Bãi Tư Chính : Tranh chấp song phương hay đa phương và Việt Nam cần làm gì ?
Trương Nhân Tuấn, BBC, 29/07/2019
Trên BBC có bài phỏng vấn ông Ngô Vĩnh Long, giáo sư đại học Maine ở Mỹ. Giáo sư Long cho rằng "Việt Nam thua ở bãi Tư Chính", mà nguyên nhân là vì Việt Nam không "đa phương hóa Biển Đông". Đây là điều mà Giáo sư Long cho rằng ông đã đã cảnh báo Việt Nam "từ mười mấy năm nay". Dẫn nguyên văn :
Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi năm 2014
"Họ (Trung Quốc) muốn đây là vấn đề song phương, mà vấn đề song phương thì các nước khác không được dính líu vào. Chỉ là giữa Trung Quốc với Việt Nam thôi. Thì vấn đề này Việt Nam phải suy nghĩ, vì trong mười mấy năm qua chúng tôi nói là Việt Nam phải cố gắng đa phương hóa vấn đề Biển Đông".
Điều đáng tiếc là trong bài phỏng vấn, Giáo sư Long đã không cắt nghĩa để độc giả hiểu thế nào là "đa phương hóa tranh chấp ở Biển Đông", đặc biệt ở bãi Tư Chính.
Tranh chấp Tư Chính bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền
Vụ bãi Tư Chính, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao của cả hai bên lên tiếng phản đối nhau, nội dung xét ra không khác chi nhiều.
Phía Trung Quốc ra tuyên bố : "Việt Nam phải nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình".
Phía Việt Nam ra tuyên bố : "Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên".
Tranh chấp ở Bãi Tư Chính vì vậy là có nguồn gốc từ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ (chống lấn hải phận, tranh chấp quyền tài phán v.v…).
Câu hỏi đặt ra cho Giáo sư Long là làm thế nào để "đa phương hóa" một tranh chấp vốn có nguồn gốc lâu đời từ "tranh chấp về chủ quyền" ?
Theo tôi Biển Đông có rất nhiều vấn đề, vừa "đa phương" vừa "song phương".
Việc các quốc gia chung quanh Biển Đông phải tôn trọng quyền tự do hải hành của tàu bè các nước là vấn đề "đa phương". Việc các nước ASEAN cùng Trung Quốc thảo luận bộ "qui tắc ứng xử - COC" ở Biển Đông là một vấn đề "đa phương".
Trung Quốc sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có các tàu 'nghiên cứu' Hải Dương Địa Chất, đưa vào các khu vực đang có tranh chấp ở Biển Đông và khu vực
Tôi không nghĩ tranh chấp Tư Chính sẽ được giải quyết trong khuôn khổ "quyền tự do hải hành" hay theo nội dung "tuyên bố ứng xử COC".
Các việc "song phương",chỉ có thể giải quyết bằng thiện chí giữa hai nước, như việc phân định hải phận giữa hai quốc gia kế cận, hay đối diện trên Biển Đông.
Việt Nam phân định biển với Thái Lan, Malaysia... Việt Nam nộp chung hồ sơ "thềm lục địa mở rộng" với Malaysia… là các vấn đề "song phương", không quốc gia nào có thể "xen vào".
Mọi tranh chấp về "chủ quyền" ở một vùng lãnh thổ đều được giải quyết giữa các bên "có yêu sách chủ quyền". Tranh chấp này có thể được "quốc tế hóa", phân xử bằng một trọng tài quốc tế, như Tòa án Công lý Quốc tế.
Việc phân định biển giữa hai quốc gia chỉ có thể được "quốc tế hóa", tiên khởi với sự đồng thuận của hai bên, bằng một tòa án, hay một trọng tài quốc tế, nếu hai bên tranh chấp không tìm được thỏa thuận trong việc phân định. Bất kỳ quốc gia thứ ba can dự vào các việc này đều có thể qui vào việc vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc "không được can dự chuyện nội bộ quốc gia khác".
Tranh chấp Tư Chính : "Đa phương" hay "song phương" ?
Ta hãy xét những hành vi của tàu nghiên cứu địa chất của Trung Quốc đã (và đang) diễn ra ở bãi Tư Chính và lô 6.1.
Bãi Tư Chính Trung Quốc đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên "bản đồ dầu khí" của Việt Nam.
Toàn bộ khu vực Tư Chính nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, tính từ điểm cơ bản "Hòn Hải" thuộc cụm đảo Phú Quí.
Trung Quốc phản đối hệ thống điểm (và đường) cơ bản của Việt Nam, vì nó cách xa bờ. Giả sử Việt Nam từ bỏ hệ thống điểm cơ bản, điểm tính bề rộng hải phận 200 hải lý lấy từ ngấn nước cận bờ thì Bãi Tư Chính có một phần nằm ngoài khu vực 200 hải lý.
