Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm – Biển Đông tiếp tục dậy sóng
Phạm Hoàng Sơn, RFA, 22/01/2020
Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn đặt nặng mục tiêu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao. Bởi vì với một đất nước đông dân, có nhiều vấn đề nội bộ nghiêm trọng như Trung Quốc thì chỉ khi giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mới có thể đảm bảo cho việc cầm quyền của Đảng Cộng sản, không dẫn đến sự rối loạn đất nước.
Hình minh họa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh hôm 25/10/2017 - AFP
Tuy nhiên, tình hình tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc gần đây đã xuất hiện những trở ngại mới và điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị Trung Quốc và thế giới. Các con số thống kê chỉ tính đến tháng 9/2019 đã cho thấy sự sụt giảm đáng kể của nền kinh tế Trung Quốc. Tại cuộc họp Lưỡng hội tháng 3/2019, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đặt ra mục tiệu trong Báo cáo công tác Chính phủ, dự kiến kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng từ 6 - 6,5%/năm. Tuy nhiên, theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (National Bureau of Statistics of China) thì GDP quý I đạt 6,4%, quý II đạt 6,2% và quý III chỉ đạt 6%. Các số liệu như trên cho thấy mức tăng trưởng về GDP năm nay của Trung Quốc thấp nhất trong thời gian gần 30 năm trở lại đây.[1] Hãng Reuters dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm 2020 chỉ có khả năng đạt được 5,9%.[2]
Nền kinh tế Trung Quốc đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nên ít nhiều gặp khó khăn do quy mô kinh tế lớn và phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài. Thời gian qua, Trung Quốc cũng đã nỗ lực chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế thiên về xuất khẩu thay bằng kích thích nhu cầu trong nước, xong để nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này chuyển hướng cần thời gian và các chính sách đồng bộ. Đặc biệt, theo nhiều chuyên gia đánh giá thì một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại là do tác động của cuộc chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ trong suốt thời gian qua. Cuộc chiến tranh thương mại này cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu giảm nhiệt, đang ở mức không ngừng leo thang căng thẳng thậm chí còn mở rộng ra cả lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều đó đã tác động trực diện đến nền kinh tế Trung Quốc, gây ra tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp trong nước. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài cũng đã rời khỏi Trung Quốc để tránh tác động của thương chiến, dẫn đến việc thất nghiệp lan rộng.[3] Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC) - cơ quan hoạch định chính sách kinh tế hàng đầu Trung Quốc cho biết, nước này đang phải chịu rất nhiều áp lực trong việc duy trì môi trường việc làm ổn định), v.v... Ngoài ra, tình hình chính trị căng thẳng như biểu tình ở Hồng Kông kéo dài cũng là nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc.
Trong nhiều năm trở lại đây, mức tăng trưởng kinh tế ổn định đã trở thành một trong những nền tảng duy trì tính hợp pháp trong sự cầm quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc. Bởi vậy, việc thừa nhận những khó khăn nổi cộm trong phát triển kinh tế, một mặt cho thấy, những áp lực về kinh tế mà Trung Quốc đang phải đối mặt là rất lớn, mặt khác cho thấy chính phủ Trung Quốc đã nhận thức rõ được cục diện khó khăn về mặt kinh tế mà nước này đang phải đối mặt.
Hình minh họa. Hình chụp hôm 1/6/2014 từ tàu cảnh sát biển Việt Nam cho thấy tàu hải cảnh Trung Quốc đang đuổi theo tàu Việt Nam gần giàn khoan dầu Trung Quốc triển trai ra Biển Đông AFP
Tuy nhiên, cho dù nền kinh tế có những biến động như vậy, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh tế ở khu vực đảo Hải Nam nhằm mục tiêu xây dựng khu vực đảo Hải Nam thành Khu mậu dịch tự do và cảng thương mại tự do với hàng loạt các chính sách ưu đãi về mặt kinh tế. Kế hoạch thúc đẩy phát triển kinh tế ở Hải Nam trên các lĩnh vực mũi nhọn như: Cảng biển, nuôi trồng thuỷ hải sản, nông nghiệp nhiệt đới, du lịch nghỉ dưỡng, hàng không vũ trụ...đã cho thấy mục tiêu lâu dài của Đảng và Chính phủ Trung Quốc trong việc phát triển kinh tế Hải Nam làm bàn đạp tiến ra khống chế Biển Đông. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đang từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng ở Hải Nam để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào khu vực này, tạo điểm kết nối với các quốc gia trong khu vực trên cơ sở thúc đẩy chiến lược con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21.
