Khi niềm tin vào nền tư pháp đang vỡ vụn
Hiền Lương, VNTB, 13/05/2020
Khi niềm tin vào nền tư pháp đang dần đổ sụp theo một hiệu ứng của những quân cờ domino, thì trách nhiệm lớn nhất ở đây của đảng cầm quyền, không ai khác ngoài người đang ngồi ghế Trưởng ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương.
Khi niềm tin vào nền tư pháp đang vỡ vụn - Ảnh minh họa
Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là cơ quan tham mưu, giúp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác cải cách Tư pháp và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Ban Chỉ đạo được thành lập theo Quyết định số 39-QĐ/TW do Bộ Chính trị ban hành ngày 19 tháng 9 năm 2011. Chủ tịch nước giữ chức vụ Trưởng ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương. Và theo quy định này, trọng trách khôi phục lại niềm tin vào nền tư pháp của cái gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa, chính là ông Nguyễn Phú Trọng – người đang đồng thời đứng đầu đảng cộng sản.
Trong bài báo có tựa "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp" đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 13/12/2019, tác giả Nguyễn Hòa Bình viết với tư cách đương nhiệm Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (*), có các tiểu đoạn rút tít phụ về ba cơ chế : "Một là, Đảng hoạch định và lãnh đạo thực hiện chiến lược, đường lối cải cách tư pháp. Hai là, Đảng bố trí cán bộ của Đảng làm nòng cốt trong các cơ quan tư pháp và lãnh đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Ba là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp".
Bài viết khá dài với viện dẫn lý thuyết quen thuộc văn phong tuyên huấn của Tạp chí Cộng sản.
Nội dung bài báo cho thấy nếu đúng như những gì tác giả đã viết, thì ở bản án giám đốc thẩm tử tù Hồ Duy Hải với sự đồng thuận của 17 vị thẩm phán trong Hội đồng xét xử, cho thấy đây không phải chuyện đòi hỏi chuyên sâu vấn đề nghiệp vụ, mà là tuân thủ đúng quan điểm chỉ đạo.
Vì một khi đã khẳng định ba cơ chế như nói ở trên, thì không thể có oan sai xảy ra được ở phiên giám đốc thẩm, khi ngồi ghế Chủ tọa là đương nhiệm Bí thư Trung ương Đảng – tức cũng đồng thời là thành viên cốt cán của Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Hiền Lương
Nguồn : VNTB, 13/05/2020
Chú thích :
(*)http://www.tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/815637/view_content
******************
Công lý bất toàn
Nguyễn Anh Tuấn, RFA, 12/05/2020
Mong muốn nắm bắt bản chất hay sự thật khách quan của một vụ án để phân xử đúng người, đúng tội quả thật là đẹp.
Nền tư pháp hoang dại ở Việt Nam còn tồn tại đến bao giờ ?
Vừa không bỏ lọt tội phạm, vừa không hàm oan người vô tội, có gì hoàn mỹ hơn thế ?
Tuy nhiên, đẹp là một chuyện, khả thi hay không lại là chuyện khác.
Vì lẽ biết một sự việc hoàn toàn đúng như nó xảy ra có lẽ là đặc quyền của duy nhất Đấng Toàn Năng, nên công lý toàn hảo như trên chỉ có thể đến từ quyền năng của Ngài.
Rất tiếc con người không nhờ cậy được Đấng Toàn Năng, mà phải tự mình kiến tạo công lý, thông qua thiết chế nhân tạo là Nhà nước, với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Do không có quyền năng nắm giữ sự thật khách quan, con người chỉ xoay sở để tái hiện những gì thực sự đã xảy ra trong một vụ án.
Cũng khiếm khuyết như chính con người, quá trình tái hiện này tiềm ẩn vô số những thiếu sót có thể khiến kết quả lạc mất sự thật và gây ra oan sai.
Ý thức được khoảng cách giữa một sự-thật-được-tái-hiện và chính bản thân sự thật cùng những hậu quả nếu cố chấp đồng nhất chúng, con người, trên đà văn minh, tìm cách rút ngắn khoảng cách này.
Họ phân chia quyền lực điều tra, truy tố, xét xử cho các cơ quan nhà nước khác nhau để kiểm chứng lẫn nhau.
