Lũ lụt Miền Trung : Nguyên nhân và hệ quả
Nguyễn Quang Dy, Viet-studies, 24/10/2020
"Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác"
(Abutalip)
Mỗi năm cứ đến mùa mưa bão thì Miền Trung lại phải chịu ngập lụt tang thương, năm sau còn tệ hơn năm trước, như một định mệnh
Như "đến hẹn lại lên" trong hai thập kỷ qua, cứ đến mùa mưa bão thì Miền Trung lại phải chịu ngập lụt tang thương, năm sau còn tệ hơn năm trước, như một định mệnh (Karma). Năm nay, hơn một trăm người đã thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị vùi lấp hay ngập sâu, thiệt hại còn lớn hơn cả đại dịch Covid-19. Nhưng điều đáng nói không chỉ là con số tử vong, gồm hai cấp tướng, hàng chục cấp tá, và một số cán bộ trung/cao cấp khác, mà là hiểm họa lâu dài về môi trường, kinh tế, và an ninh quốc phòng, tiếp theo đại dịch như "thảm họa kép".
Dư luận đang bức xúc và ồn ào, nhưng sau đó chắc lại chìm xuống trước một thực tế mới (a new normal), để sang năm lặp lại "theo đúng quy trình", mà chẳng thấy ai chịu trách nhiệm. Không đổi mới thể chế và tư duy, chắc cái vòng luẩn quẩn đó vẫn cứ tiếp diễn, và người dân luôn là "bên thua cuộc" (born loser). Hãy thử làm rõ nguyên nhân và hệ quả.
Thủy điện Rào Trăng 3 trên thượng nguồn sông Bồ nhìn từ máy bay trực thăng
Làm rõ nguyên nhân
Khi nói đến nguyên nhân, người ta thường đổ cho "thiên tai" như biến đổi khí hậu. Điều đó tuy không sai, nhưng ngoài nguyên nhân khách quan (do "thiên tai") còn có nguyên nhân chủ quan (do "nhân họa") mà người ta hay né tránh. Muốn tránh thảm họa, phải làm rõ nguyên nhân. Trong khi loài người phải làm quen và chung sống với biến đổi khí hậu (phải đối phó nhưng không chống lại được) thì họ có thể tìm cách tránh được "nhân họa".
Theo ông Nguyễn Văn Lung (Viện trưởng Viện Quản lý Rừng), Việt Nam là một trong sáu nước trên thế giới chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu trong bốn năm gần đây. Miền Trung là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất tại Việt Nam. Nhưng bên cạnh "thiên tai" (như biến đổi khí hậu), còn có "nhân họa" (do lòng tham và dân trí thấp).
Trong khi dư luận bức xúc vì đồng bằng sông Cửu Long phải gánh chịu hệ quả khôn lường (như "vũ khí nước") do họ làm quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn (chủ yếu là Trung Quốc) thì Miền Trung lại hồn nhiên làm hàng trăm "thủy điện cóc" (quy mô nhỏ dưới 10 MW) mà không tính đến hệ quả do môi trường tự nhiên bị tàn phá. Khi chạy các dự án "thủy điện cóc", mục tiêu của chủ đầu tư không phải là làm ra điện mà là khai thác gỗ.
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã có chủ trương "xã hội hóa" cho tư nhân làm "thủy điện cóc" (chẳng khác gì "hội chứng trạm BOT"). Theo chủ trương "phân cấp quản lý", các dự án thủy điện công suất trên 10 MW do Bộ TNMT thẩm định phê duyệt, còn các dự án thủy điện công suất dưới 10 MW do cấp tỉnh phê duyệt. Nhưng chủ trương "xã hội hóa" và "phân cấp quản lý" đã bị các nhóm lợi ích thao túng, để "con voi chui lọt lỗ kim".
Việc điều tiết thủy điện được "làm theo bản năng chứ không theo dòng chảy". Các nhà máy "thủy điện cóc" thường hoạt động tự phát và tùy tiện, không chỉ góp phần phá hủy mội trường mà còn phá vỡ quy hoạch điện của nhà nước, dẫn đến hệ quả khôn lường. Các chuyên gia cho rằng "quả bom nước" thủy điện bậc thang ở Miền Trung có thể nhấn chìm phố cổ Hội An. Tuy các chuyên gia đã cảnh báo, nhưng dường như không ai lắng nghe.
Theo số liệu thống kê, Bộ Công thương đã duyệt 21 dự án thủy điện cỡ nhỏ (bình quân 21,4 MW) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên (tổng công suất 450 MW), gồm 5 công trình : A Lưới, Hương Điền, Bình Điền, A Lin 1 và Tả Trạch. Theo Quyết định 1666/QĐ-UBND (23/7/2008), UBND tỉnh Thừa Thiên đã phê duyệt 11 dự án thủy điện cóc (dưới 10MW) với tổng công suất 105,8 MW, được khai thác gỗ trong khu bảo tồn thiên nhiên và rừng đặc dụng.
Trên thực tế, rừng tự nhiên và rừng đặc dụng đều nằm trong danh sách "chuyển đổi mục đích sử dụng rừng". Tính đến cuối năm 2017, hơn 60.000 ha diện tích đất rừng đã bị chuyển đổi, trong đó có 4 dự án thủy điện nhỏ ở Miền Trung gồm Alin B1, Alin B2, Rào Trăng 3 và Rào Trăng 4, nằm trong khu vực bảo tồn thiên nhiên Phong Điền. Đến nay, Miền Trung đã đưa vào vận hành khai thác 54 thủy điện bậc thang (7.025 MW) và 156 thủy điện nhỏ (1.565 MW) ; đang thi công 11 dự án bậc thang (704 MW) và 72 dự án thủy điện nhỏ (859 MW).
Cả nước có 342 thủy điện nhỏ được đưa vào vận hành phát điện (tổng công suất 3.582MW), có 158 dự án đang được tiếp tục thi công (tổng công suất 2.122MW), có khoảng 300 dự án đang được nghiên cứu đầu tư (tổng công suất 3.121MW), và có 69 dự án chưa nghiên cứu đầu tư (tổng công suất 622MW). Muốn đầu tư làm dự án thủy điện nhỏ thường phải có quản trị tốt và giải trình minh bạch. Nhưng ở Việt Nam các yếu tố đó vẫn chưa có.
Theo thống kê, cứ 1MW thủy điện sẽ mất 10-14,5 ha rừng. Trung bình mỗi dự án thủy điện nhỏ sẽ xóa sổ 125 ha rừng tự nhiên. Với hơn 500 dự án thủy điện nhỏ được phê duyệt, phải đánh đổi 57.000 ha rừng. Nếu bỏ được 463 dự án thủy điện nhỏ (dưới 30 MW) sẽ cứu được 13.890 ha rừng nguyên sinh. Mỗi ha rừng nguyên sinh không chỉ bảo vệ đất khỏi bị xói mòn và làm chậm dòng chảy của nước về hạ lưu, mà còn hấp thụ được 640 tấn khí carbon.
Mỗi ha rừng nguyên sinh có trữ lượng cây khoảng 300 m3 gỗ. Nếu đốn 13.890 ha rừng nguyên sinh sẽ thu được 5.167.000 m3 gỗ. Nếu giá một m3 gỗ (nhóm 1) là 50 triệu VND/m3, giá một m3 gỗ nhóm 4 là trên 8 triệu VND/m3, thì bình quân là 20 triệu VNĐ/m3. Nếu bán 5.167.000 m3 gỗ người ta sẽ thu được 103.340 tỷ VNĐ. Đó chính là lý do người ta đua nhau làm thủy điện nhỏ. Nói cách khác, làm thủy điện cóc là cách "tay không bắt giặc".
Hệ quả của thủy điện cóc
Người ta thường làm dự án thủy điện nhỏ ở sâu trong núi vì ba lý do chỉnh. Một là tránh xa được tai mắt của nhân dân. Hai là không tốn tiền đền bù và di dời nhà dân. Ba là có thể tự do khai thác rừng nguyên sinh có nhiều giá trị lâm sản, tạo ra nguồn tiền đủ để đầu tư làm thủy điện. Vì vậy, làm thủy điện cóc là kênh đầu tư đem lại nhiều lợi nhuận, mà những yếu tố môi trường, kỹ thuật thiết kế, xây dựng và vận hành hầu như không bị giám sát.
Có thể nói thủy điện cóc là các dự án nhỏ nhưng lại có nguồn lợi lớn và tác động môi trường không hề nhỏ. Các nhóm lợi ích đang tranh nhau làm thủy điện cóc và thao túng quy trình làm thủy điện, tác động đến đời sống kinh tế, chính trị, và văn hóa của Việt Nam, với hệ quả khó lường. Tuy các chuyên gia đã cảnh báo về "quả bom nước" khi mùa lũ tới, nhưng các dự án thủy điện cóc vẫn đua nhau mọc lên. Hệ quả là các khu rừng nguyên sinh bị khai thác vô tội vạ, rất khó kiểm soát, vì kiểm lâm thường bị qua mặt hoặc bị mua chuộc.
Hệ thống đường giao thông Bắc-Nam thường cắt vuông góc với dòng chảy của các con sông ở Miền Trung. Đường càng cao thì chặn lũ càng nhiều, và hệ thống thoát nước được thiết kế và thi công không đáp ứng được lưu lượng nước vào mùa lũ, làm khả năng thoát nước càng chậm. Khi làm con đường HCM, chắc các chuyên gia không nghĩ đến việc làm con đường đó có chặn mất dòng nước lũ tràn xuống biển từ sườn phía Đông của dãy Trường Sơn.
Hầu hết địa hình Miền Trung là đồi núi, có độ dốc cao (từ 15-75 độ). Bộ Công thương cho biết đã loại khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện bậc thang (655 MW) và 463 dự án thủy điện nhỏ (1.404,68 MW) do tác động tiêu cực lớn đối với môi trường và xã hội. Thủy điện Rào Trăng 3 (công suất 11 MW) đã thay đổi thiết kế, nâng công suất lắp máy lên 13 MW. Dự án này đã được Bộ TN-MT phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường năm 2019.
Ông Hà Công Tuấn (Thứ trưởng Bộ NN-PTNT) cho rằng một trong hai nguyên nhân cơ bản khiến rừng tự nhiên bị giảm nghiêm trọng về diện tích và trữ lượng, là do chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để xây dựng thủy điện, thủy lợi, giao thông và các công trình tái định canh định cư khác. Theo ông Lê Việt Trường (cựu Phó chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội), cần làm rõ lũ lụt do thiên tai chiếm bao nhiêu phần trăm và lũ lụt do thủy điện chiếm bao nhiêu phần trăm. Việc cần phải làm ngay sau vụ Rào Trăng 3 là tạm dừng tất cả các dự án thủy điện đang triển khai và sắp triển khai để điều tra, đánh giá tổng thể.
Theo ông Lung, các dự án thủy điện cóc công suất tuy dưới 10 MW, nhưng vẫn chiếm diện tích lớn rừng được "chuyển đổi mục đích sử dụng", trong khi các chủ doanh nghiệp tư nhân làm thủy điện cóc thường trốn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Lỗi không phải do làm thủy điện mà là do cách thức người ta quản trị và điều tiết như thế nào. Chúng ta đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế trước mắt, hy sinh rừng tự nhiên để làm thủy điện, nhưng không biết cái giá phải trả lâu dài. Nói cách khác, người ta "đánh bạc với thiên nhiên".
Theo các chuyên gia về môi trường, nếu mưa xuống khu vực rừng tự nhiên thì khoảng 90% lượng nước rơi xuống không chảy tràn trên mặt đất, mà được thấm xuống thành nước ngầm. Hệ thống mạch nước ngầm chằng chịt dưới lòng đất, nên khoan giếng chỗ nào cũng hầu như thấy nước. Nhưng nếu mưa xuống khu vực đồi trọc hay rừng mới trồng này thì chỉ có 5% lượng nước được thấm xuống đất, còn 95 % lượng nước sẽ chảy tràn trên bề mặt, tạo thành lũ ống hay lũ quét. Nhưng hầu hết các chủ đầu tư thủy điện cóc không quan tâm đến vai trò của rừng tự nhiên trong hệ sinh thái, mà chỉ muốn phá rừng tự nhiên để khai thác gỗ.
