40 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam : 4 vấn đề giáo hội không muốn nhắc đến
Thái Thanh, Luật Khoa, 29/08/2021
Những phần lịch sử bị lãng quên của Phật giáo Việt Nam
Sau ngày 30/4/1975, tương lai mà các nhà sư miền Nam mong đợi đã không đến. Sự tự do ở miền Nam trở thành một trong những vấn đề của Bắc Việt. Các tổ chức, hiệp hội, phong trào, giáo hội, v.v. đều là mối đe dọa đối với miền Bắc vì mối nghi ngờ họ có thể dính líu với CIA – Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ.
Trong số những người bị nghi ngờ đó có cả các nhà sư của khối Ấn Quang, những người đã góp phần lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào năm 1963 rồi tái lập một giáo hội có thanh thế lớn ở miền Nam – Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Năm 1977, ba nhà sư của khối Ấn Quang bị đưa đi thẩm tra , nhưng chỉ có hai người bước ra khỏi nhà giam. Đó là Thượng tọa Thích Quảng Độ và Thượng tọa Thích Huyền Quang. Người còn lại, Thượng tọa Thích Thiện Minh, đã chết trong trại giam vào tháng 10/1978 [1].
Theo Hòa thượng Thích Đôn Hậu, trước khi thành viên của Viện Hóa Đạo của giáo hội đến chứng kiến, thi thể của Thượng tọa Thiện Minh đã được đưa vào quan tài chỉ để lộ mỗi gương mặt . Các nhà sư cũng không được phép mang thi thể ông về an táng [2].
Tháng 11 tới đây, Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ niệm 40 năm thành lập. Sau đây là bốn vấn đề có thể bạn chưa biết và có lẽ giáo hội cũng không muốn nhắc đến.
1. Quan điểm thật sự của Hòa thượng Thích Đôn Hậu về việc thống nhất Phật giáo năm 1981 không được nói rõ
Nếu đọc các bài viết về kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bạn sẽ cảm giác như tất cả các nhà sư đều đồng lòng thống nhất Phật giáo vào năm 1981. Bài viết Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam đăng vào tháng 5/2021 là một ví dụ [3].
Bài viết ghi : "Hòa thượng Thích Đôn Hậu phát biểu : ‘Thực hiện đại đoàn kết là việc cần thiết đối với Phật giáo cũng như đối với dân tộc. Nguyện vọng của tôi trước sau như một là cần thực hiện thống nhất Phật giáo’". Tiếp theo : "Toàn thể buổi họp đồng tâm suy cử Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận và Hòa thượng Thích Đôn Hậu, chứng minh buổi họp". Kết quả là Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập vào ngày 13/2/1980.
Với thông tin như vậy, bạn sẽ nghĩ rằng Hòa thượng Đôn Hậu hết lòng ủng hộ việc thống nhất Phật giáo vào năm 1981 để lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam như ngày nay. Tuy nhiên, đó chỉ là một nửa sự thật.
Theo ông Đỗ Trung Hiếu (Mười Anh), người từng là cán bộ Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh và có vai trò quan trọng trong việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Đôn Hậu đã rời khỏi cuộc họp đó trong buổi sáng và không tham gia nữa do bất đồng quan điểm về việc thống nhất Phật giáo. Chi tiết này được ông kể lại trong cuốn sách "Thống nhất Phật giáo Việt Nam ", do nhà xuất bản Quê Mẹ phát hành năm 1995 [4].
Theo tài liệu này, "quan điểm trước sau như một" của Hòa thượng Đôn Hậu là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất) ở miền Nam và Hội Phật giáo thống nhất ở miền Bắc hợp lại thành một, hàng giáo phẩm, tăng ni, Phật tử tự quyết định mọi việc [5].
Quan điểm này không được chính quyền và các nhà sư ủng hộ nhà nước đồng ý, do lo ngại giáo hội nếu được thống nhất theo cách này sẽ tuột khỏi sự kiểm soát của đảng.
Trong lá thư gửi Hòa thượng Thích Trí Thủ , Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam vừa nhậm chức khi ấy, Hòa thượng Đôn Hậu viết : "…khi Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam ra đời, tuy quý vị có ghi tên tôi vào Ban vận động… nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật" [6].
