30/04 : Mỹ giảm viện trợ đã tác động thế nào đến Việt Nam Cộng Hòa (BBC, 30/04/2019)
Chiến tranh Việt Nam, mặc dù chính thức kết thúc ngày 30/4/1975, vẫn tiếp tục là chủ đề tranh luận trong giới nghiên cứu tại Hoa Kỳ.
Ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, vào hôm 30/4/1975
Có hai trường phái chính trong giới nghiên cứu Mỹ, có thể tạm gọi là "truyền thống" (orthodox) và "xét lại" (revisionist) về cuộc chiến.
Phái truyền thống đại diện cho lập trường chủ đạo trong đa số đại học và truyền thông Mỹ. Đa số những người này cho rằng cuộc chiến ở Việt Nam là sai lầm và bi kịch.
Nhiều người trong nhóm xét lại thì cho rằng Mỹ tham chiến ở Việt Nam là có lý do chính đáng, và đã bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng.
Tranh luận giữa hai phe thể hiện trong nhiều chủ đề liên quan cuộc chiến, trong đó có câu hỏi về tác động của việc Mỹ giảm viện trợ cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 1973, và giúp đỡ của Liên Xô - Trung Quốc cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không còn được Mỹ yểm trợ hỏa lực sau 1973
Xe tăng, súng pháo bên nào ưu thế hơn ?
Vào năm 1973, ước đoán bộ đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam và dọc biên giới ở Lào và Campuchia nhận thêm xe tăng - từ 100 xe lên tới 500 và sau đó là 650 xe tăng, ít nhất gấp đôi so với quân Việt Nam Cộng Hòa.
Giới nghiên cứu truyền thống cho rằng khi chỉ xét về hỏa lực, quân lực Việt Nam Cộng Hòa có ưu thế hơn.
Còn các học giả thuộc phe xét lại, George R. Dunham và David A. Quinlan đồng ý rằng đến năm 1975, quân lực miền Nam có 1.200 khẩu pháo, so với 400 của bộ đội miền Bắc.
Nhưng họ nói các khẩu pháo chính của bộ đội miền Bắc lại là pháo tự hành 122 mm và 130 mm, cùng pháo chống tăng SU-122 của Liên Xô. Các loại súng này bắn nhanh hơn, xa hơn pháo chính của miền Nam, sử dụng 105 mm và 155 mm của Mỹ.
Vũ khí Liên Xô cũng cơ động, giúp bộ đội miền Bắc phản kích lại số lượng nhiều hơn của miền Nam.
Miền Nam có một số khẩu pháo 175 mm bắn xa của Mỹ, nhưng SU-122 và 130 mm của Liên Xô lại chính xác hơn.
Đến cuối 1973, bộ đội miền Bắc ở miền Nam được trang bị tên lửa đất đối không vác vai SA-7 ; một số đơn vị có SA-2. Có trung đoàn có cả pháo cao xạ ZSU-23, là loại chưa từng dùng ở Việt Nam.
1966 : Phi công miền Bắc học lái Mig-21 với giáo viên Liên Xô
Giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa
Việc Mỹ giảm viện trợ cho miền Nam là một nửa vấn đề, nửa còn lại là giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc cho miền Bắc, một tranh cãi nữa giữa hai phe nghiên cứu.
Một số nhà nghiên cứu truyền thống nói sau hiệp định Paris 1973, viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc cũng giảm, và chủ yếu mang tính chất kinh tế. Điều này dẫn tới quan điểm rằng sự sụp đổ của miền Nam năm 1975 không phải do Mỹ cắt viện trợ, mà do sai lầm và yếu kém của Sài Gòn.
Phe xét lại thì nói quân lực miền Nam sau 1974 gặp thiếu thốn hơn bộ đội miền Bắc. Sau khi Mỹ đã rút quân, miền Bắc không còn phải đối phó hỏa lực của Mỹ, đặc biệt là không quân Mỹ.
Cuối năm 1974, tướng Viktor Kulikov, tổng tham mưu trưởng Liên Xô, thăm Hà Nội. Sau đó, tàu vận chuyển quân sự của Liên Xô cho miền Bắc tăng mạnh.
George J. Veith chỉ ra một điểm khác, là vai trò đào tạo của Liên Xô. Theo ông, Chiến dịch Xuân - Hè 1972 thất bại vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp không hiểu cách điều động cùng lúc các cánh quân gồm bộ binh, pháo binh và xe tăng, một yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Veith nói, sau 1972, bộ đội Bắc Việt "cần trở thành quân đội hiện đại, và chỉ có Liên Xô có thể đào tạo".
Mùa thu 1973, nhiều chỉ huy Bắc Việt được đưa sang Liên Xô học cách đánh này.
