Du khách Châu Âu đến Đà Lạt, ngoài việc cảm nhận "hương vị Pháp" trong quy hoạch đô thị, tổ chức cảnh quan và phong cách kiến trúc của thành phố này, sẽ nhận ra một thiếu vắng quan trọng.
Sân golf Đồi Cù. (Hình : Lê Sơn)
Nằm trong số mười đô thị trên thế giới được mệnh danh là "Thành phố có Mùa Xuân Vĩnh Cửu" nhờ cảnh quan miền núi thơ mộng, khí hậu ôn đới dễ chịu và hệ thực vật phong phú đa dạng, tuy nhiên ngày nay, Đà Lạt không sở hữu một công viên công cộng nào.
Cổng chính vào Thung Lũng Tình Yêu. (Hình : Lê Sơn)
Trước đó, ra đời từ nhu cầu nghỉ dưỡng và phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần, nên ngoài khí hậu, vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên có vai trò chính trong việc chọn lựa vị trí xây dựng và thiết kế các đồ án quy hoạch cho thành phố này. Đà Lạt, như vậy trước hết là một đô thị cảnh quan miền núiduy nhất ở Việt Nam, và các không gian xanh tự nhiên lớn như Đồi Cù (sân golf và vườn hoa công cộng, 65 ha), khu vực Valley d’Amour (Thung lũng Tình yêu và hồ Đa Thiện, 137 ha) hay Lac des Soupirs (Hồ Than thở và trường Võ bị Đà Lạt, 39 ha)… ra đời cùng thành phố đã góp phần quan trọng định hình bản sắc và giá trị của đô thị này.
Công viên (parc / park) là một khu vực tự nhiên được xác định giới hạn, với hệ sinh thái trong đó được giữ lại toàn bộ (mục tiêu là bảo tồn vẻ đẹp tự nhiên), hoặc giữ một phần và kết hợp với cảnh quan nhân tạo (mục tiêu là thêm vào các hạng mục giải trí). Còn vườn (jardin / garden) là không gian đô thị được tự nhiên hóa toàn bộ thông qua nghệ thuật cảnh quan và bố trí cây xanh. Về qui mô, thông thường công viên lớn hơn vườn, chẳng hạn Central Park (New York) có diện tích là 341 ha, Tiergarten (Berlin) là 210 ha. Thuộc sở hữu công, quản lý và bảo trì bởi chính quyền, mở cửa miễn phí, công viên và vườn công cộng giữ vai trò quan trọng trong đô thị hiện đại. Không chỉ về mặt cảnh quan, các nghiên cứu khoa học đã chứng minh vai trò quan trọng của không gian xanh đối với sức khỏe tinh thần của cư dân, như vấn đề stress của xã hội công nghiệp. Ngoài việc vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, thư dãn, công viên còn cung cấp không gian tự nhiên để tập luyện sức khỏe với phí tổn tối thiểu và thời gian linh hoạt tùy từng đối tượng.
Khác với "trạm nghỉ dưỡng" Bà Nà hay Sa Pa, Đà Lạt là một đô thị đúng nghĩa, từng được định hướng là thủ đô của Đông Dương thuộc Pháp, sự tồn tại công viên công cộng lớn gắn với hệ sinh thái tự nhiên là quan trọng cho cả dân cư địa phương và du khách, vì đây là sản phẩm không thể tìm thấy ở nơi khác và mang lại các lợi ích kinh tế ngầm cho thành phố. Một ví dụ điển hình : du khách, sau khi tham quan miễn phí Vườn thượng uyển (830 ha) của Lâu đài Versailles, sẽ chi tiêu vào mua sắm, ẩm thực, khách sạn, di chuyển,... Ban Mê Thuột hay Pleiku, dù có vị trí chiến lược quan trọng hơn Đà Lạt trong chuỗi đô thị miền núi Tây Nguyên, là các thành phố nhỏ được hình thành tương đối tự phát trong thời Pháp, và hiện tại vẫn đang ở tình trạng "ngủ đông" dù nằm trên tuyến đường Hồ Chí Minh đã xây dựng xong.