Thế giới đã khẳng định rừng tự nhiên là nhân tố tốt nhất để chống biến đổi khí hậu. Các chuyên gia quốc tế khuyến cáo rằng thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát triển 10 ha rừng trồng lại. Trong khi thế giới ra sức bảo vệ rừng tự nhiên thì chúng ta lại hồn nhiên phá rừng tự nhiên để làm kinh tế. Trong khi đánh đổi lợi ích kinh tế trước mắt lấy rủi ro môi trường lâu dài, thì chúng ta bỏ ngoài tai các khuyến cáo của các chuyên gia về môi trường.
Theo nhà báo Lưu Trong Văn, sự hy sinh của 13 sĩ quan trung/cao cấp tại trạm kiểm lâm 67 gần Thủy Điện Rào Trăng 3, huyện Phong Điền (13/10 ) là một bài học đau xót cho công tác cứu hộ. Nếu không coi công tác cứu hộ là công việc đầy nguy hiểm phải có lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp và phương tiện chuyên dụng, thì chính quyền còn phạm nhiều sai lầm khác. Tướng Man, đại tá Hùng và đại tá Quang từng chỉ huy lực lượng cứu hộ, nhưng lần này không có lực lượng cứu hộ và phương tiện cần thiết, thì làm sao có thể chỉ huy cứu hộ.
Ông Lưu Trọng Văn cho rằng : "Nếu không khẩn cấp điều tra hơn 700 thủy điện cóc đang bức tử các dòng sông và các cánh rừng, gây ra hệ quả ghê gớm này để dẹp hết đi thì sẽ là đồng lõa với tội ác". Theo ông Văn, cũng như quan điểm của nhiều người khác, Việt Nam vẫn chưa có đội ngũ cứu hộ chuyên nghiệp được huấn luyện kỹ và được trang bị đầy đủ, để khi có lệnh là lên đường ngay bằng phương tiện trực thăng, ca-nô hay xe chuyên dụng.
Tiếp theo vụ sạt lở đất tại trạm kiểm lâm 67 ở Phong Điền (13/10) làm thiệt mạng 13 sĩ quan, hầu hết là cán bộ trung/cao cấp, vụ sạt lở đất tại khu nhà của sư đoàn 337 làm kinh tế tại Hương Hóa (18/10) đã làm thiệt mạng 22 cán bộ và chiến sỹ. Tính đến 20/10, đã có 84 người chết, 38 người mất tích, 52.933 nhà bị ngập và 461.627 con gia súc/gia cầm bị chết. Ông Hoàng Đình Bá (cựu trưởng ty Lâm nghiệp ở Quảng Nam-Đà Nẵng) đã cảnh báo từ hơn hai thập kỷ trước rằng tần suất lũ lụt sẽ ngày càng tăng, và nguồn nước ngầm sẽ cạn kiệt. Nếu không phục hồi được rừng đầu nguồn thì phố cổ Hội An không lâu nữa sẽ chỉ còn là phế tích.
Theo kỹ sư Nguyễn Đức Thắng, một nguyên nhân khác làm lũ lụt Miền Trung gia tăng là do Tập đoàn Dầu khí (PVN) chủ trương làm xăng E5 (ethanol) và Bộ Giao Thông Vận Tải làm các tuyến đường Bắc Nam. PVN đã xây dựng 3 nhà máy ethanol (có tổng công suất là 3x100.000m3 ethanol/năm) đặt tại ba miền đất nước là Tam Nông (Phú Thọ), Dung Quất (Quảng Ngãi) và Bình Phước (phía nam), để pha trộn với xăng RON 92 tạo thành xăng E5.
Quyết định 177/2007/QĐ-TTg cho chuyển đổi 0,73 triệu ha đất rừng thành đất trồng sắn và xây dựng thêm nhiều nhà máy sản xuất ethanol. Theo thống kê của Bộ NN-PTNT, trong vòng 5 năm (2010-2014) diện tích rừng ở Tây Nguyên đã giảm tới hơn 0,3 triệu ha, độ che phủ của rừng đã giảm 6,1%. Nguyên nhân chính là do chuyển đổi rừng và phá rừng tự nhiên để xây thủy điện, hạ tầng giao thông, và trồng cây cao su...Rừng và thảm thực vật hoạt động như "một cái phanh để giảm lũ", nhưng khi nhiều rừng tự nhiên bị tàn phá thì sẽ có lũ quét.
Hàng ngàn ngôi nhà bị ngập sâu tại các tỉnh miền Trung
Câu chuyện cứu trợ
Thảo luận về "hiện tượng Thủy Tiên", luật sư Ngô Ngọc Trai cho rằng Việt Nam có Nghị định 64/2008/NĐ-CP không cho những cá nhân hay nhóm người (như Thủy Tiên) được tiếp nhận tiền cứu trợ và phân phối hàng cứu trợ. Ông luật sư và Báo Pháp Luật TP.HCM nhận xét rằng nghị định 64 ra đời cách đây 12 năm, nay đã lạc hậu, và đó là một văn bản dưới luật nên tự thân nó không đảm bảo tính hợp hiến và hợp pháp. Luật sư Ngô Ngọc Trai và Báo Pháp Luật Thành phố HCM kiến nghị "cần phải nhanh chóng hủy bỏ Nghị định 64/2008".
Theo nhà báo Nguyễn Như Phong, "Làm từ thiện mà cứ giao khoán cho mấy tổ chức đoàn thể là khéo mất toi. Nói thật là tôi mất niềm tin vào các cơ quan như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... và không bao giờ tôi phối hợp với các tổ chức này". Nhà báo Nguyễn Như Phong đã phản ánh khá đúng tâm trạng của công chúng, và một thực tế đáng buồn là người dân không còn tin vào các cơ quan đoàn thể ,vì họ đã đánh mất chính danh. Một khi đã đánh mất lòng tin của người dân thì rất khó lấy lại, làm "khủng hoảng lòng tin".
Người ta hay nói "lấy dân làm gốc" nhưng nhiều người quên rằng dân như nước, có thể "nâng thuyền hay lật thuyền". Cách đây bốn năm, MC Phan Anh đã quyên góp được hơn 20 tỷ VNĐ trong vòng một tuần (như một hiện tượng). Nay ca sĩ Thủy Tiên đã quyên góp được hơn 100 tỷ VNĐ cũng trong vòng một tuần (gấp năm lần Phan Anh). Nhưng Thủy Tiên còn quyết liệt hơn Phan Anh khi khẳng định rằng cô sẽ làm việc "theo cái tâm của một cá nhân mong muốn giúp đỡ cộng đồng" với nguyên tắc là "tiền trao tận tay để giúp đỡ bà con, không thông qua một tổ chức nào cả", và nhấn mạnh "cũng sẽ không tạo ra một tổ chức nào cả".
Hiên tượng Thủy Tiên thúc đẩy các nghệ sĩ khác tham gia cứu trợ, như một xu hướng mới của xã hội dân sự. Hiên tượng này chứng tỏ người dân không còn tin vào các "cơ quan chức năng" của nhà nước (như Mặt trận Tổ quốc, Hội chữ thập Đỏ), mà chỉ tin vào các cá nhân nào đáp ứng được nguyện vọng thiện nguyện của họ. Tuy Thủy Tiên được dư luận chung ủng hộ, nhưng một số khác lại có ý kiến trái chiều, dựa vào các quy định lỗi thời để ngăn cản.
Thủy Tiên kiệt sức sau 6 ngày đi cứu trợ liên tục.
Thay lời kết
Tiếp theo đại dịch Covid-19, lũ lụt năm nay đang tạo ra "thảm họa kép", với hiện tượng La Nina gây mưa lớn kéo dài, làm lũ lụt miền Trung vượt mức báo động 3, tới mức báo động 4 (là mức nguy hiểm nhất tại Việt Nam). Chủ trương "xã hội hóa" cho tư nhân làm "thủy điện cóc", và "phân cấp" cho các tỉnh duyệt cấp phép, trong khi năng lực quản trị yếu và tham nhũng, đã tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích thao túng, làm quá nhiều "thủy điện cóc", không chỉ chặn dòng chảy của các con sông, mà còn phá rừng tự nhiên làm đảo lộn hệ sinh thái.
Để đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cần sản xuất thêm nhiều điện, nhưng không phải các dự án thủy điện phá hủy môi trường, hay các dự án nhiệt điện gây ô nhiễm không khí. Đã đến lúc Việt Nam phải phát triển các dự án điện gió và điện mặt trời để sử dụng năng lượng tái tạo, như các nước khác. Việt Nam cần hợp tác xây dựng các dự án điện khí hóa lỏng (LNG) như dự án "Chân Mây". Với kết quả thăm dò thành công trữ lượng khí rất lớn, chất lượng rất tốt, vị trí thuận lợi tại "Kèn Bầu" (lô 114), Việt Nam có thể hợp tác phát triển các dự án điện khí lớn, nhằm "mục tiêu kép" về an ninh năng lượng và địa chiến lược tại Biển Đông.
Nguyễn Quang Dy
Nguồn : Viet-studies, 23/10/2020
*********************
World Bank đề xuất giải pháp chống thiên tai cho vùng ven biển Việt Nam
BBC, 24/10/2020
Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Chính phủ Việt Nam ra báo cáo về khu vực ven biển của Việt Nam "đang đứng trước các rủi ro lớn" trong lúc đang xảy ra lũ lụt ở miền Trung Việt Nam.
Nghiên cứu ra ngày 21/10, là sản phẩm của Chính phủ Việt Nam hợp tác làm cùng Ngân hàng Thế giới, và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi Thiên tai.
Báo cáo đưa ra các ước tính chi tiết về rủi ro thiên tai mà người dân, các đô thị ven biển, ngành kinh tế chủ chốt, hệ thống cơ sở hạ tầng, ngành dịch vụ công ở khu vực ven biển đang phải đối mặt.
Nó cho hay 11,8 triệu người dân khu vực ven biển đang gặp rủi ro cao do lũ lớn và hơn 35% khu dân cư đang nằm trong vùng có nguy cơ sạt lở.
Nghiên cứu này cảnh báo gì ?
Theo báo cáo này, mỗi năm, ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công nghiệp sẽ bị thiệt hại khoảng 852 triệu đô la Mỹ (tương đương 0,5% GDP cả nước) và 316.000 lao động bị mất việc do ảnh hưởng của lũ sông và lũ ven biển.
26% các bệnh viện công và trung tâm y tế, 11% các trường học phải đối mặt với rủi ro ngập lụt từ biển, làm gián đoạn khả năng cung cấp dịch vụ thiết yếu trong giai đoạn người dân đang cần nhất.
Ngoài các dịch vụ công thiết yếu trên, hàng năm bão lũ gây ngập lụt và thiệt hại khoảng 144 triệu đô la Mỹ đến cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và 330 triệu đô la Mỹ đối với cơ sở hạ tầng năng lượng, do hơn một phần ba mạng lưới truyền tải đi qua rừng, khả năng cao gặp rủi ro do cây đổ trong bão.
Trên toàn quốc, trung bình thiệt hại tài sản công và tư hàng năm theo sức mua tương đương lên đến 8,1 tỷ đô la Mỹ.
Thiệt hại hàng năm do thiên tai đối với đời sống người dân ước tính vào khoảng 11 tỷ đô la Mỹ.
Với kịch bản biến đổi khí hậu cao, mực nước biển dự kiến sẽ tăng 30cm vào năm 2050 và 70cm vào năm 2100.
Mức độ rủi ro do lũ của khu vực đô thị dự kiến sẽ tăng lên 7%, ảnh hưởng đến thêm 4,5 triệu người ở khu vực ven biển.