George J. Veith cũng chỉ ra rằng địa lý Việt Nam khiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa "phải phòng thủ mọi nơi, mọi lúc", cần đông quân, đông khí tài (nghĩa là cần viện trợ). Còn bộ đội miền Bắc, thông qua đường mòn Hồ Chí Minh, có thể tấn công với quân số nhỏ hơn, cơ động hơn.
Ngoài ra còn là bối cảnh miền Nam, từ sau hiệp định Paris, cũng lâm vào tình trạng khó khăn kinh tế triền miên.
George J. Veith trích dẫn một thăm dò với quân nhân sư đoàn 3 của Việt Nam Cộng Hòa năm 1973. Theo đó, 90% gia đình binh sĩ đã không ăn thịt trong hơn một tháng.
Tháng 8/1974, Hạ viện Mỹ đồng ý chuẩn chi 700 triệu đôla trong số 1 tỉ đã được chấp thuận cho miền Nam Việt Nam. Nhưng sau khi đã tính phí tổn của chương trình viện trợ quốc phòng, con số thực còn 500 triệu.
Với số tiền này, Sài Gòn chỉ có thể mua đạn dược, xăng dầu, dẫn tới tiên đoán rằng đến cuối tài khóa năm 1975 (30/06/1975), quân lực miền Nam sẽ hầu như không còn xăng và dự trữ đạn chỉ còn 30 ngày.
Tranh cãi
Tháng 10/1974, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Cao Văn Viên ra lệnh mỗi lần chỉ được có hai cuộc hành quân quan trọng đồng thời, mỗi cuộc không quá 10 ngày trong tháng.
Tướng Viên báo cáo với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rằng miền Nam "sẽ không có khả năng chống lại quân cộng sản được trang bị và tiếp tế đầy đủ hơn" (trích trong sách của George J. Veith).
Sau 1974, thiếu hụt phụ tùng, cắt giảm nhiên liệu còn làm tiêu hao khả năng không vận của không lực miền Nam.
Vì vậy George J. Veith, trong sách Black April : The Fall of South Vietnam, 1973-75, kết luận vào năm 1975, nếu quân miền Nam "được chi viện đầy đủ và được Hoa Kỳ yểm trợ", kết cục chiến tranh có thể đã khác.
Nhưng Gary R. Hess không tin như vậy. Viết trong Vietnam : Explaining America's Lost War, ông nói :
"Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 bộc lộ khuyết điểm của chính sách Nixon-Kissinger và các lực đẩy chính trị bên dưới ở Việt Nam mà Mỹ không thể thay đổi".
"Cho rằng đưa thêm giúp đỡ quân sự từ Mỹ có thể thay đổi kết cục, là bỏ qua 20 năm vô ích cố gắng nuôi dưỡng một chính phủ miền Nam có thể trụ vững, những khiếm khuyết kinh niên của chính phủ đó, và sự kiên trì của miền Bắc và quân nổi dậy miền Nam".
Nguồn : BBC tiếng Việt, 30/04/2019
*******************
1964-1975 : Trung Quốc ‘viện trợ Hà Nội nhưng không thể chỉ huy’ (BBC, 29/04/2019)
Một nghiên cứu mới về viện trợ Trung Quốc cho Bắc Việt Nam từ 1964 tới 1975 kết luận Trung Quốc góp phần giúp miền Bắc chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng Bắc Kinh không tác động nổi tới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai năm 1953
Bài viết Reassessment of Beijing's economic and military aid to Hanoi's War, 1964-75 của Shao Xiao & Xiaoming Zhang vừa đăng trên tạp chí học thuật Cold War History tháng 4/2019.
Hai tác giả nói viện trợ của Trung Quốc thay đổi suốt chiến tranh, đạt đỉnh cao năm 1965, 1967, 1972, và 1974.
Trung Quốc viện trợ để phục vụ lợi ích riêng của nước này. Vì vậy, sự thay đổi trong viện trợ khiến Hà Nội nghi ngờ ý định thật của Bắc Kinh.
Theo lịch sử chính thức của Trung Quốc, từ thập niên 1950 tính tới 1975, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng hơn 20 tỉ nhân dân tệ. Trong đó, 1,4 tỉ là cho vay không lãi suất.
Tranh cổ động của Trung Quốc mô tả 'bà mẹ Việt Nam căm thù diệt Mỹ'
Hai tác giả nói đóng góp của Trung Quốc cho chiến thắng của Hà Nội là không thể phủ nhận. Nhưng viện trợ này chưa bao giờ thuần túy hữu nghị.
Sau khi xem Liên Xô là đe dọa lớn, Mao Trạch Đông tìm cách hòa hoãn với Mỹ, khiến Hà Nội lo lắng.