Họ ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ hàng loạt quyền của bị cáo để cân bằng trước quyền lực ưu trội của nhà nước.
Quan trọng nhất, họ áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nguyên tắc này đòi hỏi rằng chỉ khi không còn bất kỳ nghi ngờ hợp lý (reasonable doubt) nào tồn tại, bị cáo mới bị coi là có tội.
Đây chính là lời nhắc nhớ con người về cái khoảng cách có thể được rút ngắn nhưng luôn luôn tồn tại giữa sự-thật-được-tái-hiện và chính bản thân sự thật.
Cũng là lời nhắc nhở rằng con người không phải Đấng Toàn Năng nên luôn phải khiêm cung và tuyệt đối thận trọng trước mọi phán quyết liên quan đến người khác.
Bằng không, rất có thể tội ác vừa không bị trừng phạt mà còn nhân đôi, và công lý chẳng những không tựu thành mà còn bị sỉ nhục đến hai lần.
Nếu hàm oan người vô tội.
Lẽ dĩ nhiên, làm như vậy sẽ không thể tránh khỏi có những lúc chẳng tìm được ai để ràng buộc cho một tội ác. Khi mà mọi phiên bản sự thật đưa ra đều không thể vượt qua những nghi ngờ hợp lý. Khi mà con người, dù cố gắng đến đâu, cũng chỉ đang tái hiện sự thật chứ không phải nắm trong tay sự thật.
Công lý trở nên bất toàn.
Nhưng chính thứ công lý bất toàn này lại đang là thứ công lý tốt nhất mà con người từng có, chừng nào con người vẫn là con người.
Ít nhất, vẫn tốt hơn nhiều lần thứ công lý toàn hảo giả hiệu của những kẻ phán xử luôn dương dương tự đắc rằng mình nắm giữ sự thật, bất chấp mọi nghi ngờ hợp lý, mà điển hình là 17 thẩm phán phiên xử vụ Hồ Duy Hải vừa rồi.
Thứ công lý vốn không để lại gì khác sau lưng nó ngoài hàng hàng lớp lớp những mộ địa oan khiên.
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn : RFA, 12/05/2020 (nguyenanhtuan's blog)
**********************
Cơ hội sống sót…
Viết từ Sài Gòn, RFA, 11/05/2020
Tưởng đây là câu hỏi thuộc về người rành rõi điều tra và hơn hết, đây phải là một câu hỏi dành cho chuyên gia thẩm vấn, điều tra án. Nhưng, nghiệt nỗi, tại Việt Nam, câu hỏi này không dành cho các chuyên gia đó. Hơn nữa, may lắm thì hiện tại mới có được số lượng tương đối ít ỏi các chuyên gia điều tra và những người có nghiệp vụ trong lực lượng công an đã phân bổ đều khắp các tỉnh thành. Nó khác với lực lượng trước đó, rặt những kẻ rúc rừng và có thành tích chiến đấu, một kiểu chuyên gia cầm dao mổ heo đi làm án. Nói một cách không ngoa là vậy ! Và nếu như vụ Hồ Duy Hải diễn ra chậm chừng mười năm thôi, Hải sẽ không dính án oan. Còn ở thời điểm của Hải, chuyện thoát án tử là gần như không có, vì sao ?
Vì ít nhất là từ mười lăm năm trở lại đây, các trường nghiệp vụ an ninh tại Việt Nam đã có những chuyên gia đứng lớp, và các môn đồ của họ sẽ không rơi vào tình trạng làm việc bắt quờ như các đồng nghiệp của họ ở các cơ quan công an, tòa án và viện kiểm sát. Cách đây hơn hai mươi năm, cả 64 tỉnh thành, có không quá 50 chuyên gia an ninh có nghiệp vụ điều tra, phá án và thẩm vấn, nếu nói không ngoa. Trước đó nữa, năm 1987 đến 1990, có đến hơn 300 suất cán bộ tòa án, an ninh và viện kiểm sát cấp tỉnh được đưa sang Liên Xô để đào tạo nghiệp vụ. Hầu hết trong số họ là không biết tiếng Nga và cũng không có trình độ phổ thông, họ là những cán bộ miền Bắc, học hết i tờ, chuyển sang chuyên tu, tại chức. Nên việc sang Liên Xô để học chuyên môn trong sáu tháng có vẻ như là để đi chơi, để ăn uống theo tiêu chuẩn cao hơn và khi trở về, ai cũng mập ú, trắng trẻo, nhưng nghiệp vụ cũng không có gì mới.
