Tranh cãi "đấu đá nội bộ" tại Ba Đình sau khi Việt Nam gửi Công hàm phản đối Trung Quốc
Hải Yến, Thoibao.de, 11/04/2020
Việc Việt Nam hồi cuối tháng 3 gửi tới Liên Hiệp Quốc công hàm bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông tạo sự phấn chấn trong công chúng Việt Nam những ngày gần đây, theo giới quan sát nhận định.
Bản chính phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Quốc tế về Biển Đông (PCA), bác bỏ đường 9 đoạn của Trung quốc, do Phillipines khởi kiện
Đồng thời, trong các diễn đàn trên mạng, dư luận và một số chuyên gia đưa ra phỏng đoán rằng động thái mới cho thấy trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, khuynh hướng kiện Trung Quốc về ranh giới trên biển đang thắng thế, còn phe phái bị xem là "thân Tàu" đang yếu thế.
Tuy nhiên, hai chuyên gia am hiểu Việt Nam và Biển Đông nói rằng họ không đồng ý về phỏng đoán kể trên.
"Trong nội bộ chính quyền Việt Nam sẽ có những người có quan điểm muốn cứng rắn hơn với Trung Quốc, nhưng cũng có những người muốn mềm mỏng hơn, ứng xử khéo léo hơn với Trung Quốc. Tôi nghĩ điều đó không nhất thiết dẫn đến việc chúng ta phải gắn nhãn họ là thân Trung Quốc hay chống Trung Quốc", tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS -Yusof Ishak đặt tại Singapore, nói với VOA.
Theo nhà nghiên cứu này, liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông, "hầu như tất cả" các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đều có quan điểm thận trọng và muốn bảo vệ lợi ích của Việt Nam trước sự lấn tới của Trung Quốc, nhưng các quan chức Việt Nam "chưa thống nhất" được biện pháp ứng xử với Trung Quốc.
Tiến sĩ Hiệp nói thêm : "Có người muốn khéo léo hơn với Trung Quốc để làm sao Việt Nam vừa bảo vệ được lợi ích của mình trên Biển Đông vừa không tổn hại các lợi ích chính trị và kinh tế trong quan hệ với Trung Quốc. Vì vậy, tôi nghĩ điều này gây ra cảm nhận không hoàn toàn chính xác từ bên ngoài là trong nội bộ Việt Nam có những nhóm thân Trung Quốc hay chống Trung Quốc. Điều này không hoàn toàn chính xác. Đa phần [trong chính quyền Việt Nam] đều đồng thuận là phải chống lại áp lực của Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng điểm khác biệt [giữa họ] là làm thế nào để đạt được mục tiêu đó".
Thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh, chia sẻ quan điểm trên, ông nói : "Cấu trúc chính trị của Việt Nam là mọi việc phải có sự đồng thuận của tập thể. Tuy cũng có những nhóm có vẻ thân Trung Quốc hơn hay có vẻ hướng về phía Mỹ hơn. Có vẻ thôi, chứ còn phân thành các nhóm rõ rệt ở Việt Nam thì chắc chắn là khó, không có đâu. Việt Nam thống nhất từ trên xuống dưới, và không phải mới bây giờ mà đường hướng ngoại giao đã có từ trước".
Mặc dù vậy, theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, đang có chuyển động đáng chú ý trong tầng lớp có quyền ra quyết sách ở Việt Nam. Ông nói : "Qua một loạt những sự kiện, đang có những tín hiệu cho thấy ngay cả các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đang có sự chuyển hướng tư duy, tức là hướng từ Trung Quốc trước đây dần sang phía Mỹ và đồng minh".
Đưa ra dẫn chứng về quan điểm này, ông Việt đề cập đến sự kiện tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam hôm 2/4 ở gần quần đảo Hoàng Sa trong vòng tranh chấp và ngay ngày hôm sau, 3/4, báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, đăng toàn văn tuyên bố phản đối của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Để so sánh, nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại rằng hồi hè-thu năm 2019, khi Trung Quốc đưa tàu khảo sát hải dương vào hoạt động trong hơn 3 tháng ở Bãi Tư Chính gây ra căng thẳng vô cùng lớn giữa Việt Nam với Trung Quốc, báo Nhân Dân "không đăng một dòng nào" về vấn đề đó.
Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng vụ đâm chìm tàu hôm 2/4 không hề "ngẫu nhiên", mà có liên quan đến việc Việt Nam gửi công hàm tới Liên Hiệp Quốc hôm 30/3, trong đó bác bỏ các "yếu tố lịch sử" để xác lập yêu sách về chủ quyền biển của Trung Quốc.
"Ngày 30/3, phía Việt Nam nộp công hàm, có thể là Trung Quốc phản ứng lại về hai điều. Một là thái độ của Việt Nam đối với Hoa Kỳ gần đây, và thứ hai là đối với công hàm ngày 30/3 thì Trung Quốc phản ứng bằng cách cho đâm chìm tàu cá", Thạc sĩ Hoàng Việt nói.
Theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, quan điểm mới nhất của Việt Nam phù hợp với phán quyết của một tòa trọng tài quốc tế hồi năm 2016 về tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc, mặc dù trong công hàm mới đây Việt Nam không trực tiếp nhắc đến phán quyết. Ông cho rằng những lập trường rõ ràng hơn, cụ thể hơn của Việt Nam về các vấn đề tranh chấp biển giúp xác lập cơ sở vững chắc hơn để Việt Nam có thể sử dụng các công cụ pháp lý trong tương lai.
Tuy nhiên hiện nay "chưa xuất hiện tình thế căng thẳng đến mức Việt Nam phải khởi kiện Trung Quốc", vẫn theo lời ông Việt.
Khi nào Việt Nam sẽ sử dụng các công cụ pháp lý là "một câu hỏi mở" và sẽ là "quyết định chính trị", nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp thuộc Viện ISEAS-Yusof Ishak đưa ra nhận định.
Có nhiều yếu tố có thể tác động đến việc Việt Nam sẽ chọn thời điểm nào để kiện, trong đó quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc là "yếu tố quyết định", tiến sĩ Hiệp nói.
Như tin đã đưa, trong công hàm gửi Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 3, Việt Nam phản đối các yêu sách về biển nêu trong một số công hàm của Trung Quốc cũng gửi đến Liên Hiệp Quốc trước đó.
"Những yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại biển Đông", công hàm của Việt Nam có đoạn viết.
Với các diễn biến tiếp tục phức tạp ở Biển Đông năm 2020, liệu Tòa trọng tài quốc tế về luật biển có phải là lựa chọn gần hơn của Việt Nam ?
Qua công hàm, Việt Nam khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 (UNCLOS) là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đồng thời, Việt Nam đưa ra quan điểm về các thực thể ở cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rằng "vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của Công ước ; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất ; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng".
Chính phủ Việt Nam hiện nay, về mặt phát ngôn chính thức, hầu như không nói về việc sử dụng biện pháp pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan với Trung Quốc.