Nghiên cứu cảnh cáo nếu không có hành động kịp thời, áp lực từ các hoạt động của con người lên hệ sinh thái, ví dụ như khai thác nước ngầm hay khai thác cát, sẽ làm gia tăng rủi ro thiên tai.
Ít nhất 178 ngàn ngôi nhà tại Việt Nam bị chìm trong nước, như hình ảnh này ở tỉnh Quảng Bình
Khu vực ven biển Việt Nam : kinh tế và thiên tai
Là nơi sinh sống của một nửa dân số Việt Nam, các tỉnh ven biển là động lực chính cho tăng trưởng.
Tuy nhiên, bão, nước dâng do bão, lũ, hạn hán, sạt lở bờ biển, xâm nhập mặn đang đe dọa sự phát triển của Việt Nam.
Gần một phần ba đường bờ biển là khu đô thị hoặc khu dân cư, các tỉnh ven biển là nơi sinh sống của 46,6 triệu người, đóng góp 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn quốc năm 2016.
Các thành phố thứ cấp ở khu vực ven biển Bắc - Trung - Nam đang có tốc độ đô thị hóa cao nhất từ năm 2012, theo World Bank.
Tuy nhiên, thiên tai tiếp tục đe dọa.
Các khu vực như Tân An ở Thừa Thiên - Huế và Khe Tân ở Quảng Ngãi, được hình thành trên các cồn cát, dễ bị sạt lở. Ở một số nơi, biển đã xâm thực tới 300 mét, khiến hàng trăm hộ dân phải di dời, ảnh hưởng đến sinh kế.
Các phân tích trong Báo cáo cho thấy chỉ 19% khu dân cư ven biển là ở khu vực ổn định, hơn một phần ba đã bị ảnh hưởng do sạt lở ven biển và gần một nửa bị bồi tụ.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, 38% khu dân cư ven biển đang phải đối mặt với nguy cơ sạt lở.
Các nghiên cứu cho thấy, sạt lở chủ yếu là do các hoạt động của con người như khai thác quá mức, cơ sở hạ tầng quy hoạch kém, và xây dựng trên các vùng sinh thái nhạy cảm.
Theo World Bank, bằng việc phân tích hình ảnh vệ tinh sử dụng đất có độ phân giải cao cho thấy 10% sản lượng cây trồng quốc gia, chiếm 4% GDP nông nghiệp, đóng góp 1 tỷ đô la Mỹ sản xuất và 1,5 triệu việc làm, đang chịu ảnh hưởng dữ dội do lũ ven biển.
Khoảng 62% đầm nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh đồng bằng ven biển của Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ lũ lụt nghiêm trọng, làm thiệt hại 1,1 triệu tấn sản lượng nuôi trồng, 935 triệu đô la Mỹ xuất khẩu (4% GDP nông nghiệp) và 1,5 triệu việc làm. 80% rủi ro này tập trung ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Xâm thực bờ biển ảnh hưởng nghiêm trọng đến một số bãi biển, khu đô thị và khách sạn ven biển của Việt Nam. Phân tích trong Báo cáo cho thấy, gần một phần năm các khách sạn ven biển nằm cạnh các điểm sạt lở hơn 20 mét trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2015, điển hình là ở Thành phố Nha Trang.
Về công nghiệp, phân tích cho thấy, khoảng một nửa trong số 127 khu công nghiệp ở các tỉnh ven biển phải đối mặt với rủi ro do lũ lụt. Ở một số tỉnh, rủi ro lũ lụt khá cao : trận lụt có chu kỳ xuất hiện 1 trong 100 năm ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khiến 9 trong số 14 khu công nghiệp, cùng với khoảng 34.000 lao động và cơ sở hạ tầng trị giá 280 triệu đô la Mỹ bị thiệt hại.
Người dân địa phương và các tình nguyện viên phân phát đồ cứu trợ cho những người bị ảnh hưởng ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
Biến đổi khí hậu
Nghiên cứu cho hay dưới tác động của biến đổi khí hậu, các rủi ro do lũ lụt, hạn hán, sạt lở và xâm nhập mặn còn trầm trọng hơn.
Với kịch bản biến đổi khí hậu cao, mực nước biển trung bình được ước tính sẽ tăng 30cm vào năm 2050 và 70cm vào năm 2100, nguy cơ ngập lụt nghiêm trọng ở các khu vực đô thị sẽ tăng lên 7%, ảnh hưởng 4,5 triệu người ở các tỉnh ven biển và tăng mức độ ảnh hưởng do lũ lụt của các khu vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản lên đến 10%.
Nước biển dâng và hạn hán cũng có thể làm trầm trọng thêm mức độ xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và các ngành công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đồng thời khiến chi phí thích ứng cao do phải đầu tư máy bơm và các thiết bị khác để duy trì lượng nước và độ mặn thích hợp trong các ao hồ hay ở vùng đất trũng.
Việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm đã khiến đất ở Đồng bằng sông Cửu Long bị sụt lún 1 - 3cm mỗi năm ; thậm chí, có thể lên tới 90cm vào năm 2035 ở một số nơi, theo World Bank.
Tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai có thể khiến 1,2 triệu người rơi vào cảnh đói nghèo vào năm 2030.
Báo cáo đề xuất giải pháp gì ?
Báo cáo mới nhất đề xuất năm lĩnh vực can thiệp chiến lược :
- Thiết lập và tăng cường hệ thống quản lý và sử dụng dữ liệu và công cụ ra quyết định tích hợp :
Họ đề nghị Việt Nam đảm bảo các dữ liệu về thiên tai và công cụ phân tích phải đầy đủ và có sẵn, cập nhật và duy trì thường xuyên, cung cấp cho tất cả các bên liên quan.
Việt Nam cần có một hệ thống quản lý công trình được cập nhật thường xuyên. Giám sát việc mở rộng đô thị ở các vùng ven biển sẽ giúp theo dõi mức độ rủi ro của người dân trước thiên tai ; thiết lập cơ sở dữ liệu quản lý đê tập trung giúp đánh giá mức độ bảo vệ và những điểm có nguy cơ rủi ro cao ; hệ sinh thái ven biển được bản đồ hoá và giám sát một cách hệ thống sẽ hướng đến phục hồi và bảo tồn rừng ngập mặn, rạn san hô, cồn cát, bãi biển.
- Thực thi triệt để công tác quy hoạch ven biển dựa trên phân tích về rủi ro :
Việt Nam cần đảm bảo tăng trưởng phải được tính đến rủi ro thiên tai và khả năng chống chịu và không để lại hậu quả và đảm bảo tính linh hoạt cao khi lập quy hoạch phát triển dài hạn.
Trong ngắn hạn, có thể đầu tư vào khu vực phòng chống thiên tai để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các đô thị và các hoạt động kinh tế - xã hội hoặc phát triển cơ sở hạ tầng lâu dài như các nhà máy năng lượng hoặc các tuyến giao thông gần với bờ biển là một ý tưởng hay.
Nhưng các dự án này có xu hướng thu hút thêm các khoản đầu tư khác và người dân định cư. Vì vậy, việc phê duyệt tăng trưởng các khu vực có rủi ro cao như vậy sẽ rất tốn kém cho các thế hệ tương lai khi đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng bảo vệ.
Việt Nam cần đảm bảo quy hoạch có hệ thống để bảo vệ các khu vực tăng trưởng có nguy cơ cao. Để chắc chắn các dự án phát triển và đầu tư mới ở khu vực ven biển không làm tăng nguy cơ thiên tai, những nhà hoạch định chính sách và chính quyền cần phải đánh giá rủi ro một cách có hệ thống.
- Tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công :
Báo cáo kêu gọi Việt Nam cần tăng cường năng lực của các công trình thiết yếu bằng việc tích hợp các thông tin rủi ro vào quy trình lập kế hoạch, thiết kế và duy tu bảo dưỡng của các dự án phát triển cơ sở hạ tầng.
Mặc dù, hệ thống đê điều của Việt Nam đang bảo vệ cư dân và tài sản khu vực ven biển, nhưng dọc theo bờ biển có rất nhiều điểm nóng đang đứng trước nguy cơ cao bị ảnh hưởng của thiên tai. Cần tập trung nâng cấp hệ thống đê của các khu vực có rủi ro cao, bao gồm duy tu bảo dưỡng có hệ thống, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn tương ứng với cấp độ rủi ro thiên tai, quy mô dân số.
Cần đẩy mạnh các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ứng phó với rủi ro thiên tai, đảm bảo có đủ năng lực dự phòng để hỗ trợ người sử dụng như đội ngũ cán bộ y tế có thể tiếp tục làm việc ngay cả khi cơ sở hạ tầng bị gián đoạn do thiên tai.
Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch kinh doanh liên tục để có phương án ứng phó kịp thời, tiếp tục hoạt động và góp phần phục hồi nhanh khi thiên tai làm gián đoạn cơ sở hạ tầng.
Việt Nam cũng cần áp dụng các tiêu chuẩn an toàn và hướng dẫn kỹ thuật cho hệ thống cơ sở hạ tầng.
Theo đó, Việt Nam cần rà soát và cập nhật các tiêu chuẩn an toàn và quy chuẩn xây dựng áp dụng cho các công trình thiết yếu, tòa nhà, hệ thống đê điều để đảm bảo tính nhất quá giữa các ngành, có tính đến các yếu tố như kinh tế - xã hội, dân số, biến đổi khí hậu ; đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để thực hiện. Hướng dẫn kỹ thuật cần bao gồm quy trình thiết kế và lập kế hoạch, các tiêu chuẩn an toàn có cân nhắc mức độ thiên tai, dân số, giá trị công trình đang gặp rủi ro ; đồng thời, xem xét các hạn chế khi triển khai như kinh phí được phân bổ, vật liệu và năng lực bảo trì.
- Tận dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên :
Báo cáo chỉ ra rằng từ cồn cát đến rạn san hô và rừng ngập mặn, các hệ thống tự nhiên thường đem lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ sinh kế ven biển.
Nếu quản lý bền vững, chúng có thể đem lại giá trị kinh tế hữu hình, hỗ trợ du lịch hoặc ngành đánh bắt cá. Tuy nhiên, khai thác quá mức và xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng nhân tạo trong những thập kỷ qua đã khiến hệ sinh thái bị suy kiệt.
Họ nêu ví dụ về xây dựng kế hoạch khôi phục, bảo vệ rừng ngập mặn và rạn san hô. Theo đó, tài trợ của Chính phủ để phục hồi rừng ngập mặn có thể được bổ sung bằng việc chi trả cho các mô hình dịch vụ hệ sinh thái.
Từ đó, cần thiết xây dựng chính sách và khung pháp lý chuyên biệt về bảo tồn rạn san hô và cho phép các tỉnh phát triển, thực hiện và mở rộng các kế hoạch bảo tồn và phục hồi.
- Nâng cao năng lực phòng ngừa, ứng phó và phục hồi :
Nghiên cứu khuyến cáo Việt Nam cần một hệ thống khí tượng thủy văn tích hợp về truyền tải dữ liệu - phân tích và dự báo - truyền tin và cảnh báo sớm nhằm truyền tải các thông tin kỹ thuật có mức độ chính xác cao thành các thông tin có giá trị hành động thực tiễn cho các đối tượng người dùng khác nhau.
Cần thiết phải xây dựng một bộ hướng dẫn sử dụng và vận hành hệ thống khí tượng thủy văn tích hợp (CONOPs) giúp giảm nguy cơ hỏng hóc về kỹ thuật hoặc thiếu hụt về tài chính và điều chỉnh các hệ thống cảnh báo sớm để giải quyết tốt hơn các loại hình thiên tai xảy ra chậm như hạn hán.
CONOPs cũng nâng cao năng lực giám sát và dự báo loại hình thiên tai này, phổ biến các cảnh báo có giá trị hành động thực tiễn, tăng cường chức năng và nguồn lực của chính quyền, phản ánh nhu cầu dự báo trung và dài hạn.
Nghiên cứu cũng kêu gọi xây dựng chiến lược tài chính phòng chống thiên tai.
