Việt Nam 'há miệng mắc nhiều quai' trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc
Khánh An, VOA, 27/04/2020
Cựu giáo sư Luật của Đại học Harvard, Tạ Văn Tài, nói rằng Việt Nam vẫn đang né tránh đề cập đến công hàm Phạm Văn Đồng, một tài liệu mà ông cho là đã khiến Hà Nội "há miệng mắc quai" trong việc đấu tranh với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Theo ông, Việt Nam nên đối đầu trực diện và "rắn" hơn với Trung Quốc, không để công hàm này "làm khó" mình.
Cảnh sát biển Việt Nam theo dõi tàu hải cảnh Trung Quốc trên Biển Đông vào thời điểm xảy ra xung đột vào năm 2014.
Giải thích cho nhận định trên, Giáo sư Tạ Văn Tài nói rằng trong những phản ứng gần đây của Việt Nam trước một loạt hành động nhằm khẳng định chủ quyền của Trung Quốc, Việt Nam vẫn cho thấy thái độ "né tránh" và chỉ đề cập đến vấn đề "công hàm" sau khi Trung Quốc chủ động viện dẫn công hàm này ra trước đó.
"Nó có khía cạnh mà tôi gọi là ‘há miệng mắc quai’, mà theo Luật quốc tế gọi là ‘Estopel’ (nguyên tắc không phủ nhận), tức là nguyên tắc một quốc gia đã nói ra thì không thể nói ngược lại được", Giáo sư Tạ Văn Tài nói với VOA.
Vì sao "né" ?
Công hàm năm 1958 do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Công hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện CHND Trung Hoa Chu Ân Lai, trong đó "ghi nhận và tán thành" bản tuyên bố vào ngày 4/9/1958 của chính phủ nước CHND Trung Hoa "quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".
Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc nói "Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc".
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958.
Mặc dù Việt Nam cho rằng công hàm không đề cập đến Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa), nhưng với lời "ghi nhận và tán thành" tuyên bố của Trung Quốc trong công hàm Phạm Văn Đồng, Hà Nội trong những năm qua luôn rơi vào tình trạng "lúng túng" mỗi khi Bắc Kinh nhắc đến công hàm mà nhiều người dân gọi là "bán nước" này.
"Tại vì trong công hàm đó, lời của ông Phạm Văn Đồng nói mù mờ, công nhận những điều trong công hàm của ông Chu Ân Lai. Thành ra nó có thể giải thích nước đôi, hại cho Việt Nam hoặc lợi cho Việt Nam", Giáo sư Tài giải thích.
Cựu chuyên gia Luật của Đại học Harvard nói Trung Quốc luôn "treo lủng lẳng" công hàm Phạm Văn Đồng như một chiếc thòng lọng trên cổ người Việt, khiến cho chính quyền Việt Nam rất "ngại" khi phải đề cập đến văn kiện này.
Theo tìm hiểu của VOA, trong những năm qua, Việt Nam không ít lần gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để phản bác Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên, những việc làm trên hoàn toàn không được thông tin rộng rãi cho công chúng cũng như trên bình diện công luận quốc tế. Giáo sư Tạ Văn Tài cho rằng ngoài các lý do đã giải thích ở trên, Hà Nội cũng có thể thấy "xấu hổ" nếu công hàm được phơi bày trước công luận.
Bên cạnh đó, theo ông, Việt Nam còn bị "lúng túng" trước Trung Quốc vì một số vụ khác.
Giáo sư Tạ Văn Tài đơn cử : "Một chuyện lúng túng khác là sách giáo khoa hồi đó của Việt Nam in ‘Hoàng Sa - Trường Sa (Trung Quốc)’. Tàu nói Hoàng Sa, Trường Sa là trong chuỗi ngọc các hòn đảo của Trung Quốc, thì Việt Nam trong sách giáo khoa cho các em lớp 9 cũng nhắc lại câu đó của Tàu. Bản đồ là người Tàu sang làm cố vấn cho Cục Bản đồ của Việt Nam. Trên bản đồ ghi ‘Hoàng Sa (China)’, bên dưới ghi ‘Trường Sa (China)’ luôn, mà Cục Bản đồ Việt Nam cũng nghe theo mà làm. Chính mấy cái lẩm cẩm đó thành ra giống như là há miệng mắc quai".
"Hóa giải"
Theo Giáo sư Tạ Văn Tài, thay vì né tránh, Việt Nam nên đối phó trực diện với Trung Quốc về vấn đề công hàm và "hóa giải" nó bằng những luận cứ vững chắc.
"Có hai luận cứ mà Việt Nam có thể dùng để chống lại", Giáo sư Tạ Văn Tài nói.
"Thứ nhất, Hiệp định Geneve 1954 chia đất nước ra làm hai, thì đã dành quyền quản lý hành chính Hoàng Sa, Trường Sa ở nam vĩ tuyến 17 cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả các nước, trong đó có Trung Quốc, đã công nhận quyền chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc Việt Nam Cộng Hòa".
"Chính phủ này cũng như hải quân của chính phủ này đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền ở các hải đảo trong biến cố Hoàng Sa 1974. Theo luật quốc tế, khi một quốc gia dùng vũ lực để chống lại sự xâm lăng của nước khác tức là đã xác nhận chủ quyền của đất nước".
Như vậy, theo giải thích của Giáo sư Tạ Văn Tài, ông Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó chỉ đại diện cho chính quyền miền Bắc Việt Nam nên "không có thẩm quyền" tuyên bố gì về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
"Từ năm 1974 đến 1975, chính Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bây giờ cũng công nhận thực trạng 20 năm đó, và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bây giờ là quốc gia kế quyền trong việc hành xử bảo vệ chủ quyền đất đai đó", Giáo sư Tài nói thêm.
Theo ông, sự công nhận này cũng thể hiện qua việc cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài phát biểu trước Quốc hội năm 2011. Tại cuộc họp này, ông Nguyễn Tấn Dũng nói "Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý lúc bấy giờ của chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm đó và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp".
Ngoài ra, theo Giáo sư Tạ Văn Tài, sự tồn tại của tình trạng "hai quốc gia" tại Việt Nam vào thời điểm đó còn được xác nhận theo định nghĩa của Công ước Montevideo, với 4 điều kiện là có dân số ổn định, có lãnh thổ xác định, có chính quyền và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Luận cứ thứ hai, theo Giáo sư Tạ Văn Tài, công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là một tuyên bố đơn phương (unilateral declaration), không thể xem như một hiệp ước nhượng đất đai, lãnh thổ. Theo ông, thời điểm diễn ra việc ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm là lúc chính quyền miền Bắc đang chịu sự giúp đỡ rất lớn từ Trung Quốc, nên công hàm trên chỉ có tính chính trị-ngoại giao, nói thẳng ra là "nịnh" Trung Quốc, mà thôi.
