Thỏa thuận quốc phòng với EU có ‘xử’ được tàu Trung Quốc ?
Thường Sơn, VNTB, 08/08/2019
Suýt chút nữa thì bản Thỏa thuận quốc phòng sắp được ký kết giữa chính quyền Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu (EU) đã bị các cơ quan tuyên giáo chỉ đạo cho báo chí quốc doanh giấu nhẹm mà không đưa một dòng tin nào.
Bà Federica Mogherini, đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh, đồng thời cũng là phó chủ tịch Ủy Ban Liên Âu.
Nhưng tin tức chủ yếu có liên quan đến thỏa thuận trên được báo chí nhà nước ồ ạt đăng phát chỉ là "EU ủng hộ/chia sẻ với Việt Nam nhằm chỉ trích Trung Quốc tiến hành quân sự hóa Biển Đông/xâm phạm Bãi Tư Chính".
Quan chức cao cấp của EU được đăng hình ảnh ‘ủng hộ Việt Nam’ là bà Federica Mogherini, đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh, đồng thời cũng là phó chủ tịch Ủy Ban Liên Âu.
Về thực chất, chuyến thăm Việt Nam của bà Federica Mogherini vào đầu tháng 8 năm 2019 là để bàn thảo với phía Việt Nam bản Hiệp định khung về tham gia (Framework Participation Agreement – FPA) mà từ đó Việt Nam có thể trở thành nước đối tác góp phần vào các chiến dịch và sứ mạng căn cứ trên Chính Sách Chung về An Ninh và Quốc Phòng của Liên Âu. Đây được xem là một chiến lược phối hợp các hoạt động quốc phòng và tình báo của Liên Âu.
Việc chính thể độc tài ở Việt Nam lấp ló ý định ký Thỏa thuận quốc phòng với EU là trái ngược hoàn toàn với trước đó chỉ hơn một tháng, chính thể này đã xua báo chí nhà nước ‘tự sướng’ bất kể giới hạn khi ký được với EU hai hiệp định thương mại là EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) và EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên Hiệp Châu Âu) vào ngày 30/6/2019 tại Hà Nội ?
Điều rất dễ nhận ra là động thái Việt Nam sắp ký thỏa thuận quốc phòng với EU diễn ra trong bối cảnh Bộ Chính trị Hà Nội đang cực kỳ bế tắc bởi không có một hành đông đủ mạnh nào để xua đuổi các tàu thăm dò địa chất và tàu hải cảnh của Trung Quốc khỏi khu vực Bãi Tư Chính từ đầu tháng 7 năm 2019 đến nay, nếu không muốn hình dung như một nỗi lo sợ thất thần đã ám ảnh bộ mặt quan chức đến mức không thể thốt nổi một lời ‘phản đối Trung Quốc’, dù chỉ hé miệng trong buồng tắm.
Vào giữa tháng 7 năm 2019, khi chính quyền Việt Nam không thể giấu diếm hơn nữa về vụ Bãi Tư Chính trước thông tin lan tràn dậy sóng trên mạng xã hội, một số tờ báo quốc doanh, được hiểu đứng đằng sau là toàn bộ hệ thống đảng, đã lên tiếng kêu gọi ‘Cộng đồng quốc tế phải mau chóng vào cuộc, lên án Trung Quốc xâm phạm Biển Đông’.
Nhưng trong thực tế, chẳng có ‘cộng đồng quốc tế’ nào cả, trừ Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên lên tiếng, nhưng chỉ gián tiếp ủng hộ Việt Nam, tuy nhiên từ đó đến nay vẫn chẳng có hành động thực chất nào vì còn phải chờ Hà Nội có dám tự đi trên đôi chân của mình hay vẫn như cũ theo thói đu dây chính trị và ‘vừa đi vừa quỳ’.
Chỉ cho đến lúc này, EU mới là thành phần thứ hai lên tiếng ‘ủng hộ Việt Nam’, một sự hỗ trợ đáng giá bằng vàng bởi thể hiện bằng một thỏa thuận quốc phòng chứ không phải bằng lời nói suông.
Tuy nhiên, từ chuyện ‘sắp ký’ cho đến một hành động thực chất nào đó của EU đối với tình trạng nan giải ở Bãi Tư Chính lại là một khoảng cách có thể còn khá xa.
Cho dù nhiều tàu chiến của một số nước trong khối EU như Pháp, Anh, Tây Ban Nha... đã từng cập cảng Cam Ranh trong thời gian gần đây, nhưng như thế vẫn chưa đủ khiến Trung Quốc co vòi.