Sau khóa này, có nhiều khóa đưa sang Cu Ba, nhưng hầu hết trở về Việt Nam đổi nghề, chuyển sang buôn bán, kinh doanh hoặc làm thơ, như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam là một ví dụ. Thiều vào nghề công an, được đưa sang Cu Ba đào tạo nghiệp vụ nâng cao, ông sang đó nghiên cứu về thơ ca và khi trở về thành một thi sĩ, làm quan chức hội nhà văn. Nhưng dù sao, trong khóa sau này, tức là khóa của lớp Nguyễn Quang Thiều, thành phần được cử đi có trình độ đại học, có chuyên môn hơn so với lớp trước.
Và đồng thời với các khóa được đưa đi nước ngoài (thành phần xuất sắc), ở trong nước, các huyện cử cán bộ vào Đà Lạt để đào tạo nâng cao, sau này về đảm nhận chức chánh án ở các tòa án huyện mới tách. Thành phần này có thể nói là dốt một cách đáng sợ bởi không có trình độ, không có chuyên môn, nguy cơ rớt khỏi ngành công an, tòa án là thấy trước mắt nhưng lại khéo luồn lách để được học và giữ ghế, nâng ghế.
Đương nhiên là chuyên môn của lớp này cũng được đào tạo bởi các khóa bên ngoài, riêng các khóa về thẩm vấn và điều tra án theo lối truyền thống từ thời lực lượng công an hình thành tại Việt Nam là không có gì đáng bàn. Nên nhớ, theo lối truyền thống thì công an Việt Nam chỉ giỏi sở trường bu bám đối tượng, điểm mặt từng đối tượng và có thể biết được nhiều thông tin xã hội nhờ lực lượng vệ tinh dày đặc của họ.
Xin mở rộng về chuyện vệ tinh, nói tới lực lượng vệ tinh thì công an Việt Nam tinh khôn ngoài mức tưởng tượng, chính lực lượng cảnh sát giao thông là cái lò đào tạo lực lượng vệ tinh chứ không phải lực lượng nào. Lực lượng cảnh sát giao thông được bật đèn xanh để nhũng nhiễu, làm khó với bất kì người đi đường nào và quyền hô biến thành mọi thứ lỗi cho người đi đường, họ thành hung thần, hắc thần của bất kì lực lượng lao động vận tải, vận chuyển nào. Chính vì thứ uy lực này, họ có cái quyền ưu tiên cho lực lượng xe thồ, xe ôm có thể phạm lỗi mà được tha, họ nuôi lực lượng xe ôm, xe thồ bằng cách không bắt bớ, mở cho sinh đạo để chở ba hoặc vi phạm nhẹ… Thậm chí, thi thoảng còn cho các xe thồ, xe ôm vài ký gạo, vài chục ngàn đồng… Và bù vào đó, khi cần, chính các cảnh sát giao thông sẽ đến gọi các xe ôm, xe thồ cầm dùi cui, cầm gậy gộc đi trấn áp, đi đập phá, gọi là giải tỏa đền bù… Và những ngày trấn áp, đập phá này, các xe ôm, xe thồ (gồm cả cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa) được trả lương hậu hĩ. Ngoài ra, lực lượng này còn được đưa vào bán chính qui và có khen thưởng.
Và chính lực lượng cảnh sát giao thông cũng mở cửa, ưu tiên cho giới giang hồ, đầu gấu được đi lại một cách thoải mái (đừng nghĩ họ sợ), không đội nón bảo hiểm, nẹt pô, chạy ngược chiều… để thị uy với đám đàn em tép riu. Mà nhờ thị uy được như vậy nên đám đầu gấu dễ thâu nạp đàn em và mở rộng địa bàn. Còn cấp cao hơn của chúng thì làm việc với lực lượng hình sự, lực lượng chống tội phạm. Đương nhiên là đôi bên có ăn chia và chẳng bao giờ là liên kết bền vững, có thể hôm nay khoác tay nhau vào quán, ngày mai hốt nhau, bắn nhau là chuyện bình thường.