"Ông (Phạm Văn Đồng) giữ vai trò thủ tướng (nên) ông không có quyền. Theo Hiến pháp năm 1946, việc nhượng đất đai cho nước ngoài chỉ có Chủ tịch nước Hồ Chí Minh mới có quyền ký nhượng đất, mà phải có Quốc hội phê chuẩn hiệp ước đó nữa. Còn chưa có những thủ tục đó thì không có vấn đề nhượng đất", Giáo sư Tài giải thích thêm.
Phải "rắn" hơn
Theo Giáo sư Tạ Văn Tài, Việt Nam nên có tiếng nói "mạnh hơn nữa" và "công khai" luận cứ của mình về công hàm cũng như những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ tại các diễn đàn lớn quốc tế như ở Liên Hiệp Quốc và các nơi khác.
Ngoài ra, "tiếng nói mạnh" còn phải xuất phát từ những người đứng đầu nhà nước, chứ không chỉ dừng lại ở những người làm công tác ngoại giao của Việt Nam.
Giáo sư Tạ Văn Tài nói : "Phải nói mạnh lên mới được. Còn bây giờ cấp lớn đâu dám nói. Thủ tướng đâu dám nói, chỉ sai các văn nhân nói thôi. Ngay cả Bộ trưởng Phạm Bình Minh khi ra trước Liên Hiệp Quốc, lúc nó (Trung Quốc) đang hành hạ Việt Nam, cũng chỉ nói ‘có những vấn đề bất ổn ở Biển Đông’ mà không nó đến tên nước Tàu".
Theo Giáo sư Tạ Văn Tài, việc tỏ thái độ cương quyết "chiến đấu tới cùng" cũng là rất cần thiết trong việc đấu tranh với Trung Quốc. Lấy ví dụ Mỹ và Liên Xô trong thời Chiến tranh Lạnh, cả hai đều tỏ cho đối phương thấy tư thế "đạn đã lên nòng" của phía mình, Giáo sư Tạ Văn Tài cho rằng trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam cũng phải tỏ cho Trung Quốc thấy thái độ "quyết tử" nếu cần để bảo vệ chủ quyền.
"Phải dọa, phải nói trước để khỏi phải đánh nhau", ông nói. "Phải mềm nắn rắn buông, Trung Quốc là như vậy. Đừng có mềm quá nó nắn thêm. Phải rắn lên thì nó mới buông".
Theo Giáo sư Tạ Văn Tài, so với các nước trong khu vực, Việt Nam có một vị thế rất quan trọng trong chiến lược của Mỹ và các nước khác. Vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần chấm dứt "nỗi sợ hãi" Trung Quốc và lên tiếng mạnh mẽ cho quyền lợi của mình.
Khánh An
Nguồn : VOA, 27/04/2020
*******************
Chuyên gia Việt Nam bác bỏ luận cứ Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng
Thu Thủy, Thoibao.de, 27/04/2020
Trung Quốc tới nay vẫn sử dụng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc - Ảnh minh họa
Vậy đánh giá mới nhất của các chuyên gia Việt Nam là thế nào ?
Hôm 17/4/2020, bản công hàm từ năm 1958 do người đứng đầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi cho người đồng cấp Chu Ân Lai của phía Trung Quốc đã được Bắc Kinh viện dẫn trong một công hàm (CML/42/2020) gửi lên Liên Hợp quốc, cùng lúc Bắc Kinh có các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo của Trung Quốc.
Liệu đây có phải là một ‘Bước leo thang, tuyên chiến’ của Bắc kinh hay không ?
Bình luận về động thái này, Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, hiện là Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật & Phát triển, từ Hà Nội nói :
"Trước hết, đây là một bước leo thang mới của Trung Quốc trong việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ đã thể hiện rất rõ.
"Ngay tuyên bố của Trung Quốc cho rằng Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là thuộc về của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam rút khỏi và họ tuyên bố rằng Việt Nam đã chiếm những đảo và thực thể mà Việt Nam hiện nay đang trấn giữ một cách hợp pháp, thì họ bảo rằng đó là những vị trí mà Việt Nam đã xâm lược, cũng như đã chiếm giữ bất hợp pháp.
"Thì đây theo tôi gần như một tuyên bố có thể nói là tuyên chiến rồi, đồng thời họ nói là họ sẽ bảo vệ lợi ích ở những vùng biển này, cũng như ở các đảo này, bằng mọi phương tiện và một cách kiên quyết, thì giới chuyên gia đã bình luận đây là một lời đe dọa về dùng vũ lực rồi, không phải là bình thường nữa".
Liên quan đến việc Trung Quốc công bố, viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hoàng Ngọc Giao bình luận : "Theo tôi, tới lúc này, đây là câu chuyện có thể sẽ nằm trong nghị trình của một phiên giải quyết tranh chấp xét xử tại một cơ quan tài phán quốc tế rằng là công hàm này có giá trị pháp lý như thế nào, đến đâu.
"Trung Quốc đã dám công bố viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng, thì họ có dám ra trước cơ quan tài phán quốc tế để tranh luận, tranh lý với Việt Nam về giá trị của công hàm này và rộng hơn là tranh luận đi đến phán xử, phán quyết về ai mới là người có chủ quyền thực sự ở Hoàng Sa, Trường Sa hay không ?
"Vì lúc đó phía Việt Nam trong hồ sơ khởi kiện cũng phải chuẩn bị cho kỹ, riêng cá nhân tôi với tư cách chuyên gia, tôi đồng tình với nhiều quan điểm cho rằng công văn, công hàm Phạm Văn Đồng này không có giá trị pháp lý nào cả.
"Bởi vì căn cứ vào Hiệp định Geneva năm 1954 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam, chia đất nước Việt Nam thành hai miền, chính trong Hiệp định đó đã quy định rất rõ Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc phía Nam của vĩ tuyến 17, và như vậy trực thuộc sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.
Theo chuyên gia luật học này, công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa và có thể được vô hiệu hóa, nhưng đánh đổi lại nhà nước Viện Nam hiện nay phải có sự đánh đổi chính trị, hay thay đổi về quan niệm và nhìn nhận lịch sử với một nhà nước đã bị đánh sập 45 năm trước ở miền Nam Việt Nam, ông Hoàng Ngọc Giao nói tiếp :
"Thế thì từ trước đến nay, chính quyền ở Bắc Việt Nam và kể cả chính quyền Việt Nam bây giờ, trong các giới học thuật, đặc biệt học thuật về luật quốc tế, người ta vì những mục đích chính trị, cho nên người ta không chấp nhận Việt Nam Cộng Hòa như là một chủ thể độc lập của Công pháp Quốc tế.
