Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

09/09/2019

Biển Đông : Trung Quốc có thực sự muốn đánh Việt Nam không ?

Nhiều tác giả

Tại sao Trung Quốc chọn gây chiến với Việt Nam ?

David Hutt, 09/09/2019

Các nhà phân tích cho rằng Trung Quốc chọn Việt Nam để khơi chiến trước khi đụng độ lớn hơn với Hoa Kỳ ở Biển Đông

bd3


Lính hải quân Trung Quốc trên một tàu hải quân ở Biển Đông. Ảnh : Twitter

Nếu những căng thẳng âm ỉ  bùng nổ trở thành cuộc xung đột toàn diện ở Biển Đông, những phát súng đầu tiên bắn ra có vẻ sẽ là giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Vì tranh chấp lãnh hải, cả hai đối thủ đã cố thủ suốt nhiều tuần lễ liền tại Bãi Tư chính, một khu vực biển giàu năng lượng, mà không bên nào chịu lùi bước. Trong khi Trung Quốc phản đối mọi hoạt động khai thác các nguồn năng lượng trong vùng biển tranh chấp của đối thủ, cuộc đối đầu của họ hiện nay với Việt Nam nhằm phục vụ chiến lược nước đôi.

Derek Grossman, chiến lược gia quốc phòng cao cấp của tập đoàn RAND, một nhóm chuyên gia tư vấn chính sách có trụ sở tại Washington, đã lập luận rằng nếu Trung Quốc tiến hành cuộc tấn công quân sự ở Biển Đông, rất có thể họ sẽ chọn Việt Nam để giao chiến.

Vào đầu năm nay, trước khi có sự bất đồng tại Bãi Tư Chính, ông đã viết "Việt Nam là đối thủ được Trung Quốc chọn để khởi chiến" vì đó là "quốc gia có sức mạnh trung bình dễ bị đánh bại".

Mặc dù cuộc xung đột vẫn chưa xảy ra, Bắc Kinh một lần nữa lại leo thang gây chiến, áp dụng chính sách "ngoại giao pháo hạm" bằng cách ép buộc Hà Nội phải chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp.

Vào tháng Bảy, tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc, cùng với một đội tàu nhỏ có vũ trang, trong nhiều tuần lễ đã đi chuyển gần Bãi Tư Chính, một khu vực hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Giữa tháng 8, dường như sau khi đã quay trở về Trung Quốc, tàu khảo sát lại xuất hiện ở vùng biển Việt Nam, nơi các công ty năng lượng địa phương và Nga đang hợp tác khai thác dầu.

Năm ngoái, một áp lực tương tự từ Trung Quốc đã buộc Hà Nội phải hủy hợp đồng thăm dò dầu khí trị giá 200 triệu USD đã ký với công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần 90% Biển Đông thông qua cái gọi là bản đồ đường chín đoạn, một giới tuyến rộng lớn đã bị Tòa án trọng tài thường trực tại The Hague bác bỏ vào tháng Bảy 2016.

Ngày 3 tháng Chín, chương trình việt ngữ đài BBC cho biết cần cẩu Lam Kinh đã được tập đoàn dầu khí Trung Quốc chuyển vào vùng biển Việt Nam, một động thái chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng.

Nếu đây là sự thật thì Trung Quốc và Việt Nam đang lặp lại tình trạng bất ổn năm 2014, khi Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc do nhà nước điều hành đưa giàn khoan dầu nửa chìm Hải Dương 981 và các tàu đánh cá dân quân của họ vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố có chủ quyền gần quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc bị cáo buộc đã di chuyển cần cẩu Lam Kinh vào lãnh hải Việt Nam khi Việt Nam và 9 thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á tham gia khai mạc các cuộc tập trận hải quân với Hoa Kỳ tuần này.

Nó cũng diễn ra chỉ một tháng trước khi chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng dự kiến sẽ đến Washington trong chuyến viếng thăm cấp nhà nước, theo đó Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ nâng cấp các mối quan hệ của họ lên thành đối tác chiến lược.

Năm 1988, quân đội Trung Quốc và Việt Nam đã giao chiến ở bãi đá Gạc Ma quanh Biển Đông, một trận chiến đã cướp đi sinh mạng của 64 người lính Việt Nam. Sự kiện này xảy ra sau cuộc chiến biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979, nơi hai bên đều mất hàng ngàn binh lính.

Thời thế đã thay đổi từ khi các cuộc xung đột ngắn ngủi trước đó xảy ra. Quân đội giải phóng nhân dân hiện là một trong những lực lượng quân đội lớn nhất và được trang bị tốt nhất thế giới. Năm 2017, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kêu gọi Quân đội giải phóng nhân dân "thay đổi toàn diện để trở thành các lực lượng tầm cỡ thế giới" vào năm 2050. Tuy nhiên người ta cho rằng Bắc Kinh vẫn rất lo lắng trước việc quân đội chuẩn bị cách nào để đối phó với một cuộc xung đột có quy mô lớn.

