Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Lời người viết : Những ngày gần đây, hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cử nhiều phái đoàn cao cấp qua lại giữa hai nước nhằm chuẩn bị chuyến viếng thăm Việt Nam của Tập Cận Bình, đồng thời để trấn an Bắc Kinh về việc Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ, nội bộ và Úc những thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Trong thực tế lý do trên chỉ là bề mặt, lý do chính đây là thời điểm để hai nước Việt Nam và Trung Quốc hiện thực hóa những thỏa thuận đã ký kết qua những Tuyên bố chung giữa hai Đảng cộng sản trong những năm trước đó. Trong chuyến viếng thăm của ông Tập Cận Bình sắp tới, chắc chắn hai Đảng cộng sản sẽ ra một Tuyên bố chung cụ thể hóa những gì phải làm trong thời gian tới. Trước mắt là đề cao khái niệm Cộng đồng chia sẻ tương lai chung Việt Nam-Trung Quốc, kế là nâng cấp xây dựng những tuyến đường sắt Trung Quốc-Việt Nam, cụ thể là tuyến đường Côn Minh - Hải Phòng, và hợp tác chống tham nhũng. Không phải tình cờ Trung Quốc đề nghi nâng cấp tuyến đường sắt này, vì đoạn đường này chạy qua khu vực có nhiều khoáng chất "đất hiếm", đúng như Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang do phía Trung Quốc thực hiện. Cũng không phải tình cờ Trung Quốc tự nguyện hợp tác với Việt Nam hay Việt Nam mời hợp tác chống tham nhũng. Lý do của sự hợp tác này rất đơn giản : phía Trung Quốc không muốn tiến hành xây dựng hạ tầng cơ sở tại Việt Nam qua trung gian những quan chức địa phương, vì số tiền lại quả quá cao do đó sẽ đội vốn (vốn đã cao hơn giá thị trường quốc tế) gây bất mãn trong dư luận quần chúng Việt Nam. Nếu theo dõi kỹ, những quan chức tham nhũng bị truy tố và đang ngồi tù đều liên quan không nhiều thì ít tới những dự án đầu tư của Trung Quốc, từ quốc phòng, dầu khí, năng lượng, xây dựng hạ tầng cơ sở đến thuốc men, vật tư, giao thông vận tải, v.v.

Để tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa và những hậu quả cận kề của sự bối rối của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, chúng tôi cho đăng lại một bài nghiên cứu cách đây không lâu (20/6/2019) về quan hệ và sự liên đới phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Đảng cộng sản Trung Quốc trong những ngày đã qua và trong những ngày sắp tới. Mục đích của loạt bài viết này chỉ nhằm cung cấp cho quý độc giả những tư liệu và chứng từ do hai Đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức công bố và những dự án đã và đang làm, để tự mỗi độc giả đánh giá và kết luận. (NVH)

vntq1

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngày 01/12/2023

************************

Hậu Thành Đô 3 - Trung Quốc muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 3

Muốn làm chủ luôn cả miền Nam Việt Nam

Triển khai chiến lược Sáng kiến Vòng Đai Con Đường của Tập Cận Bình trên toàn cõi Việt Nam

Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được ký kết từ năm 2000 trở lại đây, mốc năm 2020 đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ để mở ra một chu kỳ mới trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nhà nước cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.

Nhìn lại những gì mà phía Trung Quốc đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong suốt 20 năm qua, người Việt có lý do để lo âu về số phận và tương lai của dân tộc và đất nước.

dacquyen1

Ba đặc khu kinh tế Vân Đồn - Bắc Vân Phong và Phú Quốc - Ảnh minh họa

Tổng quát những thực hiện từ năm 2000 đến nay

1. Phía Trung Quốc

Đối với Bắc Kinh, chiến lược xây dựng "hai hành lang, một vành đai kinh tế" trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam coi như hoàn tất. Những mục tiêu mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đặt ra cho Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đúng theo những lộ trình được ghi trong từng giai đoạn của những Tuyên bố chung và Thông cáo chung.

1.1. "Hai hành lang, một vành đai kinh tế"

- Hai tuyến đường bộ và đường sắt, gọi là hành lang kinh tế : Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng đều đã hoàn tất đúng như dự định và đã đi vào hoạt động.

- Vành đai kinh tế trong Vịnh bộ, từ Móng Cái tới Đà Nẵng, đã được tăng cường và củng cố : không nơi nào, không một sinh hoạt kinh tế và dịch vụ nào dọc vùng duyên hải miền Bắc không có bóng dáng người Trung Quốc. Công ty và cơ sở kinh doanh do người Trung Quốc làm chủ mọc lên như nấm và ngày càng lấn át sinh hoạt kinh tế của những cư dân bản địa như buôn bán sỉ và lẽ, nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi heo gà công nghiệp, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng ăn uống, giải trí, kể cả buôn lậu ma túy và thú quí hiếm.

1.2. Vịnh Bắc bộ, nỗi ám ảnh về an ninh quốc phòng của Bắc Kinh, ngày nay đã được giải quyết.

Sau những thỏa thuận với Đảng cộng sản Việt Nam, Vịnh Bắc bộ đã hầu như trở thành ao nhà của Trung Quốc. Trong suốt 20 năm qua, phía Trung Quốc không ngừng tu chỉnh, sửa đổi nội dung những thỏa thuận về hợp tác cùng phát triển, khảo sát chung, tuần tra chung, tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau. Quan trọng nhất là qua "Thỏa thuận (nhiều lần sửa đổi) giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam-PVN) và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation - CNOOC) liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ", Hải quân Trung Quốc đã hoàn tất việc đo đạc và thiết đặt hệ thống phòng thủ toàn diện trên và dưới mặt biển Vịnh Bắc bộ. Tất cả mọi ra vào Vịnh Bắc bộ của tàu thuyền quốc tế đều phải xin phép Trung Quốc. Cũng nên lưu ý là tàu chiến quốc tế muốn đến thăm Việt Nam chỉ ghé các hải cảng từ Đà Nẵng trở xuống.

1.3. Một toại nguyện khác là an ninh lãnh thổ phía đông-nam của Trung Quốc đã được củng cố : khu vực trái đệm từ Việt Nam đến Myanmar không những đã được thành lập mà còn kết hợp với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc ở vùng biên giới phía nam để thành một tổng thể mới (hiện chưa có anh xưng chính thức).

Từ sau khi trở thành cường quốc kinh tế số 2 trên thế giới, các cấp lãnh đạo Trung Quốc muốn phục hồi lại hào quang và sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự của thời nha Minh trong quá khứ, đặc biệt là phục hồi lại những lãnh thổ đã mất dưới thời nhà Thanh trong thế kỷ 19.

Đối với người Hán, những sắc dân và lãnh thổ vùng cực nam của Trung Quốc trước kia là những thuộc man và thuộc quốc thần phục Thiên triều phương Bắc. Ngày nay, khi sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự đã được phục hồi, việc lôi kéo những sắc dân sinh sống dọc vùng biên giới phía nam về lại mẫu quốc là lẽ tự nhiên.

Tại Việt Nam, Bắc Kinh đang tiến hành khôi phục lại khu tự trị biên giới giữa hai nước, gồm 7 tỉnh của Việt Nam : Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc : Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam và lấy đồng nhân dân tệ là kim bản vị trao đổi chính thức.

Khu tự trị này một cách gián tiếp vô hiệu hóa mọi cố gắng phân định và cắm mốc biên giới của Việt Nam, Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 31/12/1999 do đó cũng mất hết nội dung.

2. Phía Việt Nam

Một cách khách quan, sau 20 năm thực hiện những thỏa thuận giữa hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc, mức sống của người dân Việt Nam tại miền Bắc đã được nâng cao so với trước năm 1990, nhiều ngành nghề thu hút đông đảo nhân công phát triển mạnh như may mặc công nghiệp, sản xuất giầy dép, du lịch, nuôi trồng thủy hải sản, chế biến thủy sản…

Danh xưng "cửu vạn" biến mất trong sinh hoạt qua lại biên giới. Vết tích chiến tranh biên giới 1979 đã gần như bị xóa bỏ trong các tỉnh, thành phố bị hư hại trong cuộc chiến như Cao Bằng, Lạng Sơn, Vị Xuyên.

Trung Quốc đã góp phần chính trong việc thay đổi bộ mặt miền Bắc Việt Nam để có dáng bề ngoài phát triển : nhà cửa ẩm mốc và rêu phong trước năm 1990 đã được thay thế bằng những ngôi nhà khang trang bằng vật liệu cứng, nhiều nhà cao tầng đã được xây dựng hàng loạt dọc theo các trục giao thông rộng rãi, hàng quán đông người, hàng hóa sung túc, đông người mua sắm... Người và hàng hóa được vận chuyển nhanh chóng trên các tuyến đường bộ và đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn, Móng Cái - Hạ Long, Lạng Sơn - Hà Nội. Trong nội thành Hà Nội, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đang đi vào hoạt động.

Sự sung túc này không phải do dân cư miền Bắc tạo ra, mà do Đảng cộng sản Việt Nam mượn bàn tay của Trung Quốc thực hiện, qua trung gian những thỏa thuận đã ký như được công bố trong những Tuyên bố chung.

Trong hàng trăm hải đảo dọc vùng duyên hải miền Bắc, đời sống người dân cũng đã có phần khác trước nhờ dịch vụ buôn bán, nuôi trồng thủy hải sản, du lịch khách sạn và ăn uống.

Một hiện tượng khá phổ biến là không nơi nào không có bóng dáng người Trung Quốc, dưới hình thức thương nhân, ngư dân hay khách du lịch. Chỉ riêng tỉnh Quảng Ninh thôi, sinh hoạt của người Trung Quốc đã gần như áp đảo trong thành phố Móng Cái và 49 đảo trực thuộc tỉnh. Người Trung Quốc sống tập trung trong vịnh Bái Tử Long, đặc biệt là huyện Vân Đồn, nơi có Đặc khu kinh tế Vân Đồn. Xa hơn ngoài khơi thành phố Hải Phòng, người Trung Quốc đang xây dựng những khu nghỉ dưỡng trên các đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Dậu và quần đảo Long Châu. Tàu thuyền vận tài và đánh cá Trung Quốc lưu hành đông nghẹt trong Vịnh Bắc bộ và ven duyên Móng Cái - Hải Phòng.

Khống chế được những đảo lớn của Việt Nam ngoài khơi Vịnh Bắc bộ này, phía Trung Quốc coi như nắm giữ mọi cửa ngỏ ra vào Vịnh Bắc bộ nói chung và vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam nói riêng.

Chi tiết thực hiện những thỏa thuận trong từng lãnh vực

Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được công bố, sau 20 năm thực hiện, hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc đã đạt một số thành quả như sau.

1. Cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước

1.1. Thắt chặt quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai Đảng :

- Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc qua các giai đoạn từ 2011 đến 2015 và kế tiếp đã được thực hiện có hiệu quả ;

- Các cuộc trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước ; các cuộc Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước đã được tăng cường và tổ chức tốt ;

- Công tác hợp tác đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền đã được mở rộng đến mọi cấp đảng ủy ;

- Các cuộc gặp gỡ cấp Trưởng ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban Tuyên truyền hai Đảng đã được tổ chức vào những thời điểm thích hợp ;

- Các cuộc giao lưu giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc đã thường xuyên hơn để thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị tích cực ;

- Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc quy hoạch tổng thể và thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên các lĩnh vực được hai bên nhất trí : kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục ;

- Thành lập các Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.

- Trung Quốc giúp Việt Nam đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ; thành lập cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…

1.2. Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai quân đội :

- Các cuộc tiếp xúc lãnh đạo cấp cao giữa quân đội hai nước đã được tăng cường cùng với việc thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước ;

- Các cuộc Đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng quốc phòng vẫn được tiếp tục ;

- Phía Trung Quốc nhận tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ Việt Nam ;

- Nhiều thí điểm tuần tra chung trên biên giới đất liền đã được triển khai vào thời điểm thích hợp ;

- Hải quân hai nước tăng cường hợp tác trong các mặt như tổ chức tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau.

1.3. Quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh : chuyên gia pháp luật Trung Quốc cố vấn Bộ Công an và an ninh Việt Nam soạn thảo các dự luật an ninh viễn thông (Luật An ninh mạng được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/2018), một số luật trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu mới như lừa đảo viễn thông và sắp tới đây giúp trang bị hệ thống theo dõi định hình công dân trên khắp các thành phố lớn. 

