Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất nặng đến nền kinh tế Việt Nam : hàng triệu người dân phải ở nhà, trường học, doanh nghiệp bị đóng cửa, các nhà máy, công xưởng bị tạm ngưng hoạt động, và mọi giao thông vận tải đều bị dừng lại.
Việt Nam cần có những cải tổ đột phá về giáo dục và về đào tạo trường dạy nghề
Mặc dù số người bị nhiễm bệnh Covid-19 còn rất ít so với trên thế giới và con số tử vong chưa có, tác động kinh tế vẫn rất nghiêm trọng. Việc đầu tiên chính phủ đã làm là thực hiện các biện pháp liên quan đến y tế để giảm và kiểm soát bệnh dịch và sau đó tiến đến các biện pháp kinh tế để hỗ trợ người lao động và giảm thiểu các tác động kinh tế.
Tôi đã trình bày chi tiết những vấn đề này ở một bài báo trước trên trang BBC News tiếng Việt (1). Lần này xin bàn sâu vào các chính sách quan trọng và phù hợp để đẩy mạnh cho công kỹ nghệ Việt Nam sau dịch Covid-19.
Chính sách ngắn và trung hạn cho công nghiệp
Giúp công nhân nghèo đối phó với đại dịch Covid-19. Đại dịch ảnh hưởng xấu đến cả khu vực chính thức và không chính thức, nhưng nhóm người dễ bị tổn thương nhất bao gồm những người lao động trong khu vực phi chính thức và/hoặc lao động bán thời gian, thanh niên không tay nghề, kinh doanh nhỏ, lao động nhập cư... Dịch Covid-19 kéo dài cũng có thể đe dọa an ninh lương thực, đặc biệt là đối với nhóm dễ bị tổn thương nhất.
Ưu tiên trong thời gian bị dich là cung cấp thực phẩm, vật tư y tế và các nhu yếu phẩm cho nhóm dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là những người bị nghỉ việc do đại dịch Covid-19 gây ra.
Tại Việt Nam đã có các điểm ATM ở thành phố lớn để phân phối gạo cho người nghèo. Ngoài ra, chính phủ có thể thiết lập các chương trình làm việc tạm thời cho lao động nhập cư thất nghiệp, cấp các biện pháp xóa nợ cho các doanh nghiệp và cá nhân, và giảm bớt thủ tục hải quan liên vùng để tăng tốc nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa thiết yếu.
Phân biệt các doanh nghiệp nào bị ảnh hưởng nặng của Covid-19. Đối với khu vực chính thức, cú sốc cầu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau, và vì vậy các chính phủ cần nhắm mục tiêu vào các doanh nghiệp bị ảnh hưởng xấu nhất trước tiên.
Có ba loại doanh nghiệp :
i) các doanh nghiệp có nhu cầu liên tục (như cửa hàng tạp hóa và các sản phẩm y tế) ;
ii) các doanh nghiệp phải đối mặt với nhu cầu bị mất (bao gồm nhà hàng, du lịch, giải trí, giao thông và du lịch) ; và
iii) các doanh nghiệp phải đối mặt với nhu cầu chậm trễ (bao gồm các sản phẩm tiêu dùng và sản xuất và các dịch vụ kinh doanh liên quan).
Các doanh nghiệp trong mục i) ở trên không cần hỗ trợ, trong khi các doanh nghiệp trong mục ii) và iii) ở trên cần được hỗ trợ ưu tiên. Những doanh nghiệp trong mục ii) có thể được trợ cấp bằng tiền mặt, trong khi những doanh nghiệp trong mục iii) ở trên có thể được cho vay nhẹ lãi, vì nhu cầu cho đầu ra của họ có thể sẽ trở lại.
Đại dịch Covid-19 cũng đã cho mọi quốc gia thấy tầm quan trọng của công kỹ nghệ nội địa cho nền an ninh quốc gia và tại sao một số nước đã khẳng định rằng các sản phẩm quan trọng đối với ngành y tế phải được sản xuất trong nước.
Ở Mỹ, Tổng thống Trump đã dựa vào các quy luật thời chiến tranh để bắt các hãng xe hơi phải sản xuất máy thphuở (ventilators) kịp thời cho các bệnh viện.
