Thiền sư Thích Nhất Hạnh : 'Không có cái gì chết đi'
BBC News tiếng Việt, 25/01/2022
Sư ông từng nói rằng "Đám mưa không còn nữa thì mình lại thấy có dòng suối tiếp tục sứ mạng của cơn mưa. Và vì vậy cho nên không có cái gì chết, không có cái gì mất đi cả". Được xem là cha đẻ của 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức),
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề cập đến triết lý tương tức với khái niệm 'interbeing'. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia (inter-are). Không có cái chết thì không có sự sống, không có ánh sáng thì không có bóng tối và ngược lại, chúng không thể tách rời.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai từ Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan nói với BBC News Tiếng Việt rằng "Mindfulness không phải là một tôn giáo. Và nó cũng đã tồn tại, ngấm sâu, phát triển rộng đến mức không còn là một phong trào. Ngoài biên giới Việt Nam, 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức) được nhắc đến như một lối sống. Nó đã vượt ra ngoài các ranh giới của tâm linh, trở thành một phần của ý niệm và hành động thường ngày trong văn hóa, xã hội, kinh doanh, giáo dục, quân sự và chính trị của một phần lớn dân số thế giới".
Vào năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kiến nghị để Phật giáo Việt Nam 'tách khỏi Nhà nước'. 7 điểm này đã được thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho cựu Thủ tướng Phan Văn Khải ngày 25/03/2005.
Nguồn : BBC News tiếng Việt, 25/01/2022
*****************************
Ứng xử hai mang của Giáo hội quốc doanh trong lễ tang Thiền sư Nhất Hạnh
Gió Bấc, RFA, 24/01/2022
Sinh thời, pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh không được Giáo hội Phật giáo Việt Nam công nhận, tăng thân Làng Mai ở Thiền Viện Bát Nhã Lâm Đồng bị truy đuổi, trục xuất khỏi Việt Nam. Khi viên tịch, Thiền sư bị Giáo hội quốc doanh đơn phương, đột xuất truy tặng phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng. Giáo hội quốc doanh xiển dương công đức Thiền sư trên thế giới mà quên bẵng công lao hoằng pháp xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những gửi gắm tâm huyết của Thiền sư về nền tự do tôn giáo, thoát khỏi đảng quyền, công an quyền.
Hình ảnh trong tang lễ của thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng 23/01/2022 từ video của Làng Mai
Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là cao tăng thứ hai của Phật giáo sau Đạt Lai Lạt Ma. Pháp Môn Làng Mai của ông được phát triển nhiều nơi trên thế giới. Phát kiến về Chánh Niệm của ông được nhiều đại học tiếng tăm ở Mỹ và Châu Âu tiếp nhận ứng dụng giảng dạy. Những quan điểm về nhân ái, hòa bình, đối thoại của ông được ngưỡng mộ và đề xuất trao giải Nobel. Những phương pháp thực tập quán niệm hơi thở, bước chân an lạc của ông thật sự đem lại phép lạ của sự tỉnh thức cho mỗi con người.
Trớ trêu thay, tại Việt Nam và với cộng đồng người Việt trên thế giới, cách nhìn, đánh giá về ông có mâu thuẫn đôi khi đến cực đoan. Nhiều người yêu mến, ngưỡng mộ trí tuệ, sự uyên bác và phương pháp thuyết giảng Phật học như là triết lý nhân sinh về giác ngộ, từ bi, chánh niệm… nhưng một số người chống cộng, nạn nhân của cộng sản lại có ấn tượng sâu sắc về tinh thần phản chiến một chiều, phản đối Mỹ đưa quân vào Việt Nam, chống lại chiến tranh mà không phê phán Bắc Việt đưa quân vào Miền Nam, thảm sát Mậu Thân, vi phạm Hiệp Định Paris cưỡng chiếm Miền Nam. Ngay sau 1975, Thiền sư cũng im lặng trước tình trạng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị bức tử hay tình trạng nhân quyền bị đàn áp...
Đảng và nhà nước Việt Nam từ lâu đã tận dụng khai thác những giá trị vàng của ông trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại nhưng vẫn đặt ông trong vòng nghi kỵ tuy không công khai gọi tên là thế lực thù địch.