Lô 6.1 nằm ngoài khu vực Vạn An Bắc, thuộc bãi trầm tích Nam Côn Sơn, hoàn toàn nằm trong thềm lục địa tự nhiên (và pháp lý) của Việt Nam. Lô này hiện do công ty dầu khí lớn nhứt nước Nga là Rosneft khai thác (và phát triển) từ năm 2013 với 2 mỏ Lan Tây, Lan Đỏ. Trước đó lô 6.1 do BP khai thác, từ 2003 đến 2010 (BP rút lui do sức ép kinh tế của Trung Quốc).
Ngay cả khi đặt giả thuyết đảo Côn Sơn không đủ tiêu chuẩn "đảo" theo Điều 121 UNCLOS và Hòn Hải (thuộc cụm đảo Phú Quí) không có tiêu chuẩn để lấy làm "điểm cơ bản", thì lô 6.1 vẫn nằm trong vòng 200 hải lý, tính từ bờ biển Việt Nam (Trà Vinh hay Phan Thiết). Ghi lại các chi tiết này để thấy mọi yêu sách của Trung Quốc chống lại Việt Nam tại lô 6.1 là ngang ngược, phi lý.
"Bản chất" của tranh chấp khu vực Tư Chính là gì tại lô 6.1 là gì ?
Thứ nhứt, ở Bãi Tư Chính, nguyên nhân tranh chấp có thể đến từ sự đối nghịch lập trường giữa Việt Nam và Trung Quốc về việc giải thích nội dung của Luật Biển 1982, như việc giải thích hiệu lực các đảo Trường Sa theo điều 121.
Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền các đảo Trường Sa mà các đảo này có hiệu lực "đảo". Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa các đảo Trường Sa và bờ biển Việt Nam.
Việc này vốn "song phương", đã được giải quyết bằng "quốc tế hóa", trong phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, theo đó không có đảo nào ở Trường Sa có hiệu lực "đảo" để có 200 hải lý hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa.
Thứ hai, tranh chấp Tư Chính có thể đến từ sự áp đặt về "chủ quyền lịch sử" của Trung Quốc, thể hiện qua bản đồ chữ U 9 đoạn.
Khu vực Tư Chính nằm trong vùng "chồng lấn" giữa "vùng nước lịch sử" (bản đồ chữ U) của Trung Quốc và vùng biển đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam tính từ bờ. Đây là một vấn đề vốn "song phương" nhưng đã giải quyết bằng "quốc tế hóa" qua phán quyết của Tòa Trọng tài 11/7/2016 nêu trên.
Theo phán quyết, Tòa cho rằng "biển lịch sử" hay "chủ quyền lịch sử" thể hiện trong bản đồ chữ U là các khái niệm không phù hợp với Luật Biển 1982.
Thứ ba, nếu Trung Quốc không nhìn nhận hệ thống điểm (và đường) cơ bản thì Bãi Tư Chính vẫn nằm trong thềm lục địa pháp lý của Việt Nam (thềm lục địa mở rộng 200+100 hải lý), còn lô 6.1 hoàn toàn nằm trong thềm lục địa địa lý và pháp lý (200 hải lý) của Việt Nam.
Như vậy, bản chất tranh chấp ở bãi Tư Chính là Trung Quốc "ngồi xổm" lên luật lệ, bất chấp phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài. Nội dung phán quyết có mục đích giải thích việc áp dụng Luật Biển 1982 tại Biển Đông. Bản thân của phán quyết vì vậy cũng là "Luật".
Tòa cũng phán rằng các bãi chìm ở Trường Sa, như Bãi Tư Chính, thuộc về thềm lục địa của quốc gia ven bờ (tức của VN). Chúng không phải là đối tượng lãnh thổ để chiếm hữu hoặc tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc cũng bất chấp thực tế pháp lý và lịch sử là Quần đảo Trường Sa chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc.
Như vậy tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực Tư Chính là tranh chấp vừa "song phương" vừa có tính "quốc tế".
"Song phương" vì Việt Nam là nạn nhân của thái độ bành trướng ngang ngược, bá quyền ngồi trên luật của Trung Quốc. "Quốc tế" là vì mọi vấn đề liên quan đến việc "tuân thủ luật lệ" thuộc thẩm quyền của tất cả các quốc gia thuộc Liên Hiệp Quốc.
Nhưng ở lô 6.1 thì tuyệt đối không có tranh chấp chi cả.
Trung Quốc "đẩy" Việt Nam cái gì ?
Giáo sư Long có đề cập đến việc tự do thông lưu ở Biển Đông và trường hợp Đài loan để "minh họa" cho nội hàm "đa phương hóa" của mình. Dẫn nguyên văn :
"Là bởi vì nhiều nước trên thế giới đi ngang Biển Đông, nhưng Việt Nam lại rụt rè. Thành ra, Trung Quốc bây giờ càng ngày càng đẩy. Trung Quốc đẩy rất là 'hay', không những ở Biển Đông mà cả ở Đài Loan nữa. Họ đẩy từ từ.