Còn nhớ vào đầu năm 2018, ngay sau khi Hoa Kỳ lần đầu tiên đưa một hàng không mẫu hạm có tên USS Carl Vinsion đến cảng Đà Nẵng (chứ không phải đến cứ điểm hải quân chiến lược Cam Ranh), Trung Quốc đã hùng hổ điều hàng không mẫu hạm Liêu Ninh ra tập trận ở Biển Đông như một đáp trả không nhân nhượng. Phép thử về tầm vóc hàng không mẫu hạm của Mỹ cũng vì thế chưa có tác dụng lắm.
Sẽ khó có chuyện Trung Quốc rút sớm các tàu thăm dò dịa chất và tàu hải cảnh khỏi Bãi Tư Chính, mà sẽ ‘phải cho nó một bài học’. Tức Trung Quốc sẽ nhân cái thế yếu đuối của thằng em ươn hèn để tiếp tục bắt nạt và có thể cả vài cú đánh đập để dằn mặt.
Nếu khả năng tàu Trung Quốc kéo dài vụ xâm nhập Bãi Tư Chính xảy ra, mà xác suất của khả năng này đang được giới phân tích chính trị cho là ngày càng lớn, Việt Nam sẽ phải đối phó ra sao ? Tiếp tục phát cờ cho ngư dân để ‘thuyền ra biển lớn’ và làm rộ lên câu vè dân gian "Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động" ? Hay tiếp tục kêu gọi quốc tế mau chóng can thiệp ? Liệu hải quân Việt Nam có dám nổ súng nếu tàu Trung Quốc gây hấn ? Và nếu nổ súng, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã chuẩn bị ra sao cho những kịch bản đen tối không thể tránh khỏi cho một cuộc xung đột quân sự ở quy mô nhỏ hoặc vừa, hay thậm chí là chiến tranh thực sự với Trung Quốc ?
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 08/08/2019
*********************
Hà Nội giấu dân khi ký thỏa hiệp quốc phòng với Liên Hiệp Châu Âu
Người Việt, 05/08/2019
Truyền thông nhà nước cộng sản Việt Nam không đưa tin một đại diện cấp cao thay mặt 28 nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu (EU) vừa ký thỏa hiệp quốc phòng với Việt Nam hôm thứ Hai 5/8/2019 tại Hà Nội.
Chiến hạm Forbin của Hải Quân Pháp từng cập cảng Sài Gòn hồi cuối tháng 5/2019. (Hình : Getty Images)
Tin tức cho hay bà Federica Mogherini, đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh, đồng thời cũng là phó chủ tịch Ủy ban Liên Âu ký với phía Việt Nam bản Hiệp định khung về Ttham gia (Framework Participation Agreement – FPA) mà từ đó Việt Nam có thể trở thành nước đối tác góp phần vào các chiến dịch và sứ mạng căn cứ trên Chính sách chung về An ninh và Quốc phòng của Liên Âu. Đây là một chiến lược phối hợp các hoạt động quốc phòng và tình báo của Liên Âu.
Buổi ký kết kể trên với EU diễn ra vào lúc Việt Nam đang gặp căng thẳng với Trung Quốc ở khu vực bãi Tư Chính trên Biển Đông. Trung Quốc điều động hàng chục chiếc tàu tới cản trở hoạt động dò tìm dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Báo chí của Hà Nội chỉ đưa tin bà Mogherini họp báo với Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và gặp Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Trang mạng của nhà cầm quyền Việt Nam là "chinhphu.vn" qua cái tựa "Việt Nam hoan nghênh lập trường của EU về Biển Đông" khi tường thuật về cuộc họp báo chung của bà Federica Mogherini và ông Phạm Bình Minh.
Trang mạng này thuật lại là "Về vấn đề Biển Đông, đại diện cấp cao của EU chia sẻ quan ngại của Việt Nam liên quan đến những căng thẳng gia tăng gần đây trên Biển Đông, cho rằng đó không phải là những yếu tố thuận lợi cho môi trường hòa bình, ổn định tại khu vực".
Báo mạng của đài VOV và tờ Tiền Phong thì cũng với tiêu đề "EU chia sẻ quan ngại của Việt Nam về căng thẳng gần đây ở Biển Đông" và cũng không đề cập gì đến thỏa hiệp quốc phòng hai bên ký kết.
