155 (76%) trong số 204 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới sẽ có tỷ suất sinh ở dưới mức thay thế. Dự kiến đến năm 2100, trong số 204 quốc gia và khu vực trên thế giới, số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ ở dưới mức thay thế sẽ tiếp tục tăng lên 198 (97%).
Điều này có nghĩa, "sự bùng nổ trẻ em" ở các nước đang phát triển và "sự thiếu hụt trẻ em" ở các nước phát triển sẽ dẫn đến những thay đổi to lớn về mặt xã hội. Tỷ suất sinh và xu hướng sinh sản trong tương lai sẽ thay đổi cán cân quyền lực quốc tế, đồng thời tái cơ cấu nền kinh tế toàn cầu và tái tổ chức xã hội toàn cầu một cách triệt để. Ví dụ, Pháp là một quốc gia dân tộc điển hình ở Châu Âu. Quốc gia chủ yếu theo Công giáo này đã tiếp nhận những người nhập cư với những tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, chẳng hạn như tín đồ Tin lành, tín đồ Do Thái và tín đồ Hồi giáo. Trong số đó, do có tỷ suất sinh cao nên người Hồi giáo dần vượt người Do Thái và người theo đạo Tin lành về số lượng, qua đó biến đạo Hồi trở thành tôn giáo lớn thứ hai ở Pháp. Theo xu hướng phát triển hiện nay, Hồi giáo rất có thể sẽ trở thành tôn giáo lớn nhất trong tương lai gần và cuối cùng Pháp sẽ phát triển thành một quốc gia Hồi giáo. Đây chắc chắn là một thách thức đối với nền chính trị toàn cầu.
Hiện nay, các nước phát triển trên thế giới đang "dẫn dắt mức giảm sinh", trong khi các nước đang phát triển thì đang "quyết định chiều hướng của mức giảm sinh", đặc biệt là ở Châu Phi, nơi có tỷ suất sinh cao nhất thế giới. Đến năm 2100, dân số Trung Quốc sẽ dưới 600 triệu người, còn dân số Châu Phi có thể sẽ vượt qua Châu Á và trở thành lục địa lớn nhất thế giới. Điều này sẽ gây ra tác động quan trọng đến nền chính trị và kinh tế toàn cầu.
Trần Kiếm (Chen Jian)
Nguyên tác : "陈剑:百年未有之人口变动——引发的变局", Aisixiang, 01/06/2024.
Lê Thị Thanh Loan biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 19/06/2024
Dân số Trung Quốc giảm trong năm thứ hai liên tiếp, làm tăng thêm mối lo ngại về sự tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Dữ liệu công bố hôm thứ Tư cho thấy dân số nước này đạt 1.409 tỷ người vào cuối năm 2023 - giảm 2,08 triệu so với năm 2022.
Mức giảm mới nhất này cao gấp đôi so với năm trước, đánh dấu lần giảm dân số đầu tiên sau 60 năm.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng việc giảm dân số này là điều được trông đợi sẽ diễn ra, do sự mở rộng của tầng lớp thành thị và tỷ lệ sinh thấp kỷ lục.
Bắc Kinh hôm thứ Tư cho biết tỷ lệ sinh hiện đã giảm xuống còn 6,39 trên 1.000 người, ngang bằng với các quốc gia Đông Á tiên tiến khác như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trung Quốc đã có tỷ lệ sinh giảm đi trong nhiều thập kỷ sau khi áp dụng chính sách một con gây tranh cãi vào thời thập niên 1980 nhằm kiểm soát tình trạng dân số quá đông vào thời điểm đó.
Chính phủ đã dỡ bỏ chính sách này vào năm 2015 để cố gắng ngăn chặn tình trạng giảm dân số và cũng đưa ra một loạt các biện pháp khuyến khích khác, chẳng hạn như cho các khoản trợ cấp và chi trả để khuyến khích mọi người lập gia đình. Vào năm 2021, chính phủ tiếp tục nới lỏng giới hạn, theo đó cho phép các cặp vợ chồng có tối đa ba con.
Tuy nhiên, các chính sách này đã không tạo mấy tác động, do những người trẻ tuổi ở các thành phố hiện đại cảm thấy có những trở ngại như chi phí sinh hoạt và các ưu tiên dành cho công việc sau thời kỳ Covid kéo dài ba năm.
"Vợ chồng tôi muốn có con nhưng hiện tại chúng tôi không đủ khả năng trang trải", Wang Chengyi, một phụ nữ 31 tuổi ở Bắc Kinh, nói.
Cô nói với BBC rằng vợ chồng cô cần tiết kiệm tiền thêm ba năm nữa mới có đủ tiền chi phí sinh con - đặc biệt là tính đến phí tổn học tập.
"Tôi rất muốn mang thai khi còn trẻ để tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, hiện tại tôi không có đủ tiền nên phải hoãn lại. Tôi thấy thật xấu hổ và đôi khi còn có cảm giác sợ hãi", cô nói.
Các chuyên gia hôm thứ Tư nhắc tới chuyện đại dịch tác động vào việc khiến cho tỷ lệ sinh giảm nhanh hơn. Tuy nhiên, họ cho rằng các vấn đề kinh tế cơ bản đóng vai trò quan trọng hơn.
Người dùng internet Trung Quốc trong hôm thứ Tư cũng nhắc tới áp lực chi phí.
"Nếu bạn để mọi người sống dễ dàng hơn, an toàn hơn, tất nhiên sẽ có nhiều người muốn có con hơn", một người dùng viết trong một bình luận có lượt thích cao nhất trên Weibo.
Dân số Trung Quốc giảm trong những năm gần đây. Chính sách Một Con được nước này áp dụng từ 1979 đến 2016
Các chuyên gia nói rằng Trung Quốc đang đi theo mô hình của các quốc gia đã nhanh chóng phi công nghiệp hóa, mặc dù tốc độ thay đổi rất nhanh.
"Không có gì đáng ngạc nhiên. Họ có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới nên điều này đúng là xảy ra – dân số ngừng tăng và bắt đầu giảm", Giáo sư Stuart Gietel-Basten, chuyên gia chính sách dân số tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong, nói.
"Bây giờ mọi chuyện gần như đã chốt lại... đây chỉ là năm tiếp theo trong kỷ nguyên mới về tình trạng dân số Trung Quốc giữ nguyên hoặc suy giảm".
Khủng hoảng kinh tế ở Trung Quốc là mối lo hàng đầu trong năm 2023, khi nước này phải đối mặt với cuộc khủng hoảng địa ốc lan rộng, chi tiêu tiêu dùng giảm và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên tăng cao sau đại dịch.
Dữ liệu hàng năm hôm thứ Tư đã xác nhận những khó khăn – cho thấy nền kinh tế đã tăng trưởng với tốc độ chậm nhất trong hơn ba thập kỷ – với GDP tăng trưởng ở mức 5,2%, đạt 126 nghìn tỷ nhân dân tệ (17,5 nghìn tỷ USD) vào năm 2023.
Điều này đánh dấu hiệu suất yếu nhất kể từ năm 1990 - không tính những năm đại dịch - với tốc độ tăng trưởng GDP là 3%, thấp kỷ lục vào năm 2022.
Trung Quốc cũng báo cáo hôm thứ Tư rằng tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong tháng 12 là 14,1% - sau khi lên tới 21,3% vào tháng 6, là thời điểm mà kể từ sau đó Trung Quốc tạm thời ngưng công bố số liệu hàng tháng.
Dữ liệu dân số mới nhất nhiều khả năng sẽ càng khẳng định thêm một số nỗi lo về nền kinh tế - do Trung Quốc từ lâu đã dựa vào lực lượng lao động đang già đi làm động lực chính cho nền kinh tế.