Mãi ba mươi năm sau 1975, Thiền sư Nhất Hạnh mới được đặt chân về nước trùng hợp với thời điểm Việt Nam được xem xét gia nhập WTO mà một trong những điểm nghẽn là tự do tôn giáo. Tiếp đó năm 2007,2008 Thiền sư về nước tổ chức đại đàn chẩn tế những người chết oan trong chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc, đi thuyết giảng một số nơi và một số tăng thân Làng Mai được bảo lãnh tu tập ở Thiền Viện Bát Nhã đồng thời Giáo hội Quốc doanh Việt Nam được đăng cai tổ chức Vesak Phật giáo Liên Hiệp Quốc. Nhưng đến năm 2009, sóng gió Bát Nhã nổi lên tăng thân Làng Mai bị đánh tan tác, người trong nước phải hồi gia, người nước ngoài bị trục xuất. Công văn 1329 của Ban Tôn giáo chính phủ tên đề đấu đóng hẳn hoi, Bộ ngoại giao cũng họp báo khẳng định trục xuất tu sĩ Làng Mai. Báo Công An có loạt bài lên án Thiền sư Nhất Hạnh. Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam lấy oán trả ân.
Một số vị chân tu lên tiếng nhưng đa số giáo hội quốc doanh đã im lặng. Bằng chứng về tội ác đàn áp tăng sinh Làng Mai còn lưu trữ tại đây (1).
Trước sau Làng Mai chưa bao giờ được giáo hội công nhận và cho phép hoạt động tại Việt Nam. Mãi đến năm 2019 Thiền sư Nhất Hạnh mới quay về tổ đình Từ Hiếu sau cơn bệnh nặng để chờ ngày thu thần xuất thế.
Ấy vậy mà khi Thiền sư Nhất Hạnh viên tịch, bất ngờ Giáo hội lại có công văn xiển dương công đức của Thiền sư và chỉ đạo tổ chức lễ tang. Công văn có đoạn như sau : "Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh là vị cao Tăng của Phật giáo Việt Nam có nhiều công lao trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp góp phần xiển dương Phật giáo Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Ngài là vị Thiền sư hướng đạo của Phật giáo đồ trên thế giới"
"Ban Thường trực Hội đồng Trị sự kính đề nghị Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp chặt chẽ và tham gia giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu trong công tác tổ chức tang lễ Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh trang nghiêm, thành kính theo nghi thức cấp cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thực hiện theo di nguyện tâm tang của ngài" (2).
Thôi thì cứ cho rằng nghĩa tử là nghĩa tận, thừa nhận công đức của người đã tận hiến cuộc đời cho đạo pháp dù trễ cũng không sai. Điều đáng nói là trong công văn này, giáo hội quốc doanh đã ỡm ờ úp mở kết nạp Thiền sư Nhất Hạnh vào tổ chức của mình bằng khái niệm Phật giáo Việt Nam chung chung và cưỡng ép truy phong phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh.
Cái lập lờ cần phân định ở đây là Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của Phật giáo Việt Nam nói chung mà cụ thể là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước 1981 chứ chưa bao giờ là thành viên của giáo hội quốc doanh nhà sản hiện nay.
Thiền sư và các môn đồ, tu sị Làng Mai chưa bao giờ có danh xưng Trưởng Lão Hòa Thượng. Cụ thể trên các văn bản chính thức của Đạo tràng Mai Thôn hay pháp môn Làng Mai đều xưng danh đơn giản là Thiền sư. Quan trọng nhất là Cáo phó : Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch do Tổ Đình Từ Hiếu, Đạo Tràng Mai Thôn ấn hành đã ghi rõ "Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu" )3)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn có danh xưng thân mật, đơn giản khác là Sư Ông Làng Mai trong hệ thống danh xưng thân mật khác như sư cô, sư chú Chưa bao giờ Thiền sư Nhất Hạnh nhận mình là Trưởng Lão Hòa Thượng.