Điều này cho thấy nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vừa muốn giấu dân, vừa cảm thấy nhạy cảm đối với "đồng chí anh em" phương Bắc hiện đang phải đối đầu ở bãi Tư Chính.
******************
Việt Nam có mạnh lên nhờ ‘hợp tác quốc phòng’ ?
Mạnh Kim, VOA, 07/08/2019
Khó có thể nói chính quyền Việt Nam không làm gì trước sự đe dọa và lấn lướt Trung Quốc ở biển Đông. Hợp tác quốc phòng là một trong những chính sách lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này dường như có gì không ổn…
Quyền Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Patrick Shanahan tiếp Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh hôm 23/5/2019. Photo Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Asia Times (1/8/2019) cho biết, ngày 5/8/2019, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu (EU) ký thỏa thuận mới về quốc phòng, trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng (thỏa thuận thứ tư mà EU ký với một quốc gia Đông Nam Á - sau Úc, New Zealand và Hàn Quốc). Tháng 4/2019, Jean-Christophe Belliard, Bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao EU, đến Hà Nội gặp Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh. Tháng 5, ông Vịnh sang Brussels họp, theo lời mời Claudio Graziano - Chủ tịch Ủy ban Quân sự EU. Cũng trong tháng 5/2019, cuộc họp đầu tiên trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác và đối tác toàn diện EU-Việt Nam cũng được tổ chức…
Xét ở cấp độ song phương với các thành viên EU riêng lẻ, Việt Nam và Pháp cũng "nâng cấp" quan hệ quốc phòng. Hai nước ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 2009 và bắt đầu chương trình Đối thoại chính sách quốc phòng cuối năm 2016. Cuộc họp cấp thứ trưởng về an ninh-quốc phòng giữa Việt Nam và Pháp đầu tiên đã được tổ chức vào tháng 9/2018, với kết quả hai bên lập ra các "sáng kiến quốc phòng song phương" đến năm 2028. Ngày 28/05/2019, khu trục hạm Pháp FS Forbin cập cảng Hiệp Phước (huyện Nhà Bè, Sài Gòn). Đây là "hoạt động thăm viếng" đầu tiên bằng hình thức này của Hải quân Pháp với Việt Nam.
Không quốc gia phương Tây nào mà Việt Nam xây dựng quan hệ quốc phòng mạnh bằng với Mỹ. Từ năm 2008, hai nước đã tiến hành các cuộc đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị hàng năm giữa hai Bộ Ngoại giao. Đến năm 2010, các cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa cấp cao quân đội hai nước bắt đầu được thực hiện. Tính đến cột mốc ngày 16/12/2013, khi Ngoại trưởng John Kerry và đồng cấp Phạm Bình Minh ra thông cáo báo chí chung tại Hà Nội trong đó có có đoạn "Hôm nay tôi rất vui mừng loan bố khoản viện trợ Mỹ trị giá 32,5 triệu USD cho lực lượng cảnh sát biển các nước Đông Nam Á" (trong đó có 18 triệu USD cho Việt Nam), quan hệ quân sự Việt-Mỹ đã tiến một bước dài. Một tháng sau tuyên bố "Mỹ có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải tại biển Đông" của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hà Nội, ngày 10/08/2010, khu trục hạm USS John McCain đã xuất hiện tại Đà Nẵng. Hai ngày trước đó, một nhóm quan chức Việt Nam cũng được chở ra hàng không mẫu hạm USS George Washington…
Trước đó, quan hệ quân sự hai bên bắt đầu bằng những bước dò đường. Năm 2000, William Cohen trở thành bộ trưởng quốc phòng Mỹ đầu tiên đến Hà Nội. Năm 2003, tàu chiến Mỹ bắt đầu ghé thường niên các cảng Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, tướng Phạm Văn Trà kinh lý Mỹ. Tháng 6/2006, Bộ trưởng Donald Rumsfeld đến Hà Nội. Năm 2007, Nội các Bush điều chỉnh Luật mua bán vũ khí quốc tế (ITAR) nhằm cho phép cấp "giấy phép việc xuất nhập khẩu các hạng mục quốc phòng không sát thương" theo từng trường hợp. Tháng 6/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kinh lý Mỹ. Hai bên đồng ý tổ chức thường niên các cuộc đối thoại an ninh-chiến lược cấp thứ trưởng và trợ lý thứ trưởng. Cuộc đối thoại đầu tiên được tổ chức tại Washington vào tháng 10 cùng năm. Tháng 12/2009, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đi Mỹ. Tháng 6/2012, Bộ trưởng Leon Panetta qua Việt Nam…