Theo đó, Việt Nam nên xây dựng một cơ chế rút gọn nhằm huy động và giải ngân các nguồn tài chính sẵn có đảm bảo sự kịp thời và hiệu quả cho công tác xây dựng lại và tái thiết khẩn cấp sau thiên tai.
Dự trữ nhiều năm, tín dụng dự phòng, bảo hiểm trong nước và trái phiếu thiên tai đều là những công cụ tài chính đã chứng minh được hiệu quả.
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, bình luận : "Nếu vẫn tiếp tục xu hướng phát triển kinh tế nhanh ở các khu vực có nguy cơ cao như hiện nay thì thiệt hại do thiên tai sẽ gia tăng".
Bà kêu gọi : "Đã đến lúc cần có cách tiếp cận mới nhằm cân bằng giữa rủi ro và cơ hội để các khu vực ven biển Việt Nam có thể tiếp tục là động lực tăng trưởng, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng chống chịu với các cú sốc".
Nguồn : BBC, 24/10/2020
********************
Để Quảng Bình bớt ngập vì lũ lụt
Cao Việt Sỹ, VNTB, 24/10/2020
Để giảm thiểu tối đa tác hại lũ lụt ở Quảng Bình, cần có những giải pháp cụ thể, giúp người dân "sống bình yên cùng lũ lụt".
Năm nào tỉnh Quảng Bình quê tôi cũng chịu cảnh bão lụt, nhưng năm nay là khủng khiếp nhất mà người dân phải hứng chịu. Nhân dân cả nước đã chung tay giúp đỡ Quảng Bình, giúp đỡ những người dân quê giữa mênh mông nước lụt, mấp mé giữa sự sống, đói rét và cái chết, thật cảm động.
Quảng Bình có hai con sông lớn, mỗi năm lũ lụt, sông Kiến Giang gây ngập nặng hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy ở phía Nam và sông Gianh làm ngập các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa và Quảng Trạch ở phía Bắc.
Sông Kiến Giang ở phía Tây-Nam huyện Lệ Thủy, chảy theo hướng Nam Bắc đón nhận thêm nước của sông Cẩm Ly đi vào huyện Quảng Ninh, hợp lưu với sông Long Đại, đổ nước ra biển ở cửa Nhật Lệ. Sông Gianh chảy giữa dãy Trường Sơn và Hoành Sơn qua các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, đổ ra biển ở cửa Gianh.
Để giảm thiểu tối đa tác hại lũ lụt ở Quảng Bình, cần có những giải pháp cụ thể, giúp người dân "sống bình yên cùng lũ lụt".
Mùa lụt, Quốc lộ 1A "như con đê" chắn nước lại, dòng nước không thể chảy nhanh, phải vòng vèo qua một quãng đường xa khoảng 50km mới ra đến cửa biển Nhật Lệ. Nước sông dồn ứ, biến hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy thành "rốn lụt", nhấn chìm nhiều làng xã. Để giải quyết vấn đề này cần xây dựng hệ thống "cống hộp" đi qua Quốc lộ 1A, xuyên qua đồi cát ven bờ, đổ nước ra biển. "Cống hộp" sẽ hoạt động khi mực nước sông Kiến Giang lên đến mức "báo động". Một lượng nước lớn sẽ ra biển qua cống này. Hệ thống "cống hộp" có thể là hai hoặc ba cái, giúp đưa nước ra biển. Ở mỗi hệ thống nên đặt thêm máy bơm tiêu úng. Ở cửa biển Nhật Lệ, hiện bị bồi lấp nặng phải được khơi thông và mở rộng và đào sâu xuống để nước lụt thoát nhanh ra biển. Những việc này không tốn kém nhiều, Tỉnh và các huyện nên thực hiện sớm.
Sông Gianh mùa lụt, "rốn lũ" nằm ở xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa, có năm hơn 90% diện tích bị ngập sâu 3m. Từ xã Tân Hóa về đến cửa Gianh khoảng 80km, nên nước rút rất chậm.
Để giúp người dân dân "sống bình yên cùng lụt" vấn đề nhà ở và lương thực hết sức quan trọng. Từ trước đến nay, nhiều nơi vẫn loay hoay với "nhà chống lũ". Hãy học đồng bào Thái, Mường họ làm nhà sàn để ở. Ở An Giang người dân xây dựng nhà chống lũ rất hiệu quả. Từ những kinh nghiệm quý này, người dân trong vùng lụt ở Quảng Bình cần làm nhà sàn để ở. Nhà sàn có thể làm đơn giản với bộ khung bằng cột xi măng cốt thép, những gì còn lại người dân sẽ bổ sung dần. Việc kêu gọi ủng hộ giúp dân làm nhà sàn sẽ được nhiều người ủng hộ. Với nhà sàn, người dân sẽ yên tâm không sợ bị ngập vì lụt. Hàng năm, mỗi trận lụt kéo dài chỉ khoảng hai tuần, các gia đình nên trữ sẵn lương thực và các nhu yếu phẩm, để không bị động.
Tỉnh Quảng Bình nói riêng và các tỉnh miền Trung nói chung cần có những đội cứu hộ chuyên nghiệp. Lũ lụt và thiên tai, cháy rừng v.v. các anh bộ đội, công an đã làm hết sức mình, thậm chí hy sinh để cứu dân, thật đáng trân trọng. Nhưng họ là những người "nghiệp dư" ít được đào tạo về kỹ thuật cứu hộ, thiết bị cứu hộ không có hoặc không đủ, đã có những mất mát đáng tiếc.
Từ những mất mát đau thương, cần xây dựng những đội cứu hộ chuyên nghiệp, có các xuồng cứu sinh phù hợp với vùng lũ, các thiết bị phòng cháy chữa cháy rừng. Đào tạo chuyên viên cứu hộ, cứu người phù hợp với tình trạng khẩn cấp.
Nhiều cánh tay nhân ái đã đến với nhân dân Quảng Bình, xin có lời tri ân sâu sắc. Trong cảnh mưa như trút, một gói quà, một thùng mì tôm, một đòn bánh tét, một bộ áo quần thật là quý, đó là tình cảm nhân dân cả nước dành cho dân Quảng Bình, hãy trân trọng và nâng niu.
Cao Việt Sỹ
Nguồn : VNTB, 24/10/2020
*********************
Thủy điện và lũ lụt miền Trung : Tội đồ hay bị oan, theo giới khoa học Việt Nam
BBC, 24/10/2020
Hàng năm khi xảy ra lũ lụt ở khu vực miền Trung- Tây Nguyên, trong dư luận Việt Nam lại nổ ra tranh cãi về việc cho rằng nguyên nhân, to hay nhỏ, là từ việc xả lũ của các hồ thủy điện.
Người dân nhận quà cứu trợ hôm 16/10/2020 ở Quảng Trị
Vậy giới khoa học và chính phủ Việt Nam những năm qua nói gì về vấn đề thủy điện và lũ lụt ?
Từ một hội thảo năm 2009
Nhiều năm trước, vào tháng 11 năm 2009, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam khẳng định, thủy điện không phải nguyên nhân gây ra lũ lụt và cũng không làm trầm trọng thêm thiệt hại vào năm đó tại miền Trung, Tây Nguyên.
Khi đó, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phan Kỳ Nam, nguyên chủ nhiệm khoa Thủy điện, Đại học Thủy lợi Hà Nội khẳng định : "Thủy điện không làm trầm trọng thêm lũ lụt tại miền Trung, Tây Nguyên. Nó không sinh thêm nước cũng không xả nhiều hơn lượng nước mưa trong lưu vực. Thực tế, nhiều công trình thủy điện lớn đều có quy trình chống lũ".
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đình Hòe, Trưởng ban tư vấn giám định xã hội - Hội bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường Việt Nam phân tích : "Nguyên nhân khiến miền Trung là "tâm bão", "rốn lũ" của cả nước do đặc trưng sông ngắn, cửa sông kiểu liman (khuyết áo), thoát lũ rất kém. Đoạn trung lưu ngắn, thậm chí có sông hầu như không có trung lưu làm cho động lực nước mùa lũ không bị triệt tiêu khi nước lũ dồn về cửa sông".
Tuy nhiên, tại hội thảo này năm 2009, các nhà khoa học cũng đồng tình vẫn tồn tại một số vấn đề mà các thủy điện miền Trung cần phải khắc phục.
Họ nói khâu tái quy hoạch phát triển, sắp xếp lại dân cư để ứng phó với việc xả các hồ chứa chưa được tính toán đủ và tiến hành đồng bộ sau khi có thủy điện trên thượng nguồn.
Họ kêu gọi cần giữ được độ phủ của rừng và bổ sung quy chuẩn xây dựng công trình trên các dòng sông ở miền Trung.
2013 : 'Góp phần giảm lũ chứ không thể gây lũ'
Ngày 25/11/2013, dưới sự chủ trì của Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng, Bộ Công Thương họp đánh giá kiểm điểm tình hình phát triển thủy điện và công tác quản lý vận hành các hồ chứa thủy điện khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Theo tường thuật, tại hội nghị, đa số các đại biểu đều có đánh đánh giá nhận xét về việc các hồ thủy điện ở trong khu vực thực hiện đúng quy trình vận hành hồ chứa, "góp phần giảm lũ chứ không thể gây lũ".
Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng khi đó nói vận hành các công trình dự án thủy điện không tránh khỏi những hạn chế tác động đến đời sống người dân khu vực hạ du.
Tuy nhiên, ông nói cần phải đánh giá làm rõ thêm việc phối hợp quản lý hồ chứa thủy điện để nâng cao hiệu quả hoạt động của các dự án này cũng như công tác quản lý vận hành xả lũ, làm tốt công tác dự báo tại các hồ chứa, để mang lại an tâm cho người dân tại các địa phương trong mùa mưa bão.
Cùng thời điểm này, tháng 11 năm 2013, báo Công thương, cơ quan ngôn luận của Bộ Công thương, cho đăng bài "Gánh nặng của thủy điện".
Bài này nói : "Ngoài nhiệm vụ phát điện, các hồ thủy điện còn nhiệm vụ cắt và chống lũ trong mùa mưa bão, điều tiết dòng chảy, xả nước chống hạn cho vùng hạ du trong mùa khô. Tùy từng loại hồ chứa, việc vận hành các hồ thủy điện được phê duyệt phù hợp với quy hoạch lưu vực sông và quy hoạch bậc thang thủy điện. Tuy nhiên, hồ nào cũng chỉ có dung tích nhất định, nếu lượng nước về vượt quá sức chứa thiết kế, các hồ buộc phải xả xuống hạ du, nhưng bao giờ lượng nước xả cũng ít hơn lượng nước về vì một phần nước được tích lại trong hồ. Vì vậy, nếu không có hồ thủy điện, lũ lụt ở miền Trung thời gian qua có thể còn nặng nề hơn".
Tuy vậy, bài báo thừa nhận : "Thực ra, xét cho cùng thì thủy điện cũng không phải vô can. Việc phá rừng làm thủy điện mà không trồng lại rừng kịp thời chính là cơ hội để tạo dòng chảy lớn, gây nên những cơn lũ khủng khiếp theo chiều hướng : Lượng nước đầu nguồn về lớn và nhanh hơn, đỉnh lũ cao hơn, thời gian ngắn hơn. Trong khi địa hình các sông khu vực miền Trung có độ dốc lớn, lòng sông hẹp nên cường độ lũ mạnh hơn".
"Về lý do lũ lên nhanh thoát chậm, nhiều người cho rằng, cửa sông ven biển bị bồi lấp, hiện tượng vi phạm hành lang bảo vệ hồ chứa vẫn diễn ra ở nhiều nơi, nhất là khu vực bán ngập. Có những đợt lũ lớn không phải do thủy điện xả lũ mà chủ yếu do các công trình hạ tầng phía hạ lưu chắn dòng thoát lũ. Đó là chưa kể, nhiều hồ chứa chưa được phê duyệt quy trình vận hành hồ chứa. Nhiều đập chưa cắm chỉ giới bảo vệ an toàn đập hoặc đã có chỉ giới nhưng dân vẫn vi phạm làm ảnh hưởng đến khả năng thoát lũ của công trình.