"Và vì thế cho nên điều này cuối cùng xảy ra công hàm ‘bất lợi’, thì bây giờ nhà nước, chính phủ Việt Nam hiện nay mới bắt đầu nhận thấy một điều là nếu như mình phủ nhận sự tồn tại của một chính phủ, của một nhà nước chính danh, phù hợp pháp luật quốc tế, đó là Việt Nam Cộng Hòa, thì nó lại gây hại cho câu chuyện đấu tranh bảo vệ chủ quyền".
"Do vậy hiện nay, quan điểm chính thức của những người lãnh đạo Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chắc chắn không thể phủ nhận vai trò chính danh của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước đây, trước 30/4/1975 và điều này chỉ có lợi cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và nó làm vô hiệu hóa Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958.
"Tất nhiên bên cạnh việc công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ở chỗ là anh không thể công nhận cái gì mà anh không có được, thì ở đây còn một ý nữa đó là công hàm này, như nhiều chuyên gia đã nói, đó là ở cấp Thủ tướng, không phải ở cấp đại diện quốc gia là một nguyên thủ quốc gia và chưa được Quốc hội phê chuẩn.
"Bởi vì những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng phải có sự phê chuẩn của Quốc hội, và vì thế cho nên về giá trị pháp lý của nó, thì nó cũng không có giá trị pháp lý ở chỗ đó nữa.
"Điểm thứ ba nữa là Công hàm Phạm Văn Đồng nó phản ánh như một động thái chính trị phe nhóm với nhau. Cùng là phe cộng sản, thời đó Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam để đánh Mỹ.
"Thế thì nó có thể hiểu như là một tuyên bố chính trị, một động thái chính trị giữa hai bên, chứ không thể coi nó có giá trị pháp lý gì hết". Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam đưa ra nhận định.
Hôm 23/4, trả lời câu hỏi của khán, thính giả gửi cho một chương trình bình luận trực tuyến của BBC News Tiếng Việt hỏi rằng công hàm Phạm Văn Đồng 1958 gây khó khăn pháp lý gì cho cuộc đấu tranh về chủ quyền quốc gia và biển đảo của Việt Nam hiện nay, từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia chính trị học và bang giao quốc tế nói :
"Thực sự thì Trung Quốc đang bám vào cái đó và bảo rằng ở Việt Nam đã công nhận những điều khoản của họ rồi.
"Trong công bố nghiên cứu mới "Vấn đề Biển Đông : Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay", tôi có viết rằng điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ở khu vực này".
"Năm nay Việt Nam tiếp tục đặt giàn khoan ở đây, Trung Quốc cũng biết vậy nên sẽ quyết tâm phá.
"Bởi vậy, dự báo của tôi là tình hình sẽ căng thẳng và các hoạt động của Trung Quốc (gồm cả xâu chuỗi từ việc đâm chìm tàu cá cho đến các động thái khác) là đòn ra tay trước".
Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)
Nguồn : Thoibao.de, 27/04/2020
********************
Đảng : Công nhận Việt Nam Cộng Hòa để "bác" Công hàm Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc
Thu Thủy, Thoibao.de, 27/04/2020
Trung Quốc tới nay vẫn sử dụng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Vậy đánh giá mới nhất của các chuyên gia Việt Nam là thế nào ?
Hôm 17/4/2020, bản công hàm từ năm 1958 do người đứng đầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi cho người đồng cấp Chu Ân Lai của phía Trung Quốc đã được Bắc Kinh viện dẫn trong một công hàm (CML/42/2020) gửi lên Liên Hợp quốc, cùng lúc Bắc Kinh có các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo của Trung Quốc.
Liệu đây có phải là một ‘Bước leo thang, tuyên chiến’ của Bắc kinh hay không ?
Bình luận về động thái này, Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, hiện là Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật & Phát triển, từ Hà Nội nói :
"Trước hết, đây là một bước leo thang mới của Trung Quốc trong việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ đã thể hiện rất rõ.
"Ngay tuyên bố của Trung Quốc cho rằng Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là thuộc về của Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam rút khỏi và họ tuyên bố rằng Việt Nam đã chiếm những đảo và thực thể mà Việt Nam hiện nay Việt Nam đang chấn giữ một cách hợp pháp, thì họ bảo rằng đó là những vị trí mà Việt Nam đã xâm lược, cũng như đã chiếm giữ bất hợp pháp.
"Thì đây theo tôi gần như một tuyên bố có thể nói là tuyên chiến rồi, đồng thời họ nói là họ sẽ bảo vệ lợi ích ở những vùng biển này, cũng như ở các đảo này, bằng mọi phương tiện và một cách kiên quyết, thì giới chuyên gia đã bình luận đây là một lời đe dọa về dùng vũ lực rồi, không phải là bình thường nữa".
Liên quan đến việc Trung Quốc công bố, viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hoàng Ngọc Giao bình luận : "Theo tôi, tới lúc này, đây là câu chuyện có thể sẽ nằm trong nghị trình của một phiên giải quyết tranh chấp xét xử tại một cơ quan tài phán quốc tế rằng là công hàm này có giá trị pháp lý như thế nào, đến đâu.
"Trung Quốc đã dám công bố viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng, thì họ có dám ra trước cơ quan tài phán quốc tế để tranh luận, tranh lý với Việt Nam về giá trị của công hàm này và rộng hơn là tranh luận đi đến phán xử, phán quyết về ai mới là người có chủ quyền thực sự ở Hoàng Sa, Trường Sa hay không ?
"Vì lúc đó phía Việt Nam trong hồ sơ khởi kiện cũng phải chuẩn bị cho kỹ, riêng cá nhân tôi với tư cách chuyên gia, tôi đồng tình với nhiều quan điểm cho rằng công văn, công hàm Phạm Văn Đồng này không có giá trị pháp lý nào cả.
"Bởi vì căn cứ vào Hiệp định Geneva năm 1954 về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam, chia đất nước Việt Nam thành hai miền, chính trong Hiệp định đó đã quy định rất rõ Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc phía Nam của vĩ tuyến 17, và như vậy trực thuộc sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa.