Đất nước này đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe và hưu bổng khi dân số nghỉ hưu tăng lên - dự kiến sẽ tăng 60%, đạt 400 triệu người vào năm 2035.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng nước này có thời gian và nguồn lực để quản lý quá trình chuyển đổi lực lượng lao động.
"Trung Quốc không khác gì các quốc gia khác đã phi công nghiệp hóa và chuyển sang lĩnh vực dịch vụ. Dân số trở nên có trình độ học vấn, tay nghề cao và khỏe mạnh hơn. Họ muốn làm những công việc khác hơn là làm việc trong các nhà máy hoặc xây dựng", Giáo sư Gietel-Basten nói.
"Chính phủ nhận thức được điều này và đã lên kế hoạch cho việc này trong thập kỷ qua và vì vậy dự kiến sẽ tiếp tục đi theo hướng này".
Từng là quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc đã bị Ấn Độ vượt qua vào năm ngoái, theo Liên Hiệp Quốc. Dân số Ấn Độ hiện đang ở mức 1,425 tỷ người.
Frances Mao
Nguồn : BBC, 17/01/2024
Đến năm 2026 dân số Ấn Độ sẽ cao hơn Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn nữa là dân Ấn Độ rất trẻ ; một nửa dưới 30 tuổi. Phụ nữ Ấn Độ sinh sản nhiều hơn phụ nữ Trung Quốc, trung bình mỗi bà sanh 2.1 đứa con.
Theo ước tính hiện nay, cứ 100 người trong tuổi làm việc tại Trung Quốc nuôi 22 người về hưu. Đến cuối thế kỷ, 100 người làm việc phải nuôi 120 người già.
Đài truyền hình ở Bắc Kinh và nhiều thành phố Trung Quốc mới chiếu một "phim bộ" dài 24 hồi được cả guồng máy tuyên truyền đảng Cộng Sản Trung Quốc cổ võ, của ba đạo diễn Khổng Sanh, Mao Lâm, và Vương Hoành. Cuốn phim Huyện Ủy Đại Viện(县委大院) kể chuyện một ông thư ký huyện ủy, đúng đầu một huyện Quang Minh giả tưởng. Nhân vật Mai Hiểu Ca (梅晓歌) được diễn tả như một cán bộ tài ba, hết lòng thương yêu hy sinh cho dân, thành khẩn đến nỗi nhiều người nghe ông ta nói đã khóc vì cảm động.
Đoạn cuối cùng của bộ phim hơi đột ngột, chiếu hình ảnh huyện Quang Minh với những trẻ con chơi đùa và các em bé bụ bẫm, một cảnh tượng không dính dáng chi đến câu chuyện chính. Tại sao các đạo diễn lại kết thúc cuốn phim một cách bất ngờ như vậy ? Tuần báoEconomist đã bắt mạch, viết rằng vì đảng Cộng sản đang lo dân số Trung Quốc bắt đầu giảm !
Báo South China Morning Post cho biết trong năm 2022 số người chết ở Trung Quốc so với số trẻ mới ra đời chênh lệch 850.000 người. Các bà mẹ năm ngoái sanh 9,56 triệu đứa con, trong năm 2021 sanh 9,98 triệu. Dân số tụt từ 1,4126 tỷ xuống 1,4118 tỷ, theo thống kê của chính phủ. Đây là lần đầu tiên dân số Trung Quốc giảm kể từ thời 1960, khi chính sách "Bước Nhảy Vọt" của Mao Trạch Đông khiến mấy chục triệu dân chết đói.
Liên Hiệp Quốc dự đoán đến năm 2050 dân số nước này chỉ còn 1,31 tỷ ; đến cuối thế kỷ 21 sẽ xuống 771 triệu, giảm mất gần một nửa. Viện Nghiên Cứu Nhân Khẩu Vưu Ngõa (YuWa, 尤瓦人口研究) ở Bắc Kinh giải thích rằng dân số xuống vì số phụ nữ trong tuổi sinh đẻ đang giảm, mà họ lại đẻ ít hơn trước. Năm 2021 cứ 1.000 dân thì có 7,52 trẻ ra đời, năm ngoái tụt xuống chỉ có 6,77 em, con số thấp nhất thế giới.
Năm 2016, Trung Quốc đã xóa bỏ "chính sách một con" của thời 1976, khuyến khích dân sanh 2, 3 con, bằng cách trợ cấp khi sinh nở, cho các bà mẹ sinh con được nghỉ đi làm lâu hơn, lập thêm những nhà giữ trẻ. Năm nay, tỉnh Tứ Xuyên bắt đầu công nhận những đứa con của các cặp chưa kết hôn cũng coi là hợp pháp, một biện pháp trái với phong tục chưa nơi nào áp dụng.
Nhưng phụ nữ Trung Hoa không muốn sanh con vì xã hội đã thay đổi. Nhiều người bỏ thôn quê ra thành phố ; năm 2022 dân các đô thị tăng thêm 4,5 triệu, lên tới 921 triệu, bằng 65% dân cả nước. Phụ nữ ở thành phố lo kiếm ăn, giữ việc làm và thăng tiến trong nghề nghiệp, họ không muốn lập gia đình sớm. Tuần báoEconomist cho biết trong năm 2020 tuổi trung bình của những người kết hôn lần đầu là gần 29 tuổi (28,7) ; tăng 4 tuổi so với mười năm trước. Trong năm 2021 cả nước Trung Quốc chỉ có 7,6 triệu đám cưới, chưa bao giờ ít như vậy. Cuộc sống đắt đỏ, nhà ở chật chội, công việc không chắc chắn, mọi người không muốn sanh đẻ trước khi thấy có thể bảo đảm một mức sống kha khá cho đứa con.
Muốn dân số một nước không thay đổi, một phụ nữ tính bình quân phải sinh hơn 2 con. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc thì vào năm 2022, tỷ lệ sinh sản bình quân của phụ nữ Trung Quốc là 1,7 đứa con, đứng hàng thứ 148 trong số 193 quốc gia. Dân số Nhật Bản giảm bớt 3 triệu từ 2011 đến 2021 vì một bà trung bình chỉ sanh 1,4 đứa con, đứng hàng 178.
Theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc, đến cuối thế kỷ này số người trong tuổi làm việc ở Trung Quốc, từ 15 đến 64 tuổi, sẽ giảm từ 579 triệu xuống 378 triệu. Lớp người trong tuổi lao động giảm sẽ đưa tới một hệ quả là việc tuyển mộ binh sĩ sẽ khó khăn hơn. Quân đội khó lôi cuốn được những người ưu tú trong giới trẻ vì họ có công việc làm tốt hơn và, nói chung, xã hội Trung Hoa không coi trọng giá trị của giới cầm súng.
Nhưng hậu quả tức thời khi lực lượng lao động giảm bớt là các công nhân sẽ đòi tăng lương khiến giá sinh hoạt lên cao.
Trong khi số người làm việc giảm, số người già về hưu đang tăng lên. Ở Trung Quốc tuổi về hưu của đàn ông là 60, đàn bà là 55. Sở Thống Kê của nhà nước cho biết số người trong lớp tuổi từ 16 đến 59 hiện là 875 triệu, bằng 62% dân số, trong khi những người từ 65 tuổi trở lên là 210 triệu, chiếm 15% ; nhưng các tỷ số đó đang thay đổi.
Theo ước tính của Bắc Kinh được hãng tin AP tường thuật, số người 60 trở lên đang chiếm 20% dân số. Đến năm 2035, sẽ lên tới 30%, tổng cộng 400 triệu người. Hiện nay, cứ 100 người trong tuổi làm việc nuôi 22 người về hưu. Đến cuối thế kỷ, 100 người làm việc phải nuôi 120 người già.