Tuy nhiên, ở góc độ học thuật, không ít hội thảo tổ chức ở Việt Nam đã từng đề cập trước mắt Việt Nam cần nghiên cứu các thủ tục pháp lý về khởi kiện ra Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển, được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước 1982.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nêu vấn đề : "Việt Nam được gì nếu khởi kiện Trung Quốc ? Điều trước tiên là được lòng dân. Lòng dân rất bức xúc vì họ không phải là chính khách, họ không hiểu hết thế tiến thoái lưỡng nan của nhà lãnh đạo".
"Thậm chí nếu cứ để dân oán thán mãi thì lãnh đạo sẽ mất tính chính danh. Động thái này có thể phần nào làm an dân. Một hiệu ứng khác của vụ kiện là nhân dân sẽ tin tưởng hơn ở chính quyền. Dân hiểu rằng, chính quyền sẽ dám có những hành động tương thích, một khi Trung Quốc vượt quá giới hạn.
Không chỉ dân mình mà còn được lòng bè bạn, Bè bạn đây theo nghĩa rộng, nghĩa chiến lược, chứ không phải bạn như thời "hai phe bốn mâu thuẫn". Thế giới sẽ thấy đường lối của Việt Nam là rõ ràng và minh bạch, khác với những chính khách "Judas phản Chúa" trong cộng đồng ASEAN.
Khởi kiện Việt Nam sẽ có cơ hội làm sáng tỏ chính nghĩa. Có chính nghĩa thì mới cơ hội để vận động dư luận quốc tế tiếp tục ủng hộ. Đưa vụ việc ra trước một cơ quan tài phán quốc tế, đấu tranh để đạt được một giải pháp hoà bình, phù hợp với xu thế thời đại.
Dù có gặp rắc rối trong quan hệ với Trung Quốc thì vẫn tốt hơn nhiều là phải chấp nhận một cuộc xung đột vũ trang.
Khi chọn một vị thế rõ ràng hơn với Trung Quốc, Việt Nam sẽ có được sự hậu thuẫn lớn hơn của thế giới văn minh. Việt Nam có cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng về kinh tế, chính trị của Trung Quốc, điều mà việc đeo bám đàm phán hay sự đứt gãy của chiến tranh không thể mang lại được".
"Còn Trung Quốc mất gì ? Trung Quốc chắc chắn sẽ mất nhiều hơn Việt Nam. Một trong những mất trước mắt là Trung Quốc vốn không có bạn bè trên thế giới, nay với một vụ kiện về Biển Đông thì các nước ASEAN, trừ những chính khách đã "ngậm miệng ăn tiền" của Trung Quốc, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nêu lý giải.
"Nhưng mất mát lớn nhất của Trung Quốc là sẽ để ảnh hưởng trực tiếp đến sáng kiến Vành đai Con đường(BRI). Nước nào sẽ tin Trung Quốc, sau khi Châu Phi, Italy đã sập tiệm vì tham gia BRI ? Trung Quốc phải biết rằng, khuất phục một người bằng sức mạnh đã khó, khuất phục một dân tộc bằng sức mạnh là điều không thể. Vì vậy, chính vì "đại cục" của Trung Quốc, Trung Quốc trước sau cũng phải chấp nhận đi vào giải pháp", Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nói.
Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao nói : "Còn về phía Trung Quốc nếu như bị kiện, thì chúng ta thấy qua tiền lệ của Philippines kiện Trung Quốc, sau khi phán quyết ra, thì Trung Quốc rất lo ngại".
Tiến sĩ Trần Công Trục cũng đồng tình là Trung quốc rất bất lợi, ông nói : "Với Trung Quốc, tất nhiên khi vụ kiện đưa ra, phán quyết bất lợi cho Trung Quốc, thì phía Trung Quốc sẽ bị lên án.
Quốc tế sẽ thấy rõ sự vô lý của Trung Quốc, đặc biệt việc bất chấp luật pháp quốc tế, điều đó về mặt chính trị, ngoại giao và pháp lý, Trung Quốc rất bất lợi.
Nhưng có một điều là có thể không thi hành được, vì bản án có đưa ra, cơ chế thi hành án lại không có mà Trung Quốc còn có thể lợi dụng vị thế họ là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an của Liên Hiệp Quốc nữa".
Vụ việc Việt Nam gửi Công hàm lên Liên Hiệp Quốc để phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền tại Biển Đông là hành động đặc biệt, lần đầu tiên diễn ra.
Để có quyết định dũng cảm này, đều cần sự thống nhất của các lãnh đạo cấp cao, bao gồm cả Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Nhưng động thái này chưa đủ, khi Trung Quốc từ lâu đã tuyên bố chủ quyền của họ bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông thông qua yêu sách đường 9 đoạn (mà Việt Nam gọi là đường lưỡi bò).
Trước sự tàn phá của Đại dịch viêm phổi Vũ Hán mà Trung quốc đang gây ra nỗi kinh hoàng cho thế giới với trên 100.000 người chết và trên 1 triệu người đang nhiễm bệnh, thì việc chung tay với Mỹ và các nước dân chủ, tự do để loại trừ sự nguy hiểm từ phương bắc là cần thiết.
Việt Nam không nên chần chừ, mà hãy khởi kiện Trung Quốc như Philippines đã từng làm và thành công.
Hải Yến (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 11/04/2020
***********************
Không có đấu đá nội bộ thân-chống Trung Quốc, dù Việt Nam tăng hành động về Biển Đông
VOA, 09/04/2020
Việc Việt Nam hồi cuối tháng 3 gửi tới Liên Hiệp Quốc công hàm bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông tạo sự phấn chấn trong công chúng Việt Nam những ngày gần đây, theo quan sát của VOA.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước : 'Quyết liệt nhưng không sợ hãi đến mức không dám làm gì'
Đồng thời, trong các diễn đàn trên mạng, dư luận và một số nhà quan sát đưa ra phỏng đoán rằng động thái mới cho thấy trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, khuynh hướng kiện Trung Quốc về ranh giới trên biển đang thắng thế, còn phe phái bị xem là "thân Tàu" đang yếu thế.
Tuy nhiên, hai chuyên gia am hiểu Việt Nam và Biển Đông nói trong các cuộc phỏng vấn riêng rẽ của VOA rằng họ không đồng ý về phỏng đoán kể trên.
"Trong nội bộ chính quyền Việt Nam sẽ có những người có quan điểm muốn cứng rắn hơn với Trung Quốc, nhưng cũng có những người muốn mềm mỏng hơn, ứng xử khéo léo hơn với Trung Quốc. Tôi nghĩ điều đó không nhất thiết dẫn đến việc chúng ta phải gắn nhãn họ là thân Trung Quốc hay chống Trung Quốc", tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS -Yusof Ishak đặt tại Singapore, nói với VOA.
Theo nhà nghiên cứu này, liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông, "hầu như tất cả" các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đều có quan điểm thận trọng và muốn bảo vệ lợi ích của Việt Nam trước sự lấn tới của Trung Quốc, nhưng các quan chức Việt Nam "chưa thống nhất" được biện pháp ứng xử với Trung Quốc.