Trở lại chuyện các lớp đào tạo, nếu như các lớp trước 1990 học tập và làm việc chỉ hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, khả năng phá án của họ chỉ dựa vào thông tin từ các vệ tinh và dựa vào sở trường đeo bám đối tượng của lực lượng trinh sát dày đặc… Thì các lớp sau, việc đào tạo bài bản hơn, họ không dựa hoàn toàn vào khả năng truyền thống như lớp trước mà dựa vào tư duy phán đoán, phân tích, dựa vào các kĩ năng học được từ các nền tư pháp tiến bộ để phá án. Có lẽ nhờ vậy mà khoảng một thập niên trở lại, án oan ít hơn so với trước. Nhưng bù vào đó, vấn đề toa rập và bắt tay làm ăn với xã hội đen của các lớp sau lại tinh vi và đáng sợ hơn. Nhưng đây là một khía cạnh khác.
Trở lại vụ án Hồ Duy Hải hay Nguyễn Thanh Chấn và những người chịu án oan trước đó, họ không may mắn bởi lực lượng thẩm vấn là những đồ tể, những kẻ không có nghiệp vụ điều tra thẩm vấn nhưng lại có thừa hung bạo và tàn ác, chỉ cần nốc vài cốc rượu vào là mọi thứ án đều được giải quyết nhanh chóng. Nghĩa là gặp họ, nếu không khai thì họ đánh cho khai, đánh bằng mọi kiểu, tra tấn bằng mọi kiểu, từ việc treo lên đổ nuớc xà phòng, treo lơ lửng trên rừng dao nhọn, thả một trái dưa hấu chẻ đôi để hù dọa chết khiếp, trói gô, mở từng bàn tay ra để lăn đũa, bắt đứng sám hối trước cây nến bao giờ quị ngã thì tạc nước cho tỉnh mà đứng, nếu không đứng thì đánh thừa sống thiếu chết… Với tất cả những kiểu tra tấn như vậy cùng với lời dọa "mày đã vào đây thì chỉ có chết, không có đường ra !" thì "phạm nhân" trong cơn đau đớn sẽ nghĩ đến chuyện đằng nào cũng chết, thôi thì gật đầu nhận đại cái tội cho được cái án tử, hoàn tất thủ tục hồ sơ cho cán bộ để họ xếp án lại, cho vào biệt giam, đợi ngày ra pháp trường. Dù sao chết như vậy cũng đỡ đau đớn thể xác và khỏi bị lôi tới lôi lui đánh lên đánh xuống mà đằng nào cũng không thoát chết…
Chính cái kiểu điều tra án đầy tính chất man rợ trung cổ của một lớp cán bộ vốn không có kĩ năng điều tra án, không có nghiệp vụ thẩm vấn nhưng lại có thừa máu hung tợn để đánh đập, để đạt mục đích là hoàn tất hồ sơ vụ án. Nói cho cùng thì nhóm cán bộ điều tra, hay nhóm cán bộ tòa án của giai đoạn này đều là thành phần bất hảo ngay trong hệ thống nhà nước, nghĩa là họ không có trình độ nhưng khéo lạng lách để học chuyên tu, tại chức, chạy chọt cho có bằng cấp để ngồi lại ghế, mà ghế cao hơn, từ chánh án cho đến viện trưởng, viện phó viện kiểm sát đều là các thành phần rúc rừng, từng có thành tích giết người, ám sát trong chiến tranh… Ngay cả Chánh án tòa án tối cao Nguyễn Hòa Bình cũng vậy, ông này, nếu xét về thành tích học tập hay thành tích xuất sắc của tư duy trong quá trình công tác thì có thể nói là không có gì. Ngay cả thời ông còn làm quan chức cấp cao ở Quảng Ngãi, lúc đó, Quảng Ngãi và Bình Định gộp chung là tỉnh Nghĩa Bình, khi tách tỉnh, một cái bàn dài được cắt làm đôi, Bình Định chở nửa cái bàn về làm củi, Quảng Ngãi giữ nửa cái bàn để nướng bánh, nói như vậy để thấy cái thời mông muội, tư duy đầy lông lá của một lớp cán bộ.