"Ví dụ như Đài Loan, ngày xưa, thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc nói rằng là người Trung Quốc ở Đài Loan và người gốc Trung Quốc ở Đài Loan và người Trung Quốc ở lục địa đồng ý là chỉ có một nước Trung Quốc, không có nói gì vấn đề là Đài Loan thuộc về Trung Quốc".
"Nhưng Trung Quốc đẩy từ từ, bây giờ nói là Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc…"
Hết dẫn.
Mục đích "đa phương hóa" của Giáo sư Long, (nếu không lầm), là làm giảm sức "đẩy" của Trung Quốc.
Nhận định của cá nhân tôi, vấn đề "tàu bè nhiều nước qua lại trên Biển Đông" là một "vấn đề quốc tế", thuộc về tập quán quốc tế (Thông luật quốc tế - Droit International Coutumier), được cụ thể hóa qua điều 87 của bộ Luật quốc tế về Biển 1982.
Không ai "đa phương hóa" một vấn đề tự nó đã là một "vấn đề của quốc tế".
Về tự do thông lưu, trên không và trên biển, các đại cường như Mỹ, Pháp, Nhật… cho rằng hải đạo xuyên qua Biển Đông là một hải đạo quốc tế, các quốc gia cận biển phải tôn trọng quyền tự do thông lưu của các quốc gia khác.
Trung Quốc chủ trương "tự do thông lưu", tàu bè được tự do qua lại trong lãnh hải cũng như hải phận kinh tế độc quyền EEZ của Trung Quốc, nhưng điều này không áp dụng cho tàu chiến. Các quốc gia như Mỹ không chia sẻ lập trường này của Trung Quốc, như tại eo biển Đài loan, hay những vùng Trung Quốc mở rộng theo bản đồ chữ U ở Biển Đông.
Trên nguyên tắc, quyền tự do thông lưu thuộc về mọi quốc gia và quyền này được "luật quốc tế" bảo đảm. Mọi hành vi cản trở quyền tự do này đều xâm phạm đến lợi ích của tất cả các quốc gia khác.
Quyền tự do thông lưu trên Biển Đông thực tế chưa bao giờ bị cản trở.
Lo ngại chỉ bắt đầu dấy lên từ khi Trung Quốc hoàn tất việc xây dựng 7 đảo nhân tạo đồng thời "quân sự hóa" chúng (đầu năm 2018). Tuyên bố "vùng nước lịch sử" của Trung Quốc ở Biển Đông qua bản đồ chữ U 9 đoạn có thể đưa vào thực tế. Các quốc gia "nhỏ" chung quanh Biển Đông có nguy cơ bị Trung Quốc sử dụng áp lực kinh tế và quân sự buộc phải nhìn nhận thực tế này.
Để chống lại tham vọng của Trung Quốc, năm 2013 nội các Obama thành lập Chương trình FONOP (Freedom Of Navigation Operation Program) ở Biển Đông nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không.
Các chiến hạm Mỹ đã thực hiện chương trình FONOP, có lần đi qua lãnh hải 12 hải lý các đảo thuộc Hoàng Sa như đảo Phú Lâm và đảo Tri Tôn (USS Wilbur Curtis tháng giêng 2016, USS Stenthem tháng 7/2017) nhằm thách thức yêu sách "lãnh hải" và "vùng nước quần đảo" của Trung Quốc tại Hoàng Sa.
Các chiến hạm của Mỹ cũng thực hiện FONOP qua các chuyến đi vào khu vực 12 hải lý những đảo nhân tạo thuộc Trường Sa như đá Chữ Thập (USS W.P. Lawrence tháng 5/2016) , đá Gaven (USS Decatur tháng 9/2018)... nhằm thách thức yêu sách phi lý của Trung Quốc về hải phận của một cấu trúc nhân tạo trên biển.
Về hàng không thì phi cơ dọ thám Poseidon đã bay ngang qua đá Chữ thập để thách thức không phận đảo nhân tạo này (tháng 5/2015)...
Các quốc gia lo ngại rằng, với các bộ luật quốc gia của Trung Quốc hạn chế đáng kể các hoạt động của tàu bè trong một vùng "biển quốc tế", Trung Quốc có thể đơn phương ra tuyên bố vùng nước, vùng trời (như tuyên bố vùng Nhận dạng phòng không ADIZ) khu vực Biển Đông. Mọi phương tiện bay qua không phận Biển Đông, hoặc tàu bè qua lại trên Biển Đông đều phải thông báo hoặc xin phép Trung Quốc.