Tiến sĩ Hiệp nói thêm : "Có người muốn khéo léo hơn với Trung Quốc để làm sao Việt Nam vừa bảo vệ được lợi ích của mình trên Biển Đông vừa không tổn hại các lợi ích chính trị và kinh tế trong quan hệ với Trung Quốc. Vì vậy, tôi nghĩ điều này gây ra cảm nhận không hoàn toàn chính xác từ bên ngoài là trong nội bộ Việt Nam có những nhóm thân Trung Quốc hay chống Trung Quốc. Điều này không hoàn toàn chính xác. Đa phần [trong chính quyền Việt Nam] đều đồng thuận là phải chống lại áp lực của Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng điểm khác biệt [giữa họ] là làm thế nào để đạt được mục tiêu đó".
Thạc sĩ Hoàng Việt, một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh, chia sẻ quan điểm trên. Ông Việt nói với VOA : "Cấu trúc chính trị của Việt Nam là mọi việc phải có sự đồng thuận của tập thể. Tuy cũng có những nhóm có vẻ thân Trung Quốc hơn hay có vẻ hướng về phía Mỹ hơn. Có vẻ thôi, chứ còn phân thành các nhóm rõ rệt ở Việt Nam thì chắc chắn là khó, không có. Việt Nam thống nhất từ trên xuống dưới, và không phải bây giờ mà đường hướng ngoại giao đã có từ trước".
Lãnh đạo Việt Nam chuyển hướng tư duy
Mặc dù vậy, theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, đang có chuyển động đáng chú ý trong tầng lớp có quyền ra quyết sách ở Việt Nam. Ông nói : "Qua một loạt những sự kiện, đang có những tín hiệu cho thấy ngay cả các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đang có sự chuyển hướng tư duy, tức là hướng từ Trung Quốc trước đây dần sang phía Mỹ và đồng minh".
Đưa ra dẫn chứng về quan điểm này, ông Việt đề cập đến sự kiện tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam hôm 2/4 ở gần quần đảo Hoàng Sa trong vòng tranh chấp và ngay ngày hôm sau, 3/4, báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, đăng toàn văn tuyên bố phản đối của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Để so sánh, nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại rằng hồi hè-thu năm 2019, khi Trung Quốc đưa tàu khảo sát hải dương vào hoạt động trong hơn 3 tháng ở Bãi Tư Chính gây ra căng thẳng vô cùng lớn giữa Việt Nam với Trung Quốc, báo Nhân Dân "không đăng một dòng nào" về vấn đề đó.
Vẫn nhà nghiên cứu này nói với VOA rằng vụ đâm chìm tàu hôm 2/4 không hề "ngẫu nhiên", mà có liên quan đến việc Việt Nam gửi công hàm tới Liên Hiệp Quốc hôm 30/3, trong đó bác bỏ các "yếu tố lịch sử" để xác lập yêu sách về chủ quyền biển của Trung Quốc : "Ngày 30/3, phía Việt Nam nộp công hàm, có thể là Trung Quốc phản ứng lại về hai điều. Một là thái độ của Việt Nam đối với Hoa Kỳ gần đây, và thứ hai là đối với công hàm ngày 30/3 thì Trung Quốc phản ứng bằng cách cho đâm chìm tàu cá".
Hình ảnh tuần duyên Trung Quốc và bản đồ khu vực Bãi Tư Chính trên Biển Đông. (Ảnh chụp màn hình Thanh Niên)
Như tin đã đưa, trong công hàm gửi Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 3, Việt Nam phản đối các yêu sách về biển nêu trong một số công hàm của Trung Quốc cũng gửi đến Liên Hiệp Quốc trước đó.
"Những yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông", công hàm của Việt Nam có đoạn viết.
Công hàm xác lập thêm cơ sở pháp lý
Qua công hàm, Việt Nam khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 (UNCLOS) là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đồng thời, Việt Nam đưa ra quan điểm về các thực thể ở cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rằng "vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của Công ước ; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất ; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng".
Theo thạc sĩ luật Hoàng Việt, cũng là chuyên gia về Biển Đông, quan điểm mới nhất của Việt Nam phù hợp với phán quyết của một tòa trọng tài quốc tế hồi năm 2016 về tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc, mặc dù trong công hàm mới đây Việt Nam không trực tiếp nhắc đến phán quyết.
Chuyên gia Hoàng Việt cho rằng những lập trường rõ ràng hơn, cụ thể hơn của Việt Nam về các vấn đề tranh chấp biển giúp xác lập cơ sở vững chắc hơn để Việt Nam có thể sử dụng các công cụ pháp lý trong tương lai. Còn hiện nay "chưa xuất hiện tình thế căng thẳng đến mức Việt Nam phải khởi kiện Trung Quốc", vẫn theo lời ông Việt.
Khi nào Việt Nam sẽ sử dụng các công cụ pháp lý là "một câu hỏi mở" và là "quyết định chính trị", nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp thuộc Viện ISEA-Yusof Ishak đưa ra nhận định.
Có nhiều yếu tố có thể tác động đến việc Việt Nam sẽ chọn thời điểm nào để kiện, trong đó quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc là "yếu tố quyết định", tiến sĩ Hiệp nói.
*********************
Biển Đông : Chiến lược của Việt Nam khi gửi Công hàm lên Liên Hiệp Quốc ?
Trương Nhân Tuấn, BBC, 09/04/2020
Trên BBC có bài giới thiệu ý kiến các học giả Việt Nam, liên quan đến sự kiện "Phái đoàn của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc vừa gửi Công hàm từ hôm 30/3/2020 tới Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông".
Bản chính Công hàm phản đối của Việt Nam đệ trình lên Liên Hợp Quốc ở New York ngày 30/3/2020 phản đối lập trường của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông
Báo chí trong nước đồng loạt đăng tin này hôm 07/4.
Điều đầu tiên cần minh bạch. Việt Nam gởi công hàm lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc nhưng gởi cho cơ quan nào ?
Nếu gởi cho Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tức gởi cho toàn thể các quốc gia hội viên của Liên Hiệp Quốc, vấn đề sẽ rất trọng đại.
Nếu ta nhớ lịch sử thì việc can thiệp của Liên Hiệp Quốc vào chiến tranh Nam, Bắc Hàn 1950-1953 là đến từ một Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Nếu gởi cho Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc vấn đề sẽ nghiêm trọng, vì nội dung sẽ liên quan đến nền hòa bình của toàn cầu.
Hầu hết các cuộc can thiệp quân sự của Mỹ và đồng minh vào chiến trường Afghanistan, Iraq… đều đến từ một Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Nếu gởi Tòa Công lý quốc tế, cơ quan pháp lý của Liên Hiệp Quốc, ta có thể hình dung một vấn đề quan trọng. Việt Nam mở đầu cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc, bằng cơ quan pháp lý, có uy tín nhứt địa cầu.
Thực tế hoàn toàn không phải vậy ! Công hàm mà báo chí đề cập là công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam gởi Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc.
Sự hiện hữu của công hàm phản đối này thực chất chỉ là một trình tự "logic" về ngoại giao, bắt buộc phải có của nhà nước, nhằm thể hiện thái độ của quốc gia Việt Nam đối với các hành vi, thái độ của một, hay những, quốc gia khác, về một vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Ở đây là các vấn đề liên quan đến yêu sách của Trung Quốc, về chủ quyền lãnh thổ và hải phận.
Ý nghĩa của công hàm này vì vậy cần nên hiểu trong vòng "hạn chế", trong "bối cảnh" ra đời của nó.