1.4. Về ngoại giao, phía Việt Nam chính thức cam kết :

- ủng hộ lập trường của Bắc Kinh : chỉ có một nước Trung Quốc và không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan ;

- thực hiện "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" ;

- sử dụng các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, thương mại, công an, an ninh, báo chí của hai nước và Ban Đối ngoại trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng…

2. Trên đất liền

Chiến lược củng cố khu vực biên giới phía Nam của Trung Quốc được Bắc Kinh tiến hành với ba nước ASEAN : Việt Nam, Lào và Myanmar. Tại mỗi quốc gia, Bắc Kinh thi hành cùng một chính sách : khuyến khích hình thành một vùng trái độn, gọi là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới", gồm các tỉnh biên giới của quốc gia sở tại với bốn tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc : Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Châu và Hải Nam. Với Việt Nam chính sách này mang tên "hai hành lang, một vành đai", theo đó :

2.1. Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung là cơ chế thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, như :

- tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới ;

- tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương : thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới.

2.2. Hai bên đồng ý về phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới và thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng một cách và thiết thực :

- Trung Quốc giúp xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới và tích cực khuyến khích giới đầu tư Trung Quốc vào hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam ;

- xây dựng và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép (Thái Nguyên, VnSteel, Hòa Phát…) và phân đạm (Ninh Bình, Hà Bắc, VinaChem…) do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam ;

- thúc đẩy hợp tác trong các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v.

2.2. Phía Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và phía Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Phía Việt Nam tạo thuận lợi để Trung Quốc thành lập Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng, bù lại phía Việt Nam được quyền thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại tại Hàng Châu.

Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà thầu và nhà đầu tư tư nhân Trung Quốc. Phía Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.

Đáng lo ngại nhất là, bất chấp khả năng sản xuất của Việt Nam, phía Trung Quốc sửa đổi "Hiệp định thương mại biên giới Việt - Trung", thúc đẩy thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017. Chỉ tiêu này buộc phía Việt Nam phải nhập siêu và nợ Trung Quốc ngày càng nhiều hơn.

2.3. Về văn hóa, giáo dục và du lịch :

- "Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015" cho phép nhân rộng số lượng lưu học sinh Việt Nam sang Trung Quốc học tập.

- Hai nước đã tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, như Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc ; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân ; phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

- Ban tuyên giáo Việt Nam tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.

- Phía Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung hữu nghị Việt - Trung vào năm 2017, thành lập Trung tâm văn hóa và vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.

- Hai nước đã ký "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc" và "Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân" ; giao cho Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung quyền quyết định xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước, đặc biệt là tăng cường sự hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước…

3. Trong Vịnh Bắc bộ

3.1. Vịnh Bắc bộ là vùng biển chiến lược :

Trong hơn 10 Tuyên bố chung và Thông cáo chung, không lần nào Vịnh Bắc bộ bị quên nhắc tới. Đối với Trung Quốc, Vịnh Bắc bộ chính là trọng tâm của sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng và hai nước trong khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai", vì đó là hậu cứ chiến lược bảo vệ "Vành đai và Con đường" do Tập Cận Bình phát động từ năm 2013 và chính thức thực hiện từ năm 2015.

Cũng nên biết, Vịnh Bắc bộ là nơi được Trung Quốc chọn để xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược (phía tây đảo Hải Nam). Nỗi lo lắng của Bắc Kinh là Việt Nam, nếu không thuyết phục được Hà Nội trong việc phân chia quyền lợi hay quyền lực trong vùng, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc trên Biển Đông có thể sẽ bị đe dọa vì Vịnh Bắc bộ là cửa ngỏ ra vào của tàu thuyền Trung Quốc, dân sự cũng như quân sự.

3.2. Nội dung những thỏa thuận :

Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" :

- kiểm tra và điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung , tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ ;

- thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ;

- tiếp tục đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (tức ngoài khơi Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa) và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này ;

- thực hiện các Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ ; nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.

Những hậu ý của Đảng cộng sản Trung Quốc

1. Về những thỏa thuận trên đất liền

Hiện nay có bao nhiêu người biết được việc chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô - Động Trung để làm gì ? Có bao nhiêu người biết nội dung "Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" phân chia quyền lợi như thế nào ? Có ai hiểu được hậu ý sâu xa của việc ký kết "Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa sông Bắc Luân", việc xây dựng các cầu qua lại biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu ? Có ai biết có bao nhiêu người Trung Quốc đã sang Việt Nam mua nhà và định cư ?...

Có ai biết lý do nào Đảng cộng sản Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng "bản tệ" (ngôn từ do chính phía Việt Nam sử dụng, nghĩa là lấy đồng nhân dân tệ làm đồng tiền địa phương) ?... Có ai biết việc ký kết "Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới" giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003 không qua Quốc hội là vi hiến, đe dọa sự độc lập tài chính của Việt Nam ?

Có bao nhiêu người biết Khu công nghiệp An Dương ở Hải Phòng đi vào hoạt động từ lúc nào, sản xuất cái gì và ai được vào khu này đầu tư khai thác ?

Có ai biết Cung hữu nghị Việt - Trung được xây dựng trên khu đất rộng 14.000 m2, với một tổng đầu tư gần 800 tỷ đồng, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khánh thành hôm 12/11/2017 với mục đích gì ?

Có ai biết dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn đã ngốn bao nhiêu tiền ngân sách, Việt Nam đã vay mượn của Trung Quốc bao nhiêu tiền và bao nhiêu công nhân Việt Nam được quyền tham gia vào những công trình xây dựng này ?

Có ai hiểu tại sao chỉ những công ty và xí nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu như tất cả những đại dự án và công trình xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn miền Bắc Việt Nam ?

Có ai biết trong suốt gần 10 năm đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng (27/06/2006 – 7/4/2016), ông Nguyễn Tấn Dũng đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc và bao nhiêu công ty Trung Quốc đã vào Việt Nam xây dựng cơ sở ?

Và đáng lo âu nhất là có ai biết bao nhiêu đảng viên cấp chính ủy đảng bộ trung ương và địa phương, cấp ủy đảng bộ quân đội, công an, an ninh, sĩ quan cao cấp trong các binh chủng đã được đưa sang Trung Quốc đào tạo về chính trị và đường lối hợp tác ? Có ai biết sau khi về lại Việt Nam những người này đã nắm những chức vụ gì trong những cơ quan và guồng máy đảng, chính quyền, quân đội và công an ? Mỗi năm có bao nhiêu sĩ quan trẻ trong các binh chủng, bao nhiêu thanh niên ưu tú của Việt Nam đã được sang Trung Quốc đào tạo ?

Để trả lời, sau những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc, chỉ riêng một quyết định về đất đai do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21/08/2006, số 1107/QĐ-TTg, dưới tên gọi "Quy hoạch phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020", Việt Nam đã cho phép những người nước ngoài có quyền sử dụng một diện tích đất tổng cộng gần 32.400 ha, trong đó : Danh mục 1 gồm 117 khu công nghiệp (26.823 ha) dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và Danh mục 1 với 27 khu công nghiệp (5.560 ha) dự kiến mở rộng để đầu tư và xây dựng cơ sở. Các danh mục này không bao gồm các khu công nghiệp thuộc các khu kinh tế đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chung từ trước. Đây là một trong những cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Trung Quốc tràn vào Việt Nam chọn những vùng đất tốt để đầu tư và cho tham nhũng bất động sản trong nước hối mại quyền thế để ăn chia.

2. Về những thỏa thuận trong và ngoài Vịnh Bắc bộ

2.1. Trong Vịnh Bắc bộ :

Trong những Tuyên bố chung, phía Trung Quốc không ngừng nhắc nhở phía Việt Nam phải thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".

Không chỉ riêng về nghề cá (giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác nghề cá), phía Trung Quốc còn gợi ý thực hiện "Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung, phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ; bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Vịnh Bắc Bộ.

Hậu ý của những đề nghị này đã quá rõ ràng :

- Nguồn cá trong Vịnh chắc chắn không còn nhiều vì tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc được trang bị hiện đại hơn đã đánh bắt cạn kiệt, chỉ còn lý do nguồn dầu khí. Nhưng theo những khảo sát gần đây nhất, trữ lượng dầu khí dưới Vịnh Bắc bộ là không đáng kể (1), như vậy chỉ còn lý do quân sự.

- Về quân sự, lo âu của Trung Quốc là dưới lòng biển. Căn cứ tàu ngầm chiến lược của Trung Quốc nằm trong Vịnh Bắc bộ, đúng hơn là trong vịnh Bắc Hải-Thanh Bình, tỉnh Quảng Đông, chứ không phải ở đảo Hải Nam như đồn đoán. Với thỏa thuận cùng khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang Vịnh Bắc bộ, hải quân Trung Quốc có quyền tiến sát vào vùng bờ biển Việt Nam đặt cáp (cable) ngầm dưới dáy biển để phát hiện sự qua lại của tàu thuyền và tàu ngầm, đồng thời cũng để phát hiện thủy lôi của kẻ thù có thể lẻn đặt vào vùng biển này.

Để trấn an phía Việt Nam, Bắc Kinh gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung. Trong năm 2013, Trung Quốc thực hiện ba dự án tưởng như vô thưởng vô phạt, đó là Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc và Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ. Riêng dự án thứ ba, thoạt nghe tưởng như không quan trọng, là Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang (chữ Holocene cũng bị viết sai cả lỗi chính tả). Thật ra, nghiên cứu lớp trầm tích dưới lòng đất chỉ là lý cớ, lý do ngoài mặt là dò tìm nguồn khí đốt dưới lòng đất Việt Nam, lý do thật là dò tìm những loại "đất hiếm" (vì Việt Nam đã giao cho một công ty Canada quyền khai thác đất hiếm tại Lai Châu), đó là chưa kể khả năng xây dựng một tuyến phòng thủ quân sự giữa sông Trường Giang (Trung Quốc) và sông Hồng Hà (Việt Nam) khi có chiến tranh.

2.2. Ngoài khơi Biển Đông :

Năm 2013, trong một Tuyên bố chung, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đồng ý : "Khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước (PVN và CNOOC), nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực". 

Còn giải thích gì nữa ? Chính cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng ý cùng nhau dò tìm và khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi cửa Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc, tức là ngoài khơi các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa trên Biển Đông. Vụ giàn khoan dầu HD-981 hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc bộ từ ngày 1/5 đến 16/7/2014 gây xôn xao trong dư luận là một thử nghiêm của Trung Quốc đối với cam kết từ phía Việt Nam ; Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam hoàn toàn im lặng trong suốt thời gian này, những phản ứng của dư luận Việt Nam chỉ là cơn bão trong ly nước. Xâu chuỗi lại những sự kiện xảy ra ngoài khơi Hoàng Sa từ năm 2014 đến nay, các loại tàu thuyền quân sự cũng như dân sự của Trung Quốc tấn công liên tục tàu cá Việt Nam "xâm phạm hải phận" của họ mà không hề gặp phản ứng mạnh nào từ phía Việt Nam, ngoài những lời lên án bâng quơ và quen thuộc của người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Trong những ngày sắp tới, khi thời tiết trên Biển Đông ổn định, Bắc Kinh sẽ còn cho nhiều tàu thuyền thăm dò địa chất khác tiến sâu và tiến sát vào vùng biển độc quyền kinh tế của Việt Nam dò tìm và đo đạc. Những sự kiện này phù hợp với thỏa thuận duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên giữa hai Đảng về vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, từ tầm cao chính trị và chiến lược, kịp thời chỉ đạo xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển để bảo vệ đại cục.

Nhiều câu hỏi được đặt ra là Việt Nam đang chơi trò gì khi ủng hộ tự do hàng hải ngoài khơi Biển Đông, mời tàu chiến quốc tế đến thăm Việt Nam, mua vũ khí của Mỹ, hợp tác quân sự với Nhật Bản và Ấn Độ ? Gián diệp nhị trùng hay là chỉ giản dị là trung gian mua vũ khí của Mỹ và phương Tây để giao lại cho Trung Quốc mỗ xẻ ?

3. Về những thỏa thuận thành lập Khu tự trị vùng biên giới mở rộng

Việc tăng cường hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam đã được chuẩn bị từ năm 2000, ngay sau khi ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền với Việt Nam năm 1999, nhưng chỉ chính thức được đề cập đến trong Tuyên bố chung ngày 21/06/2013. Đây là một chủ trương lớn của Trung Quốc để củng cố an ninh vùng biên giới phía nam và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc đến 3 quốc gia ASEAN liên quan : Việt Nam, Lào và Myanmar. Trong hợp tác này, Việt Nam là đối tác quan trọng nhất về diện tích đất và dân cư, dưới tên gọi mới là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc".

dacquyen2

Hội nghị lần thứ 9 Ủy ban Công tác Liên hợp giữa 4 tỉnh biên giới của Việt Nam và Khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc)

Theo Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước, việc điều hành định chế hành chính mới này sẽ do Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới phụ trách. Phía Việt Nam cung cấp mặt bằng, phía Trung Quốc đảm nhiệm công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cơ quan hành chính và thương mại địa phương nhằm thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển, cụ thể là hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…

Các khu hợp tác kinh tế qua biên giới này làm nhớ lại Khu tự trị Thái-Mèo (1955-1962), những quan lại địa phương tự quyền ký kết những văn kiện xin sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Không hiểu bị thúc đẩy bởi động cơ nào mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay lại chấp nhận những thỏa thuận như loại này, một hình thức tái lập tình trạng sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh, mỗi thủ lãnh địa phương là một lãnh chúa độc lập với trung ương. Có thể nói đây là một hình thức sang nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước cho Trung Quốc, nếu không muốn nói là một hành động bán nước có chủ trương.