Theo chuyên gia luật học này, công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa và có thể được vô hiệu hóa, nhưng đánh đổi lại nhà nước Viện Nam hiện nay phải có sự đánh đổi chính trị, hay thay đổi về quan niệm và nhìn nhận lịch sử với một nhà nước đã bị đánh sập 45 năm trước ở miền Nam Việt Nam, ông Hoàng Ngọc Giao nói tiếp :
"Thế thì từ trước đến nay, chính quyền ở Bắc Việt Nam và kể cả chính quyền Việt Nam bây giờ, trong các giới học thuật, đặc biệt học thuật về luật quốc tế, người ta vì những mục đích chính trị, cho nên người ta không chấp nhận Việt Nam Cộng Hòa như là một chủ thể độc lập của Công pháp Quốc tế.
"Và vì thế cho nên điều này cuối cùng xảy ra công hàm ‘bất lợi’, thì bây giờ nhà nước, chính phủ Việt Nam hiện nay mới bắt đầu nhận thấy một điều là nếu như mình phủ nhận sự tồn tại của một chính phủ, của một nhà nước chính danh, phù hợp pháp luật quốc tế, đó là Việt Nam Cộng Hòa, thì nó lại gây hại cho câu chuyện đấu tranh bảo vệ chủ quyền".
"Do vậy hiện nay, quan điểm chính thức của những người lãnh đạo Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chắc chắn không thể phủ nhận vai trò chính danh của nhà nước Việt Nam Cộng hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước đây, trước 30/4/1975 và điều này chỉ có lợi cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và nó làm vô hiệu hóa Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958.
"Tất nhiên bên cạnh việc công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ở chỗ là anh không thể công nhận cái gì mà anh không có được, thì ở đây còn một ý nữa đó là công hàm này, như nhiều chuyên gia đã nói, đó là ở cấp Thủ tướng, không phải ở cấp đại diện quốc gia là một nguyên thủ quốc gia và chưa được Quốc hội phê chuẩn.
"Bởi vì những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng phải có sự phê chuẩn của Quốc hội, và vì thế cho nên về giá trị pháp lý của nó, thì nó cũng không có giá trị pháp lý ở chỗ đó nữa.
"Điểm thứ ba nữa là Công hàm Phạm Văn Đồng nó phản ánh như một động thái chính trị phe nhóm với nhau. Cùng là phe cộng sản, thời đó Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam để đánh Mỹ.
"Thế thì nó có thể hiểu như là một tuyên bố chính trị, một động thái chính trị giữa hai bên, chứ không thể coi nó có giá trị pháp lý gì hết". Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam đưa ra nhận định.
Hôm 23/4, trả lời câu hỏi của khán, thính giả gửi cho một chương trình bình luận trực tuyến của BBC News Tiếng Việt hỏi rằng công hàm Phạm Văn Đồng 1958 gây khó khăn pháp lý gì cho cuộc đấu tranh về chủ quyền quốc gia và biển đảo của Việt Nam hiện nay, từ Đại học George Mason, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia chính trị học và bang giao quốc tế nói :
"Thực sự thì Trung Quốc đang bám vào cái đó và bảo rằng ở Việt Nam đã công nhận những điều khoản của họ rồi.
"Nhưng ngược lại chúng ta thấy có một số sự kiện cho thấy là Việt Nam cũng tương đối thay đổi. Ngày xưa, khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn làm Thủ tướng chính phủ Việt Nam, thì ông cũng đã nói rõ rằng vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa là dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
"Thường thường, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam gọi đó là chính quyền ‘ngụy quyền’ và không có giá trị, thẩm quyền gì cả, nhưng bây giờ Việt Nam chứng nhận là có, như vậy có nghĩa là bảo rằng nếu là do Việt Nam Cộng hòa quản lý, thì công hàm Phạm Văn Đồng tự nó không có hiệu quả gì cả.
"Bởi vì theo quan niệm gọi là chuyển quyền từ chính phủ này sang chính phủ khác, thì chính phủ miền Bắc, khi lãnh thêm miền Nam vào miền Bắc, thì lãnh thêm cả những tiêu sản và tích sản, những quyền lợi và nghĩa vụ.
"Nếu theo quan điểm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, thì miền Bắc chỉ thừa hưởng của miền Nam Cộng hòa, do đó họ không chịu trách nhiệm, bởi vì đã không có nghĩa vụ thì miền Bắc không có nghĩa vụ.
"Đặc biệt là bây giờ trong Liên Hợp quốc, chúng ta thấy có văn bản rõ rệt vào tháng Giêng năm 1974, thì xảy ra vụ đó, thì ông Ngoại trưởng của Việt Nam Cộng hòa là ông Vương Văn Bắc đã viết văn thư cho ông Tổng Thư ký Liên Hợp quốc và yêu cầu đưa vấn đề này ra Hội đồng Bảo an và Việt Nam Cộng hòa đã lên án Trung Quốc là xâm lấn Việt Nam.
"Thành ra những văn bản đó là những văn bản đã có ở trong Liên Hợp quốc rồi và theo luật pháp quốc tế thì nó cũng đúng.
"Cho nên đã có những động thái đó, còn bây giờ chúng ta chưa thấy tiếp tục từ hồi ông Nguyễn Tấn Dũng nói câu đó, thì sau này chúng ta chưa thấy gì cả".
Từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà nghiên cứu Trung Quốc học bình luận :
"Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ủng hộ vấn đề là xung quanh các nước, hay xung quanh các đảo thì được 12 hải lý, thế thôi, chứ không phải chấp nhận là Trung Quốc có chủ quyền ở Hoàng Sa.
"Mà cũng giống như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng vừa nói, vấn đề này không có động chạm gì đến vấn đề chủ quyền Hoàng Sa là của Việt Nam Cộng hòa ngày xưa.
"Ngoài ra, tôi cũng cho rằng việc này chỉ là một công thư của một Thủ tướng công nhận vấn đề ở trên biển, vấn đề 12 hải lý, thôi.
"Nhưng mà cái đó không được chính quyền Việt Nam, trong đó có Quốc hội, trong đó có Chủ tịch nước ủy quyền, do đó Trung Quốc không thể dùng công thư đó để nói rằng là Việt Nam đã nhường chủ quyền ở Hoàng Sa cho Trung Quốc".
Tiến sĩ Vũ Cao Phan, nguyên Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội hữu nghị Việt - Trung, nhà nghiên cứu chính trị học thuộc Đại học Bình Dương, nêu nhận định :
"Năm ngoái Trung Quốc đến Tư Chính chủ yếu là để cản trở Việt Nam ở mỏ Sao Vàng- Đại Nguyệt.
"Họ thất bại vì cuối cùng, Việt Nam vẫn hạ đặt được chân đến giàn khoan ở đây.
"Trong công bố nghiên cứu mới "Vấn đề Biển Đông : Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay", tôi có viết rằng điều quan trọng là mặc dù mọi cản trở từ phía Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ở khu vực này".
