Cần một nền dân chủ đại diện cho Việt Nam và Miến Điện
Jackhammer Nguyễn, Tiếng Dân, 05/02/2021
Một sắc tộc, hay đa sắc tộc ?
Sau vụ đảo chánh ở Miến Điện, trên trang Luật khoa, tác giả Bùi Công Trực có một bài viết rất hay, so sánh Việt Nam với Miến Điện, mang tựa đề "Dân tộc dân chủ : Lời nguyền cho Aug San Suu Kyi, bài học cho Việt Nam".
Nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc sẽ được tổ chức trong Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ảnh : Lễ hội Katê của dân tộc Chăm (Thế giới di sản)
Tác giả so sánh tình trạng đa sắc tộc và tôn giáo của hai quốc gia, từ đó kết luận rằng, Miến Điện là một ví dụ mà người Việt Nam nên chú ý.
Tuy nhiên tôi có một nhận xét là, dường như Bùi Công Trực đã quá nhấn mạnh đến vấn đề mà tác giả gọi là dân chủ đơn sắc tộc (ethnic democracy). Nói nôm na là một nền dân chủ ở một quốc gia sẽ dễ dàng được thực hiện hơn nếu như quốc gia đó có 1 sắc tộc, hay ít nhất, có 1 sắc tộc thống trị.
Bên cạnh đó, tác giả cho rằng, hiện nay hầu như chỉ có ba quốc gia thực hành tốt một nền dân chủ đa sắc tộc (multicultural democracy) là Hoa Kỳ, Anh và Pháp, ba đại thực dân xưa cũ (Hoa Kỳ không hẳn là đại thực dân xưa cũ).
Chắc chắn rằng, nếu một quốc gia có tính sắc tộc đồng nhất thì sẽ dễ ổn định hơn, người ta dễ nghe nhau hơn. Ví dụ rõ ràng nhất ở Châu Á là hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc, hay như một vài nước Châu Âu mà tác giả đề cập. Tuy nhiên hãy nhìn các trường hợp những quốc gia như Ai Cập, Chi Lê, hay Argentina, rất đồng nhất về sắc tộc, nhưng vẫn ì à ì ạch trên con đường dân chủ hóa. (Chi Lê chỉ mới ổn định trong thời gian gần đây).
Không chỉ có Anh, Pháp và Mỹ thực hiện được tốt dân chủ đa sắc tộc (tôi cho rằng tác giả muốn nói đến dân chủ đại diện ?). Hai nước rất gần với Hoa Kỳ về cấu trúc chính trị là Canada và Úc cũng rất thành công. Ngoài ra, trường hợp Ấn Độ, có khi được mệnh danh là nền dân chủ lớn nhất thế giới, tôi không cho là thất bại. Tại các quốc gia thuộc liên hiệp Châu Âu, đa số đều có nền dân chủ đại diện và thành công, rõ nhất là nước Bỉ với hai sắc dân nói tiếng rất khác nhau. Thụy Sĩ có đến bốn thứ tiếng khác nhau.
Thế nên, tôi nghĩ rằng, để một nền dân chủ thành công, có nhiều vấn đề phức tạp và chồng chéo lên nhau, chứ không chỉ sắc tộc. Ngay cả nền dân chủ đa sắc tộc như Hoa Kỳ cũng không phải một sớm một chiều mà có. Bốn năm vừa qua cho thấy, nền dân chủ Mỹ bị thử thách rất dữ dội bởi chủ nghĩa dân túy, phân biệt chủng tộc. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo, trước khi rời nhiệm sở phán rằng : Nước Mỹ không phải là nền văn hóa đa sắc tộc. Nước Úc trong hai mươi năm qua, cũng có lúc rung rinh vì đảng Một dân tộc, chống người Châu Á và người Hồi giáo.