Một thí dụ cụ thể là ngày 22/03/2019, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tổ chức đăng cai Chương trình gặp mặt đầu xuân năm 2019 và Hội nghị lần thứ 10 Ủy ban công tác liên hợp giữa bốn tỉnh biên giới Việt Nam là Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn và Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) lần thứ tư. Tại hội nghị, "hai bên nhất trí" (tức hai cấp lãnh đạo địa phương chứ không phải trung ương) tiếp tục tăng cường hợp tác, giao lưu hữu nghị ; đi sâu hợp tác thiết thực các lĩnh vực trọng điểm ; tăng cường giao lưu hợp tác các cấp ủy đảng và đơn vị trực thuộc của các bên ; tăng cường giao lưu đối ngoại nhân dân để củng cố nền tảng hữu nghị và tăng cường hợp tác quản lý biên giới, cùng xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị. Ðồng thời (nên lưu ý) bốn tỉnh biên giới của Việt Nam cũng ký kết 7 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Hai bên nhất trí duy trì cuộc gặp mặt đầu xuân trở thành hoạt động hằng năm ; duy trì các cơ chế giao lưu, hợp tác hiện có, tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu, trao đổi đoàn các cấp, thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn... (2).

Cho tới nay (tháng 6/2019) không ai biết phía Trung Quốc đã và đang xây dựng những gì trên toàn lãnh thổ miền Bắc. Chỉ sau khi xảy ra sự cố, dư luận trong nước mới hay biết sự thật. Thí dụ như vào cuối tháng 11/2018, báo Soha.vn loan tin "Trung đoàn 921 về Yên Bái : Su-22 đoàn Không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc" (3), dư luận trong nước mới giật mình khám phá an ninh khu vực biên giới phía Bắc đang bị đe dọa. Rồi nếu không có phát biểu của Thiếu tướng Sùng Thìn Cò, Phó tư lệnh quân khu 2, tại diễn đàn Quốc hội ngày 30/05/2019 lên tiếng báo động : "Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm" (4), không ai hay biết nạn ô nhiễm môi trường trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc do nước thải độc hại từ các khu công nghiệp, chế xuất… của Trung Quốc đổ vào các sông suối xuyên biên giới chảy về Việt Nam đã nguy ngập đến dường nào. Đó là chưa kể Việt Nam đã cùng Trung Quốc thác Bản Giốc từ một vài năm trở lại đây.

Nhìn chung, quyền lãnh đạo 7 tỉnh khu vực biên giới phía Bắc đang vuột khỏi tầm tay của Đảng cộng sản Việt Nam. Nỗi lo của 20 cựu sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014 và 97 triệu dân Việt Nam là có cơ sở : Đảng cộng sản Việt Nam đang tự nguyện hiến 7 tỉnh biên giới Việt Nam thành một khu tự trị của Trung Quốc "như Nội Mông, Tây Tạng hay Quảng Tây". Nếu vì bất cứ một lý do nào, bị xúi giục hay tự nguyện, dân cư trong 7 tỉnh này xuống đường yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý xin sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, phản ứng của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ ra sao ? (Việc Quốc hội Việt Nam trì hoãn Luật biểu tình không phải vì lo sợ sự chống đối của giới đối lập và nghiệp đoàn mà vì lo sợ những cuộc biểu tình của dân cư 7 tỉnh biên giới phía Bắc).

Cũng theo dự phóng này, cố vấn Trung Quốc trong các Nhóm công tác biên giới đang xúc tiến ráo riết để trong một tương lai không xa hội nhập các tỉnh biên giới của Việt Nam, Lào và Myanmar vào các tỉnh biên giới phía nam của Trung Quốc. Nhiều giả thuyết cho rằng Quảng Ninh có thể sẽ hội nhập vào tỉnh Quảng Đông hay Hải Nam, 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang vào tỉnh Quảng Tây, trong khi 3 tỉnh còn lại là Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên sẽ cùng với 3 tỉnh biên giới của Lào là Phongsali, Udongsai, Luangnamtha và bang Kachin của Myanmar sẽ cùng hội nhập vào tỉnh Vân Nam.

Qua chủ trương kết hợp những tỉnh biên giới Việt Nam và Trung Quốc, chỉ tốn vài chục tỷ USD, Trung Quốc có thể thu tóm những vùng lãnh thổ chiến lược và kinh tế rộng lớn nhất và tốt nhất của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Cột mốc năm 2020 đang lừng thừng đi tới…

Động cơ và hệ lụy của những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc

Ai là thủ phạm trong việc chuyển nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước ?

Chắc chắn không phải là Trung Quốc. Phía Trung Quốc không có gì để giấu, tất cả những việc gì họ muốn, đã đang và sẽ làm ở Việt Nam đều công khai và tuân hành đúng theo luật pháp và cách tổ chức của chế độ cộng sản Việt Nam, nghĩa là Đảng cộng sản quyết định, Quốc hội hợp thức hóa bằng luật pháp, Chính phủ thi hành. Phía Trung Quốc chỉ thực hiện đúng những gì họ đã hứa, đã ký và công bố.

Chính Đảng cộng sản Việt Nam mới là thủ phạm chuyển nhượng chủ quyền đất nước cho Trung Quốc qua việc ký kết những thỏa thuận với Trung Quốc trong âm thầm và không muốn dư luận trong nước, kể cả trong Đảng biết.

Nhưng tại sao Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại dễ dàng ký kết những thỏa thuận có thể dẫn đến mất chủ quyền và bất lợi cho Việt Nam ?

Có nhiều lý do để giải thích :

- Vì lo sợ mất địa vị lãnh đạo, do đó phải nhờ Trung Quốc bảo hộ. Mất quyền lãnh đạo là mất tất cả : địa vị, quyền thế và bỗng lộc do địa vị mang lại ; đáng lo nhất là mất tính mạng do trả thù báo oán.

- Vì tưởng có thể lợi dụng được sự giúp đỡ của Trung Quốc để phát triển (không cần phải bỏ công và bỏ của cũng vẫn có bộ mặt phát triển như thiên hạ), qua đó tranh thủ được niềm tin đảng viên và sự kính phục của dân chúng.

- Vì tưởng nhượng bộ và chiều lòng Trung Quốc thì sẽ không còn bị hiếp đáp và mất thêm lãnh thổ.

- Cuối cùng vì khờ khạo và lòng tham : nắm vững tâm lý và trình độ kiến thức của những đối tác Việt Nam (Bộ chính trj và Trung ương Đảng cộng sản), những cố vấn Trung Quốc đã biết khai thác bằng tiền, bằng gái đẹp, bằng hứa hẹn địa vị để khuyến dụ những người có trách nhiệm chấp thuận tất cả những điều kiện do phía Trung Quốc đưa ra.

Một vài thí dụ về sự khờ khạo : phía Trung Quốc vẽ ra bức tranh thật đẹp về phồn vinh và phát triển tại những nơi mà họ muốn đến xây dựng cơ sở và khai thác tài nguyên, như các tỉnh khu vực biên giới, thành phố dọc bờ biển Vịnh Bắc bộ, các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, hay tại các tỉnh trên Tây Nguyên, Đồng Nai, Tiền Giang và Kiên Giang ; họ còn đề nghị xây xa lộ cao tốc, đô thị thông minh để mời gọi những cấp lãnh đạo Việt Nam ký kết chấp thuận. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, từ trung ương đến địa phương, đều bị mê hoặc và chấp thuận tất cả, có nhiều bộ trưởng còn sử dụng danh xưng "giữ gìn đại cục" để chỉ trích những ai chống đối.

Gần đây nhất là khu đô thị Thủ Thiêm, ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, trong một lúc cao hứng đã khai toẹc ra rằng muốn nhờ Trung Quốc biến Thủ Thiêm thành Phố Đông (Pudong như Thượng Hải). Điều này cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam đang tìm mọi cách chiếm lại Thủ Thiêm từ tay Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh để giao lại cho phía Trung Quốc thực hiện ước mơ đó, kể cả vay nợ và nhượng luôn quyền quản trị trong một thời gian dài.

Cái bẫy mà cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị sa vào trước đó là hình ảnh "Người hùng đem lại phồn vinh cho Việt Nam" : thành lập nhiều đại công ty có tầm vóc quốc tế kiểu những chaebol của Đại Hàn, tăng vốn cho Tập đoàn PVN mở rộng tầm hoạt động ra nước ngoài (Venezuela), cho những đại gia bất động sản vay tiền từ các Ngân hàng đầu tư do Trung Quốc cung cấp vốn. Để đáp trả, Nguyễn Tấn Dũng cho phép Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác bô-xít Đắc Nông (2005) gây ô nhiễm môi trường, vào Tiền Giang lập Khu công nghiệp Long Giang (2007) gây ô nhiễm sông ngòi, Formosa Hà Tĩnh (2008) gây ô nhiễm bờ biển phía bắc miền Trung, xây dựng đường ống sông Đà (2009) liên tục bị vỡ, nhà máy đạm Ninh Bình (2011) để rồi bỏ hoang, nhiệt điện than… dọc vùng biển miền Nam gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường... Nói chung tất cả những đại dự án chủ trương lớn của Đảng cộng sản Việt Nam đang là những tai họa về môi trường và ngân sách quốc gia.

Với những số tiền khổng lồ (hàng chục tỷ USD) được Trung Quốc cho vay, thay vì dùng vào đầu tư nghiên cứu phát triển những quan chức cao cấp trong Đảng cộng sản Việt Nam lập hồ sơ giả để rút tiền bỏ vào túi riêng. Nhưng những quan tham nhũng lại quên một điều then chốt : Trung Quốc không cho ai một cái gì và cũng không cho không một cái gì và họ cũng không có luôn sự rộng lượng của Ông già Noel. Giới đầu tư Trung Quốc không bao giờ làm từ thiện hay nghĩ tới từ thiện. Họ là những người thực dụng : bỏ tiền ra để mua một món hàng chứ không cho không hay làm từ thiện. Họ là những người chi tiền, do đó tự coi có quyền tuyệt đối trên những số tiền đã bỏ ra. Ai đánh cắp hay sử dụng sai trái những đồng tiền đó chắc chắn phải bị trừng phạt : giới giang hồ có luật Thiên địa hội, doanh nhân Trung Quốc có Ủy ban Kiểm tra trung ương do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo.

Nhìn lại những vụ án chống tham nhũng gần đây, gọi là "đốt lò", rồi những luật đất đai, luật đặc khu, luật an ninh mạng, luật lao động… tất cả đều diễn ra một cách có hệ thống, đúng theo thứ tự thời gian, và ngày càng thúc bách, cho dù ông Nguyễn Phú Trọng có bị đột quỵ hay không. Xâu chuỗi lại những sự kiện, người ta dễ dàng nhận xét những sự kiện này đang diễn ra theo một lộ trình đã được quyết định từ bên kia biên giới phía Bắc đưa sang.

Trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019, Đảng cộng sản đã xử nhiều vụ án lớn, trong đó có nhiều cán bộ, sĩ quan cao cấp trong Bộ Chính trị, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và nhiều bộ ngành khác bị điều tra và tống giam. Ai cũng mừng vì tưởng rằng vị Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng quyết tâm diệt trừ tham nhũng, "lò nóng lên rồi, củi tươi vào cũng phải cháy".

Nhưng ai bị cháy ? Soi kỹ lại từng vụ việc, những thanh củi bị đốt toàn là những người đã từng nắm giữ những chức vụ liên quan đến những nguồn lợi mà phía Trung Quốc đã bỏ tiền ra nhưng không được sử dụng đúng mục tiêu và nay, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, muốn thu hồi lại. Tại sao chỉ Vinashin, Vinalines, PVN, MobiFone-AVG, BIDV, Casino, bất động sản Đà Nẵng… bị truy tố mà không xảy ra ở những công ty hay cơ quan nào ở những địa phương khác ?