Chúng ta đã chứng kiến trong năm 2019, những dấu hiệu bất ổn của tình hình kinh tế, chính trị, đối ngoại của Trung Quốc đã có những tác động, ảnh hưởng nhất định tới tình hình Biển Đông. Bởi vì một trong các cách thức căn bản mà Trung Quốc từ trước đến nay vẫn hay áp dụng đó là khi có những dấu hiệu bất ổn trong nước, Trung Quốc thường thông qua những động thái gây căng thẳng ngoài biển để đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài, kích động chủ nghĩa dân tộc nhằm làm giảm sự chú ý của dư luận đối với các vấn đề nội bộ. Chính vì vậy, với việc tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, cộng với các vấn đề chính trị nội bộ, Trung Quốc đang có những xung đột sâu sắc, khả năng Trung Quốc "mượn" vấn đề biển Đông để lấp đi những bất ổn nội bộ là khả năng hoàn toàn có thể xảy ra.
Phạm Hoàng Sơn
Nguồn : RFA, 22/01/2020
[1] National Bureau of Statistics of China, 2019, Preliminary Accounting Results of GDP for the Third Quarter of 2019.
[3] "Công ty nước ngoài chạy khỏi Trung Quốc, hàng loạt nhà máy tê liệt".
****************
Cảnh giác ý đồ của Trung Quốc trên Biển Đông
Phạm Ngọc Thảo, RFA, 22/01/2020
Ngày 20/1/1974 là một sự kiện lịch sử bi tráng đối với dân tộc Việt Nam. Đó là ngày Hải quân Trung Quốc đã bất ngờ tấn công, chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa từ tay của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Trong trận chiến thư hùng đó, 74 chiến sĩ của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tử vong.
Hình minh họa. Ảnh chụp từ vệ tinh thành phố Nam Sa trên một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc kiểm soát hôm 27/6/2012 AFP
Tình cảnh của Việt Nam Cộng Hòa lúc đó khá bi đát khi đang đứng trước nguy cơ thất trận trước người anh em cùng một mẹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chưa kể sự rút lui của Hoa Kỳ sau Hiệp định Paris 1973 đã khiến phía Việt Nam Cộng Hòa bị mất tinh thần. Nhân cơ hội đó, "thế" và "thời" đều thuận lợi, nên Trung Quốc đã chọn lựa thời điểm tốt nhất để tấn công, sau khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước đó rất lâu.
Hoàng Sa là bước đầu tiên để Trung Quốc thể hiện sức mạnh của mình trên biển trước Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Và cũng là bước thể hiện đầu tiên trong ý đồ "vươn ra biển khơi" mà Trung Quốc đã "nung nấu" trước đó.
Hoàng Sa cũng chưa phải là sự kiện duy nhất Trung Quốc gây hấn trên biển Đông. Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục tấn công người anh em sinh đôi của Việt Nam Cộng Hòa (lúc đó đã đổi tên là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) tại khu vực Trường Sa. Phía Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với tiềm lực vô cùng hạn chế, cộng với ý đồ quân sự bị lộ, khi tính đưa công binh ra nhằm khẳng định chủ quyền, đã bị Hải quân Trung Quốc với tiềm lực mạnh hơn tấn công. Sau sự kiện 1988 đó, Gạc ma đã mất tiếp vào tay Trung Quốc.
Hình minh họa. Những người biểu tình phản đối Trung Quốc tại Hà Nội hôm 14/3/2016 nhân kỷ niệm trận chiến Gạc Ma năm 1988 AFP
Năm 1995, Trung Quốc tiếp tục chiếm Bãi Vành khăn từ tay quân đội Philippines. Philippines uất ức nhưng với tiềm lực quân sự quá yếu đành nhìn Trung Quốc chiếm trọn Vành khăn.