Trong 20 năm đầu đổi mới kinh tế, Trung Quốc tiến nhanh nhờ lương công nhân rất thấp. Lợi thế đó bây giờ đã chuyển qua các nước như Ấn Độ, Việt Nam. Trong mươi năm nữa, Ấn Độ sẽ thay thế Trung Quốc trên bàn cờ Á Châu.
Đến năm 2026 dân số Ấn Độ sẽ cao hơn Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn nữa là dân Ấn Độ rất trẻ ; một nửa dưới 30 tuổi. Phụ nữ Ấn Độ sinh sản nhiều hơn phụ nữ Trung Quốc, trung bình mỗi bà sanh 2,1 đứa con.
Báo South China Morning Post tiên đoán đến năm 2050 số trẻ em ra đời ở Trung Quốc sẽ chỉ bằng một phần ba con số ở Ấn Độ ; và đến cuối thế kỷ sẽ xuống bằng một phần tư. Ngày 1/1/2022, có 60.000 trẻ em ra đời ở Ấn Độ, chỉ có 35,000 bé sơ sinh trong nước Trung Quốc. Theo ước tính của Viện Nghiên Cứu Nhân Khẩu Vưu Ngõa, năm 2050, lớp người đứng giữa trong bậc thang tuổi tác (median age) ở Trung Quốc sẽ là 50 tuổi, ở Mỹ là 42,3 tuổi, còn ở Ấn Độ chỉ mới 37 tuổi rưỡi.
Trung Quốc có thể đối phó với những khó khăn kinh tế khi số người làm việc giảm và phải nuôi nhiều người về hưu hơn. Nhật Bản đã trải qua tình trạng này mà vẫn tiếp tục đóng vai một cường quốc kinh tế. Một giải pháp giản dị nhất là nâng cao sản năng lao động của những người làm việc, với các máy móc đa dụng và tinh xảo. Nước Nhật cũng chủ trương đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, để sử dụng các công nhân nước khác làm việc, sinh lời, và dùng lợi tức đó phụng dưỡng những người Nhật càng ngày càng sống lâu hơn.
Một chìa khóa thành công của nước Nhật là hệ thống kinh tế tự do thúc đẩy các phát minh, sáng kiến. Nền giáo dục Nhật Bản đã tiến bộ từ hơn một thế kỷ, đào tạo những công nhân đứng ra sử dụng những máy móc mỗi năm lại mới hơn.
Không biết Trung Quốc có thể theo bước chân Nhật Bản được không, nếu còn tiếp tục chính sách cai trị độc tài, độc đảng. Nền giáo dục ở Trung Quốc còn chưa cao, nhất là ở các vùng thôn quê. Nhiều sinh viên du học đậu tiến sĩ, đã quyết định không về nước vì muốn được sống tự do.
Ông Tập Cận Bình đã đề xướng kế hoạch "đại phục hưng Trung Quốc," đặt mục tiêu hoàn tất vào năm 2049, kỷ niệm 100 năm đảng Cộng sản cướp được chính quyền. Đến năm đó, ông sẽ tổ chức lễ lạc, liên hoan cho cả nước chúc mừng đảng của ông. Nhưng từ nay đến năm 2049 số người tham dự sẽ giảm bớt 100 triệu. Tập Cận Bình không thể thay đổi được số trời !
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 07/02/2023
Trong thời gian từ 2021 đến 2022, dân số Trung Quốc đã giảm đi 850.000 người, một mức sụt giảm lịch sử đối với quốc gia có đến 1,4 tỷ dân. Tỷ lệ sinh sản cũng xuống đến mức thấp lịch sử, chỉ còn khoảng 1,15 con mỗi phụ nữ. Đây là lần đầu tiên dân số Trung Quốc sụt giảm như vậy từ hơn 6 thập niên qua. Ngay từ năm nay, 2023, theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, Ấn Độ sẽ qua mặt Trung Quốc để giành vị trí quốc gia đông dân nhất thế giới.
Tại một bệnh viện phụ sản ở tỉnh An Huy, Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 17/01/2023. AP
Sự sụt giảm dân số Trung Quốc là điều đã được dự báo trước và tỷ lệ sinh sản của phụ nữ Trung Quốc đã giảm từ rất lâu trước khi chính quyền Bắc Kinh ban hành chính sách mỗi gia đình chỉ có một con. Đó là nhận định chung của bà Isabelle Attané, nhà Trung Quốc học và giám đốc nghiên cứu của Viện quốc gia nghiên cứu dân số của Pháp.
Trong bài trả lời phỏng vấn do Delphine Roucaute thực hiện đăng trên tờ Le Monde ngày 24/01/2023, bà Attané nêu lên những nguyên nhân và những hậu quả của sự sụt giảm dân số Trung Quốc.
Delphine Roucaute : Dựa trên cơ sở nào chúng ta có thể khẳng định sự sụt giảm của dân số Trung Quốc đã được dự báo trước ?
Isabelle Attané : Các nhà dân số học thường dựa trên những dự phóng dân số của Liên Hiệp Quốc, với ba kịch bản (thấp, trung bình, cao) tùy theo các giả thuyết dựa trên tỷ lệ sinh sản, một trong những yếu tố quan trọng nhất của mức tăng hay giảm dân số.
Theo kịch bản trung bình mà đa số các nhà phân tích dựa trên đó để dự báo, dân số Trung Quốc lẽ ra sẽ bắt đầu sụt giảm vào khoảng 2030. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào giả thuyết kịch bản thấp, sự sụt giảm dân số Trung Quốc được dự báo đã bắt đầu từ đầu thập niên 2020.
Nhưng sự sụt giảm tỷ lệ sinh sản ở nước này đã bắt đầu từ lâu. Từ giữa thập niên 1990, Trung Quốc đã xuống dưới ngưỡng gọi là "thay mới thế hệ", tức là dưới ngưỡng chỉ số sinh sản 2,1 con mỗi phụ nữ.
Delphine Roucaute : Sự sụt giảm mạnh của tỷ lệ sinh sản phải chăng chỉ là do chính sách mỗi gia đình chỉ có một con, được thi hành từ năm 1979 đến 2016 ?
Isabelle Attané : Sự sụt giảm này là do các chính sách kiểm soát sinh đẻ được thi hành từ nhiều năm trước khi có chính sách một con. Đúng là chính sách một con phần nào đó đã khiến mô hình gia đình ít con trở nên phổ biến hơn. Bên cạnh chính sách một con, đời sống đã trở nên đắt đỏ hơn, nên dân Trung Quốc lập gia đình ngày càng trễ và ngày càng có nhiều người trẻ thậm chí không lập gia đình.
Chi phí giáo dục cho con cái cũng như chi phí y tế cũng đã tăng rất nhiều. Ấy là chưa kể ở Trung Quốc hiện nay, lấy vợ là cả một vấn đề đối với đàn ông. Phụ nữ Trung Quốc ngày nay chỉ muốn lấy những người có một địa vị nào đó và nhất là phải có nhà cửa đàng hoàng. Rất nhiều "tiêu chuẩn" khiến cho việc lập gia đình càng khó khăn hơn.
Delphine Roucaute : Đại dịch Covid đã có tác động đến sự sụt giảm dân số Trung Quốc hay không ?
Isabelle Attané : Rất khó mà đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với sự sụt giảm của tỷ lệ sinh sản. Nhưng cũng giống ở mọi nước khác, mỗi khi có khủng hoảng, dù là khủng hoảng kinh tế, chính trị, hay như ở đây là khủng hoảng y tế, bao giờ tỷ lệ sinh sản cũng bị tác động. Lý do là vì trong những lúc khó khăn như vậy, các cặp vợ chồng thường hoãn việc sinh con, đợi đến khi nào tình hình ổn định thì mới "sản xuất" thành viên mới. Như vậy, dịch Covid-19 có thể đã khiến tỷ lệ sinh sản giảm thêm chút ít trong năm 2022.
Delphine Roucaute : Dân số của các nước Châu Á khác đang thay đổi như thế nào ?