Thật vậy, xét nội dung Công hàm ngày 30/3 của Việt Nam (1) :
"Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc tại các Công hàm trên. Các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông".
"Các công hàm trên" là hai công hàm của Trung Quốc, thứ nhất là công hàm số "CML/14/2019 ngày 12/12/2019 (2) nhằm phản hồi đệ trình ngày 12/12/2019 của Malaysia gửi Ủy ban Ranh giới thềm lục địa". Thứ hai là Công hàm số "CML/11/2020 ngày 23/3/2020 của Phái đoàn thường trực nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc".
Việt Nam khẳng định qua công hàm rằng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, qui định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc :
1/ chủ quyền hai quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam).
2/ vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại Hoàng Sa và Trường Sa phải được xác định theo điều 121 khoản 3 của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982).
3/ Các nhóm đảo ở Biển Đông, bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa không có dường cơ sở vẽ bằng cách nối các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhứt.
4/ Các bãi chìm lúc chím lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng.
5/ Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn được quy định tại Công ước, trong đó có yêu sách quyền lịch sử ; các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.
Việc phản đối như vậy là cần thiết.
Bởi vì, trước luật pháp quốc tế, sự "im lặng" của một quốc gia trước một vấn đề (quốc tế) đòi hỏi quốc gia phải lên tiếng, được xem là "sự đồng thuận ám thị".
Nếu có theo dõi sự việc, ta biết rằng ngày 12/12/2019 Mã lai nộp "Hồ sơ Thềm lục địa mở rộng vùng phía bắc" của quốc gia này lên Ủy ban ranh giới Thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc.
Cùng ngày, Trung Quốc nộp công hàm phản biện yêu sách của Malaysia.
Trung Quốc khẳng định chủ quyền của họ tại Nam Sa (tức Trường Sa) đồng thời cho rằng yêu sách của Mã lai đã chồng lấn với vùng "biển lịch sử" của họ.
Ngày 6/3, Philippines gửi công hàm lên Ủy ban ranh giới Thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia này. Theo đó Philippines khẳng định chủ quyền của nước này ở nhóm đảo "Kalayaan", tức Trường Sa của Việt Nam.
Trung Quốc không thể im lặng (vì im lặng là đồng thuận).
Do đó Trung Quốc lên tiếng phản biện lại yêu sách của Philippines, đồng thời khẳng định chủ quyền của họ tại Nam Sa, tức Trường Sa của Việt Nam, chủ quyền Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), Trung Sa và đá Hoàng Nham (tức Scarborough).
Trung Quốc cũng khẳng định đường cơ sở quần đảo chung quanh quần đảo Trường Sa, đường cơ sở chung quanh quần đảo Hoàng Sa và vùng "biển chung quanh".
Dĩ nhiên việc này "lôi kéo" theo Việt Nam. Việt Nam cũng không thể im lặng vì sự im lặng của Việt Nam có ý nghĩa "từ khước chủ quyền" ở Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời nhìn nhận yêu sách về vùng biển của Trung Quốc.
Nhiều án lệ của Tòa Công lý quốc tế cho thấy, việc "xao lãng" của nhà cầm quyền trước một vấn đề buộc quốc gia phải lên tiếng, thí dụ im lặng trước tuyên bố của một quốc gia khác về chủ quyền một vùng lãnh thổ. Sự im lặng của nhà cầm quyền một quốc gia có thể làm cho quốc gia đó mất chủ quyền ở vùng lãnh thổ ấy.
Tức là sự phản biện của Việt Nam trước quốc tế (ở đây là Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc) về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và hải phận là một "trình tự logic" ngoại giao. Tức chuyện "hết sức bình thường".
Điều đáng tiếc là trong thời gian qua Việt Nam có lần đóng vai trò "cầm chịch" luân phiên Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Việt Nam đã không lợi dụng được điều gì ở vị thế này hết cả.
Về ý kiến công hàm này "báo hiệu một tiến trình pháp lý".
Theo tôi, Việt Nam đã bỏ qua rất nhiều dịp tốt để kiện Trung Quốc trước một tòa án quốc tế. Vụ bãi Tư Chính năm ngoái là một thí dụ. Vấn đề là Việt Nam phải kiện về nội dung nào ? kiện ở đâu ? Nhiều lần tôi đã nói việc này.
Điều đáng ghi nhận trong công hàm của Việt Nam là Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực "Phán quyết của tòa PCA 2016" Phillipines kiện Trung Quốc về việc "giải thích và cách áp dụng Luật biển" trong khu vực quần đảo Trường Sa.
Điều này thể hiện qua lập trường của Việt Nam về hiệu lực tất cả các đảo, bãi ngầm..., hoặc là cách vẽ đường cơ sở chung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đúng như cách "giải thích và cách áp dụng Luật Biển", đặc biệt ở điều 121 về hiệu lực các đảo cũng như việc giải thích của Tòa về đường cơ sở và vùng nước quần đảo.
Tức Việt Nam đã nhìn nhận phán quyết PCA 2016 là "luật".
Điều mới mẻ, đáng nói (mà không thấy ai nói), trong công hàm của Việt Nam là đưa các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa vào đứng chung với Trường Sa. Việc này không liên quan gì đến các quốc gia Malaysia hay Phillipines.
Ý nghĩa của việc này là, từ nay, quan điểm của Việt Nam là các đảo lớn nhỏ, chìm nổi... thuộc Hoàng Sa không có cái nào có hiệu lực biển, đồng thời Hoàng Sa cũng không có đường cơ sở và vùng biển nội hải, theo cách tính của "quốc gia quần đảo".
Theo tôi, "ý đồ" của Việt Nam qua công hàm này là "hâm nóng" vấn đề tranh chấp Hoàng Sa, như tôi nhiều lần nhấn mạnh, về sự cần thiết cũng như các phương cách "hâm nóng".
Để ý đoạn công hàm 30-3-2020 của Việt Nam :
"Phái đoàn thường trực đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc lưu hành Công hàm này đến tất cả các quốc gia thành viên Công ước, cũng như tất cả các thành viên của Liên hợp quốc".
Rõ ràng ý đồ của Việt Nam, thông qua hồ sơ Thềm lục địa mở rộng của Malaysia, muốn "quốc tế hóa" vấn đề Hoàng Sa.
Theo tôi, qua công hàm này Việt Nam sẽ không kiện Trung Quốc, vì những tranh chấp với Trung Quốc ở bãi Tư chính hay khu vực Trường Sa, với phương cách mà Phillipines đã làm.
Nhiều lần tôi có ý kiến, kiện Trung Quốc bằng con đường này không phải là "thượng sách". Bởi vì ta biết chắc chắn là Trung Quốc sẽ không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa, cũng như không nhìn nhận bản án và không chấp hành phán quyết. Như đã xảy ra ở phán quyết PCA tháng 7/2016. Trong khi Việt Nam có những phương cách khác, không thông qua quá trình pháp lý, để triệt tiêu các yêu sách phi lý của Trung Quốc (ở khu vực Trường Sa).