Vì vậy ta có thể hy vọng rằng chương trình FONOP của hải quân Mỹ vẫn được tiếp tục (mà không lo ngại rằng nội các Tổng thống Donald Trump sẽ bãi bỏ vì lý do "kinh tế" hay trao đổi lợi ích với Trung Quốc).
Hiển nhiên chương trình FONOP của Mỹ trong chừng mực là "quốc tế hóa", "đa phương hóa" Biển Đông mà Việt Nam là một bên có lợi.
Giải pháp nào cho tranh chấp Tư Chính ?
Theo tôi, sở dĩ có những vấn đề như Tư Chính hiện nay, nguyên nhân là do Trung Quốc không tuân thủ luật chơi quốc tế.
Nhiều người gợi ý Việt Nam copy hồ sơ của Philippines để đi kiện Trung Quốc.
Theo tôi, khó khăn của Việt Nam là làm thế nào để phán quyết của Tòa Trọng tài có hiệu lực chớ không phải đi kiện Trung Quốc với mô hình (hồ sơ) của Philippines.
Đi kiện (theo mô hình của Philippines) Việt Nam chắc phần thắng, nhưng hệ quả vẫn là một phán quyết y như phán quyết của Tòa tháng 7/2016.
Trung Quốc không tham gia, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa và dĩ nhiên không công nhận phán quyết của Tòa.
Việt Nam cần phải có "tư duy mới" và cách tiếp cận mới trong những vấn đề Biển Đông.
Mới đây viên chức Mỹ tố cáo Tập Cận Bình đã "bội ước" trong lời hứa "không quân sự hóa các đảo ở Biển Đông".
Theo nội dung bài báo trên VOA ngày 30/5/2019, Tướng Joseph Dunford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, nhân phát biểu trong một cuộc trao đổi về quốc phòng ở Viện Brookings tại thủ đô Washington nói rằng : "Mùa thu năm 2016, Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa với Tổng thống Obama là họ sẽ không quân sự hóa các hòn đảo [ở Biển Đông]. Nhưng những gì chúng ta chứng kiến ngày hôm nay đó là các đường băng dài 10 nghìn bộ [hơn 3 nghìn mét], các kho chứa đạn dược, việc thường xuyên triển khai thiết bị có khả năng phòng thủ tên lửa, khả năng hàng không, v.v…".
"Vì thế, rõ ràng họ đã từ bỏ cam kết đó".
Hôm 11/7, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ, bà Morgan Ortagus, ra tuyên bố lên án Trung Quốc : "việc Trung Quốc quân sự hóa các tiền đồn tại vùng đang tranh chấp ở Biển Đông đã phản bội cam kết năm 2015 của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là không tiến hành những hoạt động đó".
Ý kiến của Tập Cận Bình có thể trở thành một "tuyên bố đơn phương" có giá trị pháp lý ràng buộc.
Việt Nam cần đứng đầu trong việc phát động phong trào phản đối, buộc họ Tập tuân thủ lời hứa, Biển Đông phải "phi quân sự" thì các quốc gia chung quanh mới có thể tránh được áp lực gay gắt từ Trung Quốc.
Ngoài ra ta không thể loại trừ giả thuyết ý đồ của Tập Cận Bình khẳng định sự hữu dụng của việc xây dựng 7 đảo nhân tạo. Những chiếc tàu hải cảnh quấy rối Việt Nam đều có ghé qua các đảo Chữ Thập và Subi để lấy nhiên liệu.
Báo South China Morning Post hôm đầu tháng có bài viết nội dung trích dẫn ý kiến của khoa học gia Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc đã không nghiên cứu kỹ về địa chất và thời tiết khi xây dựng các đảo nhân tạo. Kiến trúc bằng bê tông ở các đảo này bị hư hỏng sau ba năm (do tia tử ngoại) và khí tài bằng kim khí bị rỉ sét (vì nước biển) sau một năm. Riêng năm 2014 Trung Quốc đã phải chi phí 300 tỉ đô la, tương đương 3% GDP cho việc bảo trì gây ra từ việc rỉ sét (tàu bè, súng đạn, máy móc…).
Nếu các con số này là "sự thật" thì chi phí bảo trì cho các đảo nhân tạo cực kỳ lớn. Các đảo thay vì là các "tiền đồn trên biển" của Trung Quốc nhằm mục đích khẳng định chủ quyền thì trở thành những "cục nợ" mà Tập Cận Bình là thủ phạm.
Việt Nam không thể loại trừ viễn cảnh Trung Quốc sẽ cho tàu bè quấy rối Việt Nam lâu dài và thường xuyên. Tập Cận Bình không chỉ muốn chứng minh cho phe chống đối thấy rằng các đảo nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho tàu hải cảnh cản trở công tác khai thác ở lô 6.1, hay các tàu thăm dò địa chấn ở bãi trầm tích Tư Chính (như đã thấy). Mà về lâu về dài, các vị trí quân sự đóng ở các đảo này sẽ can thiệp nhanh chóng để bảo vệ (trong tương lai) các giàn khoan của Trung Quốc hoạt động trong khu vực.