Isabelle Attané : Trung Quốc đang hoàn toàn đi theo con đường của Nhật Bản hai mươi năm trước, hay của Hàn Quốc. Và có lẽ các quốc gia khác sẽ theo hướng này, chẳng hạn như dân số Việt Nam trong vòng bốn mươi năm qua đã có những chuyển biến khá giống với Trung Quốc. Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Nhật Bản là khi bắt đầu giảm dân số, Nhật Bản đã là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới. Đây hoàn toàn không phải là trường hợp của Trung Quốc. Trung Quốc đúng là cường quốc thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ tính về GDP, nhưng Trung Quốc chỉ đứng thứ 79 thế giới về thu nhập bình quân tính trên đầu người.
Delphine Roucaute : Dân số sụt giảm sẽ có những hậu quả nào đối với nền kinh tế Trung Quốc ?
Isabelle Attané : Vào năm 2050, tức là chưa tới 30 năm nữa, Trung Quốc rất có thể sẽ mất đi khoảng 200 triệu người trong độ tuổi lao động. Trong khi đó, toàn bộ giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất của kinh tế Trung Quốc, từ giữa thập niên 1980 đến 2000, tương ứng với sự gia tăng không ngừng của tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động trong tổng dân số. Tăng trưởng của Trung Quốc đã được hưởng lợi rất nhiều từ lực lượng lao động dồi dào và rất rẻ này, vốn đã giúp cho tất cả các ngành công nghiệp của Trung Quốc có sức cạnh tranh rất cao ở cấp độ toàn cầu, với chi phí sản xuất rất thấp. Việc giảm dân số trong độ tuổi lao động đã tác động đến chi phí của lực lượng lao động này trong mười năm qua. Tình hình này buộc nền kinh tế Trung Quốc phải tái cấu trúc để thích ứng với lực lượng lao động hiện có và thích ứng với sức tiêu dùng trong nước.
Delphine Roucaute : Trước tình hình đó, chính phủ Bắc Kinh có đã bắt đầu suy nghĩ về một chính sách nhập cư ?
Isabelle Attané : Cho đến gần đây, thật sự vẫn không có chính sách nhập cư ở Trung Quốc, nhưng kể từ năm 2022, nhà nước Trung Quốc đã bắt đầu cố gắng thúc đẩy nhập cư có chọn lọc, nghĩa là tạo điều kiện cho những người ngoại quốc có trình độ được nhập cư. Họ cũng có một chính sách rất mạnh mẽ để khuyến khích sinh viên Trung Quốc du học trở về nước làm việc. Nhưng xét về mặt lý thuyết, chúng ta thử tưởng tượng rằng đến năm 2050, Trung Quốc phải làm sao để bù đắp cho 200 triệu người trong độ tuổi lao động mà nước này sẽ bị thiếu hụt. Để bù đắp cho con số lớn như vậy, toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động của Indonesia, cộng với dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam phải di cư sang Trung Quốc !
Delphine Roucaute : Trung Quốc sẽ có vai trò như thế nào trong việc làm chậm tốc độ tăng trưởng dân số thế giới, dự kiến sẽ ổn định hoặc thậm chí sẽ giảm vào năm 2100 ?
Isabelle Attané : Trong 30 hoặc 40 năm tới, về mặt nhân khẩu học, trọng tâm của thế giới sẽ chuyển từ Châu Á sang Châu Phi, nơi mà dân số dự kiến sẽ tăng gấp đôi, một con số đáng kể. Cho nên, đúng là mức tăng dân số chậm lại ở Trung Quốc đang ảnh hưởng đến dân số toàn cầu. Nhưng ngày càng có nhiều quốc gia đang hoặc sẽ sớm trải qua tình trạng dân số có mức tăng trưởng âm.
Từ năm 1950 đến năm 2020, Trung Quốc đóng góp 16% vào mức tăng dân số thế giới. Và từ năm 2020 đến năm 2050, ngược lại, Trung Quốc sẽ góp phần làm chậm lại tốc độ tăng trưởng này (- 3%). Trong cùng thời gian đó, Ấn Độ sẽ đóng góp vào mức tăng với 13%, tiếp theo là Nigeria với 10%, sau đó là Pakistan và Cộng hòa Dân chủ Congo với 5% mỗi nước.
Delphine Roucaute : Có mối liên hệ nào giữa việc giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính do Trung Quốc thải ra và việc giảm dân số không ?
Isabelle Attané : Dân số Trung Quốc năm 2022 ít hơn khoảng 850.000 người so với năm 2021, tức là chỉ mới giảm 0,06%, vì vậy tôi không tin rằng đây chính là nguyên nhân làm giảm lượng khí thải nhà kính ở Trung Quốc, mà đúng hơn là nhờ các biện pháp kiểm soát ô nhiễm khá kiên quyết trong những năm gần đây. Đặc biệt, Trung Quốc đã rất phát triển rất mạnh các năng lượng tái tạo.
Delphine Roucaute
"La Chine est passée en dessous du seuil de renouvellement des générations au milieu des années 1990", Le Monde, 23/01/2023
Dân số giảm đe dọa triển vọng kinh tế, địa chính trị của Trung Quốc ?
Minh Anh, RFI, 17/01/2023
Trung Quốc có nguy cơ đối mặt với một cuộc khủng hoảng dân số : Lần đầu tiên từ hơn sáu thập niên qua, quốc gia đông dân nhất hành tinh này chứng kiến dân số bị suy giảm trong năm 2022, bất chấp việc nới lỏng chính sách hạn chế sinh con. Thách thức dân số này có nguy cơ đè nặng lên vị thế địa kinh tế - chính trị của nền kinh tế thứ hai thế giới trong tương lai.
Một phụ nữ có tuổi, đeo khẩu trang, đẩy xe trẻ em trong một công viên tại Bắc Kinh, Trung Quốc . Ảnh chụp ngày 14/10/2021. AP - Ng Han Guan
Theo thông báo của Cục Thống Kê Quốc Gia (BNS) được AFP trích dẫn, trong năm 2022, dân số Trung Quốc giảm 850 ngàn người. Cụ thể, số trẻ sinh ra trong năm qua là 9,56 triệu không đủ bù đắp cho con số 10,41 triệu ca tử vong được ghi nhận. Từ những năm 1960/1961, sau khi chấm dứt chính sách sai lầm "Bước Đại Nhảy Vọt" khiến hàng chục triệu người chết vì đói, dân số Trung Quốc đã tăng gấp đôi, đạt mức 1,4 tỷ người dân như hiện nay.
Thông báo của Cục Thống Kê Quốc Gia Trung Quốc có một tầm mức quan trọng, cho thấy rõ sự suy thoái dân số diễn ra sớm hơn dự báo. Năm 2019, Liên Hiệp Quốc dự phóng Trung Quốc sẽ chạm đỉnh dân số vào năm 2031-2032. Thế nhưng, theo các số liệu thống kê hiện nay, tỷ lệ sinh nở ở Trung Quốc giảm mạnh, chỉ còn 1,15 trẻ ở một phụ nữ trong năm 2021, kém xa so với ngưỡng đổi mới thế hệ là 2,1.
Ông Yi Fuxian, nhà nghiên cứu trường đại học Wisconsin-Madison, được báo Pháp Le Figaro trích dẫn, đánh giá Trung Quốc đang đối mặt với một "cuộc khủng hoảng dân số còn u ám hơn dự báo". Theo chuyên gia này, số liệu thống kê chính thức công bố còn thấp hơn so với thực tế, bởi vì dân số Trung Quốc đã bắt đầu giảm từ năm 2018.
Đâu là những hệ quả ?