Ảnh : Phật học Đời sống.
Vì sao sự hiện diện của Hòa thượng Đôn Hậu lại quan trọng đến mức giáo hội không muốn tiết lộ quan điểm bất đồng của ông và phải đưa bằng được tên ông vào Hội đồng chứng minh ?
Theo hiến chương năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất có hai viện : Viện Tăng thống và dưới viện này là Viện Hóa Đạo.
Từ năm 1979, Hòa thượng Thích Đôn Hậu là tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất. Với chức vụ này, ông trở thành người lãnh đạo giáo hội [7].
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tổ chức Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở miền Nam, không thể thống nhất Phật giáo sau năm 1975 mà không có sự đồng thuận của họ. Trong khi Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo đã đồng ý tham gia theo chủ trương, việc còn lại là dàn xếp sự hiện diện của Hòa thượng Thích Đôn Hậu sao cho có vẻ như hai viện của giáo hội đều tán đồng thống nhất Phật giáo vào năm 1981, dù thực tế không đúng như vậy.
Có thể thấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay được thành lập không dựa trên sự tán thành của tất cả thành viên cấp cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, đặc biệt là Hòa thượng Đôn Hậu, Tăng thống của giáo hội.
2. Quần chúng Phật tử không còn là trung tâm của giáo hội trong Hiến chương 1981
Quần chúng Phật tử là thành phần quan trọng của Phật giáo miền Nam. Nếu các nhà sư là gốc rễ của một cái cây thì Phật tử là những cành, lá của cây. Các cuộc tranh đấu trước năm 1975 của Phật giáo sẽ không thể thành công mà không có quần chúng Phật tử dũng cảm đứng bên cạnh các nhà sư.
Tổ chức quần chúng Phật tử là hoạt động được coi trọng trước năm 1975.
Hiến chương 1964 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất thừa nhận tín đồ Phật tử là một thành phần của giáo hội trong một chương riêng [8].
Theo hiến chương, Viện Hóa Đạo được tổ chức thành sáu tổng vụ, trong đó có Tổng vụ Thanh niên. Tổng vụ này bao gồm các vụ : Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, học sinh Phật tử, Thanh niên Phật tử. Ở mỗi tỉnh có một đặc ủy thanh niên. Tổng vụ Thanh niên do Hòa thượng Thiện Minh – người chết trong trại giam được nhắc đến ở đầu bài viết này – coi sóc.
Đơn vị cơ sở của giáo hội là xã hoặc phường, với ban đại diện được quy định cụ thể.
Thượng tọa Thích Quảng Độ (góc trái) cùng các tăng ni, Phật tử xô xát với cảnh sát ở Sài Gòn để phản đối chính sách đàn áp của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Các lãnh đạo Phật giáo đã yêu cầu chính quyền tôn trọng giáo kỳ Phật giáo, đối xử công bằng, tôn trọng tự do truyền đạo và hành đạo, ngừng đàn áp Phật tử và bồi thường cho những người thiệt mạng. Ảnh : Horst Faas/AP.
Đến năm 1981, Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không có một chương riêng về tín đồ. [9] Về tổ chức quần chúng, giáo hội chỉ còn lại một chức danh là trưởng ban Hướng dẫn Phật tử thuộc Hội đồng trị sự, không còn các chức danh phụ trách cụ thể về gia đình, sinh viên, học sinh, và thanh niên.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam chỉ tổ chức các ban trị sự cấp tỉnh. Ở cấp huyện và xã có thể không có ban đại diện. Đáng chú ý nhất là đơn vị cơ sở của giáo hội đã thu hẹp hết mức, chuyển từ xã, phường thành các "Tự, Viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường".
Theo ông Đỗ Trung Hiếu, việc thay đổi đơn vị cơ sở của giáo hội cho thấy giáo hội đã lấy chùa làm trung tâm, thay vì quần chúng Phật tử như trước đó [10].
Sau 40 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, số tín đồ Phật giáo theo Tổng Điều tra về Dân số và Nhà ở năm 2019 chỉ còn 4,6 triệu người, giảm hơn 30% so với năm 2009, trở thành tôn giáo có số tín đồ đông thứ hai tại Việt Nam, sau Công giáo [11].