Vì vậy công tác hô hào "Tập Cận Bình phải giữ lời hứa không quân sự hóa các đảo Biển Đông" còn có hiệu quả làm giảm nhịp điệu gây hấn của Trung Quốc.
Nhưng quan trọng hơn cả là làm sao để Trung Quốc tuân thủ luật lệ quốc tế. Phán quyết ngày 11/7/2016 của Tòa Trọng tài thường trực có nội dung diễn giải và hướng dẫn cách thức áp dụng luật Quốc tế về Biển 1982 cho khu vực Biển Đông. Phán quyết vì vậy "cũng là Luật".
Việt Nam thua ở Bãi Tư Chính ?
Giáo sư Long nói "Việt Nam thua ở bãi Tư Chính".
Nói vậy theo tôi là hơi sớm. Thực tế đến nay Trung Quốc chưa "hút" được lít dầu nào ở khu vực này. Điều ta cần tìm hiểu là đàng sau vụ Tư Chính có những chuyện gì xảy ra.
Nếu ta nhớ lại vụ chiếc HD981 năm 2014 hoạt động ngoài khơi đảo Lý Sơn, Trung Quốc cũng không "hút" được lít dầu nào ở khu vực này.
Vấn đề là song song với "biến cố HD981" Trung Quốc cho xây dựng 7 đảo nhân tạo.
Việc Trung Quốc quân sự hóa 7 đảo nhân tạo (vốn chiếm của Việt Nam năm 1988) đã đe dọa an ninh quốc gia Việt Nam cũng như an ninh toàn khu vực.
Nhưng đó vẫn là "nghi vấn". Điều cần thiết, theo tôi Giáo sư Long cần giải thích thêm về nội hàm "quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông", đặc biệt trong trường hợp hiện nay Việt Nam và Trung Quốc ở vùng Tư Chính. Điều này sẽ giúp cho giới học giả Việt Nam về Biển Đông thêm cơ hội nghiên cứu để đóng góp vào công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích của Việt Nam ở hải phận EEZ và thềm lục địa của đất nước mình.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : BBC, 29/07/2019
*********************
Bãi Tư Chính – Việt Nam chưa mất đã thua
Thiên Điểu, VNTB, 29/07/2019
"Sự im lặng của người dân đã lọt vào bẫy đúng kịch bản mà Trung quốc mong muốn nhất, đồng thời chỉ ra nguy cơ "chưa đánh đã thua" của chính quyền Việt Nam ít nhất là trên khía cạnh chính trị".
Việc Trung quốc đưa tàu Hải Dương địa chất 8 vào thăm dò ở bãi Tư Chính là khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam đang đặt ra nhiều khả năng nguy hiểm. bản chất của vụ việc là hành vi công khai xâm lược của Trung quốc nhưng đến nay diễn biến vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng thế đối đầu cho đến khi một bên phải chấp nhận rút lui hoàn toàn. Hành vi xâm lược của Trung quốc không có gì phải bàn cãi, nhưng hành xử của phía chính quyền Việt Nam và thái độ của người dân cho thấy trong vụ việc này Việt Nam đã thua – ít nhất là trên khía cạnh chính trị.
Quay lại thời điểm 2012, khi Trung quốc đưa tàu tới bãi cạn Scarborough do Philippin chiếm giữ. Chính quyền của Philippin đã ngay lập tức có nhiều động thái phản ứng mạnh mẽ về mặt chính trị. Đỉnh điểm là việc khởi kiện Trung quốc ra Tòa án quốc tế và thằng kiện. đây là một chiến thắng pháp lý có ý nghĩa tuyệt đối về mặt chính trị trong vụ tranh chấp chủ quyền tương tự vụ bãi Tư Chính của Việt Nam hiện nay. Dù thua kiện nhưng Trung quốc vẫn đang duy trì kiểm soát khu vực bãi cạn Scarborough, phía Philippin vẫn đang phải tiếp tục đối mặt những thách thức với Trung quốc về xác lập chủ quyền trên thực tế ở Scarborough. Nói cách khác là Philippin chỉ cầm giữ Trung quốc lấn thêm sau phán quyết của Tòa án quốc tế chứ không giành lại được chủ quyền ở khu vực này.
Nguyên nhân chính do cả yếu tố chủ quan và khách quan : Về chủ quan, chính thái độ "xoay chiều" liên tục của chính quyền do Tổng thống Durante đã khiến quốc tế dần quay lưng với vấn đề Scarborough của Philippin. Dư luận và các chính phủ từng ủng hộ Philippin khi khởi kiện Trung quốc đã không còn ủng hộ mạnh mẽ sau những phát biểu và hành động bất nhất của Durate trong quan hệ với Trung quốc sau khi thắng kiện. Đồng minh quan trọng nhất của Philippin dưới thời của Tổng thống Obama vốn đã không mấy cứng rắn trong việc đối ngoại cũng đã im lặng vì thất bại trong thỏa thuận mở lại căn cứ quân sự ở Philippin đã bị chính Tổng thống Durante đóng cửa trước đó. Tất nhiên Mỹ không dại dội nhúng tay vào xung đột khi can thiệp cho một đồng minh đang bắt tay với chính kẻ xâm lược và thọc dao vào hông mình.