Dự đoán của tôi, có lẽ Việt Nam đang sử dụng phương thức mà tôi đã từng đề nghị, (bài đã đăng ở BBC). Đó là cách sử dụng Luật Biển, thể hiện trong nội dung Phán quyết PCA tháng 7/2016, xuyên qua quyết định của Ủy ban ranh giới Thềm lục địa. Việt Nam, Malaysia và Philippines nhờ cơ quan này nhìn nhận hồ sơ hợp pháp về ranh giới thềm lục địa mở rộng của quốc gia mình.
Điều này có thể đang xảy ra. Việt Nam có thể đang hợp cùng với Philippines và Malaysia, qua các Hồ sơ Thềm lục địa mở rộng của quốc gia mình, từ tháng 12/2019.
Điều này thành công thì các yêu sách phi lý của Trung Quốc, như "vùng nước tiếp cận các đảo", "vùng biển lịch sử" thể hiện qua bản đồ chữ U9 đoạn, vùng phia nam Biển Đông, sẽ bị vô hiệu hóa bởi quyết định của Liên Hiệp Quốc.
Riêng vùng hải phận phía bắc Biển Đông, thuộc khu vực Hoàng Sa. Có lẽ Việt Nam sẽ phải sử dụng mô hình của Philippines để kiện Trung Quốc. Ý kiến này tôi cũng đã từng đề nghị qua các bài viết trước đây, trong đó có các bài đăng trên BBC.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : BBC, 09/04/2020
(1) Công hàm ngày 30/3 của Việt Nam
(2) Công hàm ngày 12/12/2019 của Trung Quốc (CML/14/2019)
*********************
Việt Nam gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc : mạnh mẽ, đúng thời điểm ?
Hôm 7/4, nhiều báo của Việt Nam đã đưa tin về động thái mới của Việt Nam, trong đó trang mạng của kênh truyền hình VTC của Việt Nam cho hay :
"Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc tại các Công hàm trên. Các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông".
Hôm 30/3, Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm bày tỏ lập trường trước Công hàm ngày 12/12/2019 phản hồi đệ trình ngày 12/12/2019 của Malaysia và Công hàm ngày 23/3/2020 gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc cũng của Phái đoàn thường trực nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
"Phái đoàn của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam về các vấn đề nêu trên đã được khẳng định trong nhiều văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan.
"Phái đoàn đồng thời đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc lưu hành Công hàm này đến tất cả các quốc gia thành viên Công ước, cũng như tất cả các thành viên của Liên hợp quốc", VTC viết.
Nhân dịp này, các nhà nghiên cứu pháp luật, chính trị và bang giao quốc tế đã trả lời phỏng vấn của BBC News tiếng Việt và nêu quan điểm của mình.
BBC : Quý vị có thể bình luận gì về động thái gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc này của Việt Nam ?
Trần Công Trục (Tiến sĩ, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam) : Với tư cách một người nghiên cứu về luật pháp và đặc biệt những vấn đề xảy ra trên Biển Đông, thì tôi đánh giá rất cao Công hàm của phía Việt Nam đã gửi cho Liên Hợp Quốc, phản đối Trung Quốc có những công hàm có những nội dung phi lý vi phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông, đấy là một nội dung hết sức rõ ràng, thể hiện lập trường rất rõ, rất chi tiết, rất chuẩn xác của phía Việt Nam.
Đinh Hoàng Thắng (Tiến sĩ, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan) : Động thái này không gây ngạc nhiên đối với giới nghiên cứu và chuyên gia.
Trong hội thảo ngày 6/10/2019 chúng tôi đã có kiến nghị theo hướng này. Chỉ một ngày sau, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có ngay một tuyên bố đề nghị trung ương phân tích về tình hình Biển Đông, với quan điểm kiên quyết nhưng khôn khéo và dứt khoát không nhân nhượng.
Trung Quốc không sợ lắm súng to tàu lớn của Việt Nam, vì chắc Trung Quốc có đủ lực để đối phó.
Nhưng Trung Quốc không bao giờ có chính nghĩa, có được tính chính danh đối với các hành động khủng bố ngư dân Việt Nam và ngư dân các nước ASEAN.
Bởi vì dùng tàu hải cảnh hay là các tàu chiến trá hình để đâm chìm các ngư dân tay không, hành nghề trên ngư trường truyền thống của mình, thì những hành động mạn rợ ấy có thể gọi là gì, nếu như không phải là tội ác man rợ, xa lạ với nhân loại văn minh.
Tố cáo những hành động ấy lên Liên Hiệp Quốc, dựa vào UNCLOS 1982, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong một lần hiếm hoi như vừa rồi, dám đích danh quy trách nhiệm cho Trung Quốc, chứ không còn là "nước lạ" nữa.
Với động thái vừa rồi của chính quyền Việt Nam, thì tuy chưa phản ánh hết lòng dân, nhưng hy vọng nó sẽ không còn cái cảnh chính quyền phải xua lực lượng đi đàn áp các cuộc biểu tình hoà bình, tố cáo các tội ác của Trung Quốc trong các cuộc chiến tranh trước đây cũng như các hành động trên Biển Đông.
Hà Hoàng Hợp (Tiến sĩ, Nhà nghiên cứu cao cấp Viện Iseas, Singapore) : Công hàm phản đối Việt Nam gửi Liên Hiệp Quốc mang tính chất pháp lý đa phương cao. Trước đây, các phản đối và lên án thường dừng ở mức song phương, thông qua các mối quan hệ song phương, ví dụ qua phát ngôn ngoại giao.
Lần này, công hàm cho thấy chính phủ Việt Nam đánh giá tình hình Biển Đông toàn diện, công hàm phản đối gửi tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của chính phủ Việt Nam trong việc xử lý vấn đề Biển Đông trước hết với Trung Quốc.
Đây có thể là dấu hiệu Việt Nam chuẩn bị cụ thể biện pháp pháp lý để xử lý vấn đề Biển Đông.
Hoàng Ngọc Giao (Phó Giáo sư, Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển) : Theo tôi, việc Việt Nam chính thức gửi Công hàm tới Liên Hiệp Quốc về hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông lần này thể hiện rõ lập trường vững chắc và không khoan nhượng của Việt Nam đối với những hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở vùng đảo Hoàng Sa.
Có thể nói đây là một bước đi tiếp nối vững chắc và đúng thời điểm.
Bất thường và tính toán ?
BBC : Động thái này có gì bất thường không và ban lãnh đạo Việt Nam cân nhắc, tính toán gì khi có quyết định như vậy ?
Trần Công Trục : Nếu gọi là bất thường theo tôi nghĩ không phải là bất thường, bởi vì điều này Việt Nam cũng đã từng làm, chỉ có điều là công khai hay không công khai thôi.
Và đây là một hình thức đấu tranh theo tôi nghĩ về phía ngoại giao là có thể được gọi là nâng lên một bước mới, không những chỉ là Công hàm trao đổi song phương, mà đưa lên các tổ chức quốc tế, trong đó Liên Hợp Quốc là tổ chức quốc tế cao nhất của thế giới. Thì đấy là một hình thức đấu tranh rất mạnh mẽ.
Đinh Hoàng Thắng : Thời điểm chính quyền có động thái nói trên rõ ràng xuất phát từ những cân nhắc nhất định. Tôi không còn làm việc cho Bộ Ngoại giao nên không thể nói chính xác, thậm chí nếu còn làm việc thì chưa chắc đã được phát ngôn.