3. Cờ Phật giáo bị loại bỏ trong Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong 26 năm
Có một điều vô cùng bất thường trong Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo năm 1981 là không một lá cờ Phật giáo nào được treo, thay vào đó là cờ đỏ sao vàng và tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội từ ngày 4 đến ngày 7/11/1981. Ảnh : Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Cờ Phật giáo được Hòa thượng Thích Tố Liên treo lần đầu tiên tại chùa Quán Sứ vào năm 1951, và rồi trong ba mươi năm sau đó, cũng tại ngôi chùa này, các nhà sư tham gia hội nghị thống nhất Phật giáo lại để lá cờ tuột khỏi hiến chương của giáo hội.
Trong 40 năm thành lập, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có đến 26 năm (1981 – 2007) không đưa được giáo kỳ – một trong những biểu tượng thiêng liêng nhất của Phật giáo Việt Nam và Phật giáo quốc tế – vào trong hiến chương của mình [12].
Cờ Phật giáo không đơn giản là một mảnh vải năm màu. Dưới lá cờ này, các nhà sư và Phật tử đã tranh đấu quyết liệt, đánh đổi bằng nhiều tánh mạng để bảo vệ cho quyền tự do tôn giáo, gầy dựng thanh thế của Phật giáo ở miền Nam và trên trường quốc tế.
Cũng chính vì để giữ lấy giáo kỳ mà nhiều tăng, ni đã tự thiêu để phản đối chế độ mới cấm treo cờ Phật giáo sau năm 1975, điển hình như vụ tự thiêu của 12 tăng, ni chùa Dược Sư, tỉnh Cần Thơ vào tháng 11/1975 [13].
Cờ Phật giáo được treo cùng cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 1/5/1975 tại khu Chợ Lớn, Sài Gòn. Sau đó, chính quyền đã cấm treo cờ Phật giáo. Ảnh : Herve Gloaguen/ Gamma-Rapho via Getty Images.
4. Phủ nhận sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Lời nói đầu trong Hiến chương năm 1981 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tuyên bố "Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước" [14].
Trong khi đó, Hòa thượng Đôn Hậu đã tuyên bố ông vẫn lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất. Từ đây, các nhà sư đã chia ra thành hai phe. Nhà sư hợp pháp theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam khoác lên mình chiếc áo mới hợp thời hơn, đồng thời đẩy những nhà sư từng tranh đấu với họ trước năm 1975 trở thành các nhà sư bất hợp pháp.
Hơn ba tháng sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã ra lệnh trục xuất Thượng tọa Quảng Độ và Thượng tọa Huyền Quang ra khỏi thành phố vào ngày 25/2/1982. [15] Năm tháng sau, Ấn Quang Tự, trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất bị cưỡng chiếm. Trong năm ngày, toàn bộ tài liệu của giáo hội đã bị đốt bỏ [16].
Năm 1997, Giáo hội Phật giáo Việt Nam sửa đổi hiến chương với lời nói đầu ghi : "Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Giáo hội duy nhất của Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam" [17].
Sau khi Hòa thượng Đôn Hậu qua đời vào tháng 4/1992, Hòa thượng Huyền Quang nhậm chức tăng thống, tiếp tục lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất cho đến năm 2008. Chức tăng thống sau đó được Hòa thượng Thích Quảng Độ đảm nhận cho đến năm 2020. Hiện nay, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đảm trách Xử lý Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất [18].
Trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được phép xây dựng những ngôi chùa cao lớn, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất chật vật với việc duy trì các hoạt động và chịu đựng các hành động đe dọa của chính quyền.
Hòa thượng Thích Huyền Việt, người điều hành Văn phòng 2 Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tại Texas, Mỹ (đề phòng văn phòng trong nước không hoạt động được), nói với VOA rằng dù hàng giáo phẩm của giáo hội trong nước còn ít người nhưng "từ tăng, ni cho đến Phật tử vẫn còn hàng hàng lớp lớp" [19].