Trở lại vụ việc của Việt Nam. Trở lại thời điểm năm 2014. Sau khi bao vây, lấn chiếm bãi cạn Scarborough, đầu tháng 2/2014, Trung quốc đã đưa tàu Hải dương 981 vào thăm dò trong phạm vi thềm lục địa của Việt Nam. Vụ việc cũng được truyền thông mạng xã hội phát hiện từ thông tin từ kênh nước ngoài đăng tải. Sau đó đã thổi bùng lên những cuộc biểu tình của người dân khắp Bắc-Trung-Nam. Do thiếu kinh nghiệm, lại bị cuốn theo đạo diễn của thành phần giấu mặt, cuộc biểu tình đã xuất hiện một số tình huống bạo lực. Tuy vậy, chính thái độ của người dân đã truyền tải cho cả chính quyền Việt Nam lẫn Trung quốc một thông điệp rất rõ ràng : Nếu không rút giàn khoan 981 thì xảy ra chiến tranh là không tránh khỏi ! Kết quả sau hơn 2 tháng Trung quốc đã phải rút về nước.
Lòng dân đã giúp chế độ giành lại thế thắng trong tranh chấp chủ quyền năm 2014 là không thể chối cãi. Nhưng chính quyền Việt Nam sau đó đã bị một điểm lùi nghiêm trọng trong hành xử với người dân đã xuống đường biểu tình. Nếu nói việc xét xử những người biểu tình có hành vi quá khích như đốt, đập phá tài sản là việc "nhạy cảm" nhưng cần làm trên tinh thần pháp luật là có thể chấp nhận thì việc chính quyền Việt Nam bắt giữ, đánh đập nhiều người khác, truyền thông được Tuyên giáo bật đèn để qui chụp tất cả những người tham gia biểu tình chống Trung quốc là "phản động" là "đi biểu tình được 300.000 đồng" … đã khiến người dân nhìn vào chế độ bằng con mắt vừa nghi ngờ, vừa ác cảm. Nó là nguyên nhân chính dẫn đến lần này, Trung quốc đưa tàu Hải Dương địa chất 8 vào sâu hẳn trong vùng thềm lục địa Việt Nam ở bãi Tư Chính với sự tống của tàu quân sự còn nghiêm trọng hơn cả vụ tàu HD 981 năm 2014 rất nhiều nhưng người dân chỉ biểu thị quan điểm trên mạng xã hội. Không có bất cứ lời kêu gọi biểu tình hay động thái nào khác, thậm chí có người bày tỏ rõ quan điểm "để xem nhà nước xử thế nào" (!).
Vụ Trung quốc xâm phạm chủ quyền ở bãi Tư Chính được mạng xã hội cập nhật từ các kênh quốc tế. Truyền thông nhà nước đã im lặng hoàn toàn hơn 10 ngày kể từ khi vụ việc xảy ra. Mặt khác, ngay chính trong khi Trung quốc đưa tàu xâm phạm chủ quyền Việt Nam thì đương kim Chủ tịch Quốc hội đi thăm, làm việc tại Trung quốc đã không có bất cứ động thái hay phát ngôn nào liên quan ; 15 ngày từ khi Trung quốc xâm phạm bãi Tư Chính, thông tin "tàu Haiyang Dizhi 8 đã rút về " được tung ta tuy không xác định được nguồn nhưng rõ ràng là một âm mưu truyền thông nhằm "rút lửa" những ai quan tâm trong khi thực tế tàu Hải Dương địa chất 8 vẫn đang thăm dò, Trung quốc vẫn đang tăng thêm số lượng tàu quân sự trong khu vực bãi Tư Chính.