Việc một tổ chức cao nhất của Phật giáo quốc gia tự ý gán ghép danh xưng cho người đã khuất ngay trong lễ tang với một người thường đã là báng bổ huống hồ chi đây là vị cao tăng. Hơn thế nữa, theo hệ thống chính trị của đảng, nhà nước và tôn giáo Việt Nam, mọi thứ đều có tiêu chuẩn và quy trình. Tiêu chuẩn và quy trình của phẩm hàm Hòa Thượng theo Hiến chương Giáo hội được quy định là "Được tấn phong Hòa thượng những Thượng tọa từ 60 tuổi đời, 40 tuổi đạo trở lên, có đạo hạnh, có công đức với đạo pháp và dân tộc, do Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành" (4).
Hơn nửa thế kỷ qua Thiền sư Nhất Hạnh hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và xây dựng đạo tràng Mai Thôn làm gì có Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội nào đề nghị và ; làm gì có chuyện Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành’
Cưỡng phong Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh, giáo hội quốc doanh muốn làm sang cho mình nhưng tự xé bỏ cái Hiến Chương cao quý do chính họ đặt ra.
Điều lạ lùng khác không rõ do Thiền sư Nhất Hạnh không phải là đảng viên cao cấp hay vì lý do nào đó mà một vị cao tăng hàng thứ hai thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Bộ ngoại giao Mỹ, Tổng thống Hàn Quốc và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế khác gửi điện chia buồn thế nhưng giáo hội quốc doanh không đứng ra tổ chức mà lại giao cho Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp, giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu tổ chức lễ tang như là một nhà sư tỉnh lẻ.
Phải chăng đây là cung cách ứng xử đểu cáng kiểu cộng sản giống như Phạm Quang Nghị tặng Nghị sĩ John Mckent bức tượng kỷ niệm bắn rơi máy bay hay Tổng thống Obama được tiếp đón với thang máy bay không thảm đỏ ?
Dù lý do gì đi nữa thi cách làm này cũng trở nên trơ trẽn vì với pháp môn tịnh tiến trí tuệ giác ngộ của mình, Thiền sư Nhất Hạnh đã gạt bỏ tất cả các nghị tiết phù phiếm, những hình thức lễ lạc hào nhoáng vô bổ với di chúc không bảo tháp, lễ Tâm Tang thực hành chánh niệm trong im lặng thì Ban Trị sự cấp tỉnh hay cấp trung ương cũng thành vô tích sự.
"Tang lễ sẽ kéo dài trong 7 ngày theo hình thức của một khóa tu im lặng. Trong suốt thời gian đó, kính xin quý vị đến thăm viếng cùng thực tập chung với chúng tôi – tâm niệm cúng dường – để cho toàn bộ tang Lễ Tâm Tang được diễn ra trong sự im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng" (5).
Có lẽ các quan chức, các đồng chí cao tăng của giáo hội quốc doanh tức anh ách, ghen đến tận cổ mà nghẹn ngào không nói được là Lễ Tâm Trạng của Thiền sư Nhất Hạnh tuy đơn giản nhưng đâu chỉ diễn ra ở Tổ Đình Từ Hiếu hay đạo tràng Mai Thôn mà lan tỏa trên toàn thế giới, trong tâm của người ngưỡng mộ và thực tập hành thiền. Người dự lễ Tâm Trạng không mất tiền của cúng dường mà có thêm năng lượng tích cực an lành, có thêm trí tuệ giác ngộ. Thiền sư Nhất Hạnh rủ bỉ nhục thân nhưng tâm linh, trí tuệ, năng lượng từ bi mãi lan tõa trong lòng phật tử, đại chúng. Nó trái ngược hoàn toàn với những lễ nghi tốn kém, lăng tẩm hoành tráng chiến đất đai tiền của nhân dân.
Mâu thuẫn hơn nữa và có thể nói là đểu cáng hơn nửa, chính người ký công văn cưỡng phong chức danh, cưỡng ép kết nạm Thiền sư vào giáo hội quốc doanh, khi ghi sổ tang lại đẩy Thiền sư vào thế giới phương Tây.