Việt Nam, Miến Điện và… Trung Quốc
Cả ba quốc gia này đều đa sắc tộc, với một sắc tộc thống trị như người Kinh ở Việt Nam, người Miến ở Miến Điện và người Hán ở Trung Quốc. Nhưng tôi nghĩ, Miến Điện không giống như hai nước kia, đó là nền quân chủ tập trung quyền lực kiểu Trung Quốc thời xưa và tiếp nối là chế độ toàn trị của đảng cộng sản.
Hệ thống toàn trị kiểu chi bộ của đảng cộng sản len được vào đến các bản làng của người thiểu số, nắm chặt lấy họ trong hệ thống chính trị. Hệ thống quân đội của các tướng lãnh Miến Điện không len được vào đến các thôn làng của người Karen, người San,… chứ đừng nói chi đến Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi.
Tuy nhiên, trong nội bộ các đảng cộng sản, tính sắc tộc cũng sẽ dần dà chiếm thế thượng phong, với sự thống trị của các đảng viên thuộc về nhóm sắc tộc đa số. Ông Tito đứng đầu nước Nam Tư trước đây, thuộc sắc tộc Croatia thiểu số, nhưng khi Nam Tư tan rã thì đảng Cộng sản Nam Tư được thống trị bởi các đảng viên người Serbia đa số. Tại Trung Quốc, bí thư các khu tự trị người thiểu số thường là người Hán.
Ở Việt Nam, nếu ta xem Trung ương đảng là một quốc hội De Facto, thì nó đã từng đại diện khá đầy đủ các vùng miền và sắc tộc trên cả nước. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng từng có một người đứng đầu thuộc sắc dân thiểu số là ông Nông Đức Mạnh.
Nhưng như nhà báo Nguyễn Hùng có chỉ ra trong bài "Đại hội 13 : Mười bảy ông sao có mỗi một bà", Bộ Chính trị vừa được bầu, không có một người thiểu số nào. Ngoài ra, trong số 200 ủy viên trung ương, chỉ có 10 người thuộc các dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 5%, trong khi người thiểu số chiếm 15% dân số. Không có người Khmer nào, mặc dù vấn đề Khmer Krom không phải là vấn đề nhỏ trong những năm qua.
Ngoài vấn đề Khmer Krom, chính phủ Việt Nam đã không ít lần phải giải quyết những bất ổn liên quan đến sắc tộc như vụ Fulro, người Hmong Lai Châu, các sắc tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở Tây nguyên. Lo ngại của tác giả Bùi Công Trực về một tương lai "những kìm nén của đảng Cộng sản bị tháo gỡ" là đáng quan tâm.
Hãy để cho những sắc tộc có tiếng nói ở một cơ cấu đại diện, dù nó là quốc hội lập hiến (con đường còn xa) hay trung ương đảng hiện thời.
Tôi vẫn tin ở cơ cấu dân chủ đại diện, dù đôi khi nó có những biến động như bốn năm qua ở Mỹ, hay Ấn Độ, khi chủ nghĩa dân túy lên ngôi, một phần từ sự lo ngại của sắc dân đa số. Thượng nghị sĩ Mỹ Bernie Sanders từng nói, dân chủ thì phải có sự lộn xộn thôi.
Vấn đề Bắc Ái Nhĩ Lan của Vương quốc Anh, vấn đề xứ Basque và Catalan của Tây Ban Nha rồi cũng được giải quyết, khi những người đại diện các sắc dân thiểu số có mặt ở quốc hội.
Việc đàn áp người thiểu số như vấn đề người Rohingya ở Miến Điện, người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, người Khmer và Phật giáo tiểu thừa ở Tây Nam Bộ Việt Nam, là những thất sách.
Jackhammer Nguyễn
Nguồn : Tiếng Dân, 05/02/2021
***********************
Dân tộc dân chủ : Lời nguyền cho Aung San Suu Kyi, bài học cho Việt Nam
Bùi Công Trực, Luật Khoa, 04/02/2021
Myanmar không chỉ là một câu chuyện trên báo, mà là một tấm gương để Việt Nam soi chiếu mình.