Một phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng – đương kim Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước – cũng được đem ra mổ xẻ khi chỉ đạo "đề phòng sự lợi dụng của các thế lực thù địch" trước khi truyền thông nhà nước được bật đèn để "kêu gọi toàn dân đoàn kết chống lại mưu đồ xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung quốc" ; các chi tiết về diễn biến cũng như hành động của quân đội Việt Nam không hề được đưa ra trong khi thông tin một phái đoàn quân sự cấp cao của Việt Nam lại lên đường sang Trung quốc "thảo luận về hợp tác trên biển Đông".. Tất cả những thông điệp ấy đã dẫn đến sự im lặng lạnh lẽo, đầy rủi ro cho bài toán chính trị liên quan.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy sẽ có một kết quả tốt đẹp cho Việt Nam. Nhưng chính việc im lặng của người dân đang cho thấy sự thất bại rõ ràng về mặt chính trị của chế độ. Hậu quả của nó cũng sẽ dẫn đến chính quyền Việt Nam khó tìm được sự ủng hộ của quốc tế khi muốn đấu tranh với Trung quốc bằng giải pháp ngoại giao và quan hệ quốc tế. trong trường hợp phải sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ chủ quyền thì cũng sẽ không có cơ sở nào để khẳng định người dân sẽ tham gia hay ủng hộ mạnh mẽ trước động thái như vậy. điều này cũng khiến cho chính quyền Việt Nam cũng khó mà "mạnh miệng" khi tìm kiếm giải pháp hòa bình với Trung quốc. điều này cũng đương nhiên tạo ra lợi thế cho Trung quốc khi "yên tâm" gia tăng các áp lực và hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam.
Sự im lặng của người dân đã lọt vào bẫy đúng kịch bản mà Trung quốc mong muốn nhất, đồng thời chỉ ra nguy cơ "chưa đánh đã thua" của chính quyền Việt Nam ít nhất là trên khía cạnh chính trị.
Thiên Điểu
Nguồn : VNTB, 29/07/2019
*******************
Sau Haiyang Dizhi 8, Trung Quốc sẽ làm gì ?
Tâm Don, VNTB, 29/07/2019
Đó là một tương lai có thể diễn ra nếu Việt Nam rụt rè và nhút nhát. Nếu tương lai đó diễn ra, Việt Nam sẽ mất 67 lô dầu khí nằm trọn trong đường lưỡi bò- đường chín đoạn do Trung Quốc ngang ngược vẽ ra. Đó sẽ là môt mất mát quá lớn, quá đau đớn và chua xót.
Việt Nam nên tiên liệu tương lai gần của bãi Tư Chính, lô 06.01 và hai lô 136-03, lô 07.03 để có các kịch bản ứng phó có hiệu quả đối với kẻ cướp biển Trung Quốc !
Trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ làm gì ở bãi Tư Chính, lô 06.01, lô 136.03 và lô 07.03 ? Đó là một câu hỏi cần được đặt ra.
Vào năm 2017 và năm 2018, Việt Nam đã yêu cầu Repsol ngưng triển khai dự án dầu ở hai lô 136.03 và lô 07.03, chấp nhận mất mát về kinh tế và mất mát về chủ quyền.
Trong tháng 6 và tháng 7/2019, Trung Quốc cho tàu Haiyang Dizhi 8 vào hoạt động địa chấn tại bãi Tư Chính ( Vanguard Bank) và tàu hải cảnh quấy rối tại lô 06.01 thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Việt Nam đã có động thái phản ứng. Phản ứng này yếu ớt hay khá mạnh mẽ, vẫn là câu hỏi mà cộng đồng mạng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Và đây có phải là phản ứng của một kẻ không thể chịu đựng thêm được nữa, không muốn mất mát thêm được nữa ? Rất khó có câu trả lời khi mà chính quyền Việt Nam luôn không công khai và minh bạch về tất cả các vấn đề nóng bỏng, kể cả vấn đề chủ quyền. Mọi diễn giải, mọi phân tích, mọi bình luận đều chỉ là võ đoán, suy đoán, suy diễn và thuyết âm mưu.
Trung Quốc luôn trung thành với chiến lược độc chiếm biển Đông theo cách tằm ăn dâu, theo cách mềm nắn rắn buông. Chắc chắn một điều rằng, phía Trung Quốc sẽ nghiên cứu cẩn thận các hình thức phản đối của Việt Nam trong vụ bãi Tư Chính và lô 06.01 nhằm xác định sự phản đối này nằm ở cấp độ nào : nhẹ nhàng, chiếu lệ hay mạnh mẽ, kiên quyết. Nếu Trung Quốc xác định sự phản đối của Việt Nam là mạnh mẽ và kiên quyết, Trung Quốc sẽ tạm thời để yên cho bãi Tư Chính và các lô nói trên. Nếu Trung Quốc xác định sự phản đối này nhẹ nhàng- chiếu lệ, Trung Quốc chắc chắn sẽ có những bước đi ngang ngược hơn ở lô 136.03, 07.03, bãi Tư Chính và lô 06.01 như hạ đặt giàn khoan để khoan thăm dò dầu khí ở các lô này và bãi Tư Chính, và sau đó là tiến hành triển khai các dự án khai thác dầu và khí. "Với Trung Quốc, khi yếu tố chính trị được đặt cao hơn yếu tố hiệu quả kinh tế, chỉ mất khoảng hai năm thăm dò địa chấn và minh giải tài liệu 3D hoặc 4C, Trung Quốc có thể triển khai ngay các giàn khoan khai thác dầu khí ở các lô này và bãi Tư Chính", một chuyên gia dầu khí ở Vũng Tàu nói với VNTB.