Theo nhiều chuyên gia mà AFP có dịp trao đổi, "áp lực kinh tế quá lớn" là một trong số các nguyên nhân chính khiến những thế hệ trẻ sau này do dự trong chuyện sinh con. Chuyên gia về Dân số học Trung Quốc, Xiujian Peng, trường đại học Victoria (Úc) thì cho rằng đây còn là hệ quả của chính sách một con duy nhất, người dân Trung Quốc "đã quen với mô hình gia đình thu nhỏ".
Chỉ có điều, dân số giảm có nguy cơ nhấn chìm triển vọng kinh tế và địa chính trị của Trung Quốc. Dân số giảm và hiện tượng lão hóa dân số sẽ có những tác động đến nền kinh tế Trung Quốc từ đây đến năm 2100. "Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động giảm đồng nghĩa với chi phí lao động cao hơn" và điều đó "sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của Trung Quốc trên thị trường quốc tế", theo như phân tích từ nhà nghiên cứu Xiujian Peng.
Các nghiên cứu của chuyên gia này còn dự báo, nếu không tiến hành cải cách hưu trí, việc chi trả lương hưu của Trung Quốc trong năm 2100 sẽ chiếm đến 20% của GDP thay vì là 4% như trong năm 2020. Một quan điểm cũng được nhà nghiên cứu Chan Kung, Quỹ Anbound, một tổ chức tư vấn độc lập ở Bắc Kinh đồng chia sẻ. Lão hóa dân số sẽ kềm hãm sự năng động kinh tế và đe dọa nguồn tài chính các hộ gia đình, buộc phải dành dụm tiền để dự phòng các rủi ro trong tương lai hơn là chi tiêu thụ.
Số liệu thống kê u ám này còn đè nặng lên những triển vọng chiến lược của Bắc Kinh, đang lao vào một cuộc đọ sức dài hơi với Washington, trong bối cảnh những căng thẳng ngày càng lớn ở vùng Châu Á – Thái Bình Dương, cũng như là với đối thủ Ấn Độ trên dãy Himalaya.
Những con số này còn đặt ra một thách thức lớn cho ông Tập Cận Bình, luôn mơ ước hoàn thành "giấc mơ Trung Hoa" hồi sinh quốc gia, nhằm khẳng định tính chính đáng của Đảng cộng sản Trung Quốc, vốn dĩ dựa vào sự gia tăng dân số ngày càng lớn, khẳng định thế ưu việt của mô hình chính trị so với các nền dân chủ phương Tây.
Một số chuyên gia được Le Figaro trích dẫn cảnh báo, một mặt, tin xấu này có nguy cơ làm đảo lộn các dự phóng của giới kinh tế gia, theo đó, Trung Quốc sẽ sớm soán ngôi Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế hàng đầu thế giới trong thập niên sắp tới. Mặt khác, điều đó cũng có thể tác động đến cảm nhận của thế giới về Trung Quốc. Giới đầu tư quốc tế bắt đầu tự hỏi : Liệu có nên tiếp tục hiện diện lâu dài tại thị trường này hay không, vào lúc Ấn Độ được cho là sẽ chiếm lấy chiếc vương miện của Trung Quốc, trở thành quốc gia đông dân nhất hành tinh !
Minh Anh
***********************
Kinh tế tăng trưởng chậm, Bắc Kinh nới lỏng kiểm soát các công ty công nghệ tư nhân
Thùy Dương, RFI, 17/01/2023
Bắc Kinh hôm 17/01/2023 thông báo, tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 3% so với mục tăng trưởng 5,5% đề ra ban đầu. Đây là một trong những tỉ lệ tăng trưởng thấp nhất mà Trung Quốc từng ghi nhận tính từ 40 năm qua. Các biện pháp phòng chống dịch Covid/19 nghiêm ngặt và khủng hoảng bất động sản đã gây tác hại đến cả sản xuất và tiêu dùng tại đất nước 1,4 tỉ dân.
Logo ứng dụng của gã khổng lồ gọi xe Trung Quốc Didi được phản chiếu trên bản đồ điều hướng được hiển thị trên điện thoại di động trong bức ảnh minh họa này được chụp vào ngày 1 tháng 7 năm 2021. Reuters - Florence Lo
Trong bối cảnh kinh tế chững lại, hôm 16/01, có một dấu hiệu mới cho thấy chính quyền nới lỏng kiểm soát lĩnh vực tư nhân về công nghệ và số hóa tại Trung Quốc. Dường như chế độ Tập Cận Bình đang đặt cược vào lĩnh vực tư nhân để tái thiết kinh tế đất nước.
Tích Tích (Didi), đại tập đoàn chuyên về ứng dụng gọi xe, hôm qua thông báo đã được phép khôi phục tính năng đăng ký người dùng mới sau nhiều tháng bị Cơ quan điều phối an ninh mạng điều tra. Một số đại tập đoàn công nghệ số khác cũng đang hy vọng được chính quyền nới lỏng kiểm soát.
Từ Bắc Kinh, thông tín viên Stéphane Lagarde tường trình :
Hôm thứ Hai có nhiều người dùng mới đăng ký dịch vụ của Tích Tích (Didi). Sự cho phép này được rất nhiều người ngóng đợi, nhất là những người cho đến nay vẫn chưa thể tiếp cận được loại thuê xe có tài xế (VTC) và taxi và cả hai loại xe này hợp tác với Tích Tích, được xem là "Uber của Trung Quốc". Tích Tích Xuất Hành (Didi Chuxing), chiếm đến 90 % lượng đặt xe đối với thuê xe có tài xế tại Trung Quốc. Đà tăng của đại tập đoàn này đã phải ngưng lại sau khi có ý định lên sàn chứng khoán New-York.
Bởi vì một cuộc điều tra đã được mở hồi mùa hè năm 2021. Đại tập đoàn về dịch vụ gọi xe, có logo chữ D màu cam nằm ngang tạo hình nụ cười và được tất cả những ai sử dụng smartphone ở Trung Quốc biết đến, khi đó bị tố cáo không bảo vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng và thậm chí là gây tổn hại đến an ninh quốc gia. Mùa hè năm tiếp theo, Tích Tích đã bị phạt một khoản rất lớn. Công ty có trụ sở tại Bắc Kinh đã phải nộp phạt cho Nhà nước hơn 8 tỉ Nhân dân tệ, tương đương với 1 tỉ 160 triệu euro và phải tiến hành "điều chỉnh".
Việc chính quyền bật đèn xanh này cho phép công ty có thêm khách hàng mới, trong khi mới đây họ đã phải sa thải nhân viên trong bối cảnh tiêu dùng trong nước vẫn đình trệ.
Thùy Dương
Mất đi 50 % dân số, Trung Quốc có còn là công xưởng của thế giới với nguồn lao động dồi dào, là một thị trường có tiềm năng tiêu thụ cao ? Làm thế nào để một người đi làm đủ sức nuôi ít nhất hai miệng ăn tại một xã hội người già, trẻ nhỏ không thể trông vào trợ cấp xã hội ? Ý thức được "mối nguy âm ỉ" này, Bắc Kinh nới lỏng chính sách một con, khuyến khích người dân có 2, thậm chí 3 con. Nhưng liệu đã quá trễ ?
Dân Trung Quốc có trẻ thì mới là chủ lực lao động và đầu tàu tiêu thụ kéo kinh tế đi lên Peter Parks AFP
Một hôm trước ngày Quốc tế Thiếu nhi, Trung Quốc thông báo cho phép các hộ gia đình có tới ba con. Sáu năm trước đây, Bắc Kinh nới lỏng chính sách một con, với hy vọng khuyến khích phụ nữ sinh đẻ, để Trung Quốc tiếp tục là nước "đông dân nhất địa cầu", là thị trường hấp dẫn, xấp xỉ 1,5 tỷ. Đầu tháng 5/2021 sau nhiều tuần lễ chậm trễ, Trung Quốc cuối cùng thông báo kết quả điều tra dân số không mấy khả quan : chỉ có 12 triệu trẻ chào đời trong năm 2020, thay vì 14,6 triệu như trước đại dịch Covid-19. Ngay cả với hơn 14 triệu trẻ sơ sinh trong một năm, 2019 đã là năm mà tỷ lệ sinh đẻ rơi xuống mức thấp nhất kể từ khi Đảng cộng sản Trung Quốc lên cầm quyền năm 1949.