Aung San Suu Kyi từng là người hùng của rất nhiều người, trong đó có tôi. Một người phụ nữ quyết đoán, có niềm tin mạnh mẽ vào dân chủ và nền cộng hòa, đấu tranh và hy sinh trong hơn một thập niên, bà là một hình tượng hoàn hảo của dân quyền và nữ quyền. Tuy nhiên, kể từ khi chính đảng của bà – National League for Democracy – chiến thắng trong cuộc bầu cử phổ thông đầu tiên của Myanmar vào năm 2015, các thảo luận bắt đầu thay đổi.
Không chỉ im lặng về những tội ác của quân đội Myanmar, bà Suu Kyi thậm chí còn khá thụ động trong việc bảo vệ quyền tự do báo chí khi các tờ báo trong nước lên tiếng phản biện quan điểm của nhà nước lẫn quân đội.
Aung San Suu Kyi bị coi là nỗi thất vọng của những người yêu dân chủ ở Myanmar khi im lặng trước vấn đề diệt chủng người Rohingya. Ảnh : The Independent.
Bài viết này không nhằm bao biện cho thanh danh của Aung San Suu Kyi, vốn đã bị vấy bẩn trong vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, tác giả mong muốn phân tích những khó khăn nền tảng mà bản thân con đường và tư duy chính trị dân chủ mang đến cho bà.
Lời nguyền địa chính trị : Trở ngại của Myanmar không chỉ là chính quyền quân quản
Những người ủng hộ quá trình dân chủ hóa tại Myanmar thường cho rằng chính quyền quân quản là nhân tố duy nhất đẩy lùi quá trình này. Đó là một nhận định hoàn toàn sai.
Myanmar từng là thuộc địa của Anh. Cách thực dân Anh quản lý Ấn Độ nhiều thập niên trước đó đã dẫn đến các xung đột đẫm máu giữa hai cộng đồng Hindu giáo và Hồi giáo, ngày nay thuộc Ấn Độ và Pakistan. Theo một cách thức tương tự, người Anh cũng khá tùy tiện trong việc hình thành và duy trì các đường biên giới và đơn vị hành chính tại Burma (tên gọi trước đây của Myanmar).
Kể từ khi được Vương quốc Anh trao trả độc lập vào năm 1948, Myanmar chưa bao giờ chấm dứt tình trạng nội chiến. Trong khung biên giới gọi là Myanmar, chúng ta có hơn chục nhóm sắc tộc lớn nhỏ khác nhau với các tham vọng chính trị khác nhau.
Theo nghiên cứu Ethnicity And Insurgency In Myanmar của giáo sư người Ấn Sourabh Jyoti Sharma, một trong những chuyên gia hàng đầu về an ninh chính trị Nam Á và Đông Nam Á, có đến… 17 tổ chức quân sự tuyên bố rằng mình đại diện cho quyền lợi của các nhóm sắc tộc thiểu số, bên cạnh đa số người gốc Bamar theo Phật giáo chiếm khoảng trên dưới 70% tổng dân số quốc gia. Hầu hết thống kê khoa học xã hội khác cũng đồng thuận với con số này.
Độc giả không đọc nhầm, trong biên giới của một quốc gia có chủ quyền được Liên Hiệp Quốc công nhận, có đến 17 tổ chức quân sự đang hoạt động công khai.
Trong đó, chúng ta có thể kể đến United Wa State Army (UWSA), nhánh quân sự của tộc người Wa (có nguồn gốc là phong trào bạo lực cộng sản), sinh sống chủ yếu tại Đông Bắc Myanmar, gần biên giới với Trung Quốc và Thái Lan.
Sắc dân này cũng sinh sống tại tỉnh Vân Nam thuộc Trung Quốc.