Tập đã từng nói đến chuyện Quân đội giải phóng nhân dân mắc "bệnh hòa bình" vì họ không ở trong một tình trạng xung đột thực sự trong nhiều thập niên. Với sự chỉnh đốn hàng ngũ quan chức cao cấp kể từ cuộc xung đột thực sự cuối cùng vào năm 1979, hầu hết bọn họ chưa bao giờ tham gia một cuộc chiến.

Vào tháng Hai, Denis Blasko, một quan sát viên nổi tiếng chuyên về quân đội Trung Quốc, đã tuyên bố rằng tuy đã đầu tư đáng kể vào vũ khí và công nghệ và cải cách cơ cấu lớn, vẫn còn có "sự hoài nghi về khả năng của Quân đội giải phóng nhân dân và sự yếu kém trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Quân đội giải phóng nhân dân qua việc chuẩn bị các cấp chỉ huy và sĩ quan tham mưu cho chiến tranh trong tương lai".

"Vì vậy" ông nói thêm "lãnh đạo quân đội cấp cao của Trung Quốc tỏ ra rất ít hay không hăng hái điều động Quân đội giải phóng nhân dân ra mặt trận thực sự chống lại một kẻ thù hiện đại nhưng chọn việc đe dọa và thái độ quyết chiến do thường dân, dân quân và quân đội phối hợp thực hiện " để đạt được các mục tiêu quốc gia.

Tính bất ổn này là nhân tố của những ai mà Trung Quốc xem là đối thủ thích hợp. Giao chiến chống lại Ấn Độ ở đồng bằng hay trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, Quân đội giải phóng nhân dân cũng rút được chút kinh nghiệm tốt để chuẩn bị cho không và hải chiến. Xung đột trên bán đảo Triều Tiên sẽ vô cùng dữ dội và gần nhà.

Gây chiến với Nhật Bản, Philippines và Hàn Quốc có thể sẽ kéo theo sự can thiệp của quân đội Mỹ vì mỗi quốc gia đều có liên minh an ninh với Hoa Kỳ. Đạo luật Quan hệ với Đài Loan (Taiwan Relations Act) cam kết Washington sẽ bảo vệ Đài Loan trong trường hợp quân đội Trung Quốc xâm lược.

Bắc Kinh "thích chọn một cuộc xung đột có thể thắng được" và "Việt Nam về cơ bản không có khả năng hoạt động ngang tầm với Trung Quốc do thiếu thốn về năng lực, đào tạo và nhân lực", Grossman lập luận như vậy.

Một phân tích ít mang tính học thuật hơn đã tìm hiểu lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tự đánh giá về vị trí của họ như thế nào. Hà Nội có khuynh hướng bí mật hơn Bắc Kinh và giới khoa bảng còn kín đáo hơn nữa. Bộ quốc phòng đã công bố cuốn sách trắng lần chót cách đây một thập niên nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, các nhà phân tích đều đồng ý là Hà Nội ngày càng chú trọng đến các vấn đề quân sự khi căng thẳng ở Biển Đông gia tăng từng năm.

Vào tháng Tư, Businesswire đã báo cáo rằng chính phủ Việt Nam đã dành 5,1 tỷ USD cho chi phí quốc phòng trong ngân sách năm nay, 1/3 trong số tiền đó sẽ dùng vào việc mua sắm thiết bị quốc phòng. Một số nhà phân tích ước tính chi tiêu quân sự của Hà Nội có thể tăng lên 7,9 tỷ USD vào năm 2024.

Cũng có một số dấu hiệu lo ngại nhất định về sự sẵn sàng ứng chiến của quân đội – cần phải làm nhiều hơn nữa. Vào tháng Sáu, tạp chí quốc phòng quốc gia do Bộ quốc phòng Việt Nam điều hành, đã đăng một tiểu luận về việc đào tạo quân đội và nguồn nhân lực.

"Việc đào tạo cấp chỉ huy không đồng đều và mất quân bình ; nội dung và chương trình đào tạo vẫn còn chậm chạp, không kịp cải tiến ; cập nhật kiến thức và công nghệ quân sự mới không cao hơn", bài tiểu luận cảnh báo như vậy.

Rõ ràng là quân đội Việt Nam yếu hơn nhiều so với Trung Quốc.

Việt Nam chi khoảng 5 tỷ USD cho quân đội của mình ; Trung Quốc chi 220 tỷ USD. Trung Quốc có số lượng nhân viên tích cực nhiều gấp 5 lần Việt Nam ; số lượng máy bay gấp 10 lần (TQ : 3187 / VN : 318) ; và số tàu hải quân gần gấp 11 lần (TQ : 714 / VN : 65). Trung Quốc cũng có thiết bị tốt hơn nhiều. Lực lượng hải quân của Quân đội giải phóng nhân dân có tàu sân bay và khu trục hạm, những loại khí tài mà Việt Nam còn thiếu.