Rồi sau đó, lạn lách, chạy chọt, Hòa Bình cũng lên được chức cao, và ngồi ghế Chánh án tối cao như hiện tại (nhưng để rồi xem ông này còn lạng lách được bao lâu nữa khi mà cái dù của ông ta gãy cách đây vài năm, ông lại làm con phò dưới trướng của người khác nhưng người này xem ông là một kiểu Phạm Văn Dồng mờ nhạt, giỏi dùng vũ lực, tàn bạo nhưng bất tài…). Và Nguyễn Hòa Bình là người liên quan xuyên suốt vụ án Hồ Duy Hải, hệ thống dưới trướng của ông ta, có thể nói nhanh một tiếng là rất dốt nghiệp vụ điều tra, phá án và rất giỏi toa rập, bè phái. Trong hệ thống tay chân bộ hạ của Nguyễn Hòa Bình, nếu tìm ra một người giỏi luật thật sự và một nhân tài phá án, có lẽ là thắp đuốc giữa ban ngày cũng không gặp. Nghiệt nỗi, cơ cấu của đảng và bề dày phục vụ đảng đã giúp cho nhóm này tồn tại. Bởi bây giờ nhân tài không thiếu nhưng lại không có tuổi đảng hoặc chống đảng, nên cuối cùng, hệ thống tòa án Việt Nam hiện nay rơi vào tình trạng "không có chó bắt mèo ăn cứt". Và không có gì đáng sợ cho dân tộc, nhân dân bằng việc đưa một đám dốt nát, tham lam, léo hánh lên nắm cán cân công lý !
Chính vì vậy mà cơ hội sống sót của Hồ Duy Hải hoặc cơ hội có một phiên tòa theo đúng trình tự tố tụng, đúng khoa học pháp lý (và giả sử Hồ Duy Hải có thực tội) để người dân tâm phục khẩu phục là chuyện không thể có ngay lúc này, bởi đội ngũ có chuyên môn thực sự vẫn còn ở thớt dưới, vẫn không có cơ hội mở miệng. Và chắn chắn là họ bị đè nén lâu như vậy, không chừng tới khi ngồi ghế cao thì mất hết khả năng mở miệng cho công lý, rồi đâu cũng lại vào đó ! Bi kịch của các oan sai tại Việt Nam lại nằm ở chỗ này. Thật là cay đắng !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 11/05/2020 (VietTuSaiGon's blog)
*****************
Còn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đừng mơ công lý
Trân Văn, VOA, 11/05/2020
Phán quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao sau khi giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải "giết người" và "cướp tài sản" đã cũng như đang làm nhiều triệu người căm phẫn. Rất nhiều người hoặc lên tiếng đòi công lý cho Hồ Duy Hải hoặc bày tỏ sự nghi ngờ về cái gọi là "công lý" ở Việt Nam.
Chánh án Nguyễn Hòa Bình trong phiên giám đốc thẩm Hồ Duy Hải, ngày 5/5/2020. Photo PLO
Có một điểm đáng lưu ý nhưng chưa được chú ý đúng mức là tại những quốc gia theo thể chế xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, việc duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của các đảng cộng sản để dẫn dắt toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội đã loại bỏ công lý. Nói cách khác, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đừng mơ công lý…
***
Nhiều triệu người chưng hửng, bất bình khi 17 thẩm phán của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao đồng thanh thừa nhận, tiến trình điều tra – truy tố - xét xử Hồ Duy Hải có "thiếu sót" và "sai sót" nhưng "không làm thay đổi bản chất vụ án" thành ra giữ nguyên quyết định "tử hình" mà tòa cấp sơ thẩm và tòa cấp phúc thẩm từng tuyên (1).
Phán quyết vừa kể bị nhiều triệu người lên án là man rợ vì tiếp tục cho phép tước bỏ sinh mạng của Hồ Duy Hải, bất kể tiến trình điều tra – truy tố - xét xử không những phơi bày vô số yếu tố phi lý mà còn vi phạm nghiêm trọng nhiều quy định trong Luật Tố tụng hình sự, bộ luật đặt định các thủ tục, biện pháp nhằm ngăn ngừa oan sai.
Tên tuổi, diện mạo của 17 thẩm phán Tòa án Tối cao tham gia giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải "giết người" và "cướp tài sản" đang được lưu chuyển trên mạng xã hội Việt ngữ như những hung thủ đã thủ tiêu công lý và làm nhiều triệu người băn khoăn về "tư pháp xã hội chủ nghĩa" và công lý.