"Năm nay Việt Nam tiếp tục đặt giàn khoan ở đây, Trung Quốc cũng biết vậy nên sẽ quyết tâm phá.
"Bởi vậy, dự báo của tôi là tình hình sẽ căng thẳng và các hoạt động của Trung Quốc (gồm cả xâu chuỗi từ việc đâm chìm tàu cá cho đến các động thái khác) là đòn ra tay trước".
Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)
Nguồn : Thoibao.de, 27/04/2020
*********************
'Công hàm 1958 không công nhận chủ quyền Trung Quốc với Hoàng Sa và Trường Sa'
Bùi Thư, BBC, 27/04/2020
Trao đổi với BBC News Tiếng Việt hôm 26/4, nhà nghiên cứu Raul Pedrozo, chuyên gia luật quốc tế từng nhiều năm làm việc cho Hải quân Mỹ, nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không cho thấy Việt Nam từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa.
62 năm sau, Bắc Kinh sử dụng lá bài Công hàm 1958 để đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Hôm 17/4, Trung Quốc viện dẫn công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai như bằng chứng cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong công hàm mới được gửi lên Liên Hiệp Quốc (LHQ), Trung Quốc khẳng định cộng đồng quốc tế và cả chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Bắc Kinh đối với các quần đảo này.
Thêm nữa, Trung Quốc còn cho rằng sau năm 1975, Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc không phủ nhận (estoppel) trong luật quốc tế vì đã có yêu sách trái phép đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Cùng lúc Bắc Kinh đưa ra các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo.
Đáp lại, ông Ngô Toàn Thắng, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, hôm 23/4 lên tiếng : "Việt Nam đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc".
Công hàm 1958 "không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc"
Tiếp xúc với BBC News tiếng Việt hôm 26/4, ông Raul Pedrozo, giáo sư luật quốc tế, cố vấn luật của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Hoa Kỳ, nói :
"Theo ý kiến của tôi, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai liên quan đến tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc vào tháng 9/1958 chỉ đơn giản là để bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý mà Trung Quốc đưa ra. Nó không hề mang nghĩa thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa".
Ông Raul Pedrozo từng phục vụ trong Hải quân Mỹ, là cựu giáo sư luật quốc tế của Đại học Chiến tranh Hải quân (U.S. Naval War College). Ông là cố vấn luật quốc tế của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, trợ lý đặc biệt của Thứ trưởng phụ trách chính sách Bộ Quốc phòng. Năm 2014, ông đã công bố công trình dày 142 trang về tranh chấp tại Biển Đông, trong đó có phân tích công hàm Phạm Văn Đồng.
Theo ông Raul Pedrozo, năm 1988, Chính phủ Việt Nam đã thừa nhận có sự tồn tại của công hàm Phạm Văn Đồng nhưng Bộ Ngoại giao đã có giải thích về bối cảnh lịch sử của các tuyên bố trong đó. Cụ thể, trong bối cảnh chiến tranh khi Mỹ có thể chiếm hai quần đảo này để làm bàn đạp tấn công thì việc tuyên bố như vậy chỉ là giải pháp tình thế. Lúc bấy giờ, Việt Nam chân thành tin tưởng Trung Quốc và tin rằng sau chiến tranh thì mọi tranh chấp về lãnh thổ giữa hai nước sẽ được giải quyết.
Ông Raul Pedrozo phân tích thêm :
"Nam Việt Nam (với tư cách kế thừa Pháp), chứ không phải Bắc Việt Nam, là bên đang quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1958. Hiệp định Geneva 1954 phân chia Bắc và Nam Việt Nam tại vĩ tuyến 17 để chờ cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm phía nam vĩ tuyến 17 ; do đó, cả hai quần đảo đều thuộc quyền quản lý của Nam Việt Nam. Vì vậy, Bắc Việt Nam không có cả danh nghĩa lẫn chủ quyền trên thực tế đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không ở vào vị trí có thể từ bỏ các vùng lãnh thổ trên. Tóm lại, Bắc Việt Nam chẳng có gì để từ bỏ".
Trao đổi qua email với BBC News tiếng Việt ngày 25/4, Tiến sĩ Dương Danh Huy từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông cũng cho rằng những gì Thủ tướng Phạm Văn Đồng hay Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của chính phủ vào thời điểm năm 1958 đều không có giá trị pháp lý để thay đổi về chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17.
Ông Huy phân tích : "Trước hết, có thể khẳng định rằng vào năm 1958 không có một nước Việt Nam thống nhất như bây giờ, và lúc đó nói chung chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không được thế giới cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17, không được thế giới cho là có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17".
"Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải quan tâm đến khía cạnh động thái đó và các động thái tương tự của chính phủ đó có ý nghĩa pháp lý gì khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1976".
Nguyên tắc Estoppel có áp dụng ?
Estoppel là quy tắc về bằng chứng, theo đó, một quốc gia không được phép phủ nhận sự thật về điều mà trước đây họ đã tuyên bố hoặc về những sự kiện mà họ cho là có thật.
Theo ý kiến của ông Raul Pedrozo, estoppel đã được Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) sử dụng để giải quyết một số tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, ông cho rằng nguyên tắc này của tòa ICJ khi liên hệ với tranh chấp tại Hoàng Sa không ủng hộ lập trường của Trung Quốc xét trong mối liên hệ với Việt Nam.
Ông phân tích : "ICJ chỉ áp dụng estoppel trong một số vụ giới hạn khi mà hội đủ các yếu tố :
1) đó là các tuyên bố, phát biểu hoặc trình bày (hoặc được thực thi trong quá khứ) nhất quán do một bên thực hiện với bên kia ;
2) phải dựa trên sự tổn hại của phía bên kia hoặc tạo lợi thế cho bên đưa ra phát biểu".
"Trung Quốc không cung cấp đủ bằng chứng để hội đủ các yếu tố trên. Lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đơn giản bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không phải là sự công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ở Biển Đông. Không có gì nghi ngờ, lá thư không đại diện cho một sự công nhận 'rõ ràng và nhất quán' đối với chủ quyền của các quần đảo tại Biển Đông và do đó không thể đáp ứng yếu tố đầu tiên của estoppel", ông Pedrozo nhận định.
"Hơn thế nữa, không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc sử dụng lá thư của Chu Ân Lai để bày tỏ sự tổn hại của họ - từ năm 1949, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã liên tục tuyên bố chủ quyền không tranh cãi của họ đối với các đảo ở Biển Đông và đã phản đối hoặc hành động chống lại mọi yêu sách chủ quyền của các quốc gia khác và đã tiến hành tấn công các đảo ở Biển Đông. Do đó, nguyên tắc estoppel không thể được áp dụng cho các tranh chấp hiện tại", ông Raul diễn giải thêm.