Nhưng với tư cách là người nghiên cứu, tôi thấy quyết định ấy là một quyết định đúng thời điểm.
Thứ nhất, Việt Nam đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Trung Quốc muốn đánh tiếng, muốn gây sức ép, nhất là quá trình cơ cấu nhân sự mới. Thì đây, Việt Nam trả lời ngay như vậy để nói cho Trung Quốc biết, ai có vào khung cơ cấu này cũng không thể quỳ gối trước Trung Quốc.
Quỳ gối trước Trung Quốc là mất phiếu, và điều quan trọng hơn, đầu hàng Trung Quốc thì bia miệng từ người dân hàng ngàn năm vẫn còn đó.
Thứ hai, giữa mùa Virus Vũ Hán này thế giới hiểu về Trung Quốc hơn, có dịp xác nhận những hành động chống lại thường dân mà ngay trong chiến tranh luật pháp quốc tế cũng cấm các bên tham chiến.
Sau những ầm ĩ giữa Trung Quốc với nhiều nước về quốc tịch của con viruscorona, nhất là sau các vụ đầu cơ khẩu trang và các thiết bị y tế của Trung Quốc, thì Việt Nam và thế giới có dịp hiểu thêm về bản chất lật lọng, đổi trắng thay đen của nhà cầm quyền Trung Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc cho rằng, hiện nay là lúc Mỹ, Việt Nam và thế giới đang tập trung chống dịch nên họ tha hố "múa gậy vườn hoang".
Nếu Việt Nam không hành động về mặt pháp lý lúc này thì còn nuôi dưỡng những hành động thảo khấu trên Biển Đông đến khi nào nữa ?
Thứ tư, đây có thể là một "bước đệm" trên con đường dùng luật pháp quốc tế để nói chuyện phải quấy với Trung Quốc.
Với Trung Quốc bao giờ cũng "mềm nắn, rắn buông". Cố Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh từng đúc kết : ta càng nhân nhượng thì kẻ thù càng lấn tới !
Hà Hoàng Hợp : Động thái này là phản ứng tích cực và kiên quyết của chính phủ Việt Nam đối với quá trình Trung Quốc vừa qua đẩy mạnh các hoạt động nhằm thực thi tuyên bố chủ quyền phi pháp của họ về đường Lưỡi Bò.
Tuần trước, Bộ ngoại giao Việt Nam đã tuyên bố mạnh mẽ rằng Việt Nam không chấp nhận bất cứ hành động nào của phía Trung Quốc trên cơ sở đường Lưỡi Bò, tái khẳng định quyền chủ quyền và các quyền khác của Việt Nam ở Biển Đông.
Việc gửi công hàm ghi ngày 30/3 là hành động tiếp theo, nhằm mong muốn thúc đẩy việc đảm bảo hòa bình, ổn định và xử lý rối ráo vấn đề Biển Đông, sau một tháng - tháng 3/2020, khi mà Trung Quốc đã có nhiều hành động vi phạm Công ước luật Biển Liên Hiệp Quốc năm 1982 và các nền luật khác,, trong đó, Trung Quốc đã tiếp tục đảy mạnh quân sự hóa ở Biển Đông, đe dọa sử dụng vũ lực.
Hoàng Ngọc Giao : Theo tôi, động thái này không có gì là bất thường, mặc dù động thái mà tỏ thái độ rõ ràng và kiên quyết như vậy diễn ra có thể nói là không được nhanh lắm, tức là đáng nhẽ động tác này và lập trường này cần phải bày tỏ rõ ràng hơn từ lâu cách đây một hai năm trước.
Tuy nhiên đến bây giờ, thì bước đi tiếp theo có lẽ là nó phù hợp với đường lối đối ngoại của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc, tức là cố gắng làm sao đó để tránh xung đột, đối đầu với Trung Quốc, kể cả trên mặt trận ngoại giao và từng bước vẫn đảm bảo được chủ quyền của mình.
Do đó cho nên ở thời điểm này khi Trung Quốc càng lấn tới như vậy, thì được hiểu là phía Việt Nam đã không thể tiếp tục im lặng được nữa và đây có thể nói là một bước đi đánh dấu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc liên quan vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam và thái độ của Việt Nam với hành vi vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Phản ứng sẽ ra sao ?
BBC : Phản ứng của Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc và các bên quan tâm hoặc có liên quan sẽ có thể thế nào ?
Trần Công Trục : Tôi cho rằng với quan điểm, lập trường Việt Nam rất rõ ràng và chuẩn xác đó, thì sẽ nhận được tiếng nói ủng hộ của các tổ chức quốc tế, trong đó có cả Liên Hiệp Quốc và đặc biệt các nước lớn có uy tín quốc tế như là Hoa Kỳ, các nước phương Tây.
Tôi cho rằng người ta sẽ rất ủng hộ và hoan nghênh lập trường đó và tôi nghĩ lập trường đó không có gì quá đáng và nó hoàn toàn xuất phát từ các nguyên tắc luật pháp và đặc biệt Công ước Luật biển 1982.
Còn Trung Quốc, đương nhiên thì họ luôn luôn phản đối lại tất cả những lập trường của các nước.
Chúng ta không nên thấy lạ lùng với những chuyện đó và cần luôn luôn sẵn sàng đáp trả lại trên tất cả các mặt trận như là về mặt pháp lý, về mặt tuyên truyền, về mặt đấu tranh ngoại giao, chính trị, cũng như cả trên vấn đề thực địa.
Đinh Hoàng Thắng : Phản ứng của Hoa Kỳ thì như mọi người đã biết. Ở đây phải nói thêm là Hoa Kỳ ngày càng có thái độ quyết đoán với hành động bắt nạt các nước nhỏ của Trung Quốc, ngôn ngữ của tuyên bố khá mạnh mẽ : Ủng hộ chủ quyền của Việt Nam (đây không phải là lần đầu), bác bỏ đường lưỡi bò của Trung Quốc (cái này thì lặp lại phán quyết của CPA).
Hoa Kỳ cũng đánh giá hành động đơn lẻ này của Trung Quốc xuyên suốt trong cả một chính sách, trong một ý đồ nhất quán xưa nay, một chiến lược ăn "cướp trên giàn mướp" của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tuy nhiên, không nên cho rằng, Hoa Kỳ bênh Việt Nam.
Vấn đề ở đây là Hoa Kỳ, dưới triều Trump, mặc dầu đang phải đau đầu với nhiều vấn đề đối nội/đối ngoại, nhưng Hoa Kỳ thấy được tính chất nghiêm trọng của Vành đai, Con đường, của ý đồ muốn làm bá chủ không chỉ trên Biển Đông.
Không phải ngẫu nhiên, các nhà nghiên cứu đã cảnh báo là Hoa Kỳ đang đối mặt với "khủng hoảng kênh Suez" trên Biển Đông và trong vấn đề Covid-19.
Nếu Hoa Kỳ không vượt qua được cái cửa ải này thì rõ ràng Hoa Kỳ sẽ phải thoái lui, ngay cả khẩu hiệu "Nước Mỹ trước hết" cũng sẽ "cuốn theo chiều gió" nếu Hoa Kỳ thua Trung Quốc trong chiến lược dùng FOIP của Bộ tứ để đối trọng với BRI.