Sắc tộc Wa hiện có hơn 800.000 người. Họ có 40.000 quân được Trung Quốc hậu thuẫn, đồng thời trực tiếp sản xuất và buôn bán ma túy. Wa là sắc tộc được công nhận tại Myanmar, nhưng cũng là lực lượng đòi tự trị có thế lực nhất tại nước này.
Kachin Independence Army (KIA) là lực lượng quân sự độc lập có thế lực lớn thứ hai tại Myanmar. Họ đang kiểm soát hoàn toàn (effective control) tỉnh Kachin, ngoại trừ một số thành phố lớn và hệ thống đường sắt. KIA có khoảng 10.000 quân thường trực và 10.000 quân dự bị. Đây cũng là một nhóm quân sự có móc nối lợi ích với Trung Quốc.
Hay cũng có thể kể đến Karen National Union (KNU), nhóm quân sự nổi dậy lâu đời nhất thuộc Burma, thành lập vào năm 1949. Nhóm này tự nhận mình là một tổ chức dân chủ, đấu tranh vì quyền lợi của người dân Karen nói chung và các nhóm thiểu số thuộc Thiên Chúa giáo, với lực lượng quân sự khoảng 14.000 quân.
Và đó mới chỉ là ba nhóm quân sự của các sắc dân được công nhận mà thôi.
Hầu hết những nhóm nói trên, dù không đòi ly khai, đều đưa ra yêu sách tự trị tuyệt đối, từ chối các yêu cầu giải giới quân đội riêng cũng như không muốn tham gia vào các cải cách dân chủ của chính quyền trung ương.
Nhìn nhận thực tế này, chúng ta sẽ thấy, dù Aung San Suu Kyi có thể là tượng đài dân chủ của sắc dân Barma chiếm đa số tại Myanmar, nhưng bà chỉ là một kẻ “ngoại tộc” trong mắt của những sắc dân khác tại quốc gia này.
Ngay cả khi bà Aung San Suu Kyi dàn xếp ổn thỏa và xây dựng thành công một chính thể cộng hòa dân sự mới tại Myanmar, câu hỏi đặt ra là chính quyền này có bất kỳ giá trị nào đối với các sắc dân thiểu số và các phe phái quân sự vốn vẫn tồn tại và chi phối địa chính trị Myanmar hay không?
Điều này có thể có ảnh hưởng quan trọng đến con đường xây dựng dân chủ mà Aung San Suu Kyi lựa chọn.
Lời nguyền dân tộc dân chủ
Dân tộc dân chủ (democratic nationalism) là tư tưởng nền tảng cho hầu hết mô hình đấu tranh đòi độc lập chính trị và dân chủ trong suốt thế kỷ 20 cho đến nay.
Hiểu đơn giản, động lực chính của quá trình dân chủ hóa tại các quốc gia này, dù theo con đường hòa bình hay bạo lực, là một cộng đồng dân cư có cùng một số đặc điểm về nhân khẩu (như sắc tộc, tiếng nói, tôn giáo…), cùng lịch sử phát triển và vận động văn hóa, cùng với đó là một kỳ vọng về tương lai chính trị như nhau. Những đặc trưng đó chính là cách hiểu về dân tộc.
Như vậy, dân tộc dân chủ hướng đến việc xây dựng một nền cộng hòa đại chúng, lấy quần chúng làm trung tâm. Nhưng nhóm quần chúng đó lại phải là một tập thể sắc dân thống nhất mà không có những khác biệt đáng kể.
Hãy nhớ rằng, trong hầu hết các phong trào cách mạng, phong trào dân chủ từ xưa đến nay, sắc tộc và văn hóa dân tộc luôn là nền tảng hậu thuẫn trọng yếu. Ta có thể thấy điều đó từ Cách mạng Hoa Kỳ, Cách mạng Pháp cho đến các cuộc cách mạng giải phóng thuộc địa. Nó cũng xuất hiện trong cuộc cách mạng ly khai của các nền cộng hòa thuộc Liên Xô, vốn chỉ vừa kết thúc vào đầu những năm 2000.