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn - đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội quốc doanh đã viết trong sổ tang
"Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người tiên phong mang đạo Phật đến với xã hội phương Tây, khai mở và hướng dẫn nhân loại tìm đến con đường đúng đắn về đời sống hạnh phúc, giải quyết các vấn đề của xã hội đương thời, góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới theo triết lý Phật giáo".
Tiếp đó, đồng chí Cao tăng này một lần nữa báng bổ cưỡng phong Trưỡng lảo Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh và xê xoa nói theo công thức.
Ngài đã để lại cho chúng ta một gia tài phong phú về kho tàng trước tác văn chương học thuật, về tấm gương sáng ngời ý chí tu hành, về tâm huyết và sứ mạng hoằng pháp lợi sanh..". (6).
Quả thật, Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của nhân loại nhưng trước hết là cao tăng Việt Nam. Thiền sư đã để lại nhiều tâm huyết cho công cuộc hoằng pháp nhưng không phải theo kiểu chùa to Phật lớn, mượn danh tôn giáo, du lịch tâm linh để phá rừng chiếm đất xây chùa hàng ngàn mẫu. Không phải hoằng pháp theo cách đẩy những người ngoài giáo hội vào tù, phá chùa Liên Trì, chiếm Giáo xứ Cồn Dầu. Chiến đất Thái Hà,...
Kênh youtube Làng Mai đang chia sẻ hướng dẫn thực hiện nghị tiết Tâm Tang, thầy Pháp Ấn đã nghiêm cẩn đọc bài thơ Xin Gọi Đúng Tên Tôi để đại chúng cùng suy nghiệm, xây dựng chánh kiến hành trì từ bi . Trong bài có đoạn như sau :
Tôi cũng là người chế tạo bom đạn
Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi
Tôi là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim
Chưa biết nhìn biết cảm
Tôi là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát
trong tay
Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang
chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo
Nổi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp
cỏ hoa muôn lối
Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về
bốn đại dương sâu
Hãy gọi đúng tên tôi
Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi giật mình tỉnh thức
Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
Cánh cửa xót thương (7)
Không chỉ truyền đạt đến đại chúng Thiền sư Nhất Hạnh còn truyền đạt đến lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam về những điều cần thật tâm cải sữa để không chỉ giáo hội phát triển mà dân tộc được trường tôn, ấm no hạnh phúc.
Ngày 25/03/2005 thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho thủ tướng Phan Văn Khải bảy điểm đề nghị về chính sách của nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo
Trong đó điều quan trọng nhất là : "Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
Ngày xưa vua Lý Thái Tổ đã yểm trợ đạo Phật xây dựng cơ sở giáo hội, và thiền sư Vạn Hạnh đã chỉ bày thêm cho vua về các đường lối kinh tế, văn hóa, đạo đức và chính trị. Nhưng vua không chen vào để kiểm soát Phật giáo và thiền sư cũng không nhận trách vụ gì trong guồng máy chính trị.Nhà nước bảo đảm là từ nay các vị xuất gia sẽ không bị mời làm dân biểu quốc hội, trở nên thành viên hội đồng nhân dân các cấp và của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hoặc trở nên đảng viên của bất cứ một đảng phái chính trị nào. Xen vào lãnh vực chính trị như thế các vị xuất gia sẽ phạm giới, làm mất uy tín của giáo đoàn Phật giáo và cũng làm cho chính quyền mang tiếng là sử dụng những vị ấy để kiểm soát tôn giáo. Từ nay các vị xuất gia sẽ không còn nhận huân chương của chính quyền. Vị cao tăng nào làm cố vấn giỏi, đề nghị được những biện pháp cụ thể lợi nước lợi dân thì chỉ có quyền nhận một chiếc y màu tím như các vị cao tăng quốc sư đời trước".
Ở một đoạn khác, Thiền sư nêu cụ thể hơn "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một thực tại. Nếu quý hòa thượng muốn giáo hội này phục hoạt lại, điều này không phải là một việc khó. Việc khó là chúng ta phải ngồi lại với nhau để nói chuyện, để thiết lập lại truyền thông với nhau, để lắng nghe nhau, để thấy được những khó khăn của nhau và để cùng đi đến những quyết định chung có thể làm đẹp lòng cho cả hai phía" (8).