Theo các chuyên gia, các hồ chứa có thể không cắt được lũ hoàn toàn nhưng nếu tận dụng quy trình vận hành liên hồ khoa học và nghiêm túc thì việc giảm lũ sẽ hiệu quả hơn. Cụ thể, cần có sơ đồ ngập lụt cho liên hồ vì hiện mới chỉ có sơ đồ cho từng hồ, nhưng nếu các hồ cùng xả thì sơ đồ ngập lụt sẽ rất khác".
2020 : Quan điểm một cựu thứ trưởng
Giáo sư Tiến sĩ Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, vừa đề nghị cần có lộ trình thu hẹp các thủy điện nhỏ.
Nói với báo Đất Việt ngày 22/10, ông Hồng tiết lộ : "Trong các quy định về vận hành hồ chứa, liên hồ chứa không yêu cầu thủy điện phải điều tiết lũ, mà chỉ yêu cầu hạ mực nước dâng bình thường xuống trước khi lũ đến. Như vậy không ổn, vì việc thủy điện cần làm là phải điều tiết lũ sao cho không gây ngập hạ du, còn nếu chỉ cắt giảm vài trăm ngàn m3 nước cuối cùng ngập vẫn hoàn ngập thì không có giá trị".
"Bởi luật quy định thiếu chặt chẽ nên nhiều chủ dự án thủy điện khi vận hành không hạ thấp mực nước trước khi lũ đến, mà vẫn không quy trách nhiệm cho họ được khi thiên tai xảy ra".
"Tôi từng gặp một số chủ dự án thủy điện, họ chia sẻ rằng họ sẽ bị phạt, bị truy cứu trách nhiệm nếu không cung cấp đủ điện, cho nên nếu bắt buộc phải hạ thấp mực nước thì họ cũng chỉ hạ xuống 1-2m".
Cựu thứ trưởng cảnh báo trước đây không hề có thủy điện bậc thang, trừ thủy điện Hòa Bình- Sơn La, nhưng về sau này, "thủy điện bậc thang mọc lên quá nhiều".
Ông giải thích : "Vấn đề là thủy điện bậc thang gây nhiều hậu quả, mà hậu quả ghê gớm nhất là gây lũ chồng lũ.
Thử tưởng tượng một cơn lũ với khoảng 60 triệu m3 nước, nếu chưa xây dựng thủy điện thì nó sẽ trôi qua và mất khoảng 1 ngày. Nhưng nếu có thủy điện thì thủy điện sẽ giữ lại một phần nước, nước xả xuống hạ du thấp hơn nhưng lại kéo dài ngày hơn".
Ông nói : "Hiện có sự mập mờ khi nhiều người đổ lỗi lũ lụt ở miền Trung là do mưa lớn kéo dài, nhưng nếu có cột thủy chí đo thì tôi tin rằng mưa lũ khi ấy chỉ chiếm 80%, còn 20% là thủy điện xả xuống".
Ông đề xuất : "Đúng là sau thảm kịch xảy ra tại thủy điện Rào Trăng 3, cần rà soát lại hệ thống thủy điện nhỏ xem vận hành ra sao, rủi ro như thế nào để có giải pháp ứng phó kịp thời.
Nếu phát hiện những trường hợp có nguy cơ gặp sự cố như Rào Trăng 3 nên dừng dự án đó lại ngay. Dĩ nhiên Nhà nước phải tính toán chuyện này để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư vì họ đã đổ tiền vào xây dựng dự án. Nhưng việc này không hề khó. Nhà nước có thể chuyển nhà đầu tư sang một việc khác, cho họ tham gia xây dựng một dự án nào đó, như dự án nhà ở... để bù đắp cho họ".
Nguồn : BBC, 24/10/2020
***********************
Vì sao lũ lụt cứ càng năm càng nặng nề hơn và những thiệt hại không giảm đi ?
Song Chi, RFA, 23/10/2020
Năm nào cũng vậy, Việt Nam cũng phải gánh chịu những trận lũ lụt, và thường là miền Trung chịu nặng nhất do yếu tố địa hình phức tạp vừa có vùng ven biển, vừa có đồng bằng, trung du, đồi núi trọc, núi cao và dốc đứng…
Theo số liệu thống kê từ Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai - Tìm kiếm cứu nạn thị xã Ba Đồn (Quảng Bình), đến sáng 16/10, toàn thị xã có gần 23.000 nhà dân bị ngập.
Năm nào cũng vậy, những hình ảnh tương tự cứ lặp lại : những ngôi nhà chìm trong biển nước mênh mông ngập tới mái, đồ đạc gia súc mùa màng trôi theo lũ, người dân tuyệt vọng trèo lên mái nhà ngồi chờ cứu viện, chèo xuồng đi nhận cứu trợ-những gói mì tôm, những ký gạo, cân đường, thuốc men…Tin tức về những cái chết oan uổng, thảm thương của dân lành do lũ lụt, sạt lở…gây ra tiếp tục được đăng tải, những chiếc quan tài phải treo tạm lên cao trong nhà do chưa thể đi chôn, nước mắt người lớn nhỏ xuống cùng những thiệt hại về người về của trong lúc nước mắt trẻ thơ rơi theo những cuốn tập, sách vở bị nước làm nhòe, hư hết v.v…
Nghệ sĩ, người nổi tiếng, báo chí lại vào cuộc kêu gọi đồng bào chia sẻ với người dân vùng lũ theo tinh thần "lá lành đùm lá rách, lá rách gói lá nát". Và rồi báo chí dư luận lại đặt câu hỏi : lũ lụt-thiên tai hay nhân họa, lại đề cập đến nạn phá rừng, thủy điện xả nước vào mùa mưa v.v…
Nhưng rồi mọi chuyện vẫn đâu vào đó, khi mùa lũ qua đi, hàng vạn hàng triệu gia đình lại phải bắt tay vào làm bù lại những tài sản hoa màu bị mất, cố quên đi những cái chết của người thân, trẻ em lại lầm lụi đến trường…Để rồi năm sau lũ lại tới, lại mất mát tang thương…
Cái vòng luẩn quẩn đó cứ lặp đi lặp lại cũng vài chục năm nay.
Đành rằng cơn lũ năm nay có phần dữ dội hơn, báo chí còn dùng đến những cụm từ "cơn lũ lịch sử", nhưng đây không phải lần đầu Việt Nam đối diện với lũ lụt và càng không phải lần cuối. Song sự chuẩn bị, ngăn ngừa, đối phó, cứu hộ cho dân…vẫn không khá hơn, ngược lại bão lũ mỗi năm càng dữ dội, sự mất mát về người và của cũng nặng nề hơn.
Nhà cầm quyền Việt Nam nói nguyên nhân của bão lũ là do biến đổi khí hậu, nhưng như báo chí cũng đã nêu lên, thiên tai chỉ một phần, còn chín phần là do nhân họa.
Thứ nhất là nạn phá rừng, khi nhìn vào Google Map chúng ta sẽ thấy diện tích rừng của Việt Nam đã bị tàn phá kinh hoàng như thế nào trong 20 năm qua. Có cầu thì mới có cung, chính ý thích thích xây nhà, xây biệt phủ toàn bằng gỗ, đồ nội thất trong nhà cũng bằng các loại gỗ quý của một số đại gia, quan từ trung ương đến địa phương…đã góp phần khuyến khích lâm tặc phá rừng để bán lấy tiền. Nhìn những ngôi biệt phủ hoàng tráng, những chiếc bàn, sập gụ nguy nga chạm khắc tỉ mỉ mà những ông bà chủ "trọc phú", "tư bản đỏ" thời nay ung dung hả hê phô ra, mà cứ thấy phía sau đó là hình ảnh lũ lụt, máu và cái chết của bao người…
Thứ hai, nạn thủy điện-nhất là thủy điện vừa và nhỏ mọc lên bừa bãi khắp nơi, ồ ạt xả nước vào mùa mưa khiến "lũ chồng lũ", lợi thì ít mà hại thì nhiều.
Lẽ ra nhà cầm quyền Việt Nam phải có những biện pháp thật mạnh tay với những vấn nạn này, hạn chế tối đa việc xây dựng thủy điện vừa và nhỏ, về lâu dài chuyển sang tiêu thụ điện mặt trời, điện gió chẳng hạn, phạt thật nặng nạn phá rừng bất kể đó là ai, lâm tặc hay quan chức tiêu thụ gỗ quý, đồng thời cho rà soát những vùng đất, núi có khả năng sạt lở để có biện pháp phòng ngừa, thường xuyên và liên tục cho trồng rừng, be bờ. Song song đó là những biện pháp phòng chống tai họa mùa lũ cho dân như mở các lớp học bơi cho người dân từ trẻ con đến người lớn ở những vùng thường xuyên có bão lũ, xây cầu cao, xây những ngôi nhà chung cao ráo làm điểm trú tạm cho dân trong vùng khi lũ lên, mua thêm tàu lớn, trực thăng, máy bay y tế làm phương tiện cứu hộ v.v…Có biết bao nhiêu điều cần phải làm và hoàn toàn nằm trong tầm tay của nhà cầm quyền, nếu họ thực sự nghĩ đến dân.
VN nghèo, nhưng có nghèo đến mức không thể sắm những phương tiện tối thiểu cần để cứu hộ cho dân trước bão lũ hàng năm, trong khi sẵn sàng vung tay phung phí tiền cho những chuyện khác ? Ví dụ, chỉ cần nhìn vào việc tổ chức đại hội đảng bộ hoành tráng tại các tỉnh thành vừa rồi cũng đã là bao nhiêu tiền. Tỉnh càng nghèo thì càng chơi sang. Nào "Tỉnh Gia Lai đã chi hơn 1,2 tỉ đồng để mua cặp da, đồng hồ thông minh, bút kim loại… phục vụ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XVI. ("Gia Lai chi hơn 1,2 tỉ đồng mua cặp da, vòng tay thông minh… phục vụ đại hội Đảng", Người Lao Động), nào "Tỉnh Quảng Bình đã quyết định chi hơn 2,2 tỉ đồng để mua cặp đựng tài liệu cho khách mời và đại biểu đến tham dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII". ("Quảng Bình chi 2,2 tỉ đồng mua "cặp đựng tài liệu cho đại biểu và khách mời" dự đại hội", Người Lao Động)",Tuyên Quang dự chi 2,5 tỷ đồng may trang phục cho đại biểu", Trí thức Việt Nam, với chất liệu của Ý, cúc , khóa của Đức, vải lót của Nhật v.v…Nhưng trước phản ứng của dư luận đã phải dừng lại.
Hoặc chuyện đua nhau xây tượng đài nghỉn tỷ cũng thế. Từ Nam ra Bắc chỗ nào cũng có tượng đài, nhất là tượng đài Hồ Chí Minh. Không chỉ tượng đài, các loại đền thờ, công viên tưởng niệm, bảo tàng lưu niệm Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản khác, như Lê Duẩn, Fidel Castro, Tôn Đức Thắng…, hoàng tráng, tốn kém, đã mọc lên khắp các tỉnh thành trong nhiều năm qua, với chi phí mỗi công trình từ vài chục tỉ đồng tới cả ngàn tỉ đồng. Và những công trình kiểu như vậy vẫn tiếp tục tăng giữa lúc các đề án mới đang được triển khai, vì đó là loại công trình dễ được duyệt, dễ tham nhũng nhất !
Trong khi đó thì người dân tại các tỉnh nghèo, vùng sâu vùng xa tiếp tục thiếu thốn từ cây cầu cho tới trường học, bệnh viện…và mùa lũ tới thì thiếu thốn các phương tiện phòng chống lũ, cứu hộ…Nên những câu chuyện đau lòng như một người chồng ở Thừa Thiên-Huế nhờ người chèo thuyền chở vợ vượt lũ đến bệnh viện sinh con, không may nước chảy xiết thuyền bị lật, sản phụ và cả đứa con trong bụng bị nước cuốn đi. Cái chết thảm thương của nạn nhân và hình ảnh người chống vật vã quỳ bên dòng nước lũ gào khóc gọi tên vợ khiến ai cũng nghẹn lòng. Và đó chỉ là một trong vô số bi kịch khác nhau của người dân khi mùa lũ đến, từ hàng chục năm nay.