Tiến sĩ Dương Danh Huy đánh giá :
"Năm 1958, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không được thế giới nói chung cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17. Vì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vừa không có thẩm quyền, vừa không có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền, công hàm đó không phải là để trả lời Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, cũng không nói trực tiếp về hai quần đảo đó, thì dù câu chữ của công hàm đó có được diễn giải thế nào cũng không hội tụ được các điều kiện của estoppel để ràng buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa".
'Covid-19 là thời cơ cho Trung Quốc'
Lý giải vì sao Trung Quốc lại đưa công hàm lên Liên Hiệp Quốc vào thời điểm dịch Covid-19, ông Dương Danh Huy cho rằng :
"Từ khi tình hình Biển Đông nóng lên từ năm 2007, 2008 tới nay, chưa có khi nào bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam như hiện nay. Đây là thời cơ tốt cho Trung Quốc lấn lướt, thậm chí lấn chiếm ở Biển Đông".
"Việc họ gửi công hàm cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa chỉ là hệ quả của việc Malaysia đệ trình về ranh giới ngoài của thềm lục địa vào tháng 12/2019. Tuy nhiên, việc họ đưa công hàm Phạm Văn Đồng vào vấn đề và vào một công hàm được chuyển đến các nước thành viên Liên Hiệp Quốc là điều đáng suy nghĩ".
Ông Huy đưa ra các khả năng : "Đó có phải là một sư leo thang tranh biện bình thường ? Hay họ dồn Việt Nam vào chân tường để Việt Nam phải lộ ra phần nào lập luận pháp lý của mình ? Hay họ dọn đường dư luận cho động thái kế tiếp nào đó ?".
"Nhưng cũng có thể là Trung Quốc biết họ đã thua cuộc tranh biện trong việc đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho Trường Sa cũng như trong việc đòi quyền lịch sử trong vùng đặc quyền kinh tế, và Việt Nam, Philippines và Malaysia lại có cùng quan điểm trong vấn đề đó, cho nên họ muốn lái cuộc tranh biện sang phạm trù tranh chấp các đảo, nhằm vừa tránh nhược điểm của mình, vừa chia rẽ ba nước đối phương kia, vừa nhấn mạnh khía cạnh tranh chấp chủ quyền để cản trở đệ trình của Malaysia", ông nhận định.
Bùi Thư
Nguồn : BBC, 27/04/2020
***********************
Biển Đông : Việt Nam đã biết được 'ai là bạn thân, ai là đối tác'
Quốc Phương, BBC, 27/04/2020
Việt Nam đã rút ra nhận thức rõ ràng về ai là ‘bạn’, ‘bạn thân’, ai ‘đến với chúng ta’ trong lúc khó khăn, ai chỉ là ‘đối tác’, qua những gì chứng kiến về an ninh trên Biển Đông, trong lúc diễn ra đại dịch Covid, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói với truyền thông quốc phòng và quân đội nước này.
Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh
Thứ trưởng phụ trách đối ngoại quốc phòng của Việt Nam tại Bộ Quốc phòng nói rằng cần phải ‘lên án’ những quốc gia đã lợi dụng thời điểm diễn ra Covid-19 để thúc đẩy những hành động mà ông gọi là ‘phi pháp’, cũng như đẩy mạnh ‘tham vọng’.
Trong một phát biểu gây chú ý hôm 26/4/2020 trên kênh Quốc phòng Việt Nam, trực thuộc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói :
"Những thách thức ở an ninh khu vực thì nói dù có dịch hay không, thì nó đều tồn tại, nó là thách thức, nhưng nó chưa phải là nguy cơ.
"Điều đáng lên án là những quốc gia nhân cái dịp này đẩy mạnh những hoạt động phi pháp và tham vọng của họ và cái đó tôi cho là không có lợi cho quốc gia đó. Quốc gia nào làm điều đó không có lợi".
"Trong lúc này, chúng ta không bao giờ quên những nhiệm vụ khác để mà đối phó với các thách thức an ninh, ví dụ bảo vệ chủ quyền chúng ta không thể quên, không thể lơi là. Tàu hải quân của chúng ta, cảnh sát biển của chúng ta không có nghỉ ngày nào cả".
"Bộ đội ở Trường Sa làm sao mà không để dịch bệnh thôi, chứ không có một đồng chí nào cần phải dừng nhiệm vụ cả".
Về quan hệ đối ngoại và với quốc tế qua diễn biến an ninh trên Biển Đông trong lúc diễn ra đại dịch Covid-19, ông Nguyễn Chí Vịnh, người vừa là Ủy viên BCH Trung ương ĐCSVN và Ủy viên thường trực Quân ủy Trung ương QĐND Việt Nam, nói :
"Những lúc như thế này chúng ta sẽ biết ai là bạn, ai là bạn thân thiết, ai là người mà chỉ là đối tác. Những lúc như thế này mới thấy rằng khi đất nước mình gặp khó khăn, thì những ai sẽ đến với chúng ta.
"Thì cái này quan trọng lắm và tôi cho rằng bài học quan trọng nhất đó là dự báo đúng tình hình và hạ quyết tâm sớm".
‘Nói thế rất đúng’
Cũng hôm 26/4 từ Hà Nội, một nhà phân tích chính trị và an ninh khu vực, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, thuôc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas, Singapore) đưa ra bình luận với BBC :
"Họ nói thế rất đúng. Khi đang có dịch, cả thế giới tập trung chống dịch ở từng nước và ở các nước, thì Trung Quốc lại có các hành động như đang có ở Biển Đông, thì ai cũng thấy hành động đó không có lợi cho Trung Quốc và cho an ninh khu vực".
"Những nước nào lên án các hành động đó, ủng hộ chính sách và thực hành của Việt Nam, thì có thể coi họ là bạn bè. Nhận diện bạn bè, đối tác, đối tượng... thì từ lâu đã được nêu trong các chính sách của chính phủ Việt Nam ; lúc này, các vị đó chỉ nhắc lại thôi".
"Tôi có thấy một đoạn truyền hình quốc phòng phỏng vấn Thượng tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, ông Vịnh đã nói rõ chủ đề này".
Nhân dịp này, nhà nghiên cứu cao cấp thỉnh giảng thuộc viện nghiên cứu của Singapore đưa ra một số bình luận về an ninh Biển Đông và khu vực, đặc biệt liên quan các động thái nhiều mặt của Trung Quốc.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói :
"Những động tác công hàm của Trung Quốc, thì được đáp lại bằng các công hàm, các "giao thiệp" ngoại giao tương ứng và phù hợp từ phía Bộ Ngoại giao Việt Nam".
"Hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, cụ thể như hiện nay Trung Quốc lại cử tàu Hải Dương Địa Chất 8 ra Biển Đông, cử tàu nghiên cứu của Đại học Hạ Môn ra vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, quân sự hóa các đảo đắp, tập trận, trinh sát trên không... thì Bộ quốc phòng và các bộ liên quan của Việt Nam đã có hoạt động cụ thể".
"Các hoạt động cụ thể gồm việc quan sát, theo dõi, nắm tình hình, dự báo, sẵn sàng ứng phó trên thực địa (Trường Sa...)"
"Đang lúc có Covid-19, mà Trung Quốc có các hành động như thế, tức là họ lợi dụng tình hình để đẩy mạnh các hoạt động phi pháp ở Biển Đông, thì đó là những hành động không có lợi cho Trung Quốc".
Về động thái của Trung Quốc công bố ra Liên Hiệp Quốc mới đây, hôm 17/04/2020, theo đó đưa Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra viện dẫn và bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông, đặc biệt trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói :
"Về công hàm 1958 ký bởi Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ông Phạm Văn Đồng, thì chính phủ Việt Nam, các chuyên gia pháp lý của Việt nam, các chuyên gia luật quốc tế... đã phân tích kỹ rồi".
"Về pháp lý và chính trị, công hàm đó không có giá trị khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông, vì rất nhiều lý do, mà tôi không nhắc lại ở đây".
"Về chính trị, Trung Quốc nêu lại Công hàm 1958, một lần nữa cho thấy Trung Quốc cố ý giải thích sai luật quốc tế về biển. Đây là một điểm rất bất lợi cho Trung Quốc trong việc thúc đẩy tuyên bố chủ quyền và lãnh thổ ở Biển Đông".
Liên minh hay không ?
Có ý kiến từ giới học giả nói với BBC gần đây cho rằng Việt Nam không nên liên minh với cường quốc nào để đối trọng với Trung Quốc.
Các ý kiến này cho rằng ý tưởng liên minh là lạc hậu và không thực tế, mặt khác cũng không có ai chịu hay muốn liên minh với Việt Nam ở quốc tế và khu vực liên quan an ninh và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nêu quan điểm :
"Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 nhắc lại luận điểm không liên minh quân sự. Luận điểm này, như tôi đã nói trước đây, được tuyên bố nhằm thúc đẩy chính sách hòa bình của Việt Nam, và chiến lược quốc phòng trong thời bình".
"Nhưng một khi Việt Nam bị đe dọa tấn công, hoặc tấn công xâm lược, khi đó, tùy tình hình cụ thể Việt Nam sẽ có các quyết định cụ thể nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ. Không có chính sách hay chiến lược nào là cứng nhắc. Lợi ích của đất nước quyết định mọi thay đổi chính sách, chiến lược".
"Một số chuyên gia nói rằng không nên liên minh, chắc là họ có lý do của họ. Tôi chỉ lưu ý rằng, Biển Đông không chỉ là nơi Việt Nam có lợi ích quốc gia, mà các quốc gia khác, trong đó có Mỹ, Nhật Bản, phương Tây... có lợi ích quốc gia của mình, vì đây là con đường chuyển vận hơn 5.000 nghìn tỷ USD hàng hóa của thế giới".
"Một khi Biển Đông bị ai đó đe dọa độc chiếm hay hành động để tiến tới độc chiếm, thì các nước đều xem sẽ hợp tác với nhau thế nào để chống lại. Từ đó, có thể hình thành liên minh nào đó".
Hành động ưu tiên gì ?
Từ Hà Nội, một nhà nghiên cứu luật học và chính sách của Việt Nam từ Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển bình luận với BBC về điều mà ông cho rằng Việt Nam cần ưu tiên làm gì trong bối cảnh hiện nay.
"Việc ưu tiên đầu tiên hiện nay là ngay lập tức Việt Nam cũng phải có công hàm phản đối công hàm ngày 17/4 của Trung Quốc", Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao nói.
"Thứ hai là lập tức Việt Nam cần phải có một động thái tức là nêu vấn đề ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và đề nghị với tư cách thành viên không thường trực, nêu vấn đề nhóm họp khẩn cấp về tình hình ở Biển Đông trước những hành động mà không chỉ bằng những lời tuyên bố, mà còn bằng những hành động trên thực địa, đang đe dọa dùng vũ lực đối với Việt Nam".
"Và việc này không chỉ đe dọa riêng với Việt Nam mà còn đe dọa hòa bình và ổn định ở khu vực. Điều này về nội dung hoàn toàn phù hợp cho việc Việt Nam đề nghị đưa vào Chương trình nghị sự của phiên họp của Hội đồng Bảo an ngay lập tức, càng sớm càng tốt".
"Và việc tiếp theo nữa, theo tôi, Việt Nam cần chủ động có một sáng kiến tổ chức một Hội nghị về Biển Đông mà không nhất thiết với tư cách Chủ tịch của Asean, mà với tư cách là một trong những nước là nạn nhân của hành vi áp chế, đe dọa dùng vũ lực của phía Trung Quốc".
"Cụ thể Việt Nam có thể qua hoạt động vận động ngoại giao với Philippines, Malaysia, Indonesia v.v… để nêu ra sáng kiến họp khẩn cấp về tình hình mất an ninh, ổn định ở Biển Đông và đồng thời tham dự hội nghị như vậy, cần phải có sự có mặt của các nước có thể bị phương hại, hay chịu ảnh hưởng trực tiếp về tự do hàng hải bị đe dọa".
"Ở đây có thể nói đến là Nhật Bản, Hàn Quốc, đó là Hoa Kỳ, Úc và Ấn Độ, những nước đó có thể vận động được để mà dự và có thể có được một hội nghị để bàn về vấn đề đảm bảo hòa bình và an ninh ở Biển Đông trước những hành vi rất là ngang ngược như vậy của Trung Quốc, theo tôi đây là những biện pháp khẩn cấp, cần làm ngay".
‘Quan trọng và mới’
Cũng liên quan tình hình Biển Đông và an ninh khu vực, mới đây, một nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế từ Đại học George Mason nhấn mạnh với BBC về điều mà ông cho là điểm quan trọng và mới, có tính chất thời sự nên được lưu ý từ góc nhìn liên quan tới chính sách của Hoa Kỳ.
