Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

23/07/2020

Dầu và khí đốt gây thêm căng thẳng Biển Đông

Helen Clark

Hoa Kỳ tuyên bố rằng các yêu sách hàng hải của Trung Quốc là 'bất hợp pháp' có thể đến đối đầu khi Bắc Kinh ép Việt Nam ngừng thăm dò dầu khí ngoài khơi


Một công nhân Rosneft Việt Nam trên một giàn khoan ngoài khơi ở Biển Đông. Hình: Facebook

Bỏ đi vì sức ép của Trung Quốc

Ngành khai dầu khí của Việt Nam đang bị siết chặt khi căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng ở Biển Đông.

Theo báo cáo, Trung Quốc đang ép Việt Nam chấm dứt hoạt động khai thác ngoài khỏi của Rosneft Vietnam, liên doanh Nga-Việt gần đây đã hủy hợp đồng với Noble Corp, công ty có trụ sở tại London.

Noble tuyên bố hủy bỏ khai thác trong một thông báo mà không nêu rõ tên công ty, trong khi nói rằng họ vẫn sẽ được trả cho hợp đồng. Thông báo được đưa ra chỉ vài ngày trước khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo tuyên bố các yêu sách của Trung Quốc tại khu vực hàng hải đang tranh chấp là "bất hợp pháp".

Hà Nội thông báo rằng công ty dầu khí nhà nước Dầu khí Việt Nam hủy hợp đồng giàn khoan do áp lực của Trung Quốc, theo BBC tiếng Việt. Rosneft Việt Nam đã được báo cáo lo ngại kể từ năm 2018 rằng dự án Lan Đỏ ở lô 06.1 nằm trong đường chín đoạn và việc khoan ở đó có thể làm Bắc Kinh phật lòng.

"Trước khi xâm lược trực tiếp ra nước ngoài bằng chính sách ngoại giao, Trung Quốc đã gửi thư cho công ty mẹ Rosneft Vietnam, Tập đoàn Rosneft", theo BBC tiếng Việt tuần trước.

Áp lực của Trung Quốc đối với dự án đã dâng cao từ lâu. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã yêu cầu người đồng cấp Nga Sergei Lavrov bên lề cuộc họp cấp bộ trưởng ASEAN vào tháng 8 năm 2019 về việc công ty Rosneft của Moscow bỏ thăm dò dầu khí ngoài khơi Việt Nam. Được biết ông Lavrov đã từ chối.

Áp lực là động thái mới nhất của Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự phát triển tài nguyên hơn nữa ở Việt Nam quốc gia hiện đang đói năng lượng, Bắc Kinh buộc tất cả các công ty dầu khí nước ngoài rút ra khỏi Biển Đông, để tự trở thành đối tác phát triển chung tiềm năng duy nhất cho các bên tranh chấp biển.

Năm ngoái, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính Trung Quốc đang ngăn chặn được các dự án khai thác dầu khí trị giá 2,5 nghìn tỷ đô la ở Biển Đông. Các nhà phân tích khác cho rằng con số đó thậm chí còn cao hơn.

Áp lực đã tác động đến sản xuất khí đốt, sản xuất điện, doanh thu của Việt Nam và rủi ro chủ quyền tiềm ẩn, đồng thời gây ra sự bất ổn do sự gây hấn của Trung Quốc thường gặp phải trong các cuộc biểu tình yêu nước công khai mà Hà Nội buộc phải đàn áp hoặc phải cho phép.

Khi Trung Quốc đưa một giàn thăm dò khổng lồ vào vùng biển Việt Nam vào tháng 5 năm 2014, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc dữ dội đã nổ ra và buộc Bắc Kinh phải rút đi. Những người bất đồng chính kiến ​​Việt Nam thường cáo buộc chính quyền Đảng Cộng sản quá mềm mỏng đối với Bắc Kinh trong các tranh chấp trên biển.

Đồng thời, trữ lượng dầu và khí đốt của Việt Nam đang giảm, các dự án khai thác mới gặp khó khăn trong khi nhu cầu năng lượng để phát triển kinh tế gia tăng.

Nhưng áp lực liên tục của Trung Quốc cũng có nghĩa là không mấy quốc gia hoặc các công ty năng lượng khác của họ có khả năng thăm dò các khối mới hoặc đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng mặc dù năm 2020, giá dầu giảm và nhu cầu chậm lại, cho thấy lệnh trừng phạt là điều hiếm hoi trong năm nay.