Nhu cầu mới về các sản phẩm y tế liên quan đến Covid-19. Trong lúc dịch chưa hết, tối thiểu 12-18 tháng nữa, nhu cầu toàn cầu về các sản phẩm y tế sẽ được duy trì ít nhất trong thời gian đợi có vắc xin, tạo cơ hội mới cho Việt Nam. Tùy theo cách các doanh nghiệp sản xuất có thể đáp ứng nhu cầu này nhanh hay không, các doanh nghiệp Việt Nam có thể chiếm một vị trí thành công lâu dài trên thế giới bằng cách sản xuất nhiều loại sản phẩm y tế như sau.
Thiết bị y tế đơn giản bao gồm khẩu trang, găng tay, áo choàng và các thiết bị bảo vệ cá nhân để tránh truyền nhiễm (Personal Protection Equipment, gọi tắt là PPE) tất cả đều có thể được sản xuất tại Việt Nam do nhân công Việt Nam. Để vượt qua suy thoái kinh tế, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang điều chỉnh dây chuyền sản xuất của nhà máy và đào tạo lại lực lượng lao động của họ để sản xuất các sản phẩm y tế đơn giản cho các bệnh viện địa phương hoặc xuất cảng. Các công ty sản xuất nhẹ tại Việt Nam có thể làm điều này trong ngắn hạn.
Các thiết bị y tế phức tạp hơn, bao gồm giường bệnh viện, dụng cụ y tế bao gồm máy thở và phương tiện vận chuyển y tế như xe lăn, xe tải và xe cứu thương, có thể được sản xuất bởi các doanh nghiệp trong các ngành kim loại, máy móc, điện tử, ô tô và các bộ phận máy bay. Điều này đã được thực hiện ở các nước khác, cụ thể là ở Hoa Kỳ khi các nhà sản xuất phụ tùng ô tô và máy bay điều chỉnh dây chuyền sản xuất để sản xuất máy thở.
Vì Việt Nam đã có các cụm ô tô, các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa các loại thiết bị y tế và phương tiện này. Các sản phẳm này cũng phù hợp với ý định tự túc trong vấn đề an ninh quốc gia, mà bối cảnh khủng hoảng của Covid-19 đã đem lại như đã nói ở trên.
Việc trang bị lại nhà máy (retooling) có thể được chính phủ khuyến khích thông qua :
i) tín dụng của chính phủ để các công ty có thể tiếp tục trả lương cho công nhân trong khi họ trang bị lại ;
ii) làm dễ dàng việc truy cập thông tin và các tài liệu về công nghệ, kể cả nhuồn và nơi để mua nguyên liệu thô và các đầu vào trung gian khác ; và
iii) kết nối giữa các bên (doanh nghiệp cung cấp, cơ sở y tế và những người mua).
Trên nguyên tắc, các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam đều có thể làm vậy, nhưng họ bị hạn chế ở điểm (ii) và (iii) do đó phải cần chính phủ giúp đỡ.
Nhu cầu cho các địa điểm sản xuất mới ở ngoài Trung Quốc. Mặt khác, Covid-19 đã đem lại một cơ hội quý báu cho doanh nghiệp Việt Nam. Khi thế giới đã nhận thức ra về mối nguy hiểm về sự phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc đối với tất cả các sản phẩm được sản xuất theo chuổi giá trị toàn cầu (global value chains), từ vật tư y tế và máy thở đến iPhone, người mua và nhà đầu tư trên khắp thế giới đang và sẽ tìm kiếm các địa điểm sản xuất ở ngoài Trung Quốc. Việt Nam có một cơ hội bằng vàng để chứng tỏ mình là một địa điểm sản xuất tốt nhất trong chuyện này.
Nếu các doanh nghiệp nước ta có thể vượt qua được giai đoạn suy thoái này, họ sẽ tạo ra một lực lượng lao động đủ lớn, được đào tạo bài bản với các chi phí cạnh tranh thấp, có thể thực hiện hiệu quả các đơn đặt hàng lớn cho các sản phẩm công nghệ cao và trung bình.
Vấn đề của các doanh nghiệp này là họ thường thiếu đào tạo kỹ thuật cho lực lượng lao động, phần lớn là do các doanh nghiệp không muốn đầu tư vào đào tạo sợ tốn kém. Để giải quyết điều này, chính phủ phải cung cấp hỗ trợ tài chính và đào tạo cho người lao động trong thời kỳ suy thoái.