Kiểm điểm lại danh sách những người bị bắt, tất cả đều dính líu không nhiều thì ít đến những số tiền mà phía Trung Quốc đã đổ vào Việt Nam, đặc biệt là dưới thời nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, để xây dựng hạ tầng cơ sở chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua các định chế ngân hàng, tập đoàn bất động sản, du lịch, khách sạn và giải trí… Đó là những Ngân hàng OceanBank, Sacombank, DAB, VNCB, BIDV, những đại công ty quốc doanh TKV, EVN, PVN, PetroLimex, VinaShin, VinaLines…

Trên đất nước này, từ Bắc vô Nam, không nơi nào không có tham nhũng qui mô ở cấp cao và nạn ăn cắp tiền công quỹ. Chỉ cần khui ra một vài dự án xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư phát triển dọc các vùng biên giới miền Bắc, miền Trung và miền Nam dư luận sẽ dựng tóc gáy nếu biết những số tiền thực sự bị biển thủ hay đánh cắp. Những quan tham rất dễ nhận diện : chỉ cần nhìn vào dinh thự, cơ ngơi địa ốc, nhà cửa, nội thất và cách ăn xài của con cháu họ là biết. Nhưng hiện nay chỉ những quan tham và những người đối lập nào động chạm đến quyền lợi của người Trung Quốc mới bị trừng trị. Một sự kiện đáng chú ý là sự giàu sang của những quan địa phương trong 7 tỉnh biên giới - thể hiện qua các dinh thự, biệt phủ được xây dựng một cách lộ liễu ở những khu đất vàng giữa thành phố hay trong những khu rừng thuộc vườn quốc gia - không hề được báo chí nhắc tới và cũng không ai dám đụng tới.

Song song với lãnh vực quốc doanh, nhiều tập đoàn tư nhân Trung Quốc đã bỏ tiền tài trợ những đại gia bất động sản ở Việt Nam như VinGroup, NovaLand, FLC Group, SunGroup… thay mặt họ chọn những vùng đất tốt, đắc địa để xây dựng cơ ngơi, nhà cửa và cơ xưởng sản xuất. Phương thức hợp tác với những đại gia Việt Nam xem ra có vẻ thành công vì những người này biết đút lót đúng người, đúng chỗ để thâu tóm những vùng đất béo bỡ cho những chủ đầu tư. Những vùng đất béo bỡ là gì ? Đó là những khu đất vàng, đất tốt giữa trung tâm thành phố, cạnh những bờ biển đẹp, những trục giao thông lớn, nhà ga, phi cảng, bến sông, bến cảng, thuận hợp phong thủy… để xây cơ sở, địa ốc, nhà cửa.

Tại sao những chủ sòng bạc, đặc biệt là sòng bài công nghệ cao cũng bị đưa vào lò ? Tại vì tổ chức casino sòng bài, cờ bạc là nghề của người Hoa ; Hồng Kong và Mã Cao trước kia là thiên đường của những sòng bạc quốc tế. Nhớ lại Mạc Cửu thế kỷ 17, một người Hoa gốc Quảng Đông chạy loạn nha Minh xuống Hà Tiên tị nạn, tại đây Mạc Cửu đã xây dựng cho mình một thế lực lớn bao gồm nhiều lãnh địa dọc bờ biển Vịnh Thái Lan nhờ tổ chức sòng bạc. Tất cả những quân cướp biển địa phương đều đến Hà Tiên tiêu xài tiền bạc trong những sòng bài do Mạc Cửu làm chủ. Ngày nay, trong những đặc khu nhượng cho Trung Quốc quyền quản lý 99 năm như Boten, Sihanoukville, sinh hoạt cờ bạc rất là năng động, những chủ sòng bài đều là người Trung Quốc. Những sòng bài ở Boten (Bắc Lào) là để thu hút nguồn tiền do buôn lậu nha phiến mang lại, tại Sihanoukville để thu hút nguồn tiền của người bản địa giàu có trong Vịnh Thái Lan. Hai ông tướng công an Việt Nam, mờ mắt trước những số tiền khổng lồ thu được, đã không biết điều đó nên đã bị bắt và bị tước đoạt hết mọi quyền lợi (chắc chắn là bị "kẻ lạ" tố cáo). Qua những vụ bắt bớ này, thông điệp của phía Trung Quốc đã rất rõ ràng : không ai có được quyền tranh giành tổ chức cờ bạc với người Trung Quốc.

Tại sao đánh lớn vụ PVN và AVG ? Rất dễ hiểu : Trong những Tuyên bố chung, Bắc Kinh muốn Việt Nam chia phần trong việc khai thác tài nguyên dầu khí dưới Biển Đông, và muốn hệ thống truyền thông Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, qua Hoa Vi. Dưới thời "Đồng chí X", PVN đã tỏ ra cứng đầu không ăn chia với các công ty offshore Trung Quốc mà còn kết cấu với các công ty dò tìm quốc tế khác khai thác thềm lục địa. Về truyền thông trên mạng, chính Thủ tướng Việt Nam, Phúc nổ, ca ngợi kỹ thuật cao của Hoa Vi và mong muốn hợp tác để học hỏi kinh nghiệm.

Trở lại với những tập đoàn bất động sản tư nhân do tư sản Trung Quốc chống lưng, thời vàng son của tiền bạc dễ dàng đang chấm dứt. Để thực hiện chiến lược Sáng kiến vành đai con đường sau cột mốc 2020, Bắc Kinh muốn doanh nghiệp Trung Quốc trực tiếp vào Việt Nam đầu tư xây dựng cơ sở mà không cần phải qua trung gian những tập đoàn bất động sản tư nhân Việt Nam do họ cấp vốn và cấp phương tiện dựng lên như trước. Thật ra Trung Quốc không muốn Việt Nam có những đại gia đầy quyền lực, họ đang nhờ bàn tay của Đảng cộng sản để loại trừ như vụ bắt giữ Phạm Nhật Vũ (em trai đại gia Phạm Nhật Vương, VinGroup), đang điều tra những Mường Thanh, Vạn Thịnh Phát, Quốc Phương Gia Lai, FLC, SunGroup…

Đà Nẵng là một thí dụ điển hình khác, vụ bắt giữ Vũ nhôm cho thấy giới đầu tư Trung Quốc không còn muốn qua trung gian quan chức địa phương để xây dựng cơ sở khai thác dịch vụ du lịch và khách sạn, họ muốn liên lạc thẳng với những cán bộ đảng ủy địa phương. Tất cả những mục tiêu chiến lược trên địa bàn Đà Nẵng đều đã thành tựu : Tổng lãnh sự quán Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo sinh hoạt của những xí nghiệp lớn của người Trung Quốc tại Đà Nẵng vàn bán đảo Sơn Trà, trong tương lai sẽ lấn ra đảo Lý Sơn.

Có thể nói gần như toàn bộ những đảng viên có địa vị và quyền lực trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, từ trung ương đến địa phương là những tay sai đắc lực cho thế lực đồng tiền. Quốc hội Việt Nam chỉ là cơ quan ăn theo và có nhiệm vụ hợp thức hóa và hợp lệ hóa những quyền lợi của phía Trung Quốc tại Việt Nam.

Cái gì sẽ xảy ra sau năm 2020 ?

Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ký thêm những thỏa mới với Trung Quốc bất lợi cho Việt Nam

Như đã nói, Sáng kiến Vành đai Con đường và Tập Cận Bình đã chính thức đi vào hoạt động năm 2015. Trong suốt giai đoạn từ 2015 đến 2018, chuyên gia Trung Quốc trong những Nhóm công tác đã ráo riết làm việc với những đối tác Việt Nam từ các cấp đảng cao nhất đến các cấp bộ, ngành liên quan, đặc biệt là những Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Giao thông và vận tải, Giáo dục…

Trước mắt có hai công tác lớn dọn đường cho những nhà đầu tư lớn của Trung Quốc đến từ Hoa Nam vào Việt Nam khai trương cơ sở kinh doanh và thương mại một cách đại trà : thuê bao dài hạn 3 đặc khu kinh tế và xây dựng đường bộ cao tốc và đường sắt Bắc-Nam. Phía Trung Quốc đã chuẩn bị sẵn tiền, phương tiện và người tham gia xây dựng ; họ đang chờ phía Việt Nam cung cấp đất và tạo điều kiện pháp lý để hợp thức hóa sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua những luật mà Quốc hội Việt Nam sắp ban hành. Thời gian thực hiện dự trù bắt đầu vào năm 2019. Vấn đề còn lại là chọn thời điểm nào để ra một Tuyên bố chung. Thời điểm đó được dự trù vào dịp Diễn đàn Sáng kiến Vành đai Con đường lần thứ hai họp tại Bắc Kinh từ ngày 25 đến 27/04/2019. Nhưng không may cho Tập Cận Bình (nhưng là cái may cho dân tộc Việt Nam) : Dự Luật đặc khu bị "dân chúng bất mãn" chống đối nên phải gác lại. Ông Nguyễn Phú Trọng, cấp lãnh đạo cao nhất Việt Nam, bị đột quỵ không thể đi phó hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thay nhưng không phải là cấp lãnh đạo tối cao đủ tư cách để thay mặt Tổng bí thư - Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ra một Tuyên bố chung có tầm quan trọng quyết định đến tương lai Việt Nam với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Nhưng cho dù có thế nào đi chăng nữa, Bắc Kinh sẽ làm áp lực với Hà Nội để bộ Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, gọi tắt là Luật đặc khu, sớm được Quốc hội Việt Nam thông qua.

1. Ba đặc khu kinh tế

Tháng 6/2018, sau khi hay tin Quốc hội Việt Nam thảo luận về Dự Luật đặc khu kinh tế, quy định cho nhà đầu tư nước ngoài quyền thuê đất dài hạn trong 99 năm, một làn sóng phẫn nộ xảy ra tại khắp nơi, hàng chục ngàn người đã xuống đường biểu tình chống Luật đặc khu.

Theo nhận xét riêng, tin về Dự Luật đặc khu và những cuộc biểu tình đều do Đảng cộng sản tung ra và tổ chức. Ai tung tin, ai vận động tổ chức biểu tình, và nhằm mục đích gì, người đó chỉ có thể là chính quyền hay Đảng cộng sản Việt Nam. Làm sao có thể qui tụ một cách bất ngờ trong một ngày số người biểu tình đông đảo lên đến hàng chục ngàn người và xuất hiện đồng loạt tại nhiều tỉnh thành lớn với những ban rôn đã in sẵn bằng chữ lớn nếu không có chuẩn bị trước ? Có thể Đảng cộng sản muốn đo lường phản ứng của người dân trước một hành động mang tính "bán nước" quá lộ liễu đến như vậy.

Từ đó dư luận trong nước mới biết Đảng cộng sản Việt Nam muốn qua công cụ trung gian là Quốc hội để biểu quyết hợp thức hóa Dự Luật đặc khu (6 chương, 88 điều) để thỏa mãn yêu sách cho người nước ngoài thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trong 99 năm. Mặc dầu chính quyền cộng sản Việt Nam cứ loanh quanh, biện bạch cải chính, mọi người đều biết ba đặc khu này chỉ dành riêng cho Trung Quốc. Trong vụ việc này, cái vô lý là Dự luật đặc khu viết rất rõ ràng và chi tiết cách điều hành của đặc khu sau khi cho thuê, như thể chính quyền Việt Nam là người trực tiếp điều hành mọi sinh hoạt trong đặc khu. Vấn đề là sau khi cho thuê 99 năm, người nước ngoài có toàn quyền sử dụng vùng đất đó theo những mục tiêu đã khai báo trước, chính quyền Việt Nam lấy tư cách gì để vào can thiệp ? Cũng như chủ nhà làm sao có quyền chỉ đạo người thuê cách sử dụng điện nước, đi lại và sinh hoạt sau khi cho thuê ?

Chỉ riêng đặc khu Vũng Áng Hà Tĩnh với 228 km2 diện tích và thời hạn cho thuê 70 năm, sau khi Formosa Hà Tĩnh (33 km2) gây ra sự cố ô nhiễm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phải chờ hơn 10 ngày sau mới được vào tham quan, vì đây là khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài không thuộc thẩm quyền của chính quyền Việt Nam, và khi được vào thăm ông Trọng cũng chỉ đi thăm những nơi người nước ngoài muốn cho đi thăm và không dám nhắc tới vụ cá chết hàng loạt.

Tại sao Trung Quốc chọn ba địa điểm này ? Hoàn toàn vì những mục tiêu chiến lược phục vụ cho kế hoạch Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình. Kế hoạch này đã được Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình công bố tại Kazakhstan tháng 9/2013 và chính thức khởi động năm 2015.