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Châu Âu từng có tiếng nói thống nhất về vấn đề Biển Đông. Lần này chắc cũng không thể khác.
Đây là cơ hội "kim cương" (chứ không chỉ là vàng) đối với Việt Nam. FOIP là cơ hội có một không hai trong lịch sử của Việt Nam và khu vực, khi cùng một lúc ASEAN phải xử lý mối quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực. Ngoại trừ những "Judas phản Chúa" trong ASEAN, các nhà lãnh đạo còn lại trong ASEAN cũng sẽ phải "đường xa nghĩ nỗi sau này".
Trung Quốc bóp được Việt Nam thì Trung Quốc cũng sẽ không tha bất cứ nước nào khác trong khối.
Hà Hoàng Hợp : Liên Hiệp Quốc đang xem xét công hàm này, có thể sẽ có một cuộc họp để nêu vấn đề Biển Đông liên quan đến nội dung được nêu trong công hàm, trong đó có vấn đề hành xử của phía Trung Quốc, các vấn đề pháp lý chủ quyền, và các khuyến nghị.
Nếu có 1 nước là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an đề nghị mở một cuộc họp Hội đồng Bảo an, thì Liên Hiệp Quốc sẽ thu xếp.
Từ phía Trung Quốc, phản ứng bằng hành động ở Biển Đông" tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm 2 tàu cá của ngư dân Việt Nam và bắt giữ ngư dân Việt Nam. Sau đó phía Trung Quốc có thái độ chối cái, đổ lỗi cho ngư dân Việt Nam "đâm tàu cá vào tàu hải cảnh".
Việc ngư dân Việt Nam bị tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm trong vùng biển Việt Nam, cho thấy phía Trung Quốc đã hành xử vô pháp. Người Việt Nam đang chờ Trung Quốc có thái độ chân thành hơn.
Hoàng Ngọc Giao : Vào thời điểm này, Việt Nam ra Công hàm này là theo tôi rất đúng thời điểm.
Công luận quốc tế cho tới thời điểm này rất quan tâm đến tình hình Biển Đông và cũng đã thấy rõ những hành vi vi phạm, chà đạp lên luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế của Trung Quốc. Do đó cho nên hiệu ứng tôi cho là sẽ là tốt, ngay tại Liên Hiệp Quốc, hơn nữa bây giờ Việt Nam bây giờ lại chủ trì cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hiện nay.
Thứ hai là trong quan hệ đối với Trung Quốc, mặc dù, bất chấp đại dịch Covid-19, Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành vi có thể nói là lợi dụng tình hình khó khăn của đại dịch toàn cầu và Trung Quốc đang làm những hành động mang tính chất, có thể nói là lén lút và lợi dụng tình huống bất ổn về bệnh dịch để tranh thủ có những hành động mạnh mẽ hơn xuống Biển Đông.
Song song với hành động đó, Trung Quốc còn thể hiện sức mạnh của mình để mà đe dọa đến chủ quyền của Đài Loan.
Còn đối với Mỹ, tôi tin rằng đây là một động thái chắc chắn là sẽ nhận được sự ủng hộ của Mỹ, bởi vì chính Hoa Kỳ cũng đã có một tuyên bố rất rõ ràng cảnh báo Trung Quốc đừng có lợi dụng đại dịch Covid-19 để thực hiện những hành vi xâm lấn, vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền ở Biển Đông, thì đấy chính là thái độ của Mỹ mà tôi tin rằng cũng phù hợp với quan điểm của Việt Nam.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 08/04/2020
*********************
Đỡ sợ Bắc Kinh : Việt Nam lần đầu phản đối Trung Quốc lên Liên Hiệp Quốc
Hoàng Trung, Thoibao.de, 09/04/2020
Việt Nam vừa gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để phản đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo nhận định của giới quan sát thì động thái này có thể là báo hiệu bước đầu cho một tiến trình pháp lý trong tương lai gần nếu như Hà Nội và Bắc Kinh không giải quyết được các tranh chấp trên bàn đàm phán đa phương.
Tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Philippines về Vụ Chìm Tàu Cá Việt Nam ở Biển Đông - Bản chụp trang web chính thức của Bộ ngoại giao Phillipines
Công hàm do phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres nói rằng các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc "vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông".
Khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, công hàm của Việt Nam nói "vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của Công ước ; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất ; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng".
Hôm 7/4, nhiều báo của Việt Nam đã đưa tin về động thái mới của Việt Nam, trong đó trang mạng của kênh truyền hình VTC của Việt Nam cho hay : "Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc tại các Công hàm trên. Các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông". "Phái đoàn của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam về các vấn đề nêu trên đã được khẳng định trong nhiều văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan. Phái đoàn đồng thời đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc lưu hành Công hàm này đến tất cả các quốc gia thành viên Công ước, cũng như tất cả các thành viên của Liên hợp quốc", VTC viết.
Công hàm của Việt Nam được gửi đi sau khi hai quốc gia trong khu vực là Philippines và Malaysia đã có cùng động thái tương tự.
Ngày 8/4/2020, Bộ Ngoại Giao Philippines ra tuyên bố về Vụ Chìm Tàu Cá Việt Nam ở Biển Đông như sau : "Bộ Ngoại giao bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về báo cáo vụ việc tàu Việt Nam bị đâm chìm ở Biển Đông vào ngày 03/4/2020. Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy ; và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi. Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam. Vì thế, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết".
Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu an ninh và chính trị của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS- có trụ sở ở Singapore, việc gửi công hàm chính thức lên Liên Hiệp Quốc có thể xem là một bước "rất quan trọng" và "cần thiết" mà Hà Nội thực hiện sau hàng chục năm quốc gia láng giềng tiến hành hàng loạt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.
"Trước giờ Việt Nam gần như chưa bao giờ nói gì với Liên Hiệp Quốc về chuyện này, vì hiển nhiên Liên Hiệp Quốc đã giao cho Việt Nam quản lý phần Biển Đông này từ năm 1951, sau khi Nhật Bản và một số nước phải làm thủ tục từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhận định.
Theo nhà nghiên cứu này, có thể coi việc gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc là bước đầu cho một vụ kiện của Việt Nam ra quốc tế để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp giải thích thêm : "Có thể hiểu được như vậy là bởi vì vào năm 2019, Đảng Cộng sản Việt Nam trong một hội nghị Trung ương đã bàn và quyết định rằng trong trường hợp không thể xử lý được bằng biện pháp đàm phán với Trung Quốc thì sẽ phải tiến hành khởi kiện Trung Quốc".
Công hàm của Việt Nam chỉ mới được công bố vào ngày 7/4 mặc dù đã được gửi đi từ ngày 30/3, tức là trước khi xảy ra sự kiện mới nhất là tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Việt Nam vào ngày 2/4, khiến Hà Nội ngay lập tức lên tiếng và gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh, trong khi phía Trung Quốc nói rằng tàu cá Việt Nam đánh bắt bất hợp pháp và vụ chìm tàu chỉ là tai nạn không thể tránh khỏi.
Vụ xung đột mới nhất cũng khiến cho Mỹ phải lên tiếng bênh vực Việt Nam và chỉ trích hành động gây căng thẳng của Trung Quốc đối với an ninh trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh cả thế giới đang lao đao vì dịch bệnh Covid-19, vốn xuất phát từ Trung Quốc.