Rồi năm sau, năm sau nữa, những cảnh này vẫn tiếp tục lặp lại…Khi những nguyên nhân gốc rễ không được giải quyết, khi một nhà cầm quyền luôn tự cho mình là nhà nước "của dân, do dân, vì dân" nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Chỉ có người dân tiếp tục hỗ trợ cho nhau theo truyền thống nghĩa tình bao đời của người Việt Nam.
Thiên tai là điều bất khả kháng, nhưng nhân họa thì hoàn toàn có thể ngăn ngừa, hạn chế, trong một mô hình thể chế chính trị minh bạch hơn, với một cơ chế có thể kiểm soát, phân tán quyền lực, có thể ngăn chặn tham nhũng một cách hiệu quả, một cơ chế cho phép các tổ chức dân sự có thể hoạt động hỗ trợ, cứu hộ dân công khai thay vì chỉ là những cá nhân tự phát như hiện nay, còn các tổ chức thuộc nhà nước thì không tạo được lòng tin cậy của người dân để họ có thể gửi gắm những đồng tiền, phương tiện hỗ trợ cho đồng bào khi cần ; cuối cùng là một cơ chế cho phép những tiếng nói chỉ trích chính quyền mạnh mẽ từ truyền thông độc lập và quyền của người dân được lên tiếng, được biểu tình phản đối nếu chính quyền làm sai… Chỉ có trong một thể chế như vậy may ra mới ngăn ngừa, giảm thiểu được phần nào lũ lụt và những thiệt hại từ đó mà thôi.
Song Chi
Nguồn : RFA, 23/10/2020 (songchi's blog)
*********************
Vì sao Sơn Tinh thời nay rớt kiếm ?
Gió Bấc, RFA, 22/10/2020
Trị thủy là truyền thống của dân tộc Việt có từ thời hồng hoang, trước truyền thống chống Tàu hàng ngàn năm. Truyền thống đó được ghi nhận trong truyền thuyết Sơn Tinh- Thủy Tinh, trong tính ngưỡng dân gian thờ thần núi Tản Viên.
Trước khi có đảng, Sơn Tinh toàn thắng !
Vơi điều kiện địa lý của vùng đất ven biển, chịu ảnh hưởng đới khí hậu gió mùa Châu Á, ngập lụt vào mùa mưa là chuyện bình thường. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương có câu hát rất hay về cái chuyện đến hẹn lại lên đó "Trời hành cơn lụt mỗi năm !". Nhưng chỉ là hành cho cực khổ chứ không phải là tai họa chết người. Chính những cơn lụt hàng năm là một tác nhân bồi đắp nên những đồng bằng màu mở ở hạ lưu sông và vùng duyên hải khắp từ Bắc, Trung, Nam bộ. Thậm chí ở các vùng trủng Miền Nam ngày xưa mỗi năm hai mùa mửa nắng, mặn ngọt, người ta còn gọi thân thương gọi là "nước về" là "mùa nước bạc". Từ bạc ở đây vừa chỉ màu nước phù sa và cũng hàm chừa ý nghĩa bạc vàng.
Thời đó, chưa có khoa học, thiếu sự lãnh đạo của Đảng, chỉ bằng công cụ thô sơ đồ đá nhưng Sơ Tinh của người Việt luôn thắng. Thủy Tinh chỉ đem nước về hù dọa rồi rút đi để lại lớp phù sa màu mỡ cho thế hệ con cháu Sơn Tinh- Mỵ Nương gieo trồng gặt hái gầy dựng cuộc sống ấm no chứ không giết chóc được ai.
Thời nay, đã có Đảng đưa đường chỉ lối, khoa học phát triển ngang tầm thé giới với điện thoại Bphone của anh Quảng nổ hơn hẳn Apple, với xe Vinfast của anh Vượng Râu sang hơn Mercedes…. ấy mà dân Việt cứ phải thuaThủy Tinh. Thua toàn tập từ sinh mạng con người đến tài sản vật chất, mùa màng thất bác. Bản thân Sơn Tinh còn mất tích không biết bỏ xác nơi đâu !
Sơn Tinh không chỉ thua ở đồng bằng đất thấp mà thua cả ở vùng núi, vùng cao. Ngay cả các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái cũng bị rơi vào cảnh lũ lụt. Ngày xưa lũ lớn chỉ 60 năm theo chu kỳ lục thập hoa giáp mới có lần mưa bão lớn vào năm Thìn. Gần đây nhất là cơn bão lụt năm 1904 ở miền Nam và năm 1964 ở miền Trung.
Ấy vậy mà sau khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước, Sơn Tinh bị thua tơi tả không những không che chắn bảo vệ cho hậu duệ của giống nòi Âu Lạc mà chính thân thể, da thịt của Sơn Tinh bị Thủy Tinh tùng xẻo ra thành từng mảng đã trở thành tai họa chết người vì lở núi, sạt đất.
Hai thập kỷ qua hầu như có bảo là có lũ, có sạt lở đất, có chết người.
Ai đã hạ gục Sơn Tinh ?
Mới đây, ổng Tổng Cục trưởng Tổng cục Kiểm lâm đã trả lời báo chí cho rằng lũ lụt xảy ra là do biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan. Ý kiến này chắc hẳn sẽ hợp lòng lãnh đạo đảng, chính quyền nhà nước cộng sản vốn quen quan niệm "Thất mùa là bởi thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài đảng ta !’.
Với người dân và với những người tâm huyết, giới khoa học có trách nhiệm, câu trả lời hoàn toàn đối nghịch.
Hơn 10 năm trước nhà văn Nguyên Ngọc đả đăng bài NƯỚC MỘI, RỪNG XANH VÀ SỰ SỐNG trên báo xuân Thời Bao Kinh Tế Sài Gòn lý giải nguyên nhân và dự báo thảm họa này. Vốn sống hơn nửa đời người ở duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên, với tình yêu đất yêu rừng yêu người thiết tha, ông đã ghi nhận lý giải thật sinh động mối liên hệ tuần hoàn máu thịt giữa những cánh rừng đại ngàn Tây Nguyên với những dòng sông và những mạch nước ngầm gọi là NƯỚC MỘI trên những bải cát ven biển. Rừng Tây Nguyên ngăn giữ nước mưa và núi, đất đai Tây Nguyên nghiêng mình thẩm thấu đưa nước từ đại ngàn ra biển.
Đến cuối thập kỷ 1990, một đại biểu Quốc hội người dân tộc từng cay đắng phát biểu : "Báo cáo Quốc hội, chúng ta đã hoàn thành công cuộc phá rừng !". Câu nói ấy tạo ra tiếng vang nhất định nhưng chừng như chỉ được xem là cách nói trào lộng thú vị chứ từ lúc ấy đến nay, cả nước chưa hề có chiến lược, kế hoạch nghiêm túc để bảo vệ, khôi phục rừng nguyên sinh. Những ý kiến kêu gọi bảo vệ rừng, bảo vệ sự nguyên vẹn của hệ sinh thái Tây Nguyên vẫn của một số nhà khoa học, văn hóa chỉ là tiếng kêu vô vọng. Quốc hội có ra nghịị quyết trồng 5 triệu ha rừng nhưng chưng như phần lớn chỉ được triển khai trên giấy. Giỏi hơn nửa, người ta còn có cách đánh tráo khái niệm, xem đất cao su là đất rừng nên cho dù không là 5 triêu mà 10 triệu hay 20 triệu thì vẫn hoàn thành kế hoạch.
Ngay lập tức mẹ thiên nhiên đã lên tiếng trả lời. Một trận lũ kinh hoàng ở Miền Trung năm 2009 "Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoa". Đó là nguyên nhân mà nhà văn Nguyên Ngọc đã viết bài báo. Ngay từ 10 năm trước, cũng đã có cách phủi trách nhiệm cho trời như vậy.
Không phải tại trời, chỉ tại phá rừng ?
Nhà văn Nguyên Ngọc đã phản biện hùng hồn thuyết phục bằng những so sánh thống kê rất thuyết phục :
"Một vị có trách nhiệm rất cao giải thích : Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại trời và tại dân, trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ngu dốt ! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói : năm 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 mi li mét ; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1.300 mi li mét, gấp hơn ba lần. Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại là tai họa khủng khiếp, vì sao ?
Ở miền Trung - mà ở cả nước đều vậy - ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam bộ thuở nào.
Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ nhà nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nỗi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dỡ mái để leo lên nữa ! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng.
Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần. Ngày nay hễ đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…
Con số 1.300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ" {1}.
Lập luận của nhà văn Nguyên Ngọc cũng là quan điểm chung của giới khoa học già cả nhân loại tiến bô biết thừa nhận sự thật.
Nhà báo tự do Trương Châu Hữu Danh từng đi sâu điều tra về tình trạng rừng bị bức tử đã đặt câu hỏi tại sao trong chiến tranh bom đạn tàn phá, quân đội Mỹ dùng chất da cam để khai hoang nhưng rừng U MInh, Tây Nguyên vẫn chừng như nguyên vẹn thế nhưng chỉ mấy mươi năm sống trong hòa bình dù đươc đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, Kiểm Lâm, Bộ đội Biên phòng bảo vệ tại sao rừng bị phá trắng ?
Ở thế kỷ trước, rừng nguyên sinh đươc xe thịt lấy gổ và đươc cao su hóa, cà phê hóa thành làn sóng kinh hoàng mà vị đại biểu Quốc hội đã tổng kết là hoàn thành sự nghiệp phá rừng. Đến nay rừng chỉ còn lại một số tàn tích trong các khu bảo tồn. Về danh nghĩa luật lệ, các khu vực này đươc bảo vệ nghiêm nhặt. Thế nhưng, Thủy Tinh lại có thêm một trợ thủ mới có quyền năng siêu việt hút cạn kiệt nguồn sức lực cuối cùng của Sơn Tinh. Đó là Thủy Điện, đặc biệt là Thủy Điện nhỏ trong các vùng sâu thẳm.
Đầu tư làm Thủy Điện nhỏ một vốn đến 40 đồng lời. Ăn gổ rừng công khai hợp pháp. Chi phí đầu tư thấp lại đươc bán điện giá cao ngất ngưỡng thế nên các đại gia sân sau tha hồ đua nhau làm Thủy Điện.
Chính báo đảng của thành Hồ đã xác nhận điều này " mặc dù "ở trên" đã loại bỏ gần 500 dự án và hơn 1 năm nay không bổ sung dự án mới vào quy hoạch nhưng "ở dưới" vẫn đang đua nhau điều chỉnh, bổ sung, cấp phép cho thủy điện nhỏ. Các thống kê cho thấy, cứ 1MW thủy điện là mất 10-14, 5ha rừng. Trung bình mỗi dự án thủy điện nhỏ hình thành sẽ có 125ha rừng bị xóa sổ. Như thế, với hơn 500 dự án thủy điện nhỏ đã được phê duyệt như hiện nay, chúng ta đã phải đánh đổi 57. 000ha rừng" {2}.