Vấn đề FDI trong thời gian đại dịch
Vừa qua Ấn Độ đã tỏ ra lo ngại là các doanh nghiệp Trung Quốc (doanh nghiệp Trung Quốc) đang thừa cơ nạn dịch Covid-19 mà đổ tiền qua mua các doanh nghiệp trong nước đang bị khủng hoảng hầu có thể thao túng thị trưởng kinh tế Ấn Độ về sau này.
Đó là chưa kể họ còn ngại các doanh nghiệp Trung Quốc nhân cơ hội này đem các máy móc lạc hậu cũ kỹ có nguy hại đến môi trường mà chính phủ Trung Quốc cấm dùng trong nước qua đó. Vì thế Ấn Độ đã ra một đạo luật là trong thời gian Covid-19 thì tất cả các đầu tư từ các nước láng giềng (tuy Ấn Độ còn các nước láng giềng khác như Bhutan, Afghanistan, Myanmar and Nepal nhưng mọi người đều biết rõ mục đích chính của đạo luật này nhằm vào Trung Quốc kể cả Hong Kong) phải được chính phủ Ấn Độ chấp nhận chứ không phải tự động đi vào như trước đây.
Điều này thì Mỹ cũng đã làm từ lâu. Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS) là một ủy ban liên ngành được thành lập từ hồi 1975 để duyệt xét đầu tư tư nước ngoài, chủ yếu là Trung Quốc, lúc đầu là do lý do an ninh nhưng trong mấy năm gần đây thiên về thương mại và kinh tế nhiều hơn.
Cũng tương tự như Ấn Độ, vừa qua hai nước Úc và Đức đều tuyên bố là trong thời kỳ đại dịch Covid-19, tất cả các đầu tư từ nước ngoài phải được chính phủ xem xét để tránh trường hợp các nước khác thừa cơ hội nước đục thả câu. Việt Nam ta cũng phải cẩn thận như vậy để tránh nền kinh tế nước ta trong tương lai khỏi bị lũng đoạn bởi các nước khác.
Dịch virus corona là một cơ hội bằng vàng để các kinh tế gia Việt Nam có cơ hội phân tích ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào, để biết rõ số người lao động tay nghề cao và thấp của Trung Quốc xuất cảng qua Việt Nam hiện là bao nhiêu, ở trong ngành nghề nào, có thể thay được ngay hay không, cũng như ảnh hưởng Trung Quốc về giao thông, du lịch, vận tải, đầu tư, thương mại và tác động đến các đầu vào của các chuổi cung ứng liên quốc gia.
Chính phủ phải lập ra một nhóm nghiên cứu để thâu thập các tài liệu cần thiết một mặt để tìm hiểu những ảnh hưởng của dịch cúm đến kinh tế Việt Nam và một mặt khác để tìm hiểu rõ thêm ảnh hưởng của nền kinh tế Trung Quốc đối với Việt Nam, nhất là ở các tỉnh biên giới.
Không thiếu vốn mà thiếu đầu tư chất lượng và giáo dục phù hợp
Vấn đề Việt Nam đang gặp không phải là thiếu vốn đầu tư mà là thiếu kém về chất lượng đầu tư và thiếu đầu tư vào những lănh vực mà Việt Nam đang cần để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình : các ngành công kỹ nghệ cao hơn và tận dụng trí tuệ của dân Việt Nam.
Chính phủ cần phải rà soát lại những đầu tư nước ngoài để chú trọng hơn về chất lượng, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của những lãnh vực này để hoàn thiện chuỗi giá trị cung ứng ; khuyến khích FDI liên kết với các công ty trong nước qua hình thái liên doanh và đẩy mạnh liên kết hàng dọc ; nâng tỷ lệ nội địa hóa, và ngăn chặn đầu tư (hoặc đem các máy móc cũ) có hại hay có ảnh hưởng xấu cho môi trường. Mục đích chính là giúp các công ty tư nhân trong nước được lớn mạnh và cạnh tranh thành công trên thế giới.
Điều này đòi hỏi cải tổ theo chiều sâu như giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp ; khuyến khích phát triển các cụm sản xuất (clusters) ; đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đồng bộ (plug-and-play) và các khu công nghệ ; khuyến khích và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua hợp đồng thầu phụ.
Tôi đã trình bày những rào cản cho sự phát triển kỹ nghệ Việt Nam trong cuốn sách 'Light Manufacturing in Vietnam' (Phát Triển Công Kỹ Nghệ Nhẹ tại Việt Nam) do Ngân Hàng Thế Giới xuất bản.