"Đó là Mỹ ủng hộ sự tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và ủng hộ các quốc gia khai thác dầu hỏa trong phạm vi chủ quyền của họ bằng cách tăng cường tuần tra, đặc biệt cử các tàu của Mỹ theo sát các tàu của Trung Quốc "khảo sát", "nghiên cứu" ở Biển Đông", Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nói.
"Mỹ nên phối hợp với các nước liên hệ cùng làm việc đó, và trong đạo luật cứu nguy các công ty dầu hỏa của mình, Mỹ nên giành ưu tiên cho những công ty khai thác dầu ở Biển Đông trong phạm vi chủ quyền của các nước trong khu vực căn cứ trên công ước về luật biển (Unclos 1982)".
Trong một diễn biến gần đây, hôm 17/4 năm 2020, theo giới quan sát, Trung Quốc đã đệ trình một công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối Việt Nam xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, cáo buộc Việt Nam đã xâm chiếm trái phép biển đảo của Trung Quốc, đặc biệt ở Quần đảo Trường Sa.
Đặc biệt, đi kèm công văn này, Trung Quốc đã công bố và viện dẫn căn cứ để ủng hộ các tuyên bố chủ quyền cũng như cáo buộc, phản đối Việt Nam xâm phạm, xâm chiếm biển đảo khi gửi Liên Hiệp Quốc tham khảo công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng vào năm 1958 gửi người đồng cấp, Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Chu Ân Lai.
Trung Quốc tuyên bố sẽ tiến hành mọi hành động kể cả các biện pháp mạnh mẽ cần thiết để bảo vệ và bảo đảm các quyền lợi chính đáng, cũng như chủ quyền của nước này tại Biển Đông.
Trước đó, vẫn theo giới quan sát, Trung Quốc đã nhiều lần lên án, cảnh báo và chỉ trích Mỹ, cho rằng Hoa Kỳ đã có những hành động can thiệp, gây phức tạp về an ninh trên Biển Đông và khu vực, Trung Quốc cũng đề nghị các quốc gia trong khu vực có tranh chấp bất đồng với Trung Quốc về biển đảo nên tiến hành các đàm phán, đối thoại song phương, cũng như chủ động đề nghị từng quốc gia riêng rẽ tiến hành khai thác chung các nguồn lợi trên biển với Trung Quốc ở những nơi có tranh chấp, hoặc đã đang trở thành tranh chấp.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 27/04/2020
*******************
Thêm một bằng chứng "cõng rắn vào nhà"
Hiếu Bá Linh, Thoibao.de, 27/04/2020
Trong Công hàm mới nhất của Trung Quốc trình lên Liên Hợp Quốc ngày 17/4/2020 để khẳng định chủ quyền biển đảo của họ, ngoài việc nêu ra Công hàm do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, Trung Quốc còn dựa vào những chứng cứ khác để biện minh rằng Việt Nam cũng đã công nhận một cách rõ ràng chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa, nó "đã được phản ánh trong các tuyên bố và ghi chú của chính phủ Việt Nam, cũng như các bản đồ, sách giáo khoa và báo chí chính thức của Việt Nam" (trích Công hàm Trung Quốc ngày 17/4/2020).
Trích Văn kiện ngày 30/1/1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc về chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa
Một trong những chứng cứ kể trên là "các bản đồ" do chính Việt Nam biên soạn, in ấn và xuất bản. Mặc dù Công hàm mới nhất của Trung Quốc không trưng ra mà chỉ nhắc đến "các bản đồ", nhưng trong văn kiện đầu tiên công bố ngày 30/1/1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đưa ra các tư liệu lịch sử, bản đồ v.v. để chứng minh "Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa" (tức là Trường sa và Hoàng Sa).
Toàn bộ văn kiện ngày 30/1/1980 được đăng trên tạp chí Beijing Review của Trung Quốc, số 7 ngày 18/2/1980, trong đó không những nói rõ về các bản đồ, mà còn đưa ra ảnh chụp. Trích nguyên văn như sau :
Bản dịch : "Các bản đồ và sách giáo khoa chính thức của Việt Nam đều thừa nhận rất rõ ràng hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ Trung Quốc. Chẳng hạn, Bản đồ Thế giới được thực hiện năm 1960 bởi Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung và chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc. Tập bản đồ Thế giới được xuất bản tháng 5 năm 1972 bởi Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng đánh dấu hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung (xem Phụ Lục 5)".
Chắc chắn Trung Quốc đã từ lâu nắm trong tay và cất kỹ bản gốc của các bản đồ này, khi cần có thể trưng ra như là một bằng chứng mà Việt Nam không thể chối cãi.
Một câu hỏi được đặt ra tại sao Phòng Bản đồ thuộc bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam lại làm ra một tấm bản đồ như vậy ?
Không thể nào nói đó là do sơ suất hay nhầm lẫn vì không những ghi tên hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tên tiếng Trung Quốc, mà còn chú thích trong dấu ngoặc hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc.
Tại sao Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam cũng in tên hai Quần đảo Tây Sa và Nam Sa bằng tiếng Trung ?
Theo tìm hiểu của tờ Thoibao.de, từ năm 1960 đã có ít nhất một người Trung Quốc làm việc trong Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam. Đó là một "chuyên gia do Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phái sang giúp Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
Như vậy rõ ràng Trung Quốc đã cài người trong Cục Đo đạc và Bản đồ trực thuộc Phủ Thủ tướng, trễ nhất là từ năm 1960. Chúng nằm sâu trong những cơ quan trọng yếu của quốc gia với nhiệm vụ ngụy tạo chứng cứ cho việc cướp đất và biển đảo. Đó là điều chúng đã tính toán từ trước.
Việc "cõng rắn vào nhà" như thế này. Ai là người chịu trách nhiệm ?
Ngoài Trương Hồng Niên, người của Trung Quốc được cài cấm trong Cục đo đạc và bản đồ ra, liệu còn bao nhiêu người Trung Quốc đã được cài cấm trong các bộ ngành khác từ trước đến nay, nhất là Bộ Giáo dục (sách giáo khoa cũng bị Trung Quốc ngụy tạo dùng làm bằng chứng).
Hiện nay, tình báo Trung Quốc tại Việt Nam đã cài trong Quốc hội bao nhiêu người, Chính phủ bao nhiêu người và Bộ chính trị là bao nhiêu người ? Bao giờ người dân có được câu trả lời cho câu hỏi này ?
Hiếu Bá Linh
Nguyên tác : China's Indisputable Sovereignty over Xisha and Nansha Islands, Beijing Review, 18/02/1980
Nguồn : Thoibao.de, 27/04/2020
China's Indisputable Sovereignty over Xisha and Nansha Islands