Thái Thanh
Nguồn : Luật Khoa, 29/08/2021
Chú thích :
1. Trần Phương. (2021, March 1). Hòa thượng Thích Quảng Độ: Một đời tranh đấu. Luật Khoa.
2. RFA. (2015, April 27). Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4.
3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (2021, May 15). Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam.
4. Đỗ Trung Hiếu. (1995). Thống nhất Phật giáo Việt Nam, trang 29. Quê Mẹ.
5. Xem [4], trang 13, 14.
6. Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. (1981, November 28). Thư gửi Hòa thượng Thích Trí Thủ, Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Tu Viện Quảng Đức.
7. Tu viện Quảng Đức. (2010). Tiểu sử Hòa thượng Thích Đôn Hậu.
8. Nam Thanh. (1964). Cuộc tranh đấu lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (2012). Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Đại hội I).
10. Xem [4], trang 44.
11. Luật Khoa. (2021, February 18). Thống kê số tín đồ Phật giáo : Nhà nước nói giảm, giáo hội hụt hẫng.
12. Ban Dân vận, Tỉnh ủy Tuyên Quang. (2021). Đôi nét về đạo Phật và Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Web Archive.
13. Luật Khoa. (2020, March 8). Phật giáo miền Nam sau 30/4/1975: Khi các nhà sư vỡ mộng.
14. Xem [9]
15. Luật Khoa. (2020, March 1). Hòa thượng Thích Quảng Độ : Một đời tranh đấu.
16. Xem [2]
17. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (2012b). Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tu chỉnh năm 1997.
18. SBS. (2020, April 29). Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phụng thừa di huấn của Đức cố Đệ ngũ Tăng thống lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
19. VOA. (2020, July 21). Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tìm cách duy trì hoạt động.
*******************
Ban Tôn giáo Chính phủ nói "sẵn sàng đón các đạo lạ". Bạn nên hiểu chuyện này thế nào ?
Văn Tâm, Luật Khoa, 28/08/2021
Chính quyền sẽ cần phải giải quyết những vấn đề mà chính họ đã tạo ra.
Vào đầu tháng 6/2021, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng đã có phát biểu đáng chú ý về "đạo lạ" trong một hội thảo về đất đai tôn giáo.
"Dự báo thời gian tới, Việt Nam sẵn sàng đón tất cả các tôn giáo, thậm chí là các đạo lạ, đó là xu hướng phát triển tự nhiên, có tôn giáo là có tín đồ…", ông Thắng, người cũng đang đứng đầu Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết [1].
Bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi biết chỉ hai tháng trước phát ngôn trên, vào tháng 4/2021, chính ông Thắng đã kêu gọi chính quyền, công an các địa phương "ngăn chặn các ‘tà giáo’ hoạt động trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội" [2].
"Đạo lạ" và "tà giáo" trong phát ngôn của ông Thắng khác nhau như thế nào ? Phong trào tôn giáo mới là gì ? Bạn cần biết những gì về phong trào này ?
"Đạo lạ" là sáng chế của Việt Nam
Nếu bạn cố tìm kiếm trên Google thuật ngữ tương tự với "đạo lạ"trong tiếng Anh, khả năng cao bạn sẽ tìm thấy một bài hát.
"Đạo lạ" là từ do các nhà nghiên cứu Việt Nam sáng chế với ý chỉ một tôn giáo, tín ngưỡng chưa thể khẳng định là tốt hay xấu, nhưng trước hết là có các sinh hoạt khác với các tôn giáo chính thống [3].
Trên thế giới, khi đề cập đến các tôn giáo xuất hiện từ sau thế kỷ XIX, người ta thường sử dụng cụm từ tôn giáo mới (new religion), phong trào tôn giáo mới (new religious movement), nhưng phổ biến hơn cả là giáo phái (cult).
Theo giáo sư ngôn ngữ học Robin Clark, thuộc trường Đại học Pennsylvania, vào nửa đầu thế kỷ XX, từ "cult" được ngành xã hội học dùng để chỉ những nhóm xã hội có niềm tin và thực hành lệch lạc với chuẩn mực xã hội. Trước đó, người ta dùng từ này để chỉ các hoạt động mang tính sùng bái tôn giáo thông thường [4].