***
Qua phán quyết về vụ án Hồ Duy Hải, Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Tối cao đã trở thành mối bận tâm chung của công chúng về "tư pháp xã hội chủ nghĩa", thành ra cần nhìn qua đặc điểm của bộ máy xét xử - hệ thống tòa án các cấp - tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cách nay khoảng chín năm, vào ngày 10/3/2011, khi điều trần trước Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Việt Nam vềcông tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp, Bộ trưởng Tư pháp lúc đó là ông Hà Hùng Cường khẳng định : Chất lượng đào tạo thẩm phán, thư ký tòa án, kiểm sát viên, chấp hành viên chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu cơ quan sử dụng đề ra. Phần lớn là các cán bộ được cử đi học chứ chưa thực hiện được việc tuyển sinh rộng rãi để chọn được người thật sự có năng lực...
Chánh án Tòa án Tối cao lúc đó là ông Trương Hòa Bình thừa nhận : Sự yếu kém của đội ngũ thẩm phán đang là vấn đề khiến dư luận xã hội bức xúc. Một trong những nguyên nhân là việc đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng xét xử chưa đạt yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Cả Chánh án Tòa án Tối cao lẫn Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao lúc đó là ông Trần Quốc Vượng cùng đòi phải để Tòa án và Viện Kiểm sát tổ chức đào tạo riêng chứ không để Bộ Tư pháp đảm nhận (2).
Sáu năm sau, vào ngày 14/1/2017, tại Hội nghị Triển khai công tác tòa án năm 2017, ông Nguyễn Hòa Bình, Chánh án mới của Tòa án Tối cao, thừa nhận, một trong những bất cập của bộ máy xét xử - nhân danh Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đưa ra các phán quyết – là các bản án có quá nhiều sai sót, từ "viết một đằng, tuyên một nẻo" cho tới… sai chính tả ! Do vậy, ngành tòa án hứa sẽ tổ chức tập huấn viết bản án theo mẫu và mời giáo viên đến dạy về chính tả, ngữ pháp, đặt dấu chấm, dấu phẩy (3) !..
Đội ngũ thẩm phán và nhân viên hệ thống tòa án các cấp không chỉ cần được bồi dưỡng thêm về những yếu tố liên quan đến học vấn ở mức… căn bản nhưchính tả, ngữ pháp, đặt dấu chấm, dấu phẩy để các bản án – những phán quyết nhân danh Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phân xử đủ loại tranh chấp từ hành chính, kinh tế, dân sự đến thực thi pháp luật hình sự - không làm thiên hạ mắc… cười, đội ngũ này còn gây nghi ngại về tư cách.
Tháng 8 năm ngoái, tại một cuộc tọa đàm về phòng – chống tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp, ông Trần Văn Độ, cựu Phó Chánh án Toà án Tối cao, đồng thời là người đứng đầu Nhóm nghiên cứu về hoàn thiện thể chế pháp luật, phòng - chống tham nhũng trong hệ thống toà án, cho biết : Mỗi năm có khoảng mười cán bộ toà án các cấp bị xử lý kỷ luật vì có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực nhưng số liệu đó chưa phản ánh đúng thực chất về tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động của hệ thống toà án.
Ông Độ giải thích : Chuỗi các hoạt động của toà án, từ tiếp nhận đơn khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Xem xét, phân công thẩm phán phụ trách xét xử, giải quyết vụ việc dân sự, giải quyết vụ án quá hạn luật định. Lập hồ sơ, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời… đều có nguy cơ cao xảy ra tham nhũng. Tham nhũng vặt, nhận tiền vặt của đương sự thì không thiếu, dù là vặt nhưng đều ảnh hưởng đến tính khách quan của quá trình xử lý, giải quyết vụ việc (4)...
Đến tháng 9 năm ngoái, khi thay mặt Chánh án Tòa án Tối cao giải trình với Ủy ban Thường vụ của Quốc hội Việt nam về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của ngành tòa án năm 2019, ông Lê Hồng Quang, Phó Chánh án Tòa án Tối cao, thú nhận : Tình hình khiếu nại về tư pháp vẫn diễn biến phức tạp, vẫn còn một số vụ khiếu nại gay gắt, kéo dài, đã qua nhiều cấp giải quyết nhưng đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gây áp lực rất lớn cho các cơ quan nhà nước nói chung và ngành tòa án nói riêng.