Trung Quốc từ chỗ không kiểm soát bất cứ thực thể nào ở Trường Sa, sau khi ra tay chớp nhoáng, biến mọi sự thành chuyện đã rồi thì nay Trung Quốc đang chiếm giữ 7 thực thể tại Trường Sa. 7 thực thể này đã được Trung Quốc bồi lấp thành các đảo nhân tạo và trang bị vũ khí quân sự trên đó.
Tuy vậy, luật pháp quốc tế đã không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại tất cả các khu vực này, cho dù Trung Quốc đang kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và 7 thực thể ở Trường Sa. Bởi vì luật pháp quốc tế từ sau khi Liên Hợp Quốc được thành lập, đã không chấp nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một lãnh thổ thuộc một quốc gia khác.
Tuy nhiên, Trung Quốc lại là một quốc gia gần như không biết đến sự tôn trọng luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, một lo ngại đặt ra là liệu Trung Quốc có thể lặp lại các hành động xâm chiếm như đã từng làm trong quá khứ hay không?
Năm 2012, Trung Quốc chưa cần dùng biện pháp quân sự nhưng đã sử dụng chiến thuật "bắp cải" để ngang nhiên giành quyền kiểm soát bãi Scaborough từ tay của Philippines. Chính vì vậy, Philippines đã khởi kiện Trung Quốc ra một Hội đồng trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước luật biển 1982 (UNCLOS). Và Toà trọng tài năm 2016 đã có phán quyết lịch sử khi tuyên bố Philippines thắng cuộc.
Hiện nay, Trung Quốc một mặt đang "mua chuộc" các nước ASEAN thông qua Sáng kiến Vành đai Con đường (BRI) của họ. Với những dự án hàng tỉ USD, Trung Quốc đang "chia rẽ" các quốc gia ASEAN. Đồng tiền của họ đang khiến các quốc gia ASEAN cách biệt nhau về quan điểm. Một cuộc thăm dò gần đây của Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore đã cho thấy 7 trong 10 nước ASEAN thích Trung Quốc hơn" [1]. Trung Quốc còn tuyên truyền mập mờ về tình hình "ổn định" ở Biển Đông và mốc thời gian sẽ hoàn thành đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) trong 3 năm tới. Đây chính là một trong các "thủ pháp" ngoại giao của Trung Quốc, nhằm gây sức ép lên các quốc gia trong khu vực, đồng thời ngăn cản các quốc gia bên ngoài can dự vào Biển Đông.
Ông Antonio Carpio, Cựu thẩm phán Toà án tối cao Philippines, một trong những tác giả quan trọng của Phiên toà thế kỷ - Philippines kiện Trung Quốc đã cảnh báo rằng: "Trung Quốc sẽ không ngưng việc bồi lấp các đảo nhân tạo, và sẽ tiếp tục bồi lấp Scarborough, trước khi các bên ký kết COC" [2].
Cảnh báo của ông Carpio không phải là không có cơ sở. Trong quá khứ, Trung Quốc luôn tìm mọi cách để tạo lợi thế kể cả bằng biện pháp quân sự, khiến "gạo đã thành cơm". Thậm chí với các hành động gây hấn gần đây của Trung Quốc với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, ta có thể nhận thấy mục tiêu xuyên suốt của Trung Quốc là nhằm biến các vùng biển không có tranh chấp thành vùng biển có tranh chấp với các nước khác, nhằm ép buộc các quốc gia trong khu vực từ bỏ hợp tác khai thác với các quốc gia khác để hợp tác khai thác chung theo "cách thức" của Trung Quốc đó chính là "chủ quyền thuộc về chúng ta (Trung Quốc), gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác".
Chính vì vậy, các quốc gia ASEAN cần tỉnh táo trước một Trung Quốc đầy gian manh và xảo trá. Sự đoàn kết của ASEAN bảo vệ được chính ASEAN trước một Trung Quốc hung hăng và đầy tham lam. Còn nếu không, các quốc gia ASEAN sẽ phải trả giá ngay trong tương lai gần.
Phạm Ngọc Thảo
Nguồn : RFA, 22/01/2020