Mới chỉ vài tuần trước đây, Đảng cộng sản Trung Quốc đã bác bỏ thông tin dân số nước này đang "trên đà lão hóa". Nhưng rồi Tân Hoa Xã trích dẫn lời chủ tịch Tập Cận Bình ghi nhận : "Để đối phó với hiện tượng dân số đang già đi (…) một cặp vợ chồng được phép có ba con". Chính quyền còn cam kết là sẽ có "những biện pháp hỗ trợ" các gia đình theo hướng này. Theo các dự phóng, với đà này, đến năm 2030, một phần tư dân số Trung Quốc sẽ trong độ tuổi trên 65.
Phải chăng tình hình đã "nghiêm trọng" đến mức Bắc Kinh phải "vội vã" đưa ra giải pháp với hy vọng đảo ngược tình hình về dân số ? Trả lời đài RFI tiếng Pháp, Jean-François Di Meglio, giám đốc trung tâm nghiên cứu về Châu Á đương đại, Asia Centre phân tích :
"Trong mọi trường hợp, tình hình đã quá trễ. Về mặt dân số phải mất hàng chục năm, một chính sách mới mang lại kết quả. Hiện tại Trung Quốc đang trả giá cho chính sách một con được áp dụng từ năm 1979. Trong ba thập niên liền, chính sách đó không ảnh hưởng gì đến kinh tế, hay về mặt xã hội tại quốc gia này, vì trước khi có quyết định của ông Đặng Tiểu Bình, các gia đình Trung Quốc vẫn là những gia đình đông anh chị em. Đông miệng ăn nhưng cũng đông người làm việc, để tạo ra của cải cho đất nước. Nhờ vậy mà Trung Quốc mới là nơi có nhân công rẻ, mới được mệnh danh là công xưởng thế giới.
Nhưng với chính sách một con, tức là hai bố mẹ mới có một đứa con, bốn ông bà nội ngoại mới có một đứa cháu. Dân số Trung Quốc đương nhiên phải giảm đi và theo một nghiên cứu, đến khoảng năm 2100, dân số Trung Quốc sẽ chỉ còn có 600 triệu người, tức là chưa bằng một phân nửa so với hiện tại. Điều nguy hiểm ở đây là không một quốc gia nào trên thế giới lại sẽ phải đối mặt với hiện tượng dân số giảm sụt với tốc độ nhanh chóng như Trung Quốc và cũng không một nền kinh tế nào đột ngột mất đi một lực lượng lao động to lớn như Trung Quốc".
Cũng sau đợt điều tra dân số vừa qua, Trung Quốc đang "ngồi trên một quả bom nổ chậm" : năm 2020 vào lúc số trẻ chào đời giảm đi so với một năm trước đó thì tỷ lệ người già trên 60 tuổi lại tăng thêm : 264 triệu người Trung Quốc ở độ tuổi từ 60 trở lên, tương đương với 18,7 % dân số trên toàn quốc. Lớp tuổi từ 15 đến 59 tức là nguồn lực lao động chính, thì lại giảm đi mất gần 6,8 % so với một thập niên trước đó.
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Châu Á - Asia Centre, Jean-François Di Meglio, phân tích về mối đe dọa từ bên trong đang chờ đợi Trung Quốc :
"Nguy cơ ở đây là một sự lệ thuộc của những người già vào những người còn trong độ tuổi lao động. Tôi nói người già, nhưng thực ra ta phải tính luôn cả sự lệ thuộc của con trẻ vào cha mẹ chúng. Tức là một cặp vợ chồng trong tuổi lao động phải phụng dưỡng tứ thân phụ mẫu, nuôi dậy con trẻ, đóng học phí cho con cái. Mà ở Trung Quốc thì khoản chi tiêu dành cho giáo dục của con cái vô cùng đắt đỏ. Trong một thời gian nữa thôi, sẽ có vấn đề làm thế nào để tài trợ cho những phí tổn lo cho cha mẹ già và con cái, cho dù là người ta chỉ có một con ? Kế tới, thực tế cho thấy là người cao tuổi thường tiết kiệm tiền, những người còn đi làm mới là động lực tiêu thụ chính của đất nước. Khi dân số già đi thì sức tiêu thụ cũng sụt giảm".
Hãng tin Bloomberg hôm 01/06/2021 ví von : Bắc Kinh cứ lo Mỹ là một mối nguy hiểm đe dọa an ninh Trung Quốc. Thực ra, rủi ro bất ổn của nước đông dân nhất địa cầu này "xuất phát từ bên trong" khi mà đánh mất nguồn lao động, khi người già không năng nổ tiêu thụ, khi mà các biện pháp khuyến khích sinh đẻ không có tác dụng vì, đã hơn 40 năm qua, người dân quen sống với mô hình gia đình một con, khi các doanh nghiệp quốc tế không còn ảo tưởng về thị trường rộng lớn "gần một tỷ rưỡi miệng ăn" của Trung Quốc nữa. Vị trí siêu cường kinh tế thứ hai toàn cầu của ông khổng lồ Châu Á này liệu có bị đe dọa vì dân số sụt giảm ? Chuyên gia Di Meglio trả lời :
"Dân Trung Quốc luôn luôn thích nghi. Chúng ta không biết đó thôi chứ dân tộc này họ luôn tìm ra được những giải pháp. Để trả lời câu hỏi giảm dân số có đe dọa đến nền kinh tế thứ hai thế giới này hay không, câu trả lời sẽ là không trong một số điều kiện : nếu như năng suất của nước này tăng lên, có nghĩa là chỉ cần một người lao động cũng đủ sức sản xuất như hai hay ba đôi tay hiện tại. Kế tới, nếu như Trung Quốc cũng có chiến lược đầu tư ra hải ngoại rộng rãi như Nhật Bản chẳng hạn thì hiện tượng dân số bị lão hóa không tác hại đến cỗ máy sản xuất của nước này. Chúng ta thấy Nhật Bản đã có hẳn một chiến lược đầu tư ra nước ngoài, di dời cơ sở sản xuất sang những nước láng giềng Châu Á, sang cả Châu Âu và Mỹ… nhờ vậy vẫn bảo vệ được vị thế kinh tế thứ ba trên thế giới. Tại các nước công nghiệp phát triển, Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ liên tục di dời cơ sở sang những nơi có nguồn nhân lực dồi dào, để sản xuất với giá rẻ hơn… Trước mắt, Trung Quốc chưa có những bước chuẩn bị đó".
Câu hỏi kế tiếp là Bắc Kinh có thể làm được những gì để vẫn là quốc gia đông dân nhất địa cầu khi mà người dân Trung Quốc không muốn quay lại với mô hình gia đình đông con ? Theo thống kê chính thức biện pháp nới lỏng chính sách một con hồi 2015 không mấy hiệu quả : từ 2017 tới nay số trẻ sơ sinh liên tục giảm hàng năm. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Châu Á đương đại, Asia Centre giải thích :
"Hiện tượng đô thị hóa đi kèm với việc đời sống của người dân trở nên sung túc hơn : trung bình một người Trung Quốc ở thành phố có cơ hội trở nên giàu có đến mức mà để có được những điều kiện như vậy, ở những nơi khác, người ta phải mất đến cả một thế hệ. Đầu thập niên 1980 ông Đặng Tiều Bình từng đề ra mục tiêu mất 20 năm để nhân lên gấp bốn lần GDP cho mỗi đầu người. Khi đó bình quân thu nhập của người dân Trung Quốc là 200 đô la. Trung Quốc đã dễ dàng vượt qua mục tiêu đó. Hiện tại ở thành phố, thu nhập trung bình theo đầu người là gần 12.000 đô la một năm. Nhưng bên cạnh đó thì học phí cho con cái rất đắt đỏ, nhà cửa ở thành phố chật chội, nơi mà tấc đất, tấc vàng. Do vậy dù Bắc Kinh đã dẹp bỏ chính sách một con, nhưng không dễ để thuyết phục dân Trung Quốc sinh thêm con, ngay cả chuyện có thêm một đứa thứ nhì chứ chưa tính đến chuyện ba con".