Quan trọng nhất vẫn là chất xám của người Việt Nam. Do đó để thu hút các nhà đầu tư và một mặt khác để vượt lên trên bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần phải có những cải tổ đột phá về giáo dục và về đào tạo trường dạy nghề.
Đã có biết bao nhiêu là những báo cáo nói về đề tài này nhưng những cái cách đó vẫn chưa được thực hiện. Chẳng hạn trong cuốn sách về Việt Nam ở trên, tôi đã đề nghị một số các biện pháp chính sách cần được triển khai để tăng số lượng và chất lượng công nhân có tay nghề, giúp nền kinh tế vươn lên mức cao hơn trên bậc thang giá trị gia tăng.
Nhìn xa hơn, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực bằng cách cải tổ để tăng cường phối hợp giữa các bộ chịu trách nhiệm về giáo dục và đào tạo nghề ; giảm bớt kiểm soát các trường đại học và trường dạy nghề ; tăng cường tự chủ của các trường này, nhất là trong việc sửa đổi giáo trình cho phù hợp với đòi hỏi trên thị trường lao động ; tăng cường liên kết nhà trường với doanh nghiệp ; định hướng nhu cầu đào tạo nghề và nhu cầu của doanh nghiệp cũng như có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nhận sinh viên thực tập.
Tóm lại, dịch Covid-19 là một thách thức lớn cho kinh tế Việt Nam nhưng với các biện pháp cách ly xã hội đã và đang dần được tháo gỡ, Việt Nam cần giúp đỡ các người lao động nghèo và tận dụng cơ hội để chuyển hướng sản xuất và nâng cao năng suất cho các ngành nghề có giá trị cao trong nước khi hết nạn dịch.
Mặt khác, Việt Nam cần nhanh chóng tránh tình trạng nước đục thả câu do một số các nước nhân cơ hội này đổ tiền vào mua các công ty nội địa hầu thao túng thị trường sau này, hoặc là để đem các máy móc cũ kỹ qua làm thiệt hại đến môi trường qua nước ta mà chính nước họ không thể dùng được nữa.
Các biện pháp định hướng lại kinh tế cần được giới thiệu, công bố rộng rãi để người lao động, doanh nghiệp và toàn xã hội được biết, nhằm phục hồi niềm tin vào tương lai sau dịch virus corona.
Đinh Trường Hinh
Nguồn : BBC, 02/05/2020
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ kinh tế Đinh Trường Hinh, chủ tịch công ty EGAT tại Virginia, Hoa Kỳ. Ông nguyên là chuyên gia kinh tế chính, Văn phòng Phó chủ tịch và Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (1978-2014). Ông đã đăng tải các tác phẩm Công nghiệp nhẹ Châu Phi (2012), Các câu chuyện kể từ Mặt trận Phát triển Kinh tế (2013), Phát triển cng nghiệp nhẹ tại Việt Nam (2013), và Công việc làm, kỹ nghệ hóa, và toàn cầu hóa (2017).
**********************
(1)
Một số giải pháp cho kinh tế Việt Nam mùa dịch Covid-19
Đinh Trường Hinh, BBC, 11/04/2020
Đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp thế giới, tấn công các nước phát triển cũng như đang phát triển. Đây là lần đầu tiên cả thế giới, không phân biệt giàu hay nghèo, đen hay trắng, lớn hay nhỏ, đều bị một tai họa lớn như vậy, ảnh hưởng đến tất cả mọi tầng lớp, mọi ngành, mọi nơi.
"Việt Nam nên tận dụng cơ hội dịch Covid-19 để chuyển hướng sản xuất và nâng cao năng suất cho các ngành có giá trị cao"
Một số các quốc gia đã và đang đưa ra các biện pháp và chính sách quyết liệt về kinh tế để giảm thiểu tác động của đại dịch này đối với nền kinh tế.
Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức... và gần đây nhất là Liên hiệp châu Âu đã tung ra hàng trăm tỷ USD cứu trợ kinh tế.
Thế nhưng, theo chúng tôi quan sát, dư luận đang tập trung phần lớn mọi sự chú ý cho đến nay vào các nước phát triển hơn là các nước đang phát triển như Việt Nam, nơi mà có lẽ ảnh hưởng kinh tế của nạn dịch sẽ lớn hơn vì tài lực còn nhiều hạn chế.