Hầu hết các nhà phê bình cho rằng, với sự bất cân xứng này, chọn lựa chiến lược duy nhất của Việt Nam là phòng thủ nếu xảy ra xung đột. Tuy vậy, ở Hà Nội vẫn không có sự đồng thuận về điều này.

Trong một bài viết cho tạp chí quốc phòng quốc gia xuất bản vào ngày 30 tháng Tám, bộ trưởng thông tin Nguyễn Mạnh Hùng – cũng là một thiếu tướng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và là cựu chủ tịch của Viettel, một tập đoàn thuộc quyền sở hữu của quân đội – đã viết rằng "trong tương lai, nếu chiến tranh xảy đến với đất nước chúng ta, đó sẽ là một cuộc chiến của nhân dân để bảo vệ một đất nước phát triển chống lại sự xâm lược của kẻ thù".

Tuy nhiên, ông lưu ý rằng "trong những cuộc chiến chống lại tổ tiên chúng ta trước kia và Đảng của chúng ta sau này, đất nước chúng ta thường phải đối mặt với những kẻ thù có sức mạnh quân sự vượt trội, nhưng chúng ta đã coi sự tấn công như tư tưởng thống trị thay vì thụ động hay phòng thủ thụ động".

"Suy nghĩ tấn công" ông nói tiếp, tạo ra sự đoàn kết trong nhân dân và niềm tin là họ không đầu hàng dù kẻ thù mạnh đến mức độ nào. Tuy nhiên, ông cũng sử dụng cụm từ "phòng ngự tích cực" giống như khái niệm phòng thủ tích cực của Trung Quốc, một thuật ngữ được nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình sử dụng trong những năm 1980, với ý nghĩa phòng thủ chiến lược nhưng hoạt động tấn công.

Điều này cho thấy các quan chức cao cấp của Đảng cộng sản Việt Nam đang nghiêm túc cân nhắc khả năng chiến tranh và sẽ tiến hành nó như thế nào. Hẳn không phải ngẫu nhiên mà Đảng cộng sản đã dành khoảng thời gian trống nhiều hơn cho báo chí viết về năm kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung.

Các báo cáo từ đầu năm cho thấy Việt Nam đã âm thầm mở rộng lực lượng dân quân biển và trang bị thêm cho lực lượng bảo vệ bờ biển để chuẩn bị chiến thuật công kích thậm chí còn mạnh bạo hơn cả Trung Quốc.

Do thua kém về quân sự, khả năng răn đe lớn nhất của Việt Nam rất có thể sẽ thông qua quan hệ với các đối tác quốc tế. Hà Nội đã bận rộn kết bạn mới. Chẳng hạn như tháng trước Việt Nam đã đồng ý mở rộng quan hệ quốc phòng với Nam Phi, trong khi thủ tướng Úc Scott Morrison tái khẳng định sự hợp tác quân sự của họ trong chuyến thăm dự kiến sẽ đến Hà Nội.

Trong năm nay, Việt Nam cũng đã ký các thỏa thuận quốc phòng mới với Liên Hiệp Âu Châu và Nhật Bản. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là liệu Hà Nội có thể giành được nhiều bảo đảm chiến lược hơn từ Hoa Kỳ, kẻ thù trước kia trên chiến trường.

Do đó, đa phần tùy thuộc vào chuyến thăm Washington sắp tới của ông Nguyễn Phú Trọng. Cho đến khi phần lớn còn dễ dàng - quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tốt hơn nhiều so với những gì người ta nghĩ – nó sẽ gửi một tín hiệu mạnh mẽ hơn cho biết Washington ủng hộ Việt Nam và đóng vai trò răn đe lâu dài đối với Trung Quốc, nếu hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ chiến lược.

Gần như chắc chắn, nó sẽ dừng lại ở một hiệp ước quốc phòng vì các quy tắc trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam – cái gọi là chính sách "ba không" – đã cấm họ ký hiệp ước quân sự với các quốc gia khác. Tuy vậy, một quan hệ đối tác vô điều kiện có thể cho phép các tàu hải quân Mỹ ghé thăm Việt Nam nhiều hơn – điều mà Washington muốn – và có lẽ Hà Nội sẽ cam kết mua thêm trang thiết bị quân sự của Hoa Kỳ.

Việt Nam hiện mua 4/5 thiết bị quân sự của mình từ Nga và 1/10 từ Israel. Để đền bù cho việc Việt Nam mua sắm quốc phòng nhiều hơn, Washington có thể cho quốc gia này biết rõ là họ có bị trừng phạt hay không, chiếu theo đạo luật dông dài tên là CAATSA (Countering America’s Adversaries Through Sanctions Act - Đạo luật chống những kẻ thù của Mỹ thông qua chế tài) mà Hoa Kỳ áp dụng để trừng phạt các quốc gia mua vũ khí của Nga.