Hậu ý kinh tế của Trung Quốc trong những đặc khu kinh tế này là để xây dựng cơ sở và hãng xưởng với lực lượng nhân công đến trực tiếp từ Trung Quốc sản xuất hàng hóa ngay trên lãnh thổ Việt Nam, rồi sau đó xuất khẩu sang những quốc gia khác với nhãn "Made in Vietnam", như vậy Trung Quốc sẽ không còn bị chỉ trích là hàng Trung Quốc dán nhãn Việt Nam. Không một người Việt Nam nào được hưởng lợi trong những thương vụ này, kể cả chính quyền cộng sản Việt Nam, vì tất cả đều do người Trung Quốc trực tiếp quản lý và điều hành. 

1.1. Đặc khu kinh tế Vân Đồn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, là quần đảo lớn nhất khu vực miền Bắc, diện tích 2.171,33 km2 (đất liền 581,83 km2) và mặt biển 1.589,5 km2, tập hợp hơn 600 hòn đảo lớn nhỏ. Với ưu thế, Vân Đồn được đánh giá là có những tiềm năng nổi trội để xây dựng một Đặc khu của miền Bắc.

Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương xây dựng Đề án thành lập đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo Thông báo số 108-TB/TW ngày 01/10/21012.

tuyenbo04

Từ năm 2007, Trung Quốc đã cho Việt Nam vay vốn để xây dựng Đặc khu kinh tế Vân Đồn, với mục tiêu trên danh nghĩa là thúc đẩy phát triển kinh tế ở Quảng Ninh, nhưng trong thực tế là chuẩn bị mặt bằng để giao cho Trung Quốc thuê dài hạn 99 năm. Ông Phạm Minh Chính, cựu bí thư Quảng Ninh, còn đề nghị tăng thời hạn cho Trung Quốc thuê lên 120 năm (5). Đảng cộng sản Việt Nam hy vọng qua việc cho thuê này, Trung Quốc sẽ biến Vân Đồn thành một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, một trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế với một khu thương mại phi thuế quan (6). Phục vụ giao thông cho Khu kinh tế Vân Đồn có Cảng Vạn Hoa và Sân bay quốc tế Vân Đồn, do Tập đoàn SunGroup xây dựng và được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khai trương ngày 31/12/2018.

Trong thực tế, đặc khu kinh tế Vân Đồn đã nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc từ lâu rồi, vấn đề còn lại chỉ là hành chính, nghĩa là hợp thức hóa sự hiện diện của người Trung Quốc trên vùng đất này bằng Luật đặc khu.

Vân Đồn là nơi xuất phát bằng đường biển chiến lược Sáng kiến Vành đai Con đường và cũng là nơi gần những căn cứ hải quân chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là căn cứ tàu ngầm chiến lược Nam Hải (Quảng Đông). Không ai biết Trung Quốc sẽ xây dựng những gì trong đặc khu Vân Đồn sau khi được quyền sử dụng 99 năm. Nếu xảy ra xung đột trên Biển Đông, Vân Đồn chắc chắn sẽ là một căn cứ phòng thủ hỗ trợ hải quân Trung Quốc.

1.2. Bắc Vân Phong là một khu kinh tế nằm ở phía bắc Vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, với một diện tích rộng 1500 km², trong đó phần trên biển rộng tới 800 km². Khu này được thành lập vào năm 2006 với mục tiêu trở thành một hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị - công nghiệp - dịch vụ - du lịch của khu vực Nam Trung Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ và là một đầu mối giao lưu quốc tế, trung tâm du lịch quan trọng của Việt Nam.

Đây là một đặc khu kinh tế tổng hợp gồm hai khu : Khu phi thuế quan gồm : khu cảng trung chuyển container quốc tế là chính, khu hậu cần cảng và khu trung tâm thương mại – tài chính. Còn khu thuế quan gồm khu cảng trung chuyển dầu, cảng chuyên dùng, cảng tổng hợp, khu du lịch, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị và khu hành chính.

Trung Quốc dự trù sẽ xây dựng đặc khu kinh tế này thành một biểu tượng thu hút sự nễ trọng của những quốc gia ASEAN khi hợp tác với Trung Quốc. Hiện nay hàng chục ngàn "du khách Trung Quốc" đến Nha Trang đang chờ được vào đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong làm việc.

Về chiến lược, Bắc Vân Phong là một hải cảng ven bờ xa Trung Quốc nhất về phía nam. Nếu có xảy ra xung đột trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ biến Bắc Vân Phong thành một căn cứ tiếp liệu hậu cần ho tàu thuyền của họ hoạt động trên Biển Đông, đồng thời cũng là căn cứ do thám sự ra vào của các tàu chiến Việt Nam và quốc tế trong vịnh Cam Ranh.

1.3. Đặc khu kinh tế Phú Quốc gọi tắt là Đặc khu Phú Quốc là một huyện của tỉnh Kiên Giang ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km².

Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập ngày 22/5/2013, theo quyết định số 31/2013/QĐ-TTg. Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập khi quyết định này có hiệu lực từ ngày 10/07/2013. Khu này được quy hoạch làm một trung tâm kinh tế biển tổng hợp mạnh của cả nước và sẽ là một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, tức chính quyền Hà Nội.

Tiềm năng kinh tế và du lịch của khu kinh tế này rất lớn nhờ có một bờ biển đẹp và nhiều hải cảng nước sâu. Trung Quốc dự trù sau khi có toàn quyền sử dụng đặc khu kinh tế này, bộ mặt của Phú Quốc sẽ được cải đổi để trở thành tụ điểm du lịch vùng biển cao cấp nhất Đông Nam Á.

Về chiến lược, đặc khu kinh tế này được Trung Quốc dành cho các mục tiêu kinh tế và dịch vụ du lịch triển khai Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình, vì Sihanoukville không phải là một cảng nước sâu nên tàu thuyền lớn không thể vào neo đậu được. Hơn nữa Trung Quốc đang biến Sihanoukville thành một căn cứ quân sự.

Việc ông Nguyễn Phú Trọng xuống Kiên Giang tham quan trong tháng 4/2019 vừa qua không phải tình cờ, ông có sứ mệnh thuyết phục "lãnh chúa địa phương" Nguyễn Thanh Nghị, con trai trưởng của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chấp thuận để cho Trung Quốc thuê đảo Phú Quốc làm đặc khu kinh tế trong 99 năm, một khi luật đặc khu được Quốc hội thông qua.

1.4. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam muốn thỏa mãn yêu sách thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc của Trung Quốc trong 99 năm ?

Để trả lời câu hỏi này, có lẽ cũng nên tìm hiểu cách cho vay của Trung Quốc. Khác với các định chế tài chính quốc tế, cho vay qua ngân hàng với những điều kiện và khả năng thanh khoản cùng những lãi suất rõ ràng, phía Trung Quốc cho vay theo kiểu tiệm cầm đồ hay chơi hụi. Người vay tiền phải thế chấp một món hàng tương với số tiền muốn vay, khi trả không được thì chủ nợ siết món hàng thế chấp, đó là trường hợp của Sri Lanka với cảng Hambantota nhượng cho Trung Quốc 99 năm, hay nước Tajikistan (Trung Á) với một phần lãnh hồ rộng hơn 1000 km2 trong tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan trên cao nguyên Pamirs đã được chuyển giao cho Trung Quốc để trả các khoản nợ. Chính vì thế, phải hiểu cho Trung Quốc thuê bao 99 năm là một hình thức bị siết nợ hay cấn nợ. Việc một ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức trung ương, ông Phạm Minh Chính đề nghị cho Trung Quốc thuê 120 năm (5) là một thái độ tôi đòi, nịnh bợ đáng khinh bỉ.

Đối với Việt Nam và những quốc gia Đông Nam Á khác, Trung Quốc cho vay kiểu chơi hụi : muốn vay bao nhiêu cũng được nhưng sau khi hốt hụi rồi thì phải trả tiền lời lẫn vốn cho những người cho vay với những lãi suất rất cao cho tới khi người tới cho vay cuối cùng thu hồi vốn (hốt hụi) mới chấm dứt. Nhưng với Việt Nam, người cho vay cuối cùng này sẽ không bao giờ hết vì phía Trung Quốc luôn đẻ ra những đề án mới buộc Việt Nam phải vay thêm. Một thí dụ, sau khi "trúng thầu" tất cả những dự án xây đường bộ và đường sắt tại miền Bắc, Trung Quốc đang đề nghị qua hình thức "đấu thầu" xây dựng đường bộ và đường sắt cao tốc Bắc Nam, và những dự án đại trà kế tiếp…

Sự gian manh của phía Trung Quốc mà nhiều người tưởng là tốt bụng muốn giúp những quốc gia yếu kém hơn vay tiền bằng cách khuyến khích vay càng nhiều càng tốt, dưới hình thức thương vụ để PIB của quốc gia được vay gia tăng đáng kể. Trung Quốc khuyến khích Việt Nam gia tăng thương vụ từ 10 tỷ USD năm 2010 lên 100 tỷ USD năm 2017, sự sai biệt giữa hai con số này trong khoảng thời gian 7 năm là những khoảng nợ khổng lồ mà Việt Nam phải vay của Trung Quốc.

Nếu không trả được nợ thì sao ? Thì phải thế chấp ! Việc Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng hối thúc Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sớm thông qua những dự luật bất lợi cho nền độc lập và chủ quyền đất nước khiến dư luận suy đoán là để khất nợ, hay trừ nợ. Chấp thuận cho Trung Quốc thuê ba đặc khu kinh tế trong 99 năm là một hình thức cấn nợ, hay bị siết nợ/ Hiện nay tổng số nợ này phải cao gấp ba lần khoảng nợ mà Sri Lanka đã vay của Trung Quốc.

Sắp tới đây dư luận Việt Nam sẽ còn sửng sốt trước những tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam nhường cho họ quyền xây xa lộ cao tốc Bắc Nam để vận chuyển người và hàng hóa nhanh xuống miền Nam. Những yêu cầu này chắc chắn sẽ được chấp thuận vì, như đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam muốn nhờ Trung Quốc vẽ cho mình bức tranh phồn vinh do đó sẽ dành cho người họa sĩ toàn quyền chọn sơn và cảnh vật. Chưa hết, xây dựng xong xa lộ cao tốc, phía Trung Quốc sẽ còn đòi thêm quyền xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam, cảng sông Biên Hòa, phi cảng Long Thành, các khu đô thị thông minh Thủ Thiêm, Long Hưng, Long Tân (Biên Hòa), rồi quyền sở hữu nhà đất…

dacquyen3

Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đã hoàn thành đưa vào khai thác - Ảnh an toàn giao thông

Tham vọng, nếu không muốn nói âm mưu, của Trung Quốc tại Việt Nam là muốn làm chủ toàn bộ sinh hoạt kinh tế của miền Nam, loại trừ thế lực kinh tế và ảnh hưởng văn hóa của người Hoa miền Nam, Đài Loan, Nhật Bản và Đại Hàn, và làm chủ luôn vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.Việc cố ý trì trệ thanh khoản 100 triệu USD cho nhà thầu Nhật Bản để tiếp tục công trình xây dựng hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh là một thí dụ. Ai cũng thấy hậu ý của Bắc Kinh, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, là muốn hất cẳng Nhật ra khỏi miền Nam để giao cho Trung Quốc quyền xây dựng độc tôn những hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và trong tất cả tỉnh thành phố khác ở miền Nam Việt Nam.

2. Việt Nam sau năm 2030

Nhưng tham vọng của Bắc Kinh trên lãnh thổ Việt Nam không dừng ở đó, họ muốn chơi lá bài trường kỳ, nghĩa là đảm nhiệm luôn công tác trồng người (bách niên chi kế mạc như thụ nhân). Hiện nay Trung Quốc đang nhắm vào thế hệ thanh thiếu niên sinh sau năm 2000, tức những thế hệ không dính líu gì tới quá khứ chiến tranh và tranh chấp với Trung Quốc trong những thập niên 1970 và 1980. Một việc làm âm thầm nhưng bền bỉ của Nhóm công tác văn hóa trong Bộ giáo dục là sửa đổi lại các sách giáo khoa về phần lịch sử có tranh chấp với Bắc triều, loại bỏ tiếng Anh và thay thế bằng tiếng Quan thoại như sinh ngữ 1. Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang mai một dần và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh Việt Nam - Hoa Kỳ và Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của họ không có lý tưởng, chỉ biết tới quyền và tiền.

Có lẽ chính vì vậy, trong lần xuất hiện ngày 16/05/2019 tại Hội nghị Trung ương 10 tại Hà Nội, ngoài ba câu hỏi về định chế : "Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không ? Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không ? Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam hay không ?", ông Nguyễn Phú Trọng còn đặt thêm một hỏi có vẻ bâng quơ nhưng qua đó đã phác họa viễn ảnh của một nước Việt Nam mới : "Vậy chúng ta định hướng, hình dung ra nước ta vào năm 2030 sẽ là thế nào ? Đến năm 2045, nước ta sẽ như thế nào ?" (7).

Năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 2045 là kỷ niệm 100 năm ngày cướp chính quyền trong Cách Mạng Tháng 8. Lời nói của một người biết mình đang gần đất xa trời luôn luôn thành thật. Ông Nguyễn Phú Trọng có lẽ là người thấy rõ tương lai Việt Nam qua hai mốc thời gian này. Những gợi ý kỷ niệm 100 năm chỉ là lý cớ, lý do thật sự là bước vào ngưỡng cửa hai mốc thời gian này nước Việt Nam sẽ thuộc về ai và mang tên gì.

Sự lệ thuộc vào Trung Quốc hiện nay mọi người đều rõ, từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh đến văn hóa và giáo dục, không có lãnh vực nào không có dấu ấn bàn tay Trung Quốc. Những cố gắng biện bạch ông Nguyễn Phú Trọng và Đảng cộng sản Việt Nam đang muốn thoát Trung để xích lại gần Mỹ chỉ xuất phát từ những người ở ngoài Đảng hay chống lại đảng cộng sản. Còn những thành phần cán bộ, đảng viên trong guồng máy cai trị, lực lượng vũ trang, kể cả những người đã về hưu hay đang ở tù về tội tham nhũng, đều răm rắp trung thành và chấp hành những mệnh lệnh của Đảng cộng sản Việt Nam.

Cũng không phải tình cờ danh xưng "tộc Kinh" được báo chí trong nước nhắc tới và đề cao từ năm 2013 (8). Gần đây, tháng 5/2018, một nhóm người Hoa lục địa âm mưu thành lập một cộng đồng tộc Kinh ở một thành phố ngoại ô phía đông Paris nhưng bị cộng đồng người Pháp gốc Việt địa phương phản đối nên đã thất bại. Rất nhiều người lo ngại nước Việt Nam sau này bị đổi tên thành "Khu tự trị người Kinh" hay "Khu hành chính đặc biệt Việt Nam".

Có lẽ phía Trung Quốc đã chuẩn bị khá kỹ càng sự hội nhập Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của họ. Trong những lần viếng thăm Trung Quốc, ngoài Bắc Kinh các cấp lãnh đạo tối cao trong Đảng cộng sản Việt Nam đều được mời tham quan 4 tỉnh và khu tự trị dọc vùng biên giới phía nam Trung Quốc như : năm 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mời thăm tỉnh Hải Nam, nơi có một cộng đồng tộc Kinh sinh sống ; năm 2011, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông ; năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông, nơi thiết lập bản doanh của Ủy ban chỉ đạo song phương Việt Nam-Trung Quốc ; năm 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm tỉnh Vân Nam ; năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được mời thăm Khu tự trị người Choang (Tráng) thuộc tỉnh Quảng Tây, nơi có tộc Kinh Tam Đảo sinh sống, và Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông ; năm 2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Chiết Giang thuộc vùng bờ biển phía đông Trung Quốc ; năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang được mời thăm tỉnh Phúc Kiến… Khi mời tham quan những địa danh này, Bắc Kinh muốn cho những cấp lãnh đạo Việt Nam thấy tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào khi gắn kết với Trung Quốc.

Trong viễn ảnh từ 5 năm đến 10 năm tới, nếu Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục cầm quyền và nếu sức mạnh kinh tế của Trung Quốc cứ vẫn như hiện nay, chủ quyền Việt Nam sẽ do Trung Quốc nắm giữ và Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn là một đảng thừa hành, một đảng quan lại tay sai được Bắc Kinh ủy nhiệm cầm quyền. Người Việt Nam nào chấp nhận tương lai đó ?

Phải nghĩ gì về Ban lãnh đạo Đảng cộng sản cầm quyền hiện nay ? Khôn ngoan vì biết lợi dụng Trung Quốc để tạo cho mình bộ mặt phát triển ? Khờ khạo vì bị Trung Quốc lừa đảo để chiếm đoạt hợp pháp nhiều phần lãnh thổ ? Là những hậu duệ, con cháu Hồ Quí Ly đến lúc phải dâng vùng đất đang chiếm đóng cho mẫu quốc ? Phản bội đất nước, phản lại quyền lợi của dân tộc để được Trung Quốc nuôi dưỡng và bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng cộng sản ? Tự nguyện chuyển nhường quyền lãnh đạo và điều hành đất nước có phải là bán nước không ?

Phải làm gì để thay đổi số phận lệ thuộc ?

Chờ đợi Đảng cộng sản Việt Nam công bố nhân sự lãnh đạo mới sau Đại hội 13 để bình luận cho qua ngày ? Hay phải đi tìm một kết hợp chính trị mới để thay đổi nguyên trạng ?

Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (9) của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có thể là một tài liệu xây dựng đất nước chưa hoàn hảo, nhưng ít ra cũng là những đề nghị hữu ích để những người Việt còn quan tâm đến đất nước tham khảo và đào sâu những khái niệm và biến những lý luận thành hành động.

Trái với lầm tưởng của nhiều người, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không phải là tập hợp của những trí thức khoa bảng mà là sự kết hợp của những người còn quan tâm đến tương lai đất nước và dân tộc. Đến với Tập Hợp là đến với tình tự dân tộc trong tình anh em tìm lại để cùng nhau thực hiện Giấc mơ Việt Nam chung, trong đó mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau.

Nguyễn Văn Huy

(1) "Về việc phát hiện dầu tại vịnh Bắc Bộ", Nhân Dân điện tử, 17/09/2010 

(2) PV, "Hợp tác giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc", Nhân Dân điện tử, 23/03/2019

(3) Bình Nguyên, "Trung đoàn 921 về Yên Bái: Su-22 đoàn KQ Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc", Soha.vn, 24/11/2018

(4) "Tướng Sùng Thìn Cò : Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm", VnExpress, 30/05/2019

(5) Cát Linh, "Phạm Minh Chính và Đặc khu Vân Đồn", RFA tiếng Việt, 19/06/2018

(6)  Lan Hương, Hồng Nhung, "Xây dựng Đặc khu Vân Đồn : Khát vọng đổi mới", Báo Quảng Ninh, 01/06/2018

(7) Trần Đình Thu, "Ba câu hỏi, nhiều thông điệp của ông Nguyễn Phú Trọng", BBC tiếng Việt, 19/05/2019

(8) Vương Văn Quang, "Dân tộc Kinh ở Quảng Tây", Nghiên cứu lịch sử, 30/05/2013, Phạm Hoàng Quân dịch

(9) Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai", Thông Luận, 04/02/2017

Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang dần mai một và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh và hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của thế hệ này đang thay thế cha anh cầm quyền chỉ biết tới quyền và tiền.

---------------------------

Mc lục

Phần 0 - Tổng quan

Phần 1 - Nắm giữ miền Bắc

Phần 2 - Hai hành lang một vành đai kinh tế

Phần 3 - Muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 4 - Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Phần 5 - Bằng chứng của một sự phản bội

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy
Published in Quan điểm

Phần 2

Hai hành lang một vành đai kinh tế

 

Những thỏa thuận thực hiện chiến lược "hai hành lang một vành đai kinh tế"

Nếu đọc kỹ từng lãnh vực hợp tác liệt kê trong những Tuyên bố chung, người đọc rất dễ dàng nhận thấy Việt Nam luôn ở thế bị động vì không có tiền, không có phương tiện, nhân sự yếu kém về kiến thức chuyên môn lẫn tư cách lãnh đạo để có thể đối thoại ngang hàng với những quan chức đồng cấp và những chủ đầu tư Trung Quốc.

Để bù lấp sự chênh lệch về phương tiện và trình độ này, phía Trung Quốc ưu đãi hậu hĩnh về vật chất lẫn tinh thần nguồn nhân sự của Việt Nam được cử tham gia vào những ủy ban và nhóm/tổ công tác soạn thảo Tuyên bố chung để không bị phản đối khi biểu quyết lấy quyết định.

Nguồn nhân sự phía Việt Nam trong những ủy ban và nhóm/tổ công tác soạn thảo này gồm hai phần :

- phần đông nhất đến từ đảng bộ các bộ quốc phòng, công an, an ninh nội chính, ngoại giao, tư pháp, tài chính, công thương, giao thông và vận tải, lao động thương binh và xã hội, giáo dục, văn hóa thể thao và du lịch, ban bí thư những thành phố trực thuộc trung ương ;

- phần ít hơn đến từ đảng bộ các đảng ủy địa phương cấp tỉnh, xã, huyện, nơi những cơ sở hoạt động của phía Trung Quốc được thiết đặt.

Chỉ cần quan sát cách sống cũng như nơi cư trú của những cán bộ trung ương hay địa phương được tuyển chọn vào làm việc trong những ủy ban/nhóm/tổ liên quan đến quan hệ giữa hai nước thì sẽ rõ sự ưu đãi của phía Trung Quốc như thế nào, lò chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng còn lâu mới dám động tới.

hanhlang1

Quần đảo Cát Bà trong Vịnh Bắc bộ, nổi tiếng về đa dạng sinh học, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, và Văn hóa Liên hiệp quốc UNESCO công nhận năm 2014

 

Nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung

Từ sau năm 2000 đến 2015, Trung Quốc và Việt Nam đã công bố trên dưới 10 Tuyên bố chung và từ 2016 đến nay có ít nhất 5 Thông cáo chung cấp Đảng, Nhà nước và Chính phủ được phổ biến.

Bố cục những Tuyên bố chung và Thông cáo chung không thay đổi nhiều theo thời gian và được sắp xếp theo một thứ tự nhất định :

Phần 1 nói về lý do của chuyến viếng thăm cùng với tên và chức vụ của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước để ra Tuyên bố chung.

Phần 2 nhắc lại phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt.

Phần 3 (dài nhất và quan trọng nhất) nhấn mạnh quyết tâm làm sâu sắc hợp tác chiến lược toàn diện trong từng lãnh vực :

- tóm lược những thành quả đã đạt được của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương (chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược) trong từng giai đoạn ;

- tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy toàn diện sự hợp tác đang hoặc sẽ thực hiện ("Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc") cấp Đảng trong tất cả các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, tư pháp, kinh tế, tài chính, nông nghiệp, ngư nghiệp, văn hóa, giáo dục, khoa học, du lịch.

- ấn định lịch trình và nội dung hợp tác của từng giai đoạn : về kinh tế : giao thông trên bộ (đường bộ và đường sắt), trị giá kim ngạch trao đổi ; về tài chính : tạo điều kiện đầu tư, thanh quyết bằng đồng nhân dân tệ ở vùng biên giới.

- khuyến khích gặp gỡ hữu nghị giữa thanh niên Việt Nam và Trung Quốc, khuyến khích nghiên cứu sinh Việt Nam sang Trung Quốc thực tập. Từ năm 2013, Trung Quốc đề nghị tăng cường hợp tác giữa các tỉnh biên giới hai nước, cụ thể là 7 tỉnh của Việt Nam (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh) với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Vân Nam.

Phần 4 phác họa cách giải quyết những bất đồng về biên giới trên đất liền, và nhất là những bất đồng trên vùng biển chủ quyền. Nhóm công tác về vùng biển có nhiệm vụ soạn thảo những thỏa thuận về hợp tác khai thác trên và dưới mặt nước, trong và ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.

Phần 5 ủng hộ chính sách một nước Trung Quốc, không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan.

Phần 6 điều phối và phối hợp với Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế và khu vực.

Phần 7 tóm lược những thỏa thuận đã ký.

Phần 8 đề nghị lần gặp gỡ cấp cao để ra một Tuyên bố chung cho lần tới.

Theo bố cục và nội dung của từng Tuyên bố chung này, được những Ủy ban liên chính phủ, Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương do phía Trung Quốc gợi ý và viết sẵn, phía Việt Nam chỉ bổ túc một vài chi tiết về cách hành văn và đồng ý.

Qua những Tuyên bố chung này, một cách tổng quan, người đọc có cảm tưởng phía Trung Quốc ưu ái muốn giúp Việt Nam phát triển để bắt kịp mình. Nhưng thực tế đã không phải vậy, Việt Nam chỉ là con cờ được Trung Quốc sử dụng để thực hiện những tham vọng lớn trong vùng ("hai hành lang một vong đai kinh tế") và trên thế giới ("Sáng kiến Vòng đai Con đường"), nhằm biến Giấc mơ Trung Hoa do Tập Cận Bình vẽ ra thành hiện thực.