Theo giải trình vừa đề cập, chỉ trong mười tháng đầu năm 2019, có tới 20.888 đơn, thư tố cáo, khiếu nại về hoạt động của tòa án các loại. Trong số này, có 6.668 đơn, thư đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm (đề nghị xem xét lại những bản án có giá trị chung thẩm, về nguyên tắc chỉ còn thi hành không xem xét nữa). 4.193 đơn, thư khiếu nại các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của các Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán. 48 đơn, thư tố cáo tiêu cực, tham nhũng (5)...
***
Vì sao từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đã nhận ra hệ thống tòa án các cấp tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam yếu kém về năng lực mà vẫn không thể chọn được người thật sự có năng lực ? Vì sao tham nhũng vặt, nhận tiền vặt của đương sự không thiếu dù ảnh hưởng đến tính khách quan của quá trình xử lý, giải quyết vụ việc nhưng không thể ngăn chặn hữu hiệu, thành ra vài năm gần đây, tham nhũng trong lĩnh vực tòa án đột nhiên lớn mạnh, càng ngày càng nhiều thẩm phán, viên chức tòa án bị xử lý hình sự ?
Những câu hỏi này đã được nhiều cá nhân có liên quan đến hoạt động tòa án trả lời từ lâu : Hệ thống xét xử ở Việt Nam chưa độc lập ! Đầu thập niên 2010, hệ thống chính trị Việt Nam tuyên bố sẽ "cải cách tư pháp" để ngành tòa án nói riêng và các ngành khác trong hệ thống "tư pháp xã hội chủ nghĩa" nói chung, có thể độc lập, không lệ thuộc vào đơn vị hành chính. Tuy nhiên làm sao có thể… độc lập khi lựa chọn, bổ nhiệm, xử lý thẩm phán và các viên chức tòa án vẫn do đảng quyết định ?
Đảng chọn ông Nguyễn Hòa Bình, Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao – cơ quan từng bác đề nghị kháng nghị vụ án Hồ Duy Hải theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau đó, đảng chọn ông Bình làm thành viên Ban Bí thư của Ban chấp hành TƯ, điều chuyển ông Bình làm Chánh án Tòa án Tối cao và ở vị trí này, chính ông là chủ tọa phiên giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải.
Tại sao 16/17 thẩm phán còn lại là thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao tham gia giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải phải nhìn vào tương quan giữa hồ sơ vụ án và các qui định pháp luật hiện hành (?), phải ngẫm nghĩ về công lý (?) khi cả sự an toàn lẫn cơ hội thăng tiến về mặt nghề nghiệp của chính họ phụ thuộc hoàn toàn vào đồng chí Nguyễn Hòa Bình – người đại diện đảng chỉ huy toàn bộ bộ máy xét xử tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?
Khi "tư pháp xã hội chủ nghĩa" vẫn được đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng để bảo đảm yêu cầu "xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội", khi đảng vẫn xác định, hệ thống "tư pháp xã hội chủ nghĩa" nói chung, bộ máy xét xử các cấp nói riêng vận hành theo ý chí của đảng là ưu tiên hàng đầu, cho nên vẫn chỉ lựa chọn, bổ nhiệm đảng viên làm thẩm phán, kể cả khi các đảng viên ấy cần được bồi dưỡng về chính tả lẫn ngữ pháp, bày tỏ khát vọng về công lý có khác gì mơ bình minh sẽ đến từ hướng… Tây !
Trân Văn
Nguồn : VOA, 11/05/2020
Chú thích
(1) https://tuoitre.vn/hoi-dong-tham-phan-bac-khang-nghi-vu-an-ho-duy-hai-20200508144802024.htm
(2) https://tuoitre.vn/xa-hoi-buc-xuc-vi-tham-phan-yeu-kem-428375.htm
(3) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/nganh-toa-an-se-moi-giao-vien-den-day-cau-chu-chinh-ta-1112444.tpo
(4) https://vov.vn/chinh-tri/co-the-chan-tham-nhung-trong-hoat-dong-tu-phap-943847.vov