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam hiện nay là ngăn chặn Covid-19 đừng lây ra. So sánh với sự suy thoái thông thường của một nền kinh tế, ảnh hưởng về kinh tế của Covid-19 mạnh hơn và gây xáo trộn nhiều hơn, nhưng trong một thời gian ngắn hơn.
Do đó, mục tiêu chính của chính sách hiện nay là phải thực hiện các biện pháp y tế, đồng thời làm giảm thiểu các ảnh hưởng xã hội của đại dịch và duy trì năng lực của nền kinh tế hầu có thể phục hồi những hoạt động sản xuất như bình thường trong cơ hội sớm nhất.
Xin nhắc rằng những chính sách này khác với những chính sách truyền thống để kích thích nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái (recession).
Đại dịch virus corona khi nào mới hết ?
Bài viết này chỉ bàn về một khung chính sách để đối phó với Covid-19 trong ngắn hạn và trung hạn.
Trước hết, chúng tôi xin trình bày một số biện pháp hiện đang được thực hiện bởi các nước đang phát triển khác.
Kinh nghiệm các nước đối với coronavirus cho đến nay đã cho thấy cách tốt nhất để ngăn chận dịch là hạn chế sự tiếp xúc của con người, kênh chính mà virus lây lan. Do đó, Việt Nam đang có những biện pháp đúng bằng cách đóng cửa các trường học và cửa hàng, thực hành cách ly xã hội (social distancing), đình chỉ các chuyến bay quốc tế và cách ly những người mới đến bao gồm cả người nước ngoài và cả công dân Việt Nam trở về từ nước ngoài để ngăn chặn virus lây lan.
Các biện pháp này là hợp lý bởi vì hiện tại không có phương pháp điều trị Covid-19 đã được khoa học xác định và cũng không có thuốc chủng ngừa vắc-xin nào đã được phát minh. Mục tiêu của các biện pháp cách ly xã hội là để san phẳng đường cong nhiểm bệnh (flattening the curve) hầu các bệnh viện hay các cơ sở chăm sóc sức khỏe có đủ khà năng đáp ứng, theo thời gian, tất cả các bệnh nhân cần điều trị. Một khi có nhiều xét nghiệm hơn và do đó sự phổ biến của virus được biết đến nhiều hơn, có thể các chính sách cách ly xã hội này có thể phải được tăng cường và cần phải được thực hiện để ngăn chận Covid-19.
Những tác động của Covid-19 đối với nền kinh tế, đặc biệt là về du lịch, thương mại và FDI cũng như về sản xuất vì các chuổi cung ứng, rất là lớn. Ngành du lịch tại Việt Nam dự kiến sẽ giảm 2,7 tỷ đô la cho mỗi tháng của cuộc khủng hoảng.
Do đó, có nguy cơ cao là chi phí kinh tế quá khủng khiếp khi tiếp tục những chính sách sách cách ly xã hội này trong một nước còn nghèo, sẽ dễ làm một quốc gia từ bỏ những nỗ lực ấy.
Tuy nhiên, kết quả này phải được ngăn chặn bằng mọi giá vì sự tồn tại của virus sẽ khiến đại dịch quay trở lại và gây ra thiệt hại lần thứ hai càng tồi tệ hơn. Trường hợp của Singapore phải 'lockdown' chặt hơn lần hai sau khi dịch bùng phát trở lại là một ví dụ.
Y tế đi cùng kinh tế
Covid-19 mang lại các chi phí trực tiếp và nặng nề cho một quốc gia bao gồm tử vong, các căn bệnh nặng hơn và chi phí lớn về phòng ngừa và điều trị trong ngành y tế. Việc thực hiện các biện pháp liên quan đến sức khỏe cần thiết ở trên về cách ly xã hội cũng mang lại một chi phí rất lớn cho nền kinh tế.
Chi phí này liên quan đến việc giảm tốc các hoạt động kinh tế (chứ không phải là tăng tốc như các biện pháp kinh tế thường làm trong thời kỳ suy thoái). Chi phí giảm tốc bao gồm đóng cửa các trường học và doanh nghiệp, ngừng hoạt động đi lại, vận chuyển, dịch vụ của chính phủ và quan trọng là chi phí của những người lao động thất nghiệp.
Các nước lớn như Mỹ và Đức đã để dành các gói chính sách lên tới 10 - 15% GDP để giúp đáp ứng chi phí đại dịch. Các nước đang phát triển không có điều kiện để làm vậy nhưng cũng phải chuẩn bị để đáp ứng chi phí 2-3% GDP. Một con số nhiều người đang dùng là từ 1-2% GDP cho mỗi tháng bị cách ly.