Thành quả của những phong trào nói trên thường được các nhà khoa học chính trị gọi là những nền dân chủ đơn sắc tộc (ethnic democracy ), nơi mà danh tính, văn hóa, thực hành kinh tế và chính trị của một sắc tộc duy nhất trở thành danh tính, văn hóa, thực hành kinh tế và chính trị của toàn bộ quốc gia. Theo đó, một sắc dân chiếm đa số nắm toàn quyền kiểm soát nhà nước và toàn bộ các mặt chính trị – kinh tế – tư tưởng.
Hãy khoan vội phán xét con đường của bà Suu Kyi.
Cho đến hiện nay, người viết cho rằng chỉ có Hoa Kỳ, Pháp và Vương quốc Anh, ba kẻ “đại thực dân” xưa cũ với dân số di dân đa dạng mới có thể được xem xét danh hiệu “dân chủ đa sắc tộc” (multicultural democracy).
Còn lại tất cả các quốc gia khác, dù có nền dân chủ mạnh hay yếu, đều phải dựa vào “mạch máu” dân tộc.
Kể cả các nước Bắc Âu, Đan Mạch hay Thụy Sĩ… nền dân chủ của họ đạt đến mức độ thượng thừa chủ yếu dựa vào sự đồng nhất văn hóa và sắc tộc cực cao.
Ví dụ, Na Uy có đến 83,2% là người da trắng Norwegian, 8,3% da trắng gốc Âu và chỉ khoảng 8,3% bé nhỏ còn lại là các chủng tộc khác.
Tỷ lệ đồng nhất sắc tộc này cao hơn hẳn nếu so với Hoa Kỳ. Tại Mỹ, người da trắng dù vẫn được xem là đông đảo nhất, nhưng tập hợp tất cả sắc dân da trắng (bao gồm cả gốc Anh, Ireland, Pháp, Đức, Ý… ) chỉ chiếm vỏn vẹn 60%. Phần còn lại, gần 20% là người Hispanic và gần 15% là người da đen.
Theo khá nhiều triết gia chính trị tên tuổi, kể cả John Stuart Mill, mức độ đồng nhất dân tộc là một chỉ số cực kỳ quan trọng để xác định khả năng thành công của các thể chế dân chủ tại một quốc gia. Hiển nhiên, những nhận định này đúng hay sai có lẽ cần nhiều hơn là một bài viết để phân trần. Song có một sự thật là chính trị Na Uy luôn ổn định hơn chính trị Hoa Kỳ. Vai trò của dân tộc trong nền tảng chính trị quốc gia là không thể phủ nhận.
***
Sự tồn tại của quốc gia có tên gọi Việt Nam không nằm ngoài quy luật của các phong trào dân tộc. Dù trang bị cho mình đầy đủ các quy định pháp luật cấp tiến nhất, không ai có thể phủ nhận rằng Việt Nam là một quốc gia do người Kinh vận hành, vì người Kinh trước tiên, quảng bá văn hóa Kinh và tuân thủ theo mô hình kinh tế mà người Kinh lựa chọn.
Vẻ thống nhất đoàn kết dân tộc mà Việt Nam trưng bày ra ngày nay là thành quả của hàng thập niên kìm nén, khống chế các phong trào của các dân tộc khác, như người Thượng, người Mèo, hay người Khmer. Những phong trào ấy đến nay vẫn còn âm ỉ.
Myanmar không phải chỉ là một câu chuyện trên báo. Myanmar là một tấm gương, một bài học để các dân tộc Việt Nam phải ngồi lại xem xét, cân nhắc để có thể hướng tới xây dựng thành công một nền dân chủ non trẻ, đa sắc tộc.
Nếu một mai, những kìm nén của Đảng Cộng sản bị tháo gỡ, và các yêu sách dân tộc trỗi dậy khắp dải đất hình chữ S, một chính quyền dân chủ thật sự cần phải làm gì? Đó là một câu hỏi vô cùng khó trả lời.