Những "sát thủ nội gián" bức tử Sơn Tinh
Thế lực nào đã tiếp sức sản sinh ra Thủy Điện ? Báo Đảng cũng không hề giấu diếm mắng yêu "Để thủy điện nhỏ gây nhiều hệ lụy như hiện nay có trách nhiệm của chính quyền các địa phương và bộ ngành liên quan. Trong đó, Bộ NN-PTNT được giao trách nhiệm giữ rừng đã làm gì, ở đâu khi các dự án được cấp phép xây dựng công khai trong khu bảo tồn, giữa lõi rừng già dù đã có đủ chủ trương, chính sách bảo vệ rừng ? Bộ TN-MT đã ở đâu trong vấn đề đánh giá tác động môi trường của các dự án thủy điện nhỏ khi để xây dựng phải phá rừng, tận diệt khoáng sản, đe dọa đa dạng sinh học… ? Bộ Công thương có kiểm tra, rà soát, đề nghị chính quyền địa phương loại bỏ những dự án không cần thiết ? Bộ Xây dựng có kiểm tra, đảm bảo tính an toàn hồ đập tại các dự án thủy điện nhỏ và vừa ? "
Báo đảng chỉ rút cái dây kinh nghiệm chung chung về trách nhiệm các Bộ ngành còn nhà báo Trương Châu Hữu Danh đã chỉ ra đích danh với đầy đủ vật chứng những "sát thủ nội gián" đầy quyền uy đã ám trợ Thủy Tinh đó là những quan chức địa phương nhất là quan chức ngay chính ngành Kiểm Lâm
Trên Fb cá nhân nhà báo Hữu Danh đã đăng hình ảnh dinh thự nguy nga làm toàn bằng gổ quý của "Khổng Trung - Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị - tỉnh đang bị lũ lụt kinh khủng do bọn lâm tặc và thủy điện góp phần.
Nhà Trung, từ cổng, rào đến nội thất đều bằng gỗ quý hàng trăm, ngàn năm tuổi đưa từ rừng nguyên sinh về. Tổng cộng khoảng 80m3 gỗ quý như giáng hương, gõ đỏ...
Căn nhà toàn gỗ quý này tọa lạc tại xã Hải Ba, Hải Lăng, Quảng Trị" {3}.
Nhà Báo Hưu Danh cũng đăng tải hình ảnh dinh thự gỗ của một ông chủ tịch UBND huyện ở Đắcklắk "sát nách Hạt Kiểm lâm. Những cây cột tròn cực lớn, toàn gỗ căm xe, cà chít được ồ ạt chở về. Những tấm ván nguyên khối gỗ hương, gỗ cẩm cũng được tập kết. Những bộ bàn ghế lớn đến mức phải vài chục người khiêng cũng được xe tải loại lớn đưa về nhà ông.
....
Trên khắp dãi đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là nhà của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, những món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá.
Một thực tế là, nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều.
Những căn nhà xa hoa này, được đánh đổi bằng mạng dân.
Quý vị ngủ có ngon không, khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ ?" {4}.
Trận chiến năm nay chỉ mới hồi 1, chỉ mới xáp trận mà đã có hơn trăm người chết, hàng ngàn nhà cửa, hàng ha đất đai hoa màu bị tiêu tan. Bão còn tiếp tục, con số thiệt hai này mới chỉ là quà ra mắt. Sẽ còn bao nhiêu thiệt hại nữa để lót đường cho Thủy Tinh rước cô dâu dự án Thủy Điện, gỗ quý về nhà quan chức ?
Sơn Tinh thời có đảng không chết mới là chuyện lạ ?
Gió Bấc
Nguồn : RFA, 22/10/2020
Chú thích :
1. https://www.thesaigontimes.vn/29438/Nuoc-moi-rung-xanh-va-su-song.html
2. https://www.sggp.org.vn/thuy-dien-nho-tac-hai-lon-692698.html
3. https://www.facebook.com/huudanh.truong.5
4. https://www.facebook.com/huudanh.truong.5/posts/1173564962743909
*************************
Thủy điện và mưa lũ miền Trung
Hoàng Hoành Sơn, VOA, 21/10/2020
Báo Thanh Niên, ngày 10/10, có bài : "Lũ chồng lũ vì thủy điện điều tiết". Bài viết cho biết, hầu hết các hồ thủy điện trên thượng nguồn sông Vu Gia (Quảng Nam) hôm qua 10.10 đều ở mức trên mực nước đón lũ. Cả 3 thủy điện A Vương, Đak Mi 4, Sông Bung 4 đều phải xả nước điều tiết lũ xuống hạ du, khiến "lũ chồng lũ" (1).
Mưa lũ gây ngập lụt ở Quảng Bình. Ảnh chụp màn hình từ Vietnamnet.
Đấy chỉ mới tính riêng khu vực Quảng Nam. Nếu tính cả Huế, Quảng Trị và Quảng Bình do mưa lũ kèm theo sạt lở đất mấy ngày gần đây sẽ thấy tình trạng thê thảm hơn bội phần. Lũ đặc biệt lớn trên sông Kiến Giang (Lệ Thủy - Quảng Bình) vượt mức lũ lịch sử năm 1979, làm nhiều người chết.
Mưa lũ và sạt lở đất khiến số người tử vong ở 10 tỉnh miền Trung và Tây nguyên tăng lên 102. Số người mất tích là 26. Tối 19/10, Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai thông tin, ba tỉnh thiệt hại về người nhiều nhất là Quảng Trị 48 người, Thừa Thiên Huế 27 người và Quảng Nam 11 người. Đến 16h chiều nay, ba tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị có 166.780 ngôi nhà đang bị ngập, đã sơ tán hơn 28.900 hộ với khoảng 90.900 người. 924 ha lúa, 106.616 ha hoa màu bị ngập lụt, thiệt hại, 461.627 con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi (2).
Tại sao năm nào cũng tái diễn lũ chồng lũ, cũng thủy điện xả lũ bắt chợt người dân như thế ? Câu trả lời có sẵn trong hồ sơ xây dựng thủy điện của Bộ Công Thương. Tính đến 2018, tập đoàn điện lực Việt Nam báo cáo : cả nước có 818 dự án thủy điện (DATĐ) với tổng công suất lắp đặt 23.182 MW. Trong đó, đã đưa vào khai thác sử dụng 385 DATĐ với tổng công suất lắp đặt 18.564 MW, đang xây dựng 143 DATĐ với tổng công suất lắp đặt 1.848 MW và đang nghiên cứu đầu tư 290 DATĐ với tổng công suất lắp đặt 2.770 MW (3).
Trong đó, Quảng Nam có tổng cộng 42 dự án thủy điện gồm 10 dự án lớn, 32 dự án nhỏ và vừa, nhưng tỉnh này vẫn muốn xây thêm nhiều thủy điện nữa (4). Huế, nơi có thủy điện Rào Trăng 3 bị sạt lở khiến 17 công nhân và 13 quân nhân bị vùi lấp. Đây là DATĐ thứ 13 được cấp phép ở tỉnh này (5). Tỉnh Quảng Trị hiện có 8 dự án thủy điện đã đi vào vận hành, phát điện. Nhưng thời gian tới Quảng Trị sẽ còn hàng loạt dự án Thủy điện khác đi vào hoạt động khi nhiều dự án nghìn tỷ được cấp phép và đang trong quá trình xây dựng (6). Tỉnh Quảng Bình cũng không hề chịu kém cạnh về số lượng thủy điện. Bên cạnh những thủy điện lớn trên sông Gianh, Long Đại và Kiến Giang, tỉnh này còn muốn làm thêm 20 thủy nhỏ và vừa khác nữa (7).
Trên đây là một vài chỉ số về hiện trạng bùng nổ thủy điện tại miền Trung Việt Nam. Dĩ nhiên, trên các bản báo cáo trình chính phủ phê duyệt xây đập thủy điện, EVN luôn đề cao rằng thì là : công trình thủy điện kết hợp khai thác nguồn nước, điều tiết dòng chảy, hạ cao trình mực nước lũ, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch và nhất là sử dụng nguồn nước cho tưới tiêu, điều tiết nước sinh hoạt và cải tạo môi trường sinh thái, khai thác tiềm năng thủy điện hiệu quả về kinh tế xã hội, vân vân và vân vân.
Hiển nhiên, lợi ích luôn là mục tiêu được EVN và các nhà đầu tư xây dựng thủy điện nhắm tới. Nhưng ích cho dân chẳng thấy đâu mà trước mắt lợi cho EVN, các nhóm lợi ích và cá nhân cán bộ lại rất nhiều.
Công trình thủy điện thường có tuổi thọ hơn 100 năm. Chi phí cho bảo dưỡng công trình cũng rất ít. Nhờ vào thủy lực nên năng lượng thủy điện tạo ra rẻ hơn gấp nhiều lần, so với nhiệt điện hoặc điện hạt nhân vốn phải mất khá nhiều chi phí mỗi năm và đầu tư công nghệ cao. Trong tổng công suất đặt của hệ thống điện quốc gia, thủy điện hiện chiếm 41% (8). Nhưng hiện thực giá điện mà người dân cả nước đang sử dụng của EVN có rẻ đúng như theo lẽ phải rẻ không ? Hay EVN xây dựng nhiều thủy điện gần biên giới nước bạn chỉ để xuất khẩu điện ? Và giá điện vẫn tiếp tục cao để EVN móc túi người dân đầu cơ cho các công trình thủy điện mới và cứ tiếp tục như thế mà dân không hề biết tiền đó sẽ đi vào tài khoản cá nhân nào ?
Các công trình thủy điện cải tạo môi trường sinh thái đâu chưa thấy, chỉ riêng việc hủy hoại rừng đầu nguồn và rừng nguyên sinh là có thật 100 phần trăm. Thủy điện Rào Trăng 3 bị sạt lở hàng chục ngàn mét vuông và còn hàng chục điểm sạt lở nghiêm trọng và nguy hiểm khác tại khu vực này. Lý do lớn nhất cho việc nước thấm gây sạt lở núi và lũ quét chính là không còn cây cối ở rừng đầu nguồn để cản nước, giữ đất. Vì thế, khi thời tiết trở nên cực đoan do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, mưa to, mưa kéo dài sẽ kích hoạt cho thảm họa sạt lở đất diện rộng và lũ quét cực kỳ nguy hiểm.
Việc xây thủy điện phụ giúp vào sản lượng điện chung cả nước, nhờ sức nước để giúp đời sống người dân bớt chật vật, giảm thiểu nhiệt điện gây ô nhiễm là điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên, cái sự bùng nổ các công trình thủy điện mẹ bồng con, em cõng anh trên các tuyến sông khắp các vùng cao nguyên Trung phần và khắp dãy Trường Sơn đã khiến tài nguyên rừng bị chặt phá không thương tiếc, cây cối và khoáng sản bị khai thác vô tội vạ. Thủy điện chỉ là phương tiện biện minh cho mục đích khai thác tài nguyên đất nước và rừng là đối tượng được nhắm tới. Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, trong phạm vi 26km, sông Rào Trăng đã phải ôm 4 thủy điện. Những công ty do EVN chọn thầu đã hủy hoại 200 ha rừng đặc dụng để xây thủy điện (9) và còn biết bao ha rừng bị tàn phá khác khi mở đường vận chuyển máy móc đến địa điểm xây dựng này.
Vậy hơn 800 thủy điện trên khắp cả nước đã, đang và sẽ phá hoại tài nguyên rừng tại Việt Nam đến mức nào ? Rừng quả thật là đã hết, theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, trong 4 năm từ 2016/2019, diện tích rừng bị thiệt hại đã lên tới 7.283ha. Như vậy, trung bình mỗi năm chúng ta mất đi 2.430ha rừng (10). Rừng được ví như áo giáp để bảo vệ sự sống của môi trường và cả trái đất. Chính quyền Việt Nam nói chung và bộ công thương nói riêng nghĩ gì khi họ trực tiếp hủy hoại chiếc áo giáp quý giá này.
Rừng hết cây chết, nên rừng không thể bảo vệ người dân vùng xuôi. Sạt lở, xói mòn, lũ quét ngày một gia tăng và dòng nước cứ thế tràn về hạ lưu. Quảng Nam, Huế, Quảng Trị và Quảng Bình đã vang tiếng than khóc của hàng trăm ngàn người dân đang đêm phải leo lên nóc nhà, bu bám trên những đỉnh cao còn sót lại kêu cứu. Mưa trắng trời, biển nước mênh mông dâng tới nóc nhà. Trong dòng nước chảy xiết chực cuốn trôi tất cả, người dân đành buông xuôi mọi tài sản, thực phẩm, đồ vật để tự cứu mình và người thân trong gia đình, nhất là người già yếu, người bệnh, người khuyết tật và trẻ em. Đã có những trường hợp thiệt hại nhân mạng thương tâm khôn xiết kể. Một người chồng gào khóc bất lực trước mênh mông nước lũ đã cuốn trôi người vợ và đứa con yêu dấu trong bụng chưa kịp chào đời. Đó là hình ảnh đại diện đầy tang thương cho những mất mát khôn nguôi của người dân nghèo miền Trung.