Đối với Việt Nam, con số này tương đương với 2,6 cho tới 5 tỷ đô la. Một phần chi phí này cho nền kinh tế phải được chính phủ gánh vác, dù là nguồn lực có hạn của một nước có thu nhập trung bình mức thấp.
Trong hoàn cảnh bình thường và do tính chất ngoại sinh của đại dịch này, các nước đang phát triển nên kiếm tài trợ từ Ngân hàng Thế giới WB và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Ngân hàng Thế giới hiện đang hoàn thiện một quỹ 160 tỷ đô la để giúp các nước nghèo đối phó với Covid-19. IMF cũng nói tới con số 1.000 tỷ đô la.
Tuy nhiên, do tính chất toàn cầu của đại dịch này và các nguồn tài lực của các cơ quan quốc tế cũng bị hạn chế sau khi các nước phát triển chính họ phải tự lo đối phó với nạn dịch, có khả năng các cơ quan này sẽ không đủ tài lực để giúp tất cả mọi nước so với mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Do đó, các nước đang phát triển nên chuẩn bị dựa thêm vào nỗ lực của chính mình.
Những biện pháp trước mắt
Xin điểm ra các biện pháp nhiều nước đang phát triển vừa đem vào áp dụng hoặc sắp thực hiện mà Việt Nam có thể làm theo, về chính sách tiền tệ và đầu tư :
• Rà soát chương trình đầu tư công để chuyển tiền đầu tư công qua chi tiêu thường xuyên bao gồm cả bảng lương.
• Các nước nhập khẩu năng lượng dùng khoản tiết kiệm từ giá dầu quốc tế đang giảm để hạn chế khủng hoảng.
• Xin vay từ quỹ coronavirus có trị giá 160 tỷ USD từ World Bank hay quỹ mới của IMF
• Phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ của ngân hàng trung ương để tài trợ cho nhu cầu ngân quỹ.
• Chính phủ trung ương có thể yêu cầu hạn mức tín dụng từ ngân hàng trung ương 5% doanh thu thuế năm ngoái.
• Lập quỹ đặc biệt để đối phó với khủng hoảng, với khoản tài trợ trung bình 3-4% GDP (một phần ba từ ngân sách và phần còn lại từ các công ty công và tư nhân)
• Kêu gọi cộng đồng di dân nước ngoài đóng góp vào quỹ đặc biệt, bằng cách phát hành trái phiếu diaspora, với lãi suất tượng trưng.
• Bên trong nước, đẩy nhanh hoàn trả tiền nợ cho các công ty và tạm hoãn thanh toán tiền điện, nước cho doanh nghiệp
Nhìn chung, một khi chính phủ thực hiện các biện pháp này, điều quan trọng là phải đảm bảo chương trình hỗ trợ đặc biệt này dựa trên các tiêu chí minh bạch và khách quan, tuân theo tiêu chuẩn quản trị cao nhất, không phải vì nhu cầu của “lợi ích nhóm”.
Để đạt được điều đó, phải sẽ cần có một cơ quan đặc biệt bao gồm một Kế toán viên tổng hợp đặc biệt để giám sát hoạt động và để đảm bảo không có rò rỉ.
Ngoài ra, cần phải có các báo cáo thường trực để theo dõi tiến bộ của cơ quan này trong suốt thời gian làm việc và sau đó để hỗ trợ kỹ thuật liên tục cho các công ty sản xuất các sản phẩm y tế và các sản phẩm khác.
Nhìn vào tình hình riêng của Việt Nam, chúng tôi nhận thấy với các nguồn tài lực khan hiếm,tương tự như ở các nước đang phát triển khác, câu hỏi đặt ra là làm thế nào có thể tìm được nguồn tài trợ.
Như các ví dụ nêu trên, kinh phí chỉ có thể đến từ hai nguồn: trong nước và bên ngoài.
Về phía trong nước, để tỏ ra nghiêm túc về tinh thần giải quyết khủng hoảng, chính phủ cần rà soát lại chương trình đầu tư công để tìm tiền cho công cuộc chống virus corona và cứu nền kinh tế.
Ví dụ Việt Nam cần ngay lập tức tạm đình hoãn những chi tiêu đầu tư vào những dự án chưa cần thiết như xây cất trụ sở hành chính, các công trình kỷ niệm, tượng đài, các khu giải trí, khu công nghiệp, hải cảng.