Tập Cận Bình muốn gì ? Qua Giấc mơ Trung Hoa, Tập Cận Bình muốn biến Trung Quốc thành một đại cường về kinh tế lẫn quân sự, đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ để tranh giành ngôi vị đứng đầu thế giới về kinh tế sau năm 2025. Để thực hiện, Tập Cận Bình xây dựng một lộ trình chiến lược gồm hai giai đoạn : Giai đoạn đầu là củng cố nội lực (đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao về kỹ thuật và ổn định các vùng biên giới phía tây và phía nam Trung Quốc), giai đoạn kế tiếp là, qua những con đường tơ lụa mới trên đất liền và trên biển cả, xây dựng cơ sở hạ tầng tại những quốc gia đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và Châu Âu để làm bàn đạp tranh giành và củng cố ngôi vị số một về kinh tế trên toàn thế giới, sau đó là ngôi vị đệ nhất đại cường về quân sự .

Củng cố bằng cách nào ? Bằng cách xuất khẩu nguồn lao động có trình độ kỹ thuật xây dựng hạ tầng cơ sở và quản lý kinh tế tài chính đi khắp nơi trên thế giới làm việc. Khi hoàn tất nhiệm vụ, một số công nhân và chuyên viên được chuyển đi nơi khác để tiếp tục công tác xây dựng, số còn lại được khuyến khích ở lại để phục vụ sự điều hành của những cơ sở sản xuất hay dịch vụ vừa được xây dựng tại chỗ.

hanhlang2

"Hai hành lang, một vành đai kinh tế"

Việt Nam ở giai đoạn nào trong chiến lược con đường tơ lụa mới của Trung Quốc ? Giai đoạn 2, tức giai đoạn xây dựng hạ tầng cơ sở dưới tên gọi "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" :

- Hành lang 1 : trục giao thông đường bộ và đường sắt "Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng" ;

- Hành lang 2 : trục giao thông đường bộ và đường sắt "Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng" ; và

- Vành đai kinh tế, tức vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, từ Móng Cái tới Đà Nẵng.

Theo nội dung những Tuyên bố chung đã được công bố, chiến lược "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" sẽ hoàn tất vào năm 2020. Không đợi kế hoạch này chấm dứt, ngay từ năm 2015, Bắc Kinh đã chuẩn bị tiến hành giai đoạn tiếp theo, chiến lược "Sáng kiến Một vành đai Một con đường" (Belt and Road Initiative) để đến năm 2025 đổi tên thành "Made in China 2025", nghĩa là Trung Quốc sẽ làm chủ toàn bộ sản phẩm sản xuất trên thế giới. Tại Việt Nam, chiến lược này đang nhắm vào miền Nam, con gà đẻ trứng vàng của đất nước.

Nội dung các Tuyên bố chung với những thỏa thuận được công bố

Không cần phải viết thư, gởi kiến nghị yêu cầu Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước trả lời hay giải thích, chỉ cần đọc kỹ từng Tuyên bố chung, người đọc sẽ thấy Đảng cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc từ sau Hội nghị Thành Đô 1990 đến nay. Mỗi Tuyên bố chung đều có phần tóm lược những thỏa thuận đã ký.

Thỏa thuận là sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai hoặc nhiều đối tác. Về mặt luật pháp, thỏa thuận có thể gọi giao ước, một hợp đồng ràng buộc pháp lý đối với các bên về một hay nhiều mục đích và hành động cụ thể. Mỗi thỏa thuận gồm có các điều khoản và quy định cụ thể, được các bên tuyên bố và xác nhận cụ thể vào thời điểm đưa ra thỏa thuận. Có nhiều loại thỏa thuận khác nhau như thỏa thuận thương mại, thỏa thuận đầu tư hạ tầng cơ sở, kết hợp vùng, sử dụng bản vị trao đổi chung, chuyển giao tài sản… Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung, những thỏa thuận ký với Việt Nam là những thỏa thuận cấp chiến lược phát triển quốc gia, nghĩa là ở cấp lãnh đạo cao nhất do Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam chủ động.

Việt Nam là một thể chế chuyên chính, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, theo Điều 4 Hiến pháp, thay mặt những định chế của Nhà nước để ký những thỏa thuận cấp quốc gia mà không cần phải thông qua sự phê duyệt của Quốc hội. Chính vì thế, văn khố của Quốc hội và Ngân hàng nhà nước không có văn bản gốc những thỏa thuận này để lưu trữ, do đó rất khó tìm.

Nếu muốn biết Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã ký những gì với Trung Quốc sau Hội nghi Thành Đô thì phải yêu cầu công bố những thỏa thuận đã ký trong từng Tuyên bố chung hay Thông cáo chung.

1. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc ngày 02/11/2005 (cấp Đảng và Nhà nước : Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Trần Đức Lương họp với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào), ngoài việc đánh giá tình hình thực hiện Hiệp định phân định và Hiệp định Hợp tác nghề cáVịnh Bắc bộ :

- Về Vịnh Bắc bộ, hai bên tích cực triển khai điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ ; khởi động hợp tác thăm dò khai thác các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định ; sớm thực hiện việc tuần tra chung giữa Hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ.

- Về biên giới đất liền, hai bên bảo đảm thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới và ký văn kiện mới về qui chế quản lý biên giới chậm nhất vào năm 2008.

- Về thương mại, hai bên nhất trí phấn đấu thực hiện trước thời hạn mục tiêu đưa kim ngạch thương mại hai nước đạt 10 tỷ USD vào năm 2010. Hai bên đã ký nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế kỹ thuật : những dự án hợp tác kinh tế lớn giữa hai nước, khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước tiến hành hợp tác lâu dài, triển khai đầu tư và hợp tác kinh tế cùng có lợi dưới nhiều hình thức, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước, nghiên cứu về hợp tác kinh tế "hai hành lang, một vành đai".

- Về Biển Đông, hai bên đánh giá cao "Thỏa thuận công tác địa chấn biển liên hợp 3 bên tại khu vực thỏa thuận ở biển Đông" do Công ty dầu khí 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Philippines ký tháng 3 năm 2005 ; trong quá trình đó, hai bên sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề hợp tác cùng phát triển để tìm được mô hình và khu vực hợp tác cùng phát triển phù hợp với Luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là "Công ước Luật biển" năm 1982 của Liên Hợp Quốc và "Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông" mà hai bên có thể chấp nhận được.

2. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 17/11/2006 (cấp Đảng và Nhà nước : Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết họp với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào), ngoài những câu chúc mừng xã giao, hai bên ký kết Bản ghi nhớ về việc triển khai Hợp tác "hai hành lang, một vành đai kinh tế" và một số văn kiện hợp tác kinh tế khác. 

- Về kế hoạch hai hành lang, hai bên thực hiện mục tiêu mới là nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 15 tỷ USD (thêm 5 tỷ USD so với năm 2005) vào năm 2010. Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông… ; đề ra phương hướng tổng thể về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước trong 5-10 năm tới, xác định các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước.

- Về kế hoạch một vòng đai, hai bên tiếp tục thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ", thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển ở khu vực này.

3. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 01/06/2008 (cấp Đảng : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh) :

- Hai bên khẩn trương bàn bạc, ký kết và thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm về hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc", xác định các lĩnh vực và dự án hợp tác trọng điểm ; nâng cao hơn nữa quy mô và mức độ hợp tác kinh tế thương mại. Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác, như Bôxít Đắk Nông, các dự án trong khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai kinh tế"…

- Hai bên đã ký Hiệp định cấp chính phủ về hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật, về hợp tác trong lĩnh vực thú y và kiểm dịch động vật, và một số thỏa thuận kinh tế thương mại khác về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam tín dụng ưu đãi và cho vay ưu đãi bên mua.

- Về kế hoạch một vòng đai, hai bên đẩy nhanh việc thực hiện "Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ", phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ… Hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi ý kiến về vấn đề hợp tác cùng phát triển…

4. Tuyên bố chung Trung Quốc - Việt Nam 25/10/2008 (cấp Chính phủ : Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng), ngoài việc hoàn thiện cơ chế hợp tác giữa các bộ ngành, thực hiện tốt các thỏa thuận hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh... ; mở rộng hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế, du lịch...

- Về thương mại, hai bên nhất trí làm sâu sắc hơn nữa hợp tác kinh tế mậu dịch, phấn đấu nâng kim ngạch mậu dịch hai bên đạt 25 tỷ USD (thêm 15 tỷ USD so với năm 2005) vào năm 2010. Ðẩy mạnh thực hiện "Quy hoạch 5 năm phát triển hợp tác kinh tế mậu dịch Việt - Trung" mà hai bên đang thảo luận để ký kết…

- Về hợp tác chiến lược, hai bên tiếp tục trao đổi thỏa thuận về các dự án hợp tác lớn, khuyến khích các doanh nghiệp lớn của hai nước mở rộng hợp tác lâu dài, cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, điện lực, xây dựng nhà ở, tư vấn thiết kế, công nghiệp hóa chất, công nghiệp phụ trợ, đóng tàu... ; nghiên cứu nghiêm túc ý tưởng về khu kinh tế, thương mại, du lịch xuyên biên giới, thắt chặt mối quan hệ giữa các tỉnh biên giới hai nước.

- Về Vịnh Bắc bộ và Biển Đông, hai bên tiếp tục thúc đẩy một cách vững chắc đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này.

Trong thời gian viếng thăm, hai bên đã ký 8 Hiệp định và Thỏa thuận, trong đó có :

- Hiệp định về thiết lập đường dây nóng ;

- Hiệp định về kiểm dịch y tế biên giới ;

- Hiệp định khung về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ;

- Thỏa thuận về xây dựng khu kinh tế - thương mại Trung Quốc tại thành phố Hải Phòng ;

- Thỏa thuận về hợp tác chiến lược giữa Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Công ty Dầu khí Hải dương quốc gia Trung Quốc và một số thỏa thuận hợp đồng kinh tế khác.

5. Tuyên bố chung hai nước Trung Quốc - Việt Nam 15/10/2011 (cấp Đảng : Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), ngoài việc cố gắng hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD (tăng thêm 35 tỷ USD so với năm 2008 là 25 tỷ USD), hai bên đã ký :

- Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc (2011-2015) ;

- Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế-thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 2012-2016, và Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, khoáng sản, công nghiệp chế tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp tác khu vực "Hai hành lang, một vành đai" ;

- Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản giữa Bộ Công thương Việt Nam với Bộ Thương mại Trung Quốc ;

- Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015 giữa Bộ Giáo dục và đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt-Trung giai đoạn 2013-2015, sớm hoàn thành việc xây dựng Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia ;

- Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về sửa đổi Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc ;

- Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về thực hiện Hiệp định vận tải ôtô giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc ;

- Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển.

6. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 21/06/2013 (cấp Nhà nước : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang), ngoài việc tiếp tục thúc đẩy xây dựng các dự án hợp tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các lĩnh vực năng lượng, khu công nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, trong đó ưu tiên thúc đẩy xây dựng các dự án đường bộ và đường sắt kết nối khu vực biên giới trên bộ hai nước như tuyến đường bộ cao tốc Lạng Sơn - Hà Nội...

- Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam ; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước ; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… ; thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển. 

- Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước ; thành lập Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới ; thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cửa khẩu biên giới giữa hai nước ; tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng của các cửa khẩu biên giới, cải thiện điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hóa, phương tiện qua cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế - thương mại giữa hai nước. Sớm khởi động việc xây dựng cầu Bắc Luân II Việt-Trung.

- Hai bên nhất trí tổ chức vòng đàm phán mới "Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa sông Bắc Luân" và "Hiệp định về hợp tác và khai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc" vào nửa cuối năm 2013, cố gắng sớm đạt được tiến triển thực chất…

- Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực.

Trong thời gian viếng thăm, hai bên đã ký :

- Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc ;

- Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Trung Quốc (sửa đổi) ;

- Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển ;

- Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm dịch động thực vật xuất nhập khẩu ;

- Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hóa tại hai nước ;

- Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2013-2017 giữa Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc ;

- Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ ;

- và nhiều văn kiện hợp tác kinh tế khác.

7. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 15/10/2013 (cấp Chính phủ : Thủ tướng : Nguyễn Tấn Dũng và Lý Khắc Cường), ngoài những tuyên bố xã giao và phấn đấu hoàn thành trước thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD,

- Hai bên nhất trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án đường bộ cao tốc Lạng Sơn - Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng.

- Hai bên sẽ tích cực thúc đẩy dự án đường bộ cao tốc Móng Cái - Hạ Long, phía Trung Quốc ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc tham gia dự án này, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động vốn ; đẩy nhanh nghiên cứu khả thi dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

- Hai bên nhất trí thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về việc xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới", tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết "Hiệp định thương mại biên giới Việt-Trung" (sửa đổi) nhằm phát huy vai trò tích cực thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước, tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất là giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước ; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.