Việt Nam tạm thời được miễn trừ CAATSA, như mong muốn của cựu bộ trưởng quốc phòng James Mattis. Nhưng để được miễn trừ lâu hơn, Hà Nội phải chứng tỏ họ đang giảm phụ thuộc vào Nga trong việc nhập khẩu quân sự.

Bằng cách mua thêm phần cứng quân sự của Mỹ, Việt Nam sẽ giảm thặng dư thương mại đáng kể với Mỹ, điều vốn vẫn làm chính quyền Trump khó chịu.

Washington chắc chắn cương quyết chống lại các hành động mới nhất của Bắc Kinh ở Biển Đông, cái mà bộ ngoại giao Mỹ mô tả là "sự can thiệp cưỡng bức đối với các hoạt động dầu khí lâu đời của Việt Nam". Tháng trước, bộ ngoại giao cũng lưu ý rằng Trung Quốc đang cố gắng ngăn chặn sự tiếp cận với  "nguồn tài nguyên hydrocarbon chưa được khai thác, trị giá khoảng 2,5 tỷ USD" ở Biển Đông.

Đồng thời, trong một báo cáo vào năm ngoái, bộ quốc phòng Mỹ nhấn mạnh rằng Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu thô đứng hàng thứ hai trên thế giới và là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiên đứng hàng thứ ba. Hơn nữa, do phụ thuộc vào khí đốt nhập khẩu, chiếm 67% nhu cầu trong năm 2017, có thể tăng lên 80% vào năm 2035, tầm quan trọng của các nguồn tài nguyên chưa được khai thác ở Biển Đông được nâng lên.

 Hoa Kỳ cần phải chứng tỏ là họ nghiêm túc bảo đảm an ninh cho Việt Nam đối với Trung Quốc. Hà Nội chắc chắn không quên việc tổng thống Mỹ Barak Obama từ chối bảo vệ một đồng minh khi Trung Quốc chiếm giữ Bãi Cạn của Philippines năm 2012. Obama cũng không hề ủng hộ Việt Nam chống lại vụ tàu Hải Dương 918 năm 2014.

Trump đa phần cũng tiếp tục đi cùng hướng, đưa ra những tuyên bố nghiêm khắc nhưng không ủng hộ bằng hành động khi Trung Quốc thành công buộc Việt Nam phải hủy bỏ các thỏa thuận thăm dò dầu khí vào năm ngoái và tại các khu vực đang tranh chấp ở Biển Đông năm 2017.

Các cuộc diễn tập nhằm tạo áp lực của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính và việc di chuyển cần cẩu vào vùng biển Việt Nam đang bị lên án trở thành nguy hiểm hơn khi các tàu lớn của nước này gia tăng lui tới các cơ sở nhân tạo của hải quân và không quân mà họ mới xây dựng trên biển.

Điều này có nghĩa là các tàu không còn cần phải quay về lục địa Trung Quốc để tiếp thêm nhiên liệu và bảo trì trong cuộc hành trình vào Biển Đông. Đó cũng có nghĩa là họ có thể tuần tra gần bờ biển Việt Nam hơn và trong thời gian lâu hơn.

Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc hiện đang đối đầu với các tàu của Việt Nam tại bãi Tư Chính, theo báo cáo, đã đến một căn cứ hải quân mới được thành lập trên Bãi Chữ Thập để tiếp nhận nguyên liệu trước khi trở lại tiếp tục tranh chấp.

Nếu cuộc đối đầu với Việt Nam leo thang thành cuộc xung đột vũ trang, nó có thể cung cấp cho Trung Quốc một trường hợp thử nghiệm để tiến hành một cuộc chiến lớn hơn có thể xảy ra ở vùng biển tranh chấp trong những năm sắp tới.  

David Hutt

Nguyên tác : Why China is picking a fight with VietNam, Asia Times, 05/09/2019

Hoàng Thủy Ngữ dịch

(09/09/2019)

*****************

Biển Đông : Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam ?

Thanh Phương, RFI, 09/09/2019

Nếu căng thẳng hiện nay ở Biển Đông dẫn đến xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng mục tiêu mà Trung Quốc tấn công đầu tiên sẽ là Việt Nam.

bd1

Một lính hải quân Trung Quốc trước một biểu ngữ có hình chủ tịch Tập Cận Bình, tại một căn cứ ở Hồng Kông. Ảnh chụp ngày 30/06/2019.Reuters

Căng thẳng vùng Biển Đông tiếp tục sự chú ý đặc biệt của báo chí quốc tế, đặc biệt là những tờ báo chuyên về thờ i sự Châu Á, như trang mạng Asia Times.

Ngày 05/09/2019, trang mạng này đã đăng tải một bài của nhà báo David Hutt với tựa đề "Vì sao Trung Quốc sẽ chọn đánh Việt Nam". Theo các nhà phân tích mà David Hutt trích dẫn, Việt Nam sẽ được Trung Quốc chọn để đánh như là một cách để "khởi động - làm nóng" trước khi lao vào một cuộc chiến lớn hơn với Mỹ trên vùng Biển Đông.