Chính phủ cũng nên huy động mọi nguồn lực từ xã hội kể cả các cơ quan từ thiện và tôn giáo và từ cộng đồng hải ngoại vốn có mặt đông đảo ở các nước phát triển cao.
Về phía bên ngoài, hỗ trợ có thể đến từ các nguồn song phương và / hoặc đa phương như Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) hoặc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) như đề cập trên đây.
Việc này phải làm ngay trước khi các quốc gia khác đã nôp đơn xin vay hết số tiền được các cơ quan này trích ra. Tin mới nhất cho hay Việt Nam muốn vay một tỷ USD – khoản tiền hoàn toàn không lớn so với nhu cầu.
Chuẩn bị cho chính sách vĩ mô
Các gói chính sách để đối phó với Covid-19 phải lớn đủ để phù hợp với mức độ nghiêm trọng của vấn đề và để đối phó với hai giai đoạn khác nhau của tác động ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách riêng biệt và tuần tự.
Trong giai đoạn đầu tiên, cần chấp nhận rằng sản lượng trong nước sẽ giảm mạnh do cả nguồn cung và nhu cầu cắt giảm. Từ phía cung, các doanh nghiệp, trường học, văn phòng chính phủ, dịch vụ vận tải sẽ bị đóng cửa vì mọi người đang thực hành cách ly xã hội. Ngay cả trong thời chiến, cú sốc cũng không nghiêm trọng như vậy.
Từ phía cầu, ngoại trừ các nhu cầu cơ bản như thực phẩm, nơi ở...hầu hết nhu cầu trong nước và bên ngoài sẽ bị cắt giảm. Sau khi đại dịch giảm, giai đoạn tiếp theo của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ được đánh dấu bằng cú sốc về cung và cầu tích cực dẫn đến sự phục hồi kinh tế. Sa thải lao động ở mọi tầng lớp và mất sản xuất là kết quả không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của suy thoái kinh tế, nhưng thời gian và quy mô của chúng sẽ xoay quanh phản ứng cứu trợ của chính phủ.
Chính phủ cần xác định những gì họ có thể làm để bảo vệ các công ty sản xuất trong giai đoạn một và đẩy nhanh quá trình phục hồi của họ trong giai đoạn hai của suy thoái kinh tế Covid-19.
Chính sách tài khóa
Không giống như những gì chính phủ thường làm trong thời kỳ suy thoái, đó là kích thích tổng cầu, mục tiêu của chính sách tài khóa trong đại dịch hiện tại là giảm thiểu tác động bất lợi do giảm tốc các hoạt động kinh tế.
Cho đến nay, các cơ quan tài chính ở một số quốc gia đã ban hành các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế của họ, đặc biệt là giúp đỡ các ngành và công nhân bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi vụ dịch. Phản ứng tài chính ở một số quốc gia bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Ý và Singapore, cho đến nay vẫn tập trung vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn này, ví dụ như thay đổi cơ cấu của các khoản vay, cắt giảm thuế hoặc đào tạo công nhân lại.
Riêng gói tài chánh CARES của Mỹ, lớn nhất trong lịch sử nước này (10% of GDP) hổ trợ toàn diện nền kinh tế, gồm cá nhân và các hộ gia đình, tăng trợ cấp thất nghiệp, cho vay các ngành công nghiệp đang gặp khó khăn như các hãng hàng không, và thậm chí các thành phố và tiểu bang, trợ cấp cho bệnh viện, ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp để nhân viên ở nhà, tem thực phẩm và dinh dưỡng trẻ em, nông dân và trường học, v.v.
Việt Nam sẽ không có đủ nguồn lực để trả lương cho công nhân ở nhà trong thời gian cách ly xã hội như các nước phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam có thể mở rộng mạng lưới trợ cấp xã hội hiện có để bao gồm thêm cả những người lao động bị sa thải, ít nhất là ở khu vực thành thị - nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản như thực phẩm và một số nhu yếu phẩm.