Thông tín viên đài RFI Liu Zhifan tại Bắc Kinh ghi nhận đóng học phí cho con hàng tháng là cũng đủ để một phần lớn thu nhập của gia đình bốc hơi. Đó là chưa kể đến những sinh hoạt cho con em học thêm về sinh ngữ, học đàn hay chơi thể thao. Một giáo sư trường đại học Anh, King’s College ở Luân Đôn ghi nhận để khuyến khích phụ nữ sinh thêm con, Trung Quốc cần đẩy mạnh các khoản trợ cấp xã hội gia đình, vì hiện tại nền kinh tế số 2 thế giới chỉ dành chưa tới 0,4 % GDP cho khâu giữ trẻ, giải phóng cho các bậc cha mẹ đi làm. Bên cạnh đó còn phải tính đến chuyện giảm nhẹ gánh nặng đóng học phí hàng tháng cho con, em.
Theo quan điểm của chuyên gia Pháp, Jean-François Di Meglio trên đài RFI nhìn nhận tiền bạc là một chuyện nhưng quan trọng hơn nữa là về tâm lý xã hội, người dân Trung Quốc đã mất đi truyền thống của những gia đình đông con. Đó là thất bại của Đảng cộng sản Trung Quốc :
"Đời sống đắt đỏ là lý do đầu tiên, nhưng bên cạnh đó là cả mô hình gia đình trong xã hội Trung Quốc đã hoàn toàn thay đổi. Theo phong tục cổ truyền, người Trung Quốc có đông con. Ở vào đông thập niên 60, mỗi gia đình có khoảng 6 người con. Mỗi đứa trẻ có ông bà, cô, dì, chú, bác, anh em họ hàng… Với mô hình một con, người ta mất hết cả thói quen có gia đình đông vui, để chỉ còn hướng về Đảng. Đảng thay thế gia đình trở thành cột sống của mỗi công dân. Đó là cách để Đảng cộng sản Trung Quốc củng cố vai trò, để kiểm soát xã hội. Giờ đây khi nhận ra sai lầm, thì cũng lại Đảng khuyến khích dân chúng sinh thêm con để bảo đảm nguồn lao động cho đất nước. Vấn đề là chẳng con ai muốn có đông con nữa cả".
Bất chấp hiện tượng dân số bị lão hóa, Nhật Bản đã giữ được vị trí kinh tế thứ ba thế giới nhờ di dời cơ sở ra hải ngoại. Những nền công nghiệp già nua của Âu Mỹ thì khắc phục nhược điểm bằng chính sách đón nhận người lao động nước ngoài. Trước mắt, Trung Quốc chưa có chiến lược như Nhật Bản mà cũng không có sức thu hút người lao động ngoại quốc như Âu Mỹ. Dan Ten Kate của hãng Bloomberg kết luận để trở thành một siêu cường của thế giới, Trung Quốc cần hỗ trợ mỗi cá nhân trong số 1,4 tỷ công dân nước này.
Thanh Hà
Nguồn : RFI, 08/06/2021
Nhật báo Le Figaro ngày 05/05/2021 tiếp tục quan tâm tới Trung Quốc, dành toàn bộ trang quốc tế cho vấn đề đáng chú ý liên quan đến dân số của đất nước vẫn được coi là đông dân nhất thế giới.
Với tiêu đề "Cường Quốc Trung Hoa bị suy yếu vì dân số giảm", Le Figaro cho thấy việc dân số Trung Quốc giảm dự báo sẽ nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế-xã hội, có nguy cơ tác động xấu tới "giấc mơ Trung Hoa" của Tập Cận Bình. Bởi vậy mà chính quyền Bắc Kinh đang muốn che giấu con số chính thức của cuộc tổng điều tra dân số mới đây.
Theo tờ báo này, chính quyền Trung Quốc hứa hẹn ngày 10/04/2021, cho công bố kết quả tổng điều tra dân số thực hiện trong năm 2020, nhưng đến giờ vẫn không công bố số liệu chính thức nào. Điều này càng khẳng định giả thuyết lan truyền trên mạng xã hội cho rằng Trung Quốc đang trong tình trạng dân số sụt giảm, đất nước này chưa giàu đã già. Dưới sức ép của dư luận, cơ quan thống kê nói trên hôm 29/04/2021 đã phải ra thông cáo ngắn gọn rằng "dân số Trung Quốc tiếp tục tăng trong năm 2020". Trong khi đó nhật báo Anh Financial Times, trước đó một hôm, khẳng định dân số Trung Quốc bắt đầu giảm và già đi nhanh chóng giống như trường hợp các nước Nhật Bản hay Hàn Quốc. Hiện tượng này sẽ đặt ra hàng loạt thách thức xã hội-kinh tế đối với chế độ cộng sản.
Le Figaro trích dẫn các chuyên gia nghiên cứu dân số Trung Quốc ở nước ngoài khẳng định từ năm 2018, dân số Trung Quốc đã giảm dưới con số 1,28 tỷ người, chứ không phải là 1,4 tỷ như chính quyền vẫn đưa ra. Trung Quốc đã mất danh hiệu "đất nước đông dân nhất thế giới" từ năm 2013, xếp sau Ấn Độ (1,36 tỷ).
Theo Le Figaro, thực tế này kéo theo dân số Trung Quốc bị già đi. Từ năm 2000, số người trên 65 tuổi đã chiếm 14% dân số. Trong vòng 22 năm Trung Quốc đã gia nhập câu lạc bộ "các nước già". Đây là hệ quả của chính sách một con duy nhất mà Bắc Kinh áp đặt từ cuối những năm 1970 để tránh tình trạng bùng nổ dân số trong một đất nước Trung Quốc nghèo, chậm phát triển.
Những biến động dân số này không chỉ gây ra những hệ lụy về mặt kinh tế xã hội mà còn ảnh hưởng đến "giấc mơ Trung Hoa" của ông Tập Cận Bình, đến vị thế "công xưởng thế giới" và "thị trường lớn nhất thế giới". Le Figaro nhận định "việc dân số giảm sút không cưỡng lại được này là một thách thức lớn về địa chính trị, vào lúc mà Bắc Kinh đang nuôi tham vọng cường quốc thế giới dưới bóng của ông Tập Cận Bình".
Nhà nghiên cứu dân số Yi Fuxian thuộc đại học Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ nhận định : "Bằng các số liệu dân số sai, Trung Quốc đánh lừa các nước ngoài và các nhà đầu tư để tự biến mình từ con mèo ốm thành con sư tử đầy dũng mãnh".
Le Figaro nhận thấy, việc giảm dân số xuống dưới mức của Ấn Độ còn là một thách thức khá tế nhị về mặt đối nội, trong lúc mà Bắc Kinh đang chuẩn bị kỷ niệm rầm rộ 100 năm thành lập đảng cộng sản để khuếch trương tính ưu việt của chế độ cộng sản. Đó là lý do mà các quan chức của cơ quan thống kê quốc gia vẫn chậm trễ thông báo kết quả tổng điều tra dân số. Họ chờ chỉnh sửa để đưa ra con số "hợp lý".