Trung Quốc có lúc tăng viện trợ cho Hà Nội nhưng cũng có lúc giảm đi để bày tỏ bất mãn, như khi Hà Nội đàm phán hòa bình với Mỹ năm 1968 và 1969.
Hai tác giả nói : "Không thấy có bằng chứng nào tồn tại rằng viện trợ Trung Quốc tác động tới các quyết định và cách tiến hành chiến tranh của Hà Nội".
"Hà Nội thao túng khéo mối quan hệ với Bắc Kinh để có viện trợ đáng kể", hai tác giả viết.
Sau 1975, Hà Nội không còn phải che giấu sự nghi ngờ Trung Quốc, dẫn tới cuộc chiến ngắn ngày năm 1979.
Hai tác giả kết luận, khi nhìn lại, hóa ra sự hỗ trợ của Trung Quốc cho Việt Nam có thể xem là "thất bại ngoại giao lớn nhất" của Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh.
Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông
Viện trợ sau Hiệp định Paris 1973
Năm 1974, viện trợ Trung Quốc cho Hà Nội ở khoảng 2,5 tỉ nhân dân tệ, ngoài ra là 2 tỉ tệ cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Lúc này, Trung Quốc cho rằng Hà Nội "cần nghỉ ngơi", trong lúc Nam Việt Nam, Lào và Campuchia "dựng xây hòa bình, trung lập" trong 5 tới 10 năm nữa.
Bắc Kinh lúc này xem Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một thực thể riêng.
Trước 1973, viện trợ của Bắc Kinh cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam luôn do Hà Nội xử lý. Nhưng từ 1973, Bắc Kinh xem viện trợ này là riêng biệt, không để Hà Nội kiểm soát.
Nhưng Hà Nội phản đối điều này, buộc Bắc Kinh sau đó phải thay đổi trở lại, để Hà Nội kiểm soát.
Sau khi có hiệp định Paris 1973, Trung Quốc xem chiến tranh Việt Nam thế là hết, và vì vậy cần giảm viện trợ vũ khí cho Hà Nội.
Ngày 26/10/1974, Trung Quốc và Việt Nam ký thỏa thuận lần chót, cung cấp cho Hà Nội 850 triệu tệ cho kinh tế và vũ khí, cùng 50 triệu đôla tiền mặt cho năm 1975.
Sau khi Sài Gòn sụp đổ, vào ngày 31/05/1975, Bắc Kinh lại đồng ý gửi cho Hà Nội 21 triệu tệ.
Nhưng tháng Tám 1975, Bắc Kinh bác yêu cầu xin thêm của Hà Nội.
Ngày 25/09/1975, Bắc Kinh hứa gửi 100 triệu tệ trong năm 1976, nhưng lần này là cho vay, yêu cầu Việt Nam trả lại sau 10 năm.
Theo hai tác giả, không thấy có bằng chứng nào trong hồ sơ Trung Quốc rằng kể từ đó, có thêm thỏa thuận viện trợ nào giữa hai nước.
Tác giả Shao Xiao công tác ở khoa lịch sử, Đại học Tế Nam, Quảng Châu, còn ông Xiaoming Zhang làm việc ở Air War College, Alabama, Hoa Kỳ.
Góc nhìn Việt Nam
Về phía Việt Nam, một nghiên cứu gần đây năm 2016 của Lưu Văn Quyết, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, nói Trung Quốc "thay đổi cách nhìn cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam ; điều chỉnh trong chính sách viện trợ bằng việc cắt giảm viện trợ kinh tế, từ cam kết "cung cấp bất kỳ thứ gì cần thiết cho Việt Nam", sang việc nhấn mạnh "để cho Trung Quốc nghỉ xả hơi" ; gây một số khó khăn trong việc vận chuyển các mặt hàng viện trợ quá cảnh của Liên Xô và các nước khác cho Việt Nam".
Đây là đoạn trích từ bài "Tác động của hòa hoãn Trung - Mỹ đến chính sách viện trợ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam trong và sau năm 1972" của ông Lưu Văn Quyết.
Trong bài này, tác giả Việt Nam nói : "Để đạt được mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, Việt Nam đôi lúc hoặc bỏ ngỏ hoặc không gay gắt trong một số vấn đề phát sinh với Trung Quốc. Những vấn đề về biên giới lãnh thổ và một số vấn đề khác vốn bị cố tình giảm nhẹ đi trong điều kiện Việt Nam đang tranh thủ viện trợ, dốc toàn sức lực cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước".
"Vì vẫn muốn nắm vấn đề Việt Nam để tạo lợi thế trong quan hệ với Mỹ và tránh để Liên Xô nhảy vào lấp chỗ trống, tạo nên uy hiếp mới sau khi Mỹ rút quân. Trung Quốc vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Việt Nam, dù số lượng có giảm so với những giai đoạn trước".
Nguồn : BBC tiếng Việt, 29/04/2019