Chính quyền Trung Quốc nổi tiếng về việc sử dụng từ "tà đạo" (evil cult) để đàn áp các giáo phái mới thu hút đông đảo người tham gia như Pháp Luân Công, Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, Môn đồ hội (Mentuhui), v.v.
Chữ "tà đạo" cũng được chính quyền và báo chí Việt Nam sử dụng thường xuyên khi muốn tấn công một giáo phái nào đó.
"Đạo lạ" có khác với "tà đạo" ?
Có lẽ bạn đã quen nghe về các cụm từ "tà đạo, đạo lạ, giáo phái" từ hệ thống tuyên truyền thông qua báo chí, chính quyền địa phương. Trong ba cụm từ này, "tà đạo" được sử dụng phổ biến nhất.
Trong các bài viết nhằm mục đích tuyên truyền chính trị, chính quyền địa phương gọi các giáo phái được cho là có các hoạt động chống chính quyền, lợi dụng niềm tin của người dân là "tà đạo". Ví dụ như "tà đạo Hà Mòn "[5], "tà đạo Hội thánh Đức Chúa trời "[6], "tà đạo Dương Văn Mình " [7] , v.v.
Điều đáng nói ở đây là không một cụm từ nào trong ba cụm từ trên được định nghĩa trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.
Một bài báo của báo Công an Nhân dân đăng ngày 30/9/2020. Ảnh chụp màn hình.
Trong một bài viết tường thuật hội thảo về "tà đạo, đạo lạ" do Ban Tôn giáo Chính phủ và học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức giữa tháng 6/2021, "tà đạo" được cho là một phần của các "đạo lạ" [8].
"Trong số các đạo lạ, có những loại hoạt động trái với chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống văn hóa, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, thậm chí mang màu sắc chính trị, hoạt động vi phạm pháp luật, tác động xấu đến an ninh trật tự, được gọi chung là tà đạo", bài viết trên trang của Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết.
Lằn ranh mong manh
Khi nghe đến các giáo phái, phản ứng đầu tiên của bạn như thế nào ? Có phải bạn cảm thấy mình bỗng dưng dè chừng, bạn tự mặc định rằng "giáo phái" sẽ giảng dạy những điều không hợp lý, lợi dụng người tham gia để trục lợi, khiến họ trở nên cuồng tín ?
Tiến sĩ Ori Tavor, khoa Ngôn ngữ và Văn minh Đông Á, trường Đại học Đại học Pennsylvania cho rằng bản thân cụm từ "giáo phái" là dùng để chỉ một phong trào nào đó đang gây tranh cãi, bị xem là mối đe dọa đối với xã hội chính thống [9].
Ông cho biết, cần nhiều thời gian để một phong trào được chấp nhận trong bối cảnh tôn giáo hiện tại.
Vào thời gian đầu, khi đạo Mặc Môn được sáng lập tại Mỹ, tôn giáo này bị cho là mê tín dị đoan, với nhiều hủ tục trong đó cho phép đàn ông lấy nhiều vợ (bị bãi bỏ vào năm 1890 ). Đạo này bị thù ghét đến nỗi nhà sáng lập Joseph Smith bị đám đông sát hại vào năm 1844 trong lúc đang bị giam giữ [10]. Hiện nay, đạo này có hơn 14 triệu tín đồ và được công nhận trên khắp thế giới. Năm 2019, chính quyền Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho đạo Mặc Môn [11].
Các thành viên của phong trào Cơ đốc Phục Lâm từng tuyên bố tận thế sẽ đến vào năm 1843, nhưng thế giới vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Đây cũng là một tôn giáo được công nhận tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các câu chuyện khởi sinh của giáo phái mới tại Việt Nam thường bị chính quyền từ chối. Các tôn giáo mới bị chỉ trích, kết tội và loại ra khỏi xã hội. Ta có thể xem xét hai câu chuyện sau đây, dù cùng một nội dung nhưng lại có cái kết rất khác nhau.