Trung Quốc cũng đã quấy rối các công ty thăm dò dầu khí ở vùng biển Malaysia trong khi đầu năm nay, Trung Quốc cũng đã đánh chìm các tàu đánh cá của Philippines và Việt Nam tại các vùng biển tranh chấp. Năm 2017, Trung Quốc đã buộc Repsol của Tây Ban Nha từ bỏ dự án Cá Rồng đỏ bằng cách đe dọa và gây áp lực cho Hà Nội.

Quan điểm của Mỹ về Biển Đông 

Tuy nhiên, phát ngôn của Ngoại trưởng Mỹ Pompeo có thể có khoặc không có tác động gì cho tính toán khai thác năng lượng trên biển. Lập luận dựa trên luật pháp quốc tế đã chẳng có trọng lượng gì cho đến nay.

Khi Philippines thắng kiện tại Tòa án Trọng tài Thường trực trong vụ kiện ở The Hague năm 2016 phản đối đường chín đoạn của Trung Quốc xâm lấn sâu vào vùng duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế, bao gồm các khu vực giàu nhiên liệu hóa thạch của nhiều quốc gia, Mỹ đã giữ im lặng.

Vào thời điểm đó, Washington hy vọng các giải pháp hòa bình và khẳng định tự do hàng hải sẽ không bị ảnh hưởng do các tranh chấp lãnh thổ ở các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Brunei, Đài Loan và Malaysia đang tranh chấp.

Thái độ của Hoa Kỳ, kể cả về quyền ở các nguồn năng lượng trên biển đã kết thúc với thông báo của ông Pompeo vào tuần trước. "Bất kỳ hành động quấy rối nào của Trung Quốc đối với việc đánh bắt cá hoặc khai thác dầu khí trong các vùng biển này, của các quốc gia khác, hoặc thực hiện các hoạt động đó một cách đơn phương, là bất hợp pháp", ông ông Pompeo nói.

Đặc phái viên Hoa Kỳ đã thêm Washington "sát cánh với các đồng minh và đối tác Đông Nam Á của chúng tôi trong việc bảo vệ quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi".

Trong những năm 2000 và đầu những năm 2010, các cuộc đấu tranh mới ra đời đối với khu vực hàng hải hầu hết được xem là sự phung phí tài nguyên của các nền kinh tế cạnh tranh nhập khẩu năng lượng, phát triển nhanh.

Đồng thời, Trung Quốc đã phát triển nguồn tài nguyên trên bờ, ngay cả khi nước này nhập khẩu lượng dầu thô kỷ lục từ Mỹ và các nước khác, và có kế hoạch tăng nhập khẩu mạnh.

Trung Quốc cũng đang nhập khẩu lượng khí đốt đang gia tăng từ Turkmenistan cũng như từ công ty Gazprom của Nga.

Do đó, Trung Quốc không cần ngay lập tức các nguồn tài nguyên phụ từ Biển Đông, mặc dù việc kiểm soát các giếng dầu dồi dào là một chiến lược dài hạn hữu ích và có thể rất quan trọng nếu có bất kỳ cuộc xung đột nào với Mỹ đe dọa các chuyến hàng từ Trung Đông.

Trung Quốc cũng đệ trình một dự thảo về Bộ quy tắc ứng xử của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Biển Đông gần đây đã khẳng định rằng tất cả các hoạt động phát triển tài nguyên trong khu vực hàng hải này phải được thực hiện thông qua hợp tác trong khu vực chứ không phải với các công ty bên ngoài.

Năm ngoái, Trung Quốc đã ký các thỏa thuận phát triển tạm thời với Brunei và Philippines, với ​​s ni lng mt s lut liên quan đến đầu tư nước ngoài để cho phép các công ty Trung Quc cùng phát trin các nguồn lực trong vùng biển mà họ có yêu sách.

Những người phản đối ở Philippines đã tuyên bố rằng các thỏa thuận trên là vi hiến.

Malaysia và Indonesia đều phát triển các dự án với các công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (NOC), mặc dù họ thường hợp tác với các công ty quốc tế khác ở vùng biển nằm ngoài khu vực tranh chấp.