Chuỗi sự kiện liên quan quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt sau đó có thể được tóm tắt bằng loạt ghé thăm của tàu chiến Mỹ và việc mở cửa quân cảng Cam Ranh cho tàu Mỹ vào sửa chữa bảo trì. Giới chức quân sự Việt Nam cũng nhiều lần được chở ra thăm các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên gửi quan sát viên tham dự cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương. Tháng 6/2013, tướng Đỗ Bá Tỵ đến Lầu năm góc (vài tuần trước chuyến ghé Nhà trắng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang). Tháng 10/2013, Việt-Mỹ tổ chức hai cuộc họp thường niên quan trọng về an ninh : Đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị lần thứ 6 ; và Đối thoại chính sách quốc phòng lần thứ 4… Gần đây hơn, tháng 4/2019, Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn-Thái Bình Dương của Mỹ, đã đến Việt Nam. Năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis đến Việt Nam không chỉ một mà là hai lần (tháng 1 và tháng 10). Và trước khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào tháng 5/2018, tháng 10/2017, Nguyễn Chí Vịnh đã trở thành quan chức cao cấp nhất của Việt Nam đặt chân lên chiến hạm này (vài ngày sau khi Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Phạm Quang Vinh, tham quan hàng không mẫu hạm USS George H.W. Bush tại Norfolk, bang Virginia)…
Vấn đề cần chú ý không chỉ là những cuộc tiếp xúc, ký kết, trao đổi… liên quan hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với phương Tây. Trong thực tế, hầu hết các cuộc mở rộng hợp tác quốc phòng dường như vẫn giới hạn ở khuôn khổ đối ngoại hơn là "có thực chất". Chúng truyền tải những thông điệp nhằm cho Bắc Kinh thấy Việt Nam luôn xoay chuyển ứng biến trước mối đe dọa Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Việt Nam ráo riết và tích cực trong việc "thắt chặt", "nâng cấp" và "đi vào chiều sâu" trong các quan hệ quốc phòng với các nước dường như vẫn không đủ để làm Trung Quốc… "sợ". Chính sách quốc phòng Việt Nam có lẽ không đạt hiệu quả đủ mạnh để Trung Quốc có thể "ngán", đặc biệt khi Hà Nội vẫn chưa dám bước sang "lằn ranh" để đưa quan hệ Mỹ-Việt trở thành "đối tác chiến lược".
Theo công thức đối ngoại Việt Nam, quan hệ ngoại giao được thiết lập theo các cấp độ : thấp nhất là "đối tác", rồi "đối tác toàn diện", "đối tác chiến lược", và cao nhất là "đối tác chiến lược toàn diện". Cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn đặt Mỹ ở cấp độ "đối tác toàn diện" (ký kết vào tháng 7/2013). Trong khi đó, tính đến thời điểm này, Việt Nam đã ký kết "đối tác chiến lược" với 16 quốc gia (Nga-2001 ; Nhật-2006 ; Ấn Độ-2007 ; Trung Quốc-2008 ; Hàn Quốc và Tây Ban Nha-2009 ; Anh-2010 ; Đức-2011 ; Pháp, Indonesia, Ý, Singapore, Thái Lan-2013 ; Malaysia và Philippines-2015 ; Úc-2017).
Các quan hệ này đã được điều chỉnh theo thời gian. Năm 2009, quan hệ với Hàn Quốc được nâng lên "đối tác hợp tác chiến lược" ; năm 2014, quan hệ với Nhật được nâng lên "đối tác chiến lược mở rộng" ; năm 2012, quan hệ với Nga thành "đối tác chiến lược toàn diện" và tương tự với Ấn vào năm 2016. Với Trung Quốc, Hà Nội đã nâng lên đến cấp độ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện", vào năm 2009. Như vậy, xét theo chính sách ngoại giao Hà Nội, Trung Quốc hiện là "đối tác" quan trọng nhất ; trong khi Mỹ là "ít quan trọng nhất" (cùng chung "hạng" với Argentina, Brazil và Bồ Đào Nha !), thậm chí Mỹ còn kém hơn Myanmar, nước mà Hà Nội xếp vào nhóm "đối tác hợp tác toàn diện" hồi năm 2017.