Câu chuyện thứ nhất : Vào những ngày đó, nhiều giáo dân đang lánh nạn từ cuộc bách đạo của quan quân. Đến một hôm, trong lúc mọi người đang cầu nguyện thì một người phụ nữ hiện ra. Bà mặc áo choàng, tay ẵm Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần đi theo. Giáo dân lập tức biết đó là Đức Mẹ. Bà ân cần an ủi các giáo dân, dặn họ hái lá cây quanh đó, nấu lá lấy nước uống sẽ trị dứt các chứng bệnh. Bà cũng dặn các giáo dân hễ có chuyện gì hãy đến chốn này để cầu nguyện và bà sẽ ban ơn theo ý nguyện. Vài trăm năm sau, nơi đây trở thành một thánh địa hành hương nổi tiếng có tên Thánh địa La Vang , dù không ai biết chính xác sự kiện Đức Mẹ hiện ra đó đã xảy ra vào thời gian nào [12].
Câu chuyện thứ nhì : Vào năm 1999, tại làng Kơ Tu, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy, tỉnh Kontum, một người phụ nữ dân tộc Bahnar tên là Ygyin cho rằng chính bà đã thấy Đức Mẹ hiện hình [13]. Bà đã đem câu chuyện đó kể cho các giáo dân khác, rồi mọi người cùng lập một nhóm thờ Đức Mẹ gọi là "Công giáo Hà Mòn". Bà đi khắp nơi để kể câu chuyện của mình và mời gọi mọi người tham gia nhóm, "ai theo ‘Đức Mẹ’ sẽ được phù hộ , cứu rỗi linh hồn, sau này chết sẽ được lên thiên đàng" [14].
Bà Ygyin, người sáng lập đạo Hà Mòn bị tuyên án ba năm tù giam trong phiên tòa sơ thẩm được tổ chức lưu động vào tháng 5/2013. Ảnh : Quang Hồi/ Báo Biên phòng.
Cái kết của câu chuyện thứ nhì là bà Ygyin bị chính quyền kết tội tuyên truyền tà đạo và phải chịu án tù. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Gia Lai cho rằng việc bà nói "Đức Mẹ sẽ phù hộ, cứu rỗi linh hồn" là để lừa bịp người dân [15]. Tuy nhiên, phát ngôn đó của bà Ygyin hoàn toàn phù hợp với đức tin của đạo Công giáo. Năm 2013, bà cùng với các tín đồ khác bị tuyên án ba năm tù giam , trong một vụ án mà họ bị cáo buộc cấu kết với các thành viên FULRO nước ngoài chống đối chính quyền Việt Nam [16].
Hiện nay, chính quyền địa phương, báo chí, công an đang "buộc tội" một số giáo phái là "tà đạo" một cách hoàn toàn cảm tính. Cách buộc tội như vậy khiến các tín đồ của các giáo phái không tôn trọng cách quản lý của chính quyền, và người dân thì ngày càng sợ hãi, kỳ thị các giáo phái.
Đạo Hà Mòn chỉ là một trong 85 "đạo lạ" hiện nay tại Việt Nam, theo Ban Tôn giáo Chính phủ [17]. Trong tương lai, việc sa đà vào định nghĩa "đạo lạ", "tà giáo" sẽ khiến Việt Nam ngày càng trở thành một xã hội kém dung nạp, kỳ thị tôn giáo.
"Chiếc áo" quá chật, làm sao nới ra ?
Việt Nam sẽ đón nhận các "đạo lạ" như phát ngôn của Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng như thế nào vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ.
Tuy nhiên, việc đón nhận này ít nhiều sẽ khiến chính quyền phải tự tay nới lỏng "chiếc áo" kiểm soát tôn giáo hiện nay.
Bấy lâu nay, chiếc áo đó đã được đan bằng nhiều lớp chằng chịt, với bộ máy quản lý tôn giáo từ trung ương đến địa phương, lực lượng công an, báo chí – tuyên truyền, viện kiểm sát, tòa án, và Quốc hội với việc ban hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016.
Năm 2021, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (Country of Particular Concern – CPC) dành cho những nước dung túng các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về quyền tự do tôn giáo [18].