Điều kỳ lạ là công năng thủy điện trong việc điều tiết nguồn nước, hạ cao trình mực nước lũ chỉ được biết đến qua việc xả lũ và xả lũ. Mùa khô thủy điện giữ lại nước khiến hạ lưu khô kiệt. Mùa mưa thủy điện cứ thản nhiên xả lũ theo kiểu mưa nhỏ xả ít, mưa lớn xả nhiều và mưa to xả thả ga để cứu đập hơn là cứu dân. Mọi hậu quả đều đổ lên người dân ; từ việc ngâm nước bạc dễ gây cảm thương hàn và nhiều bệnh ngoài da cho đến bị dòng lũ cuốn trôi hoặc làm hư hỏng các vật dụng gia đình, hoa màu đến mùa thu hoạch tan hoang ; con người và cả gia súc gia cầm trôi mất hoặc chết. Điều đáng nói là công năng của thủy điện chỉ giúp gia tăng dòng chảy cho mưa lũ, giúp mức nước đạt đỉnh lịch sử chứ không hề có điều tiết nào như báo cáo trình bày.
Như thế, thủy điện gây họa hơn là sinh lợi. Từ 10 năm qua, miền Trung đều phải gánh chịu lũ lụt lên cao lên nhanh hơn những năm chưa có thủy điện và ngày càng khốc hại hơn. Năm nào cũng nói đến chuyện thủy điện xả lũ và cứ thế mà không hề có giải pháp cụ thể. Đang khi Bộ Công Thương vẫn tiếp tục ký duyệt xây thêm thủy điện.
Dân nghèo luôn là đối tượng hứng chịu tai ương lũ lụt thảm khốc nhất. Rõ ràng chẳng có "biệt phủ" cán bộ nào bị cuốn trôi trong lũ lụt, vì biệt phủ được xây dựng cao và quá chắc chắn. Các biệt phủ này luôn có nội thất bằng gỗ quý, do thợ khéo đến tận phủ xẻ gỗ và làm thành phẩm. Nguồn gỗ này được các công ty con của quân đội, do các tướng tá sở hữu cung cấp và chúng được khai thác trực tiếp từ các thủy điện vốn nằm tại những nơi rừng nguyên sinh đầu nguồn, được hô biến thành các tác phẩm nghệ thuật chạm khắc, từ bộ bàn ghế, phản, trần nhà, tranh khảm trong biệt phủ của các đảng viên cao cấp ở Việt Nam.
Có lợi, đảng viên hưởng ; có họa, dân tự chịu. Điển hình là ông Trọng, tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Việt Nam, chỉ có lời kêu gọi giúp đỡ người nghèo, đồng bào vùng lũ chứ không hề đến thị sát hoặc đưa ra giải pháp cứu trợ khẩn cấp nào hỗ trợ người dân đang cơn nguy khốn (11). Vậy thuế khóa dân đóng không có phần nào dành cho cứu trợ khẩn cấp sao ? Hoặc ít là bớt những khoản chi đại hội đảng bộ các cấp để hỗ trợ tức thời cho người dân đang cần thực phẩm và nước sạch ngay lúc này. Tại sao không truy cứu trách nhiệm của những thủy điện xả lũ gây úng ngập, nước dâng nhanh gây chết người khiến dân chúng điêu đứng. Hay đảng đã biến nó thành một điều hiển nhiên hàng năm do thiên tai chứ không do nhân tai ?
Điều đáng nói về thủy điện và mưa lũ ở miền Trung lúc này còn diễn tả sự vô ơn của đảng cộng sản Việt Nam đối với rừng thiêng sông núi. Suốt những năm tháng chiến tranh Việt Nam, bộ đội miền Bắc đã dựa vào rừng núi để áp dụng chiến tranh du kích, ẩn nấp dưới tán cây của rừng, ăn những sản vật của rừng, dùng những cây thuốc của rừng, dựa vào rừng. Vậy mà 45 năm sau, bao nhiêu cánh rừng bạt ngàn của Việt Nam hầu như không còn nữa. Quả là qua cầu rút ván, hết chiến tranh đảng đã chở gỗ của rừng về nhà cho đỡ nhớ chăng ? Hoặc thâm hiểm hơn, đảng muốn biến những thủy điện thành những công cụ chiến tranh khi cần khống chế dân ? Chận nguồn nước dân hạ nguồn hết cục cựa, khi cần xả lũ ngồi nhà đỡ ra đường biểu tình, lo ở nhà chống lụt khỏi suy nghĩ bậy bạ về Đồng Tâm, biển đảo hoặc đại dịch Vũ Hán v.v…
Nghịch lý ở Việt Nam là chính quyền đảng cộng sản không có sự đồng cảm giữa người với người. Một minh họa về điều này là hình ảnh người đàn ông mất vợ và đứa con sắp chào đời trước dòng nước lũ vô hồn ngày 13/10. Trong ngày này, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn rực rỡ cờ hoa, tổ chức đại hội đảng bộ lần thứ 17, vẫn mơ tưởng một thủ đô "xanh - thông minh - hiện đại", vẫn báo cáo chính trị là tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng bộ thành phố trong sạch, vững mạnh ; tiếp tục phát triển kinh tế nhanh và bền vững… như không hề có chuyện lũ lụt, chết người tang thương gì đang xảy ra. (12)
Một đảng cộng sản dửng dưng trước đồng bào đau khổ, một thể chế không chọn dân làm gốc, cứ để dân "sống chết mặc bây", có nhắm mục tiêu giúp dân sống an bình, hạnh phúc chăng ? Nếu mấy triệu đảng viên nhóm họp đó dẹp đại hội đảng qua bên, xăng xái ra miền Trung cứu lụt, hỗ trợ người dân trong cơn nguy biến thì đẹp biết mấy. Đáng tiếc là nghĩa cử cao đẹp đó không hề xảy ra trong tâm khảm những người cộng sản thời nay. Chỉ có người dân tự động kêu gọi nhau kẻ ít người nhiều, tự đi cứu trợ đồng bào vùng lũ. Hình ảnh của biết bao nhóm thiện nguyện tự phát lan tràn khắp trên mạng xã hội. Cá nhân ca sĩ Thủy Tiên đã huy động hơn 100 tỷ đồng cứu giúp người dân miền Trung (13).
Tuy nhiên, số tiền mà Thủy Tiên quyên được chỉ nhỉnh hơn môt chút so với 70 tỷ mà Đại biểu Quốc hội Phạm Phú Quốc bỏ ra mua quốc tịch Cyprus ; hay như hiệu trưởng đại học Lương Công Nhớ có 100 tỷ gởi tiết kiệm ; hoặc 12 dự án thua lỗ nghìn tỷ của riêng bộ công thương chẳng hạn (14) ; và con số khổng lồ mấy chục ngàn tỷ đồng hàng năm chi cho các Ủy ban mặt trận tổ quốc, Trung ương đoàn thanh niên cộng sản HCM, các Hội thuộc trung ương v.v… và còn biết bao tiền xây biệt phủ, đổ máu công an và người dân lành vô tội để dành đất đai, tiền gởi con cái đi du học nước ngoài ; trong khi lương cán bộ nào cũng chỉ ba cọc ba đồng, muốn có trăm tỷ phải mất hơn 200 năm chắt chiu chứ không thể ngày một ngày hai mà có. Tất cả số tiền kể trên không có dịp chạm đến tay người dân lúc khẩn cấp. Chúng được chuyển tiếp qua tài khoản cá nhân, trở thành tài sản của các nhóm lợi ích hại dân phá nước.
Một điều đáng lo ngại cuối cùng chính là trình độ của các tướng lãnh quân đội Việt Nam hiện nay. Một trận mưa lũ đã làm lộ ra biết bao yếu kém trong công tác đào tạo mọi mặt cho bộ đội Việt Nam. Quân đội chỉ chăm chăm lo làm kinh tế, đầu óc lo tính toán tiền bạc lợi lộc, thời gian đâu trau dồi binh tài thao lược ? Cả xưa và nay, các tướng giỏi phải nắm rõ thiên thời địa lợi, biết khi nào trời có gió có mây, tính toán được nơi đóng quân an toàn, chiếm lợi thế phòng ngự phản công. Vụ đợt sạt lở đất khiến 13 quân nhân, trong đó có viên tướng quân đội Nguyễn Văn Man, thiệt mạng gần thủy điện Rào Trăng 3 ; rồi 22 quân nhân chết trong sạt lở đất tại Đoàn kinh tế, Bộ quốc phòng 337, Hướng Hóa - Quảng Trị, cho thấy khả năng tiên lượng và nhanh nhạy trong việc chiếm được địa lợi hay không. Chỉ mới một trận lũ và sạt lở đất mà cả tướng và quân đều lúng túng không biết nên tiến hay lùi, chẳng biết chạy đi đâu để đi thẳng vào chỗ dễ bị vùi lấp. Ngay cả chọn địa điểm đóng quân cũng không biết lựa chỗ an toàn, lấy đâu ra những nhà phân tích chiến lược, bài binh bố trận trong thời binh biến ?
Tóm lại, miền Trung gánh chịu lũ chồng lũ do biến đổi khí hậu khiến cho thời tiết ngày càng cực đoan hơn. Nhưng đồng thời, vì những thủy điện chồng thủy điện làm cho việc điều tiết nước không được như ý. Việc xả lũ ban đêm càng làm trầm trọng thêm cho biến cố thiên tai kèm theo nhân họa. Rốt cuộc mọi đau khổ đều do dân gánh lấy. Thảm họa thiên tai tuy gây nhiều đau khổ nhưng vẫn không đáng lo cho bằng nhân họa lòng người dửng dưng vô cảm, nhất là từ phía chính quyền địa phương cho đến trung ương, chẳng có ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, cũng không hề có kế sách hỗ trợ nhân dân khi nguy cấp. Điều đáng lo là người dân Việt vẫn câm lặng cam chịu mà không hề có lời đòi hỏi quyền lợi với chính quyền. Ý thức công dân và tư duy phản biện người Việt đo được trong mùa mưa lũ này có lẽ ở mức zero. Vậy nên thảm cảnh mưa bão, lũ lụt sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới và chính quyền vẫn cứ ung dung tự tại như chả có chuyện gì to tát ngoài đại hội đảng.
Hoàng Hoành Sơn
Nguồn : VOA, 21/10/2020
Tư liệu tham khảo :
(1) https://thanhnien.vn/thoi-su/lu-chong-lu-vi-thuy-dien-dieu-tiet-1289932.html
(3) https://www.evn.com.vn/d6/news/385-cong-trinh-thuy-dien-dang-van-hanh-tren-ca-nuoc-6-12-22154.aspx
(4) https://tuoitre.vn/phong-ve/da-co-42-thuy-dien-quang-nam-van-muon-xay-them-1351768.htm
(6) https://vietnambusinessinsider.vn/quang-tri-dang-co-nhung-du-an-thuy-dien-nao-14164.html
(8) https://www.evn.com.vn/d6/news/Cung-ung-dien-nam/2019-Nhieu-thach-thuc-6-12-22666 .
(9) https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/khu-bao-ton-om-4-thuy-dien-d2695.html
(10) https://laodong.vn/xa-hoi/nhung-he-luy-tu-mat-rung-ngay-cang-nghiem-trong-817416.ldo
(12) http://thanglong.chinhphu.vn/thong-qua-nghi-quyet-dai-hoi-dang-bo-tp-ha-noi-lan-thu-xvii