Chính sách tiền tệ
Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong giai đoạn này là cung cấp các dòng tín dụng đầy đủ cho các doanh nghiệp và hộ gia đình và đảm bảo chính phủ có đầy đủ các công cụ tài chính để huy động các nguồn tài lực. Đây cũng là lúc chính sách tiền tệ có thể làm dễ dàng. Tất cả các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới hiện đã hạ lãi suất xuống 0 (hoặc thấp hơn) và cả Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Âu Châu đều đẩy mạnh tốc độ mua assets của họ. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã đặc biệt tích cực trong việc sử dụng chính sách tiền tệ để chống lại tác động kinh tế của đại dịch coronavirus. Fed đã hạ lãi suất Federal Fund, công bố một đợt nới lỏng định lượng (QE) mới và khuyến khích sử dụng các cửa sổ chiết khấu nơi các ngân hàng có thể vay tiền từ Fed. Fed cũng tuyên bố sẽ cung cấp cho thị trường commercial paper –thị trường tài trợ chính được các công ty sử dụng để đáp ứng nhu cầu hàng ngày.
Ngoài ra Fed sẽ triển khai một Cơ sở tín dụng quan trọng mới để cho phép các ngân hàng truy cập tài trợ để mua và nắm giữ chứng khoán bao gồm cả trái phiếu doanh nghiệp.
Chính sách tỷ giá hối đoái
Nhiều quốc gia có thu nhập trung bình có thể gặp vấn đề về tỷ giá nếu chế độ tỷ giá hối đoái của họ không mềm dẻo và trong bối cảnh xuất khẩu giảm và đồng đô la tăng. Tất nhiên, áp lực lên cán cân mậu dịch có bớt đi một chút do nhập khẩu bị cắt giảm, bao gồm cả sự sụt giảm trong nhập khẩu xăng dầu do giá dầu giảm gần đây (ngược lại các nhà xuất khẩu dầu sẽ phải đối mặt với vấn đề xuất khẩu nghiêm trọng), vì vậy kết quả cuối cùng sẽ phụ thuộc vào từng quốc gia. Nhưng nhìn chung, phần lớn các quốc gia đều phải chịu áp lực gia tăng trên cán cân mậu dịch của họ.
Chính sách cấu trúc và ngành
Mặc dù đại dịch có bản chất tương đối ngắn hạn, đây là lúc Việt Nam nên cần có các chính sách cấu trúc để tận dụng cuộc khủng hoảng này.
Thứ nhất, nên tận dụng cơ hội này để rò soát lại các khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu của mình hầu tránh quá lệ thuộc vào tay nghề cao hoặc các nguồn đầu vào của các nước khác.
Bộ Công thương và các bộ lo về công nghệ, kỹ thuật và nguồn lao động phải lập ra một chương trình để tay nghề Việt Nam có thể thay thế tay nghề ngoại quốc trong một vài năm và chuyển những khâu có giá trị gia tăng cao hoặc có liên kết ngược-backward linkages- lớn qua cho công nhân Việt Nam làm.
Thứ hai, chính phủ có thể thực hiện một vài can thiệp đơn giản trong thời gian ngắn (3-6 tháng tới) cũng như các biện pháp toàn diện hơn cho trung hạn (6 tháng một năm 2 năm).
Trọng tâm của các chính sách này nên tập trung vào công nhân trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là ở khu vực thành thị.
Các mục tiêu ưu tiên là để: i) cung cấp hỗ trợ tài chính cho các công nhân hiện có trong lĩnh vực sản xuất trong cuộc khủng hoảng, không chỉ vì lý do xã hội, mà còn để đảm bảo sản lượng sản xuất hầu họ có thể quay trở lại mức làm như trước khi có cơ hội sớm nhất ; và ii) xoay các guồng máy sản xuất, lúc đầu là để thay thế nhập khẩu và sau đó là xúc tiến xuất khẩu trong các sản phẩm cụ thể cần thiết cho cuộc khủng hoảng như thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE, như áo choàng và khẩu trang N95), cũng như các sản phẩm mới được sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn theo như điểm thứ nhất đã trình bày ở trên.
Tóm lại, trước khủng hoảng Covid-19 có thể còn kéo dài, tất cả các quốc gia đều đang tung ra các biện pháp y tế, phòng dịch, chữa trị bệnh nhân, và kinh tế - tài chính, cả về ngắn hạn, và dài hạn.
Việt Nam không thể không làm theo những ví dụ nêu trên, tất nhiên có điều chỉnh tùy vào nhu cầu của xã hội và nền kinh tế trong nước nhằm từng bước xây dựng một chiến lược kinh tế mới, hậu dịch virus corona.
Đinh Trường Hinh
Nguồn : BBC, 11/04/2020
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tiến sĩ Đinh Trường Hinh từ Washington D.C., Hoa Kỳ.