Vẫn liên quan đến thời sự Châu Á, báo Le Monde chú ý tới Miến Điện, đất nước đang có những biến động chính trị lớn từ nhiều tháng qua sau cuộc đảo chính quân sự. Nhưng tờ báo đề cập đến việc giới quân sự Miến Điện đã được các tập đoàn lớn dầu khí Total của Pháp cung cấp tài chính ra sao ?
Theo các tài liệu mà Le Monde được tham khảo, tập đoàn Pháp đã thiết lập một hệ thống chia chác thu nhập với tập đoàn quân sự liên quan đến lợi nhuận từ khai thác khí đốt.
Theo tờ báo, từ khi nổ ra cuộc đảo chính quân sự hôm 01/02/2021 vừa qua, áp lực tăng mạnh đối với Total. Lý do là vì tập đoàn dầu khí Pháp từ năm 1998 khai thác một mỏ khí đốt ngoài khơi của Miến Điện. Các tài liệu cho thấy trong suốt nhiều năm qua, tập đoàn Pháp Total đã thỏa thuận chuyển hàng triệu đô la lợi nhuận từ khai thác khí đốt cho giới quân đội của Miến Điện qua các cách thức tinh vi và vòng vèo.
Giới đấu tranh vì dân chủ đã yêu cầu các tập đoàn nước ngoài, đặc biệt là Total của Pháp và Chevron của Mỹ ngừng các hoạt động để cắt đứt nguồn hỗ trợ tài chính cho tập đoàn quân sự.
Từ khi giới quân nhân làm đảo chính, Miến Điện chìm trong khủng hoảng chính trị và bạo lực trấn áp, vấn đề trừng phạt lại được đặt ra. Trong bài viết : "Trừng phạt và tẩy chay để làm chùn bước quân đội Miến Điện", Le Monde ghi nhận, "không có trừng phạt của Liên Hiệp Quốc do sự ngăn cản của Nga và Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh và Liên Hiệp Châu Âu đã áp dụng trở lại các trừng phạt nhằm vào cá nhân các tướng lĩnh và các tập đoàn do quân đội Miến Điện kiểm soát". Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hiệu quả của các trừng phạt đó. Tờ báo nhắc lại, đến tận năm 2016, quân đội Miến Điện vẫn sống sót với hàng loạt lệnh trừng phạt đó.
Theo giới phân tích, đòn trừng phạt của các nước phương Tây chỉ có giá trị tâm lý. Chuyên gia Thibault Bara, thuộc Trung tâm nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội cho Miến điện được Le Monde trích dẫn phân tích : "Mặc dù tình trạng nghèo đói và thất nghiệp bùng nổ, tâm trí người dân vẫn tập trung vào cuộc nội chiến. Mỗi thất bại, dù là tượng trưng của giới tướng lĩnh đều là là một thắng lợi của dân chúng, nó giúp họ kháng cự, giữ hy vọng bất chấp bị đàn áp thô bạo".
Khả năng trừng phạt để làm tập đoàn quân sự ở Miến Điện suy yếu là rất ít, khi mà rất nhiều công ty lớn, không chỉ có trường hợp Total mà còn hàng trăm công ty đã được tổ chức phi chính phủ Burma Campaign UK liệt kê có cộng tác chặt chẽ với tập đoàn quân sự. Trong đó có những tập đoàn Trung Quốc và cả của Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trở lại với nước Pháp với sự kiện được báo chí quan tâm đặc biệt là kỷ niệm 200 năm ngày mất của hoàng đế Napoléon Bonaparte, một trong những nhân vật biểu tượng của lịch sử Pháp, rất được ngưỡng mộ và cũng gây không ít tranh cãi.
Le Figaro quan tâm đặc biệt đến sự tham dự của tổng thống Pháp Emmanuel Macron vào hai sự kiện tưởng nhớ vị hoàng đế vĩ đại của nước Pháp diễn ra tại Paris trong ngày 05/05/2021 và ông Macron sẽ có bài phát biểu dài chừng nửa giờ đồng hồ. Đây là bài phát biểu được báo chí rất mong chờ. Chủ nhân điện Elysée sẽ phải cân nhắc cách nói sao cho vừa phải trong diễn văn tưởng nhớ đến một hoàng đế đã là một phần lịch sử của Pháp.
Tờ báo nhắc lại, Napoléon Bonaparte, không chỉ là một thiên tài quân sự mà ông còn để lại một di sản đồ sộ cho nước Pháp. Nói đến Napoléon là không thể không nhớ đến người đặt nền móng cho hầu như toàn bộ lĩnh vực đời sống xã hội, thể chế Nhà nước của Pháp, tồn tại đến tận bây giờ. Đó là người đã khai sinh ra từ bộ Luật Dân sự, bộ Luật Hình sự, Tòa phá án, Tham Chính Viện, lực lượng Hiến Binh, hệ thống trường trung học, Ngân hàng Trung ương Pháp, cơ cấu cơ quan hành chính cấp tỉnh, thành phố cho đến huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh và còn rất nhiều lĩnh vực, định chế xã hội khác vẫn hiện hữu ngày nay là nhờ công của Napoléon.
Thế nhưng đây cũng là vị hoàng đế Pháp vẫn còn gây nhiều tranh cãi và cả chỉ trích trong giới sử học và chính trị Pháp, nhất là việc ông là người tái lập chế độ nô lệ ở Pháp, mà đến nay vẫn nhiều người đánh giá là "có tội" dù Napoléon đã là tượng đài lịch sử của Pháp. Chính vì thế mà dư luận cho rằng, diễn văn của tổng thống nhân dịp kỷ niệm này phải có liều lượng câu chữ vừa phải sao cho không quá sa đà vào liệt kê công lao, đồng thời tránh không tỏ ăn năn về những sai lầm trong lịch sử của vị hoàng đế được cả thế giới gắn với hình ảnh của nước Pháp.
Thế mới thấy, Napoléon Bonaparte, một vị khai quốc công thần, định hình hầu như phần lớn nền tảng đời sống xã hội chính trị của nước Pháp, một thiên tài quân sự được cả thế giới thừa nhận và ngưỡng mộ. Người Pháp tự hào có hoàng đến Napoléon nhưng không chấp nhận sùng bái ông như thánh sống. Đơn giản ông cũng chỉ là con người, vẫn phạm sai lầm, ông cũng chỉ là một nhân vật lịch sử cần sự phán xét công bằng của lịch sử.
Phần cuối của mục điểm báo hôm nay xin được dành cho một thông tin khoa học, một tia hy vọng mới để thoát khỏi dịch Covid-19.
Le Figaro cho hay, "Pfizer đang thử nghiệm thuốc uống ngay khi có triệu chứng đầu tiên" nhiễm Covid-19. Sau thành công lớn với vac-xin ngừa Covid, tập đoàn dược phẩm Mỹ Pfizer tiếp tục tìm kiếm thuốc chữa Covid-19. Hiện nay tập đoàn đã tìm ra một chế phẩm dùng điều trị người bệnh ngay khi xuất hiện những triệu chứng nhiễm virus đầu tiên.
Các thử nghiệm giai đoạn đầu vừa được tiến hành trên người hồi tháng Ba. Khoảng sáu chục người tình nguyện đã được thử điều trị với các liều lượng khác nhau. Đây là giai đoạn không thể thiếu để tiếp tục các thử nghiệm lâm sàng chứng minh hiệu quả trị liệu của thuốc.
Mục đích của phân tử thuốc không phải là tiêu diệt virus mà ngăn chặn virus sinh sôi phát triển. Theo nhiều chuyên gia, loại thuốc trị liệu này của Pfizer có nhiều hứa hẹn thành công, tuy nhiên vẫn còn cần thời gian ít nhất một năm mới có thể bước vào triển khai bào chế thuốc, nếu các thử nghiệm cho kết quả tốt.
Anh Vũ