Trong phần tạp chí hôm nay, RFI Việt ngữ xin giới thiệu bài báo này :

Nếu căng thẳng hiện nay biến thành xung đột toàn diện, dường như ngày càng có khả năng là tiếng súng đầu tiên sẽ nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Hai bên đã đối đầu với nhau tại khu vực Bãi Tư Chính giàu nguồn năng lượng, mà không bên nào có vẻ muốn lùi bước. Trung Quốc vẫn chống lại việc những bên tranh chấp khác khai thác các nguồn tài nguyên tại những các vùng biển đang tranh chấp, nhưng cuộc đối đầu hiện nay với Việt Nam có thể phục vụ mục đích chiến lược kép (cho Bắc Kinh).

Derek Grossman, một nhà phân tích quốc phòng của RAND, một nhóm tư vấn tại Washington, lập luận rằng nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công quân sự ở Biển Đông, đối thủ được lựa chọn rất có thể sẽ là Việt Nam.

Trong năm nay, trước khi diễn ra cuộc đối đầu tại Bãi Tư Chính, ông Grossman đã từng viết rằng Việt Nam là "cuộc chiến khởi động ưa thích" của Bắc Kinh, với lý do Việt Nam chỉ là một quốc gia có sức mạnh cỡ trung bình, nên quân đội Trung Quốc dễ dàng đánh bại.

Mặc dù hiện giờ xung đột còn rất khó xảy ra, Bắc Kinh một lần nữa tăng cường xâm lấn và đẩy mạnh chính sách "ngoại giao pháo hạm", qua việc gây sức ép buộc Hà Nội chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp.

Vào tháng 7, một tàu khảo sát của Trung Quốc, Hải Dương Địa Chất 8 , cùng với một đội tàu vũ trang, đã hoạt động suốt nhiều tuần tại khu vực gần Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.

Vào giữa tháng 8, sau khi dường như đã trở về Trung Quốc, tàu khảo sát này đã xuất hiện trở lại ở vùng biển Việt Nam nơi các công ty năng lượng Việt Nam và Nga đang cùng thăm dò dầu khí. Năm ngoái, áp lực tương tự từ Trung Quốc đã buộc Hà Nội phải hủy hợp đồng thăm dò dầu trị giá 200 triệu đôla đã ký với công ty năng lượng Tây Ban Nha Repsol.

Ngày 03/09/2019, có tin là chiếc tàu cẩu lớn nhất thế giới Lam Kình (Lanjing) đã được Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc đưa vào vùng biển Việt Nam, một hành động chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng.

Nếu đúng như thế, Trung Quốc và Việt Nam có thể sẽ tái diễn cuộc đối đầu gây cấn giữa hai bên năm 2014 , khi Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển mà Việt Nam khẳng định chủ quyền gần quần đảo Trường Sa.

Trung Quốc đưa tàu cẩu Lam Kình vào vùng biển Việt Nam đúng vào lúc Việt Nam và chín thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tham gia các cuộc diễn tập hải quân chung đầu tiên với Hoa Kỳ.

Vụ này cũng diễn ra chỉ một tháng trước khi chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng dự kiến ​​sẽ có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Washington, và trong dịp này, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể nâng quan hệ song phương lên cấp "đối tác chiến lược".

Quân đội Trung Quốc và Việt Nam đã từng đụng độ với nhau vào cuối năm 1988 tại Đá Gạc Ma, Trường Sa, khiến 64 binh sĩ Việt Nam tử trận. Vụ đụng độ này xảy ra sau một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979, mà trong đó cả hai bên đều mất hàng ngàn binh lính.

Tình hình nay đã thay đổi kể từ những cuộc xung đột ngắn ngủi đó. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) hiện là một trong những quân đội lớn nhất và được trang bị tốt nhất thế giới.

Vào năm 2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã kêu gọi quân đội nước này chuyển đổi hoàn toàn thành một lực lượng tầm cỡ thế giới vào năm 2050. Tuy nhiên, người ta tin rằng giới lãnh đạo ở Bắc Kinh chưa an tâm về mức độ chuẩn bị của quân đội Trung Quốc để chiến đấu trong một cuộc xung đột quy mô lớn.
Do sự luân chuyển quan chức cấp cao kể từ cuộc xung đột thực sự cuối cùng vào năm 1979, hầu hết những người hiện nay chưa bao giờ biết đến chiến tranh.

Dennis Blasko, một nhà quan sát về quân đội Trung Quốc, vào tháng 2 đã lưu ý rằng, mặc dù đã đầu tư đáng kể vào vũ khí và công nghệ, và đã cải tổ sâu rộng về cơ cấu, nhưng vẫn có sự thiếu tin tưởng vào khả năng của quân đội Trung Quốc, trong khi đó các hệ thống giáo dục và huấn luyện của quân đội này đã thất bại trong việc đào tạo các viên chỉ huy và sĩ quan tham mưu cho các cuộc chiến tranh tương lai.