Sân golf Đồi Cù bên kia Hồ Xuân Hương, nhìn từ Quảng Trường Lâm Viên. (Hình : Lê Sơn)
Cho đến những đầu những năm 1990, các không gian xanh Đồi Cù, Thung Lũng Tình Yêu, Hồ Than Thở, vẫn giữ được thuộc tính "công cộng", cả về sở hữu, công năng và đối tượng sử dụng, được xác định bằng luật từ thời Pháp. Từ khi Việt Nam mở cửa, tương tự như ở những thành phố khác, mà trường hợp TP. Hồ Chí Minh và Xưởng đóng tàu Ba Son là ví dụ cụ thể, quá trình tư hữu hóa tài sản công thiếu minh bạch đã biến ba công viên này thành tài sản của các công ty tư nhân Việt Nam, trở thành cỗ máy kiếm tiền, công cụ giữ đất, phát triển dự án bất động sản. Tất cả mọi người phải mua vé vào cửa, để rồi nhận thấy cảnh quan thiên nhiên đẹp lãng mạn bị thay thế bằng chuỗi tiểu cảnh nhân tạo rất giới hạn về thẩm mỹ và chiều sâu ý tưởng, hơn nữa còn bị phá vỡ bởi vô số cửa hàng, quán ăn, dịch vụ... Đồ án mới về quy hoạch chi tiết khu trung tâm Đà Lạt (2019) tiếp tục lô-gic này với việc xóa bỏ Dinh tỉnh trưởng cũ (từng là Bảo tàng Lâm Đồng) và tư hữu hóa toàn bộ khu đồi (hiện còn 4,4 ha) ở trung tâm lịch sử của Đà Lạt. Cần nhắc lại là hai khách sạn di sản, Palace và Du Parc, cùng toàn bộ vườn cảnh mênh mông nay cũng đã thuộc về sở hữu tư nhân.
Không gian xanh mở chủ yếu hiện nay của Đà Lạt là mặt nước Hồ Xuân Hương, đóng khung bởi tuyến đường nhỏ hẹp bọc quanh ven hồ với vỉa hè ít chăm sóc, được kết nối bởi một số vườn cảnh công cộng, thiếu bản sắc và sự hấp dẫn. Trong khi đó, Vườn Hoa Thành Phố cũng được thương mại hóa, còn Quảng trường Lâm Viên đối diện với Đồi Cù là một mảng bê tông lớn vô hồn, hoàn toàn không có cây xanh.
Khách sạn Palace. (Hình : Lê Sơn)
Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã mang lại nhiều thay đổi quan trọng, kể cả trong lĩnh vực quy hoạch và kiến trúc. Toàn bộ công viên và vườn cảnh lộng lẫy cho đến trước thời điểm đó thuộc sở hữu tư và chỉ dành cho giới thượng lưu hay lãnh đạo tôn giáo. Thay đổi xã hội nói trên đã đặt nền móng cho sự hình thành công viên và vườn công cộng, thông qua việc nhiều tài sản loại này được chuyển thành sở hữu công và mở cửa tự do cho tất cả. Tiếp theo, khái niệm công viên công cộng được giới thiệu chính thức lần đầu năm 1830 bởi nhà thực vật học người Anh John Claudius Loudon, gắn liền với tư tưởng tiến bộ. Ông khẳng định xây dựng hệ thống công viên và vườn công cộng đô thị là công cụ để cải cách xã hội. Tư tưởng này nằm trong trào lưu quy hoạch đô thị lớn hơn đang diễn ra ở toàn Châu Âu lúc đó : cung cấp môi trường sống sạch sẽ, chất lượng cao về sức khỏe vật chất và tinh thần, phòng bệnh hơn chữa bệnh, bảo đảm bình đẳng về xã hội, nhằm sửa chữa những mặt trái của đô thị phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa.
Việt Nam ngày nay dường như đang đi ngược với trào lưu tiến bộ chung của thế giới ở nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quy hoạch và quản lý đô thị.
Liệu Đà Lạt, người dân địa phương và du khách, ngày nào đó sẽ nhận lại tất cả các công viên công cộng huyền thoại của mình ?
Lê Sơn
Nguồn : VOA, 12/07/2019