Theo nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, việc Hà Nội công bố công hàm bằng phiên bản tiếng Việt sau khi xảy ra vụ đâm chìm tàu có thể là do "áp lực từ công chúng".
"Đây là một vụ việc rất nghiêm trọng. Nó xảy ra sau ngày 30/3, là ngày mà cơ quan đại diện thường trực của Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc gửi thư phản đối cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Có lẽ vì lý do đó mà họ xem xét công bố thư này để cho người Việt Nam biết rằng họ đã có hành động như vậy", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói.
Dựa trên nội dung công hàm, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng có thể hướng đi pháp lý sắp tới của Hà Nội sẽ là đệ trình vụ kiện lên một cơ quan tài phán hoặc một tòa án của Liên Hiệp Quốc để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, tương tự như Philippines đã thực hiện và giành phần thắng vào năm 2016.
Tuy nhiên, trước khi dẫn đến bước đi cuối cùng này, có thể Hà Nội sẽ thực hiện một số bước trước đó. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói :
"Tiếp theo đây thì Việt Nam sẽ gặp phía Trung Quốc để bàn xem có thể xử lý trên bàn đàm phán được không. Không phải song phương mà là đa phương.
Thứ hai là Việt Nam phải tổ chức cho ASEAN đàm phán với Trung Quốc về COC (Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông). Vì năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên của ASEAN nên việc đó phải tiếp tục cho đến tháng 11".
Nếu cuộc họp của ASEAN về COC không thể thực hiện được vào tháng 7 vì lý do dịch Covid-19, thì theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, có thể khối các quốc gia Đông Nam Á sẽ tiến hành họp trực tuyến hoặc hoãn lại. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có quyết định về việc này.
Vẫn theo nhà nghiên cứu này, phán quyết của Tòa trọng tài thường trực vào năm 2016 đối với vụ kiện của Philippines đã bác bỏ đường Lưỡi bò (đường 9 đoạn) mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của mình trên Biển Đông, và phán quyết này không chỉ dành cho Manila mà "đó là một phán quyết phổ quát". "Nhưng Việt Nam hồi đó lấp lửng", Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói.
Theo ông, đây chính là lúc mà Việt Nam "cần nói rõ" và có bước đi quyết định trong bối cảnh Trung Quốc đã làm thay đổi hiện trạng quá nhiều ở Biển Đông theo hướng quân sự hóa để chuẩn bị cho chiến tranh.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng (nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan) nói : "Tố cáo những hành động ấy lên Liên Hiệp Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trong một lần hiếm hoi như vừa rồi, dám đích danh quy trách nhiệm cho Trung Quốc, chứ không còn là "nước lạ" nữa. Tuy chưa phản ánh hết lòng dân, nhưng hy vọng nó sẽ không còn cái cảnh chính quyền phải xua lực lượng đi đàn áp các cuộc biểu tình hoà bình, tố cáo các tội ác của Trung Quốc trong các cuộc chiến tranh trước đây cũng như các hành động trên Biển Đông".
Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao (Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển cho rằng đây là một bước đi tiếp nối vững chắc và đúng thời điểm của chính phủ Việt Nam.
Cũng cho rằng đây là quyết đinh đúng thời điểm, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nói thêm :
"Thứ nhất, Việt Nam đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Trung Quốc muốn đánh tiếng, muốn gây sức ép, nhất là quá trình cơ cấu nhân sự mới. Thì đây, Việt Nam trả lời ngay như vậy để nói cho Trung Quốc biết, ai có vào khung cơ cấu này cũng không thể quỳ gối trước Trung Quốc.
Quỳ gối trước Trung Quốc là mất phiếu, và điều quan trọng hơn, đầu hàng Trung Quốc thì bia miệng từ người dân hàng ngàn năm vẫn còn đó.
Thứ hai, giữa mùa Virus Vũ Hán này thế giới hiểu về Trung Quốc hơn, có dịp xác nhận những hành động chống lại thường dân mà ngay trong chiến tranh luật pháp quốc tế cũng cấm các bên tham chiến.
Sau những ầm ĩ giữa Trung Quốc với nhiều nước về quốc tịch của con viruscorona, nhất là sau các vụ đầu cơ khẩu trang và các thiết bị y tế của Trung Quốc, thì Việt Nam và thế giới có dịp hiểu thêm về bản chất lật lọng, đổi trắng thay đen của nhà cầm quyền Trung Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc cho rằng, hiện nay là lúc Mỹ, Việt Nam và thế giới đang tập trung chống dịch nên họ tha hồ "múa gậy vườn hoang". Nếu Việt Nam không hành động về mặt pháp lý lúc này thì còn nuôi dưỡng những hành động thảo khấu trên Biển Đông đến khi nào nữa ?
Thứ tư, đây có thể là một "bước đệm" trên con đường dùng luật pháp quốc tế để nói chuyện phải trái với Trung Quốc.
Phản ứng của Hoa Kỳ thì như mọi người đã biết. Ở đây phải nói thêm là Hoa Kỳ ngày càng có thái độ quyết đoán với hành động bắt nạt các nước nhỏ của Trung Quốc, ngôn ngữ của tuyên bố khá mạnh mẽ : Ủng hộ chủ quyền của Việt Nam (đây không phải là lần đầu), bác bỏ đường lưỡi bò của Trung Quốc (cái này thì lặp lại phán quyết của CPA). Tuy nhiên, không nên cho rằng, Hoa Kỳ bênh Việt Nam.
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Châu Âu từng có tiếng nói thống nhất về vấn đề Biển Đông. Lần này chắc cũng không thể khác.
Đây là cơ hội "kim cương" (chứ không chỉ là vàng) đối với Việt Nam. Chiến lược "Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do" (FOIP) của Tổng thống Mỹ Donald Trump là cơ hội có một không hai trong lịch sử của Việt Nam và khu vực, khi cùng một lúc ASEAN phải xử lý mối quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực. Ngoại trừ những "Judas phản Chúa" trong ASEAN, các nhà lãnh đạo còn lại trong ASEAN cũng sẽ phải "đường xa nghĩ nỗi sau này".
Trung Quốc bóp được Việt Nam thì Trung Quốc cũng sẽ không tha bất cứ nước nào khác trong khối". Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng kết luận.
Vấn đề Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải của Việt Nam gần đây, đã xảy ra từ năm 1974, khi quân đội nước này tấn công Việt Nam Cộng Hòa - một nhà nước có chủ quyền khi đó để độc chiếm Hoàng Sa. Tới năm 1988, lại một lần nữa Trung Quốc tấn công, giết chết 64 chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam để chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam. Kể từ đó đến nay Trung Quốc liên tục tăng mạnh số lượng tàu xâm nhập và hoạt động dài ngày trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà họ tự cho rằng là lãnh hải của Trung Quốc từ thời cổ xưa với đường 9 đoạn (đường lưỡi bò).
Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần sớm kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để nhận được kết quả cuối cùng, đó là phán quyết của Tòa án mà cả 2 bên đều phải thực thi.
Hoàng Trung (Hà Nội)
Nguồn : Thoibao.de, 09/04/2020