Theo ông Blasko, chính vì vậy mà các lãnh đạo cấp cao quân đội Trung Quốc rất ít nhiệt tình hoặc không chút nhiệt tình trong việc đưa quân đội nước này vào một cuộc chiến thực sự chống lại một kẻ thù hiện đại. Họ thiên về một cuộc chiến tranh kết hợp các lực lượng dân sự, chính phủ, bán quân sự và quân đội.

Cảm giác không an toàn này sẽ là yếu tố quyết định nước nào mà Trung Quốc coi là đối thủ "xứng đáng". Theo nhận xét của ông Grossman, đánh Ấn Độ trên đất liền và trên núi cao trong dãy Hy Mã Lạp Sơn sẽ không có ích nhiều trong việc quân đội Trung Quốc chuẩn bị cho chiến tranh trên không và trên biển. Xung đột trên bán đảo Triều Tiên có thể sẽ quá dữ dội và quá gần Trung Quốc. Còn nếu đánh Nhật Bản, Philippines hoặc Hàn Quốc, thì sẽ đụng với quân đội Mỹ, vì nước nào cũng đều có liên minh phòng thủ với Hoa Kỳ. Đạo luật Quan hệ Đài Loan thì dự trù là Washington phải bảo vệ hòn đảo này trong trường hợp Trung Quốc đưa quân xâm lược.

Theo cái nhìn của ông Grossman, Bắc Kinh có vẻ "thích một cuộc xung đột có thể thắng được" và Việt Nam về cơ bản yếu kém hơn Trung Quốc về khả năng, đào tạo và nhân lực.

Các nhà phân tích đều nhận thấy rằng Hà Nội đang ngày càng xem các vấn đề quân sự là nghiêm trọng, trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông leo thang qua từng năm.

Hãng tin Business Wire vào tháng 4 cho biết rằng chính phủ Việt Nam đã dành 5,1 tỷ đô la Mỹ cho chi tiêu quân sự trong ngân sách năm nay, khoảng một phần ba trong số đó sẽ dành cho việc mua sắm thiết bị quốc phòng. Một số nhà phân tích ước tính rằng chi tiêu quân sự của Hà Nội có thể tăng lên 7,9 tỷ đô la vào năm 2024.

Vào tháng 6, Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, do bộ Quốc Phòng Việt Nam điều hành, đã đăng một bài viết về đào tạo quân sự và nhân lực của Việt Nam.Tác giả bài viết cảnh báo : "Việc đào tạo cán bộ trong quân đội không đồng đều và cân đối ; nội dung và chương trình đào tạo vẫn còn chậm để đổi mới ; việc cập nhật kiến ​​thức và công nghệ quân sự mới trong đào tạo không cao hơn

Rõ ràng, Việt Nam có quân đội yếu hơn nhiều so với Trung Quốc. Việt Nam chi khoảng 5 tỷ đô la một năm cho quân đội của mình, trong khi Trung Quốc chi đến 220 tỷ đô la. Trung Quốc có quân số nhiều gấp năm lần so với Việt Nam và có số lượng máy bay gấp mười lần (3.187 so với 318) và có gần gấp 11 lần số tàu hải quân (714 so với 65). Trung Quốc cũng có thiết bị tốt hơn nhiều ; Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân có tàu sân bay và tàu khu trục, hai phương tiện mà Việt Nam chưa có.

Hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng, do sự bất cân xứng này, chiến lược duy nhất mà Việt Nam có thể chọn đó là phòng thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Tuy nhiên, dường như không có sự đồng thuận về vấn đề này trong giới lãnh đạo Hà Nội.

Trong một bài viết cho Tạp chí Quốc phòng Toàn dân ngày 30/08/2019, bộ trưởng Thông Tin và Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên là một thiếu tướng trong quân đội Việt Nam và là cựu chủ tịch Viettel, một tập đoàn thuộc sở hữu của quân đội, đã viết : "Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra với đất nước chúng ta, đó sẽ là một cuộc chiến của nhân dân để bảo vệ một đất nước phát triển chống lại sự xâm lược của kẻ thù."

Tuy nhiên, ông lưu ý : "Trong các cuộc chiến tranh chống lại tổ tiên ta trước đây và Đảng ta sau này, nước ta thường phải đối mặt với kẻ thù với sức mạnh quân sự vượt trội, nhưng chúng ta vẫn coi tấn công là tư tưởng chủ đạo, thay vì thụ động hay phòng thủ thụ động".

Ông Nguyễn Mạnh Hùng sử dụng cụm từ "phòng thủ tích cực" tương tự như cụm từ được sử dụng vào những năm 1980 bởi nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó là Đặng Tiểu Bình.