Năm người Thượng (các ông Nay Y Blang, Nay Y Lới, Ksor Y Blang, Hwing Y Nuk và Rô Da) bị kiểm điểm trước công chúng tại xã Ia Lâm, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên vì tham gia Hội thánh Tin Lành Đấng Christ. Ảnh : MSFJ News.
Trước khi tiến tới việc đón nhận các "đạo lạ", chính quyền Việt Nam cần phải giải quyết những vấn đề do chính mình đã tạo ra.
Thứ nhất, việc định nghĩa tôn giáo, tín ngưỡng theo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 khiến các giáo phái mới không đạt tiêu chuẩn để được hoạt động tôn giáo công khai. Chính quyền đã dựa vào những định nghĩa này để trấn áp hoạt động của các giáo phái.
Thứ nhì, nỗ lực của ngành báo chí và tuyên giáo trong những năm qua đã làm cho người dân tin rằng các giáo phái mới có nhiều mặt xấu hơn là mặt tốt. Việc này có thể sẽ là một cản trở lớn khi chính quyền cho phép các giáo phái hoạt động.
Thứ ba, không chỉ Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016, còn rất nhiều quy định bất cập khác đối với tôn giáo liên quan đến việc cấp đất đai, quyên góp, từ thiện cũng cần sửa đổi nếu như Việt Nam muốn dung nạp các tôn giáo mới.
Thứ tư, lực lượng công an, cán bộ chính quyền địa phương, cán bộ tôn giáo đã quen với cách can thiệp, trấn áp các hoạt động của các giáo phái. Việc phân biệt "đạo lạ", một thứ có thể chấp nhận, và "tà đạo", không được phép tồn tại chắc chắn sẽ đem lại khó khăn cho những lực lượng này.
Dù sao đi nữa, phát ngôn của ông Vũ Chiến Thắng ở cương vị hiện tại cũng là một tín hiệu hứa hẹn đối với các giáo phái mới và các tín đồ, dù chưa rõ chiếc áo đã quá chật sẽ được nới rộng như thế nào.
Văn Tâm
Nguồn : Luật Khoa, 28/08/2021
Chú thích :
1. Ban Tôn giáo Chính phủ. (2021, June 3). Hội nghị trực tuyến về cơ chế quản lý, sử dụng đất tôn giáo, tín ngưỡng.
2. Báo Tuổi Trẻ. (2021a, April 2). Thứ trưởng Bộ Nội vụ: Ngăn chặn các hiện tượng "tà đạo".
3. Học viện Khoa học Xã hội. (2021, January 26). Tọa đàm khoa học số 03: Các hiện tượng tôn giáo mới và chính sách, pháp luật của Việt Nam.
4. Penn Today. (2019, August 29). Is it a cult, or a new religious movement ?
5. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương. (2020, April 24). Đấu tranh xóa bỏ tà đạo Hà Mòn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. Báo Công an Nhân dân. (2018, May 1). Tà đạo Hội thánh Đức Chúa trời: Cần biện pháp xử lý mạnh.
7. An ninh Thủ đô. (2013, November 3). Đừng để thù nghịch lấp đầy lý trí.
8. Ban Tôn giáo Chính phủ. (2021, June 17). Hội thảo về thực trạng đạo lạ, tà đạo ở Việt Nam hiện nay.
9. Xem [4]
10. History. (2020, December 14). The Mormon Church officially renounces polygamy.
11. Đại đoàn kết. (2019, December 7). Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô: Lan tỏa đức tin từ một đời sống lành mạnh.
12. Chuyên trang thông tin hành hương La Vang. (2017, July 17). Phần 1 : Sự tích Đức Mẹ La Vang.
13. RFA. (2020, December 22). Thực hư việc Công an Gia Lai nói đã xóa đạo Hà Mòn, chặn việc phục hồi tổ chức phản động.
14. Tuyên giáo Gia Lai. (2016, August 22). "Hà Mòn" sự thật về một tà đạo.
15. Xem [14]
16. BBC. (2013, May 28). 63 năm tù cho nhóm đạo Hà Mòn.
17. Xem [8]
18. Luật Khoa. (2021, May 12). Tôn giáo tháng 4/2021 : Hoa Kỳ đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần "quan tâm đặc biệt".