Việc Trung Quốc tham gia vào các dự án dầu khí lớn trên toàn cầu là phổ biến gần đây ; CNOOC là đối tác của ExxonMobil – Liza một dự án lớn ngoài ngoài khơi Guyana.

Việt Nam sẽ khuất phục ?

Nhưng khả năng hợp tác của Tập đoàn Dầu khí với các công ty Trung Quốc – hoặc công chúng Việt Nam chấp nhận bất kỳ thỏa thuận nào như vậy – là thấp. Nhưng với trữ lượng giảm và nhu cầu điện tăng, Việt Nam đang trong tình trạng thắt chặt an ninh năng lượng.

ExxonMobil có khả năng rời bỏ dự án khai thác năng lượng khí lớn ở mỏ Cá Voi Xanh. Khi đó tìm một đối tác chịu mua dự án với một Trung Quốc hung hăng đang bành trướng trong khu vực có thể sẽ rất khó khăn.

Việt Nam hiện đang xem xét một loạt các thiết bị đầu cuối nhập khẩu năng lượng quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng tại thời điểm thủy điện đang suy giảm và các nhà máy điện than mới mới không được chọn lựa. Đầu tháng 2, chính phủ cho biết họ có kế hoạch tăng công suất phát điện từ 54 gigawatt hiện nay lên 125-130GW vào năm 2030.

Tập đoàn Lantau, nghiên cứu báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2018, ước tính rằng Việt Nam sẽ cần nguồn cung cấp nhiên liệu đáng tin cậy, an toàn, đa dạng và hiệu quả cho ngành năng lượng để duy trì tăng trưởng GDP 8% từ năm 2021 đến 2030 băng cách nhập khẩu năng lượng nhiều hơn.

Nhiên liệu nhập khẩu có thể được mua từ các nhà sản xuất của Mỹ và giúp tái cân bằng quan hệ thương mại với Mỹ, do Hà Nội đã bị Tổng thống Donald Trump chỉ trích vì có thặng dư thương mại rất lớn với Mỹ.

Trong khi đó, Mỹ cần thị trường cho ngành năng lượng lớn và đang phát triển, đã chuyển từ không xuất khẩu trong năm 2015 sang trở thành nước xuất khẩu lớn thứ ba thế giới trong năm nay trước khi dịch Covid-19 phá vỡ nhu cầu nhiên liệu toàn cầu.

Hiện tại, tình trạng dư cung ở Châu Âu và tình trạng dư thừa chung cùng với nhu cầu thấp ở các quốc gia nhập khẩu truyền thống như Nhật Bản đã khiến các nhà xuất khẩu năng lượng của Mỹ chỉ hoạt động với công suất 25%, theo dữ liệu gần đây của Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA).

Trung Quốc đã đồng ý nhập xuất khẩu năng lượng trị giá 52 tỷ đô la Mỹ trong giai đoạn 2020-2021, nhưng ngay cả trước khi có dịch Covid-19 và sự suy giảm mạnh trong quan hệ thì đó là điều dường như không thực tế.

Trung Quốc đã gần như không nhập khẩu năng lượng của Mỹ trong những tháng gần đây, nhưng đã tận dụng giá dầu thấp kỷ lục gần đây, đặc biệt là đối với tiêu chuẩn West Texas Middle (WTI) của Hoa Kỳ, để nhập khẩu một lượng lớn dầu thô.

ExxonMobil hiện đang xem xét một dự án phát triển dầu khí lớn ở Hải Phòng và dự án Delta ở ngoài khơi tỉnh Bạc Liêu thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trong khi đó, Việt Nam bắt đầu xây dựng hồi tháng 9 trên trạm nhập khẩu năng lượng đầu tiên ở cảng Thị Vải. Các công ty Mỹ đã bày tỏ ý muốn cung cấp nhiên liệu cho các dự án.

Nhưng trong khi Mỹ tuyên bố họ sẽ không ủng hộ "chiến dịch bắt nạt và kiểm soát" của Bắc Kinh trên vùng biển tranh chấp, bằng cách ngăn cản khai thác dầu khí, thì các nhà sản xuất năng lượng của Mỹ thực sự có thể được hưởng lợi từ sự đe dọa của Trung Quốc.

Helen Clark

Nguyên tác : Oil and gas fueling South China Sea tensions, AsiaTimes, 22/07/2020

Ngân Bình dịch

Nguồn : VNTB, 23/07/2020

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Helen Clark
Read 607 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)