Điều này chắc chắn cho thấy các quan chức cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam đang cân nhắc nghiêm túc khả năng xảy ra chiến tranh, và cách thức mà cuộc chiến này xảy ra. Do đó, có lẽ không phải ngẫu nhiên mà đảng Cộng Sản đã dành cho các tờ báo nhiều thời gian hơn để viết về kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm nay.

Những thông tin trước đó trong năm nay cho thấy Việt Nam đã âm thầm mở rộng lực lượng dân quân biển và trang bị thêm cho lực lượng cảnh sát biển để chuẩn bị đối phó với các lực lượng tương tự của Trung Quốc.

Do sự chênh lệch về sức mạnh quân sự, khả năng răn đe lớn nhất của Việt Nam chính là thông qua các quan hệ đối tác quốc tế. Và Hà Nội đã rất bận rộn với việc kết bạn mới.

Chẳng hạn, tháng trước, Việt Nam đã đồng ý mở rộng quan hệ quốc phòng với Nam Phi, trong khi thủ tướng Úc Scott Morrison vừa tái khẳng định hợp tác quân sự giữa hai nước trong chuyến thăm Hà Nội.

Việt Nam cũng đã ký các thỏa thuận quốc phòng mới với Liên Hiệp Châu Âu và Nhật Bản trong năm nay. Tuy nhiên, quan trọng nhất đối với Hà Nội đó là giành được nhiều bảo đảm chiến lược hơn từ kẻ thù cũ Hoa Kỳ.

Chuyến thăm sắp tới của ông Trọng đến Washington vì vậy rất quan trọng. Quan hệ hiện nay giữa Mỹ với Việt Nam đã rất là tốt rồi, nhưng nếu hai bên đồng ý nâng cấp quan hệ chiến lược, thì đây sẽ là một tín hiệu mạnh mẽ hơn cho thấy Mỹ đang yểm trợ Việt Nam, và đóng vai trò răn đe lâu dài đối với Trung Quốc.

Gần như chắc chắn hai bên sẽ chỉ sẽ dừng lại ở một hiệp ước quốc phòng, vì chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam gọi là "Ba Không" cấm Hà Nội ký hiệp ước quân sự với các quốc gia khác.

Tuy nhiên, một quan hệ đối tác không có điều kiện có thể cho phép có thêm nhiều chuyến thăm của tàu hải quân Hoa Kỳ đến Việt Nam - điều mà Washington mong muốn - và có lẽ là một cam kết của Hà Nội để mua thêm vũ khí từ Mỹ.

Việt Nam hiện mua khoảng bốn phần năm thiết bị quân sự từ Nga và một phần mười từ Israel. Đổi lại việc Hà Nội mua nhiều vũ khí hơn, Washington có thể sẽ làm rõ về việc liệu Việt Nam có sẽ bị xử phạt theo đạo luật Chống các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA), dự trù trừng phạt các quốc gia mua vũ khí từ Nga, hay không.

Việt Nam đã tạm thời được miễn CAATSA, và cựu bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis đã tìm cách miễn hẳn cho Việt Nam. Nhưng để được miễn trừ lâu dài hơn, Hà Nội phải cho thấy rằng họ đang giảm sự phụ thuộc vào vũ khí nhập từ Nga. Cũng qua việc mua thêm vũ khí của Mỹ, Việt Nam sẽ giảm thặng dư thương mại đáng kể với Mỹ, vẫn gây bực bội cho chính quyền Donald Trump.

Washington đã kiên quyết chống lại các hành động mới nhất của Bắc Kinh ở Biển Đông, mà bộ Ngoại Giao Mỹ mô tả là "sự can thiệp mang tính cưỡng ép" đối với các hoạt động dầu khí từ lâu của Việt Nam. Bộ Ngoại Giao Mỹ vào tháng trước cho rằng Trung Quốc đang tìm cách ngăn chận việc tiếp cận nguồn dầu khí chưa được khai thác ở vùng Biển Đông, được ước tính khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la.

Bộ Quốc Phòng Mỹ trong một báo cáo năm ngoái đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc là nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế giới và là nước tiêu thụ khí đốt tự nhiên lớn thứ ba. Hơn nữa, sự phụ thuộc vào khí đốt nhập khẩu, chiếm 67% nhu cầu trong năm 2017, tỷ lệ này có thể tăng lên 80% vào năm 2035, cho nên các nguồn tài nguyên chưa được khai thác ở Biển Đông lại càng quan trọng đối với Trung Quốc.

Hoa Kỳ sẽ cần phải chứng minh rằng họ nghiêm túc trong việc bảo đảm an ninh cho Việt Nam đối với Trung Quốc. Hà Nội chắc vẫn còn nhớ rằng tổng thống Barack Obama thời đó đã từ chối bảo vệ một đồng minh có hiệp ước với Mỹ, khi Trung Quốc chiếm giữ bãi cạn Scarborough từ Philippines năm 2012. Obama cũng không hỗ trợ gì cho Việt Nam trong vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014.