Sáng ngày 28/7, một tiến sĩ chuyên ngành địa chất dầu khí biển có 30 năm làm việc trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí Việt Nam đề nghị dấu tên trao đổi với VNTB rằng, căn cứ vào sơ đồ đường đi của tàu Haiyang Dizhi 8 được truyền thông công bố, có thể xác định chắc chắn rằng, tàu Haiyang Dizhi đang sử dụng công nghệ 3D để thăm dò địa chấn. Vị tiến sĩ này cho biết, tàu Haiyang Dhizhi 8 phải mất ít nhất hai tháng cho việc thăm dò địa chấn ở bãi Tư Chính. Sau khi kết thúc thăm dò địa chấn, các chuyên gia của Trung Quốc phải mất từ 11 đến 12 tháng để minh giải tài liệu địa chấn thu được dù được trợ giúp từ những phần mềm chuyên dụng. Minh giải tài liệu địa chấn nhằm xác định các cấu trúc có khả năng chứa dầu, không có khả năng xác định trữ lượng dầu và khí. Sau khi xác định được các cấu trúc có khả năng chứa dầu mới triển khai khoan thăm dò nhằm xác định chính xác trữ lượng dầu và khí để đưa ra quyết định có khai thác thương mại hay không.
Vị tiến sĩ này cũng cho biết, rất khó để khẳng định dữ liệu địa chấn thu được của tàu Haiyang Dizhi 8 có chính xác hay không, vì rằng hoạt động của tàu này có thể bị nhiễu hoặc bị gây nhiễu. Nếu bị nhiễu hoặc bị gây nhiễu, dữ liệu mà Haiyang Dizhi 8 thu được hoàn toàn không khả tín, và sự minh giải sẽ đi vào bế tắc.
Vị tiến sĩ này nhận định rằng, trong vụ tàu Haiyang Dizhi 8, ý chí chính trị của Trung Quốc bao trùm lên tất cả, bất chấp việc không có kết quả chính xác. Ông cho biết : Chúng tôi là những người hiểu sâu về địa chất dầu khí biển, chúng tôi biết đâu là thực, đâu là hư. Vụ giàn khoan Haiyang 981 hạ đặt trong vùng biển Việt Nam vào năm 2014 không phải để khoan thăm dò mà chỉ đơn thuần là thực hiện một ý chí chính trị. Này nhé, Haiyang 981 hạ đặt tại vùng biển Việt Nam vào ngày 01/05/2014 và được kéo đi vào ngày 16/07/2014. Khoảng thời gian hạ đặt chỉ 75 ngày cho biết Haiyang 981 không khoan gì cả. Vì sao ? Vì việc mở một giếng khoan và gia cố giếng khoan đã mất 30 ngày. Để khoan một mũi khoan dầu khí biển, với công nghệ khoan tiên tiến nhất hiện nay cũng mất 70 ngày. Sau khi hoàn thành khoan phải mất thêm 15 ngày cho việc trám giếng khoan. Tổng cộng là 115 ngày. Haiyang 981 chỉ có 75 ngày hạ đặt, đó không phải khoan thăm dò, đó là một hành động biểu hiện ý chí chính trị.
Vị tiến sĩ địa chất dầu khí biển nhận định rằng, từ việc hạ đặt giàn khoan Haiyang 981 vào năm 2014 và vụ tàu Haiyang Dizhi 8 vào thời điểm này, có thể khẳng định rằng, hoạt động dầu khí của Trung Quốc chỉ đơn thuần là một hoạt động chính trị nhằm mục đích chủ quyền. Rất có thể, trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ tiến hành khoan thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính, hoạt động địa chấn tại các lô 136.03, lô 07.03 và lô 06.01. Tiếp theo, Trung Quốc sẽ hạ đặt giàn khoan khai thác cố định tại bãi Tư Chính, và tiến hành khoan thăm dò tại các lô 136.03, lô 07.03 và lô 06.01. Nếu Việt Nam không mạnh mẽ và quyết liệt, Việt Nam sẽ mất mát quá nhiều.
Đó là một tương lai có thể diễn ra nếu Việt Nam rụt rè và nhút nhát. Nếu tương lai đó diễn ra, Việt Nam sẽ mất 67 lô dầu khí nằm trọn trong đường lưỡi bò - đường chín đoạn do Trung Quốc ngang ngược vẽ ra. Đó sẽ là môt mất mát quá lớn, quá đau đớn và chua xót.
Việt Nam nên tiên liệu tương lai gần của bãi Tư Chính, lô 06.01 và hai lô 136-03, lô 07.03 để có các kịch bản ứng phó có hiệu quả đối với kẻ cướp biển Trung Quốc !
Tâm Don
Nguồn : VNTB, 29/07/2019