- Phía Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và Khu công nghiệp An Dương (Hải Phòng). Hai bên sẽ đẩy nhanh thi công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.

- Thúc đẩy đàm phán về "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" sớm đạt được tiến triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm phán mới và đạt nhất trí về "Hiệp định tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân", sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới hai nước.

- Hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư trên cơ sở Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới ký giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003, tiếp tục nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư hai bên.

- Hai bên nhất trí tổ chức tốt Liên hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ hai ; gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung ; liên hoan nhân dân Việt-Trung… nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc.

- Hai bên nhất trí thành lập Viện Khổng Tử tại Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này ở nước kia…

Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký :

- Hiệp định về việc mở Cơ quan Xúc tiến thương mại nước này tại nước kia ;

- Bản ghi nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới ;

- Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hỗn hợp hỗ trợ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam ;

- Hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu và Nghị định thư kèm theo ;

- Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ ;

- Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang ;

- Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội ;

- và một số văn kiện hợp tác kinh tế. 

8. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 09/04/2015 (cấp Đảng : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), ngoài việc nhắc lại những thành tựu đã thực hiện qua những thỏa thuận trước, hai bên đã ký kết :

- Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020 ;

- Hiệp định về hợp tác dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Thỏa thuận về các vấn đề về thuế đối với Dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc" giữa Bộ Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Tài chính nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ;

- Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ (MOU-Memoranum of Understanding) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc ;

- Điều khoản Tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc.

9. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 06/11/2015 (cấp Đảng và Nhà nước : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình), ngoài việc nhắc lại nội dung những hợp tác toàn diện và thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến "một vành đai, một con đường", hai bên :

- Khẩn trương thành lập Nhóm công tác, tích cực bàn bạc, ký kết Phương án tổng thể chung xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới, thúc đẩy việc xây dựng và tích cực thu hút đầu tư đối với hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam, đôn đốc và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép và phân đạm do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam.

- Ký tiếp "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung", khẩn trương sửa đổi "Hiệp định thương mại biên giới Việt - Trung", thực hiện thương mại song phương phát triển cân bằng, vững chắc và bền vững, phấn đấu thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017 (tăng thêm 40 tỷ USD so với 2011).

- Tăng cường vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực liên quan không ngừng có tiến triển tích cực.

- Thực hiện tốt dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông ; khẩn trương lập quy hoạch tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, thúc đẩy hợp tác kết nối cơ sở hạ tầng như tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn.

- Hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung Hữu nghị Việt - Trung vào năm 2017, sớm thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia, vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.

Hai bên đã ký các văn kiện hợp tác :

- Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020 ;

- Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia ;

- Công hàm trao đổi giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc khả thi tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ;

- Bản ghi nhớ về việc thúc đẩy hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và cải cách quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về việc ưu hóa thiết kế dự án Cung Hữu nghị Việt - Trung giữa Bộ Kế hoạch và đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản thỏa thuận giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Đảng cộng sản Việt Nam với Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng cộng sản Trung Quốc về thiết lập giao lưu hữu nghị giữa các tổ chức cơ sở Đảng địa phương ;

- Thỏa thuận triển khai giao lưu hữu nghị Đảng bộ địa phương giữa Tỉnh ủy Lào Cai, Đảng cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng cộng sản Trung Quốc...

Đối với Trung Quốc, chiến lược "Hai hành lang, một vành đai kinh tế" coi như hoàn tất với mốc thời gian năm 2020. Kể từ năm 2016, những Tuyên bố chung không còn cần thiết nữa, thay vào đó là những Thông cáo chung trong mục đích duy trì và củng cố mối quan hệ toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước.

10. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 14/09/2016 (cấp Chính phủ : Thủ tướng Trung Quốc Lý Khác Cường và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc), ngoài việc nhắc lại những hiệp định và thỏa thuận đã ký, hai bên đã ký :

- Hiệp định gia hạn và bổ sung Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2021 ;

- Hiệp định thương mại biên giới (sửa đổi) giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về Danh mục các dự án hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và cải cách nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016 - 2020 giữa Bộ Kế hoạch và đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giai đoạn 2016 - 2020 giữa Bộ Giáo dục và đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Giáo dục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- và một số văn kiện hợp tác khác.

11. Thông cáo chung giữa hai nước Trung Quốc - Việt Nam 14/01/2017 (cấp Đảng : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), mốc thời gian 2020 được nhắc lại trong quan hệ giữa hai Đảng và hai nước :

- Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng giai đoạn 2016-2020, phát huy tốt vai trò điều phối, thúc đẩy của cơ quan đối ngoại hai Đảng.

- Tiếp tục tổ chức tốt Hội thảo lý luận, thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng giai đoạn 2016-2020 ; tăng cường giao lưu hợp tác giữa các cơ quan Trung ương của hai Đảng, giữa tổ chức Đảng các địa phương đặc biệt là các tỉnh/khu biên giới…

- Thực hiện hiệu quả Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025…

- Thực hiện tốt "Kế hoạch thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2016-2018", "Thỏa thuận hợp tác giáo dục Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2016-2020" ; khuyến khích hai bên cử nhiều hơn nữa lưu học sinh sang nước nhau học tập.

- Thực hiện tốt "Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016-2020 giữa Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam với Ủy ban Phát triển và cải cách nhà nước Trung Quốc".

- Thực hiện tốt dự án đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông ; khẩn trương thúc đẩy hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông, thực hiện hiệu quả quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

- Tích cực bàn bạc thống nhất để sớm ký kết "Phương án tổng thể xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc".

Hai bên đã ký kết các văn kiện hợp tác :

- Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2017-2020 ;

- Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến năm 2025 ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc ;

- Hiệp định khung về hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Hải quan nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Công thư trao đổi về việc Trung Quốc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác triển khai viện trợ không hoàn lại chuyên về lĩnh vực y tế công cộng giữa Bộ Kế hoạch và đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về triển khai hợp tác thả giống nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Nông nghiệp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Công thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về an toàn thực phẩm trong thương mại song phương giữa Việt Nam-Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ về việc hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài truyền hình Việt Nam và Đài truyền hình trung ương Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Kinh tế trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc ;

- Kế hoạch hợp tác du lịch giữa Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cục Du lịch quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giai đoạn 2017-2019 ;

- Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2017- 2021 giữa Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc ;

- Thỏa thuận hợp tác giữa Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc ;

- Biên bản ghi nhớ giữa Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và Ngân hàng phát triển Trung Quốc về việc hợp tác tài trợ dự án và cho vay song phương trung dài hạn giai đoạn 2017 - 2019 ;

- Thỏa thuận hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật Việt Nam và Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2021.

12. Thông cáo chung Trung Quốc - Việt Nam 15/05/2017 (cấp Nhà nước : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Chủ tịch nước Trần Đại Quang), ngoài việc ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác kết nối giữa khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai" và sáng kiến "Vành đai và Con đường" :

Hai bên tích cực thúc đẩy công tác nghiên cứu và xây dựng kế hoạch hợp tác 5 năm trong lĩnh vực giao thông và năng lượng trong hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ, thúc đẩy khánh thành dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 2 (Cát Linh - Hà Đông) theo kế hoạch, sớm hoàn thành lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Gặp gỡ Hữu nghị Thanh niên lần thứ 17, Diễn đàn Nhân dân Việt - Trung, hoàn thành việc xây dựng Cung Hữu nghị Việt - Trung trong năm 2017.

Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân. Phía Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.

Hai bên đã ký kết các văn kiện hợp tác, trong đó có :

- Thỏa thuận về tăng cường hợp tác trong tình hình mới giữa Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ;

- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Đảng trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc.

13. Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 13/11/2017 (cấp Đảng : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình), ngoài việc hô hào cùng nhau thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung giai đoạn 2017-2021", ký kết và thực hiện danh mục các dự án hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hoàn thành dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 2 (Cát Linh - Hà Đông) theo kế hoạch. Ngoài ra hai bên đã ký :

- Thỏa thuận về hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc ;

- Bản ghi nhớ về thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với sáng kiến "Vành đai và Con đường" ;

- Biên bản ghi nhớ về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo ;

- Bản ghi nhớ về danh mục dự án hợp tác năng lực sản xuất năm 2017 ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực quản lý pháp quy an toàn hạt nhân ;

- Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới ;

- Bản ghi nhớ về việc thành lập nhóm công tác hợp tác thương mại điện tử ;

- Bản ghi nhớ về việc xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm của Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017-2021 ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển nguồn nhân lực, Công thư trao đổi về việc nghiên cứu tính khả thi trước khi lập dự án về Dự án viện trợ xây mới cơ sở 2 Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác và trao đổi thông tin thanh tra, giám sát ngân hàng ;

- Bản ghi nhớ về hợp tác công nghiệp văn hóa, Kế hoạch hành động về hợp tác y tế ;

- Thỏa thuận hợp tác về trao đổi khoa học giữa Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Trung Quốc ;

- Thỏa thuận khung hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Việt Nam và Cục Sự nghiệp xuất bản - phát hành Ngoại văn Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2022 ;

- Thỏa thuận giao lưu và hợp tác báo chí giữa Hội nhà báo Việt Nam và Hội nhà báo toàn quốc Trung Quốc ;

- Thỏa thuận về hợp tác đào tạo cán bộ giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Đảng cộng sản Việt Nam và Khu ủy Khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng cộng sản Trung Quốc ;

- và một số thỏa thuận hợp tác giữa doanh nghiệp, tổ chức tài chính.

***************

Sự cố Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vị đột quỵ tại Kiên Giang là một bất ngờ đối với hai Đảng và hai nước. Sự vắng mặt của ông Nguyễn Phú Trọng tại diễn đàn Diễn đàn Con đường Tơ lụa mới tại Bắc Kinh ngày 28/04/2019 khiến Bắc Kinh hụt hẫng, Tổng bí thư - Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã không có tuyên bố chung nào với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, người thay mặt Nguyễn Phú Trọng, để khai triển chiến lược mới này tại Việt Nam trong giai đoạn tới. Để bù đắp sự thiếu vắng này, phía Trung Quốc đành phải cử người ký kết những thỏa thuận với từng cấp cao trong Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, như những thỏa thuận ký giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch và Thượng tướng Ngụy Phượng Hòa, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc viếng thăm chính thức Việt Nam từ ngày 27 đến 29/05/2019.

Về những thỏa thuận đã ký, những tai họa về kinh tế, tài chính do phía Trung Quốc áp đặt lên Việt Nam bắt nguồn từ năm 2008, dưới thời Tổng bí thư Nông Đức Mạnh : Trung Quốc được quyền xây dựng những cơ sở hạ tầng và khu công nghiệp trên những địa bàn chiến lược của Việt Nam), cao điểm là trong hai năm 2013 và 2015, dưới thời Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng : cho phép Trung Quốc đổ tiền ồ ạt vào Việt Nam dưới hình thức tín dụng cho vay, và cho phép những công ty lớn của Trung Quốc trúng thầu toàn bộ những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở cần thiết và không cần thiết. Dưới thời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, tình hình càng trầm trọng thêm, năm 2017 Trung Quốc đẩy thương vụ trao đổi lên 100 tỷ USD (tăng thêm 40 tỷ USD so với năm 2015) (60 tỷ), vượt quá sức chịu đựng của một nền kinh tế yếu kém với những món nợ không thể trả nổi.

Tình trạng bị thúc ép gia tăng thương vụ với Trung Quốc sẽ còn bị thúc ép hơn nữa trong những năm sắp tới. Hiện nay, với sự tiếp tay của Đảng cộng sản Việt Nam qua ông Nguyễn Phú Trọng, giới đầu tư và doanh nhân Trung Quốc đang tiến vào miền Nam Việt Nam theo sách lược "Sáng kiến Vành đai Con đường" được khởi động từ năm 2015.

Trong những ngày sắp tới, Đảng cộng sản Việt Nam sẽ bằng mọi cách vay thêm tiền và loại bỏ những nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế để cho phép nhà đầu tư Trung Quốc trúng thầu xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam, đường sắt cao tốc Bắc Nam, cảng sông Đồng Nai-Biên Hòa, đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong và Phú Quốc nhằm phục vụ sinh hoạt của những cơ sở kinh tế mà Trung Quốc muốn trực tiếp xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.

Nguyễn Văn Huy

 

---------------------------

Mc lục

 

Phần 0 - Tổng quan

Phần 1 - Nắm giữ miền Bắc

Phần 2 - Hai hành lang một vành đai kinh tế

Phần 3 - Muốn làm chủ luôn cả miền Nam

Phần 4 - Khu đô thị mới Thủ Thiêm

Phần 5 - Bằng chứng của một sự phản bội

Additional Info

  • Author Nguyễn Văn Huy
Published in Tư liệu