Phần lớn chính sách của Trump cũng đi theo hướng đó, đưa ra những tuyên bố nghiêm khắc, nhưng không kèm theo hành động, khi Trung Quốc thành công buộc Việt Nam phải hủy bỏ các hợp đồng thăm dò dầu khí vào năm ngoái và năm 2017 tại các khu vực Biển Đông đang tranh chấp.

Các hành động gây áp lực của Trung Quốc gần Bãi Tư Chính và việc điều tàu cẩu vào vùng biển Việt Nam càng nguy hiểm hơn, vì kể từ nay các tàu của họ có thể tiếp cận các cơ sở hải quân và không quân mới trên các các đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở Biển Đông.

Điều này có nghĩa là các tàu đó không còn cần phải quay trở lại Hoa lục để tiếp nhiên liệu và bảo trì trong các chuyến hành trình vào Biển Đông. Điều đó cũng có nghĩa là họ có thể tuần tra gần bờ biển Việt Nam hơn và trong thời gian dài hơn.

Nếu cuộc đối đầu với Việt Nam leo thang thành một cuộc đối đầu vũ trang, thì đó có thể là cuộc trắc nghiệm về sự sẵn sàng của Trung Quốc cho một cuộc chiến tranh lớn hơn có thể xảy ra ở vùng biển tranh chấp này trong những năm tới.

Thanh Phương

Nguồn : RFI, 09/09/2019

*****************

Biển Đông : Tàu Trung Quốc quay lại Bãi Tư Chính thách thức Việt Nam

Trọng Nghĩa, RFI, 08/09/2019

Phải chăng lần này Trung Quốc nhất quyết xâm chiếm khu vực gần Bãi Tư Chính ở Biển Đông thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ? Câu hỏi này đã được gợi lên vào lúc giới quan sát tình hình Bãi Tư Chính ghi nhận các dấu hiệu cho thấy hôm 07/09/2019, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 ở trên đường quay trở lại khu vực. Đây là lần thứ ba, sau khi đã rời đi qua nghỉ vài ngày tại Đá Chữ Thập (Trường Sa) hôm 04/09.

bd2

Ngày 07/09/2019, tàu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 ở trên đường quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính.

Trong một tin nhắn Twitter gởi đi sáng ngày 07/09/2019, giáo sư Ryan Martinson, trường Hải Chiến Mỹ, người theo dõi sát tình hình tại Bãi Tư Chính, đã ghi nhận : "Sau khi dừng lại vài ngày tại Đá Chữ Thập, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 có vẻ đã sẵn sàng để tiếp tục các hoạt động khảo sát tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam".

Kèm theo tin nhắn là một sơ đồ cho thấy vị trí chiếc Hải Dương Địa Chất 8 lúc 01g47 giờ quốc tế UTC, đang rời Đá Chữ Thập, hướng về khu vực Bãi Tư Chính ở phía tây, với vận tốc 10 nút.

Một tin nhắn Twitter khác từ tài khoản South China Sea News cùng ngày xác định là tàu khảo sát Trung Quốc đang rời Đá Chữ Thập với tốc độ tối đa, cùng với một số tàu hộ tống. Chiếc tàu hải cảnh khổng lồ 3901 của Trung Quốc, chủ lực trong đoàn hộ tống đã bật lại tín hiệu AIS, cho thấy vị trí gần chiếc Hải Dương Địa Chất 8.

Trên hiện trường, giáo sư Martinson ghi nhận sự hiện diện tiếp tục của giàn khoan Hakuryu 5, ở phía tây Bãi Tư Chính. Lần đầu tiên sau nhiều tuần lễ, giàn khoan đang hoạt động cho Rosneft và Việt Nam này đã bật lại tín hiệu định vị AIS.

Dĩ nhiên các thông tin nói trên từ giới quan sát không hề được Việt Nam chính thức đề cập đến, làm dấy lên tranh luận về phản ứng của Việt Nam.

Một loạt tin nhắn từ tài khoản South China Sea News ngày hôm nay, 08/09/2019 nhận định : "Rõ ràng là căn cứ vào luật quốc tế, Trung Quốc đang nhẹ nhàng xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thế nhưng việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế lại không phải là một vấn đề luật pháp, mà là vấn đề quyết tâm chính trị của giới lãnh đạo và nhân dân Việt Nam. Liệu họ có sẵn sàng để bị Trung Quốc trừng phạt hay không ? Nếu muốn được quốc tế giúp đỡ, Việt Nam cần công khai cho biết diễn tiến trên hiện trường để cộng đồng quốc tế có thể biết rõ hơn về tính chất nghiêm trọng của tình hình".

Một tin nhắn khác từ tài khoản IndoPacific_SCS_Info cho rằng việc thông báo về sự vụ là điều mà chính quyền Việt Nam nên làm, nhưng lại không làm vì sợ người dân sẽ xuống đường, với những hậu quả chính trị đáng lo ngại.

Trọng Nghĩa

Quay lại trang chủ
Read 691 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)