Có gì khác nhau giữa "đối tác toàn diện" và "đối tác chiến lược" ? Trả lời phỏng vấn báo Chính Phủ (14/12/2015), ông Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Học viện Ngoại giao, giải thích : "Đối tác chiến lược có đặc điểm nổi bật là không chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau sâu sắc, mà hai bên còn có lòng tin chính trị ở mức cao. Giữa hai nhà nước, giữa lãnh đạo cấp cao thường xuyên có trao đổi, thăm viếng lẫn nhau. Giữa hai nước hình thành nên các cơ chế hợp tác toàn diện, trong đó ưu tiên cho một số lĩnh vực hợp tác chiến lược… Còn đối tác toàn diện ở cấp độ thấp hơn một chút, chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh hợp tác toàn diện, cùng có lợi. Nói tóm lại, đối tác chiến lược có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị và các cơ chế hợp tác cùng có lợi, trong khi đối tác toàn diện chủ yếu tập trung vào khía cạnh hợp tác cụ thể".
Theo đó, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đặt trên cơ sở "có lòng tin chính trị ở mức cao" ; trong khi Việt Nam với Mỹ là "hợp tác toàn diện, cùng có lợi". Trong thực tế, ngôn ngữ dùng để "minh họa" cho quan hệ Việt-Trung mà giới ngoại giao-viên chức Việt Nam sử dụng luôn vượt khỏi khuôn khổ ngoại giao bình thường. Nó luôn được trang điểm bằng những từ vựng màu mè nhất có thể và nó đã là thứ sáo ngữ quen thuộc được dùng xuyên suốt từ thời Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông đến nay.
Tháng 5/2019, tại Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tiếp đồng cấp Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa. Báo Nhân Dân (27/05/2019) cho biết, hai bên đã "tập trung đánh giá kết quả triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng song phương năm 2003, Tuyên Bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 của Bộ Quốc phòng hai nước đã ký năm 2017… Nổi bật là, hoạt động tiếp xúc cấp cao và các chuyến thăm của lãnh đạo quân đội hai nước được thúc đẩy duy trì thường xuyên ; một số cơ chế hợp tác được thiết lập, mở rộng về nội dung và hình thức như : Đối thoại Chiến lược quốc phòng, giao lưu sĩ quan trẻ, tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ, giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới, hợp tác công tác đảng, công tác chính trị, đào tạo ; hợp tác giữa các quân khu giáp biên giới hai nước"…
Hai bên cũng "xác định", rằng "năm 2019 là năm bản lề mang tính đột phá trong quan hệ hai quân đội hướng tới chào mừng 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước vào năm 2020. Trong đó, thống nhất, thời gian tới tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng trên các lĩnh vực : công tác đảng, công tác chính trị ; hoàn thành các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử, phim tài liệu ; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực quân y ; hợp tác giữa các quân chủng Hải quân, Phòng không - Không quân, lực lượng bảo vệ biên giới, công nghiệp quốc phòng, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới Chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới và quan hệ giữa các quân khu, biên phòng, Hải quân, Không quân của Việt Nam với Chiến khu Miền Nam của Trung Quốc…".
Chưa bao giờ có bất kỳ thỏa thuận hợp tác quốc phòng nào giữa Việt Nam với các nước lại "toàn diện" như những gì Việt Nam "cam kết" với Trung Quốc. Do đó, cho dù có tổ chức bao nhiêu cuộc gặp với giới chức quân sự phương Tây, cho dù đón bao nhiêu tàu chiến Mỹ, cho dù mua bao nhiêu vũ khí, Việt Nam vẫn không thể xây dựng được niềm tin với các "đối tác" và khiến cho Trung Quốc chùn tay. Việt Nam không thể vừa là đối thủ quân sự "đáng sợ" khi mà Việt Nam cùng lúc nằm chung "chiến hào" với chính "đồng chí" vốn to khỏe hơn gấp nhiều lần. Những thông điệp "hợp tác quốc phòng với EU" hay cái bắt tay với tướng lĩnh Mỹ dường như cũng chỉ là những tín hiệu để mặc cả giúp hạn chế bớt cái nút thắt của sợi thòng lọng Trung Quốc. Một khi Việt Nam còn chưa nhận ra vấn đề chủ quyền và tương lai dân tộc không phải nằm ở cái gọi là "lời nguyền địa lý" mà chính là "lời nguyền thể chế" thì mọi nỗ lực vận động đối ngoại và hợp tác quốc phòng cũng chỉ là những thông điệp có "hàm lượng" "răn đe" nhẹ đến mức không đủ để làm gợn nổi một ngọn sóng biển Đông.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 06/08/2019