Năm 2007. Trong lần về nước sau đó, Thiền sư Nhất Hạnh lại tiếp tục trao cho Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết 10 điểm cần cải sửa, trong đó có việc sửa quốc hiệu, bõ đi cái đuôi xã hội chủ nghĩa.
Đàn áp tăng sinh Làng Mai ở Bát Nhã có thể do nhiều nguyên nhân nhưng chắc chán đó là cách trả lời bằng hành động của chính quyền cộng sản Việt Nam với những đề nghị của Thiền sư.
Với các đồng chí giáo hội quốc doanh, nếu có còn chút lòng tin, sự hiểu biết về nhân quả, về sắc không, luật vô thường thì mau sớm quay đầu sám hối và thật sự học, hành trì theo đạo pháp của Phật.
Bám theo bã lợi danh chức quyền của cộng sản, dù dối trá giả danh có dến 10 mặt rồi sẽ có ngày lộ hình lộ dáng và trả nghiệp đã nặng vay. Ngày ấy hẳn không xa.
Gió Bấc
Nguồn : RFA, 24/01/2022
1. https://thuvienhoasen.org/a13106/05-phan-ung-cua-chinh-quyen-viet-nam
2. https://giacngo.vn/trung-uong-ghpgvn-co-cong-van-ve-viec-to-chuc-le-tang...
3. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/cao-pho-thien-su-thich-nhat...
4. https://giacngo.vn/dua-vao-tieu-chi-nao-de-duoc-xung-danh-truong-lao-pos...
5. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-bao-di-huan/
6. https://tuoitre.vn/thien-su-thich-nhat-hanh-da-huong-dan-nhan-loai-tim-d...
7. https://www.youtube.com/watch?v=eTBdzUhHfns
8. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/bay-diem-de-nghi-cua-thien-...
*****************************
Ba điều đồn đãi về Thiền sư Thích Nhất Hạnh phải kiểm chứng bằng sự thật lịch sử
Tuấn Khanh, RFA, 24/01/2022
Vào ngày Thiền sư Nhất Hạnh qua đời, đã có nhiều cuộc tranh cãi về cuộc đời và hoạt động của ông ở các cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Vốn là một người chủ trương hòa bình và có những ngôn luận chống chiến tranh với cả hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc), và như hãng tin AP đưa tin, là dù chủ trương kêu gọi các giải pháp hòa giải, nhưng ông vẫn phải trả giá cho quan điểm riêng của mình.
- AP
Sau năm 1975, khi miền Nam sụp đổ, thì sự oán hận của những người đứng về phía miền Nam VNCH vẫn kéo dài suốt nhiều thập niên. Nhiều nhân vật được cho làm lợi cho cộng sản hay đứng về phía cộng sản vẫn bị đưa ra làm đề tài để chỉ trích. Mặc dù không chọn phe, nhưng Thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn bị coi là "đi đêm" với cộng sản, tương tự như Hòa thượng Thích Trí Quang – mặc dù sau khi thống nhất địa lý đất nước, nhà nước Cộng sản vẫn có những đối xử phân biệt khắc nghiệt với cả hai vị này.
Lịch sử hiện đại Việt Nam, đặc biệt qua hai nền Cộng Hòa, và cuộc chiến tranh Nam-Bắc, chồng chéo muôn điều phức tạp. Để nhận định đủ và đúng, cần phải có đủ tư liệu và thời gian để quan sát. Tuy vậy, từ khoảng cuối thế kỷ 20 cho đến nay, những nhận định cá nhân và quan điểm phù hợp với sự tức giận của đám đông đã chiếm ưu thế, bất chấp các chi tiết không đúng, thậm chí là tin giả. Dưới đây là ba lời đồn đãi tiêu biểu.
1. Thiền sư Thích Nhất Hạnh ủng hộ cộng sản, và "đi đêm" với cộng sản
Dĩ nhiên, trong cách nhìn của đám đông ủng hộ chính quyền VNCH, thì bất luận sự phản ứng nào chống lại, hoặc khác biệt quan điểm đều dễ dàng bị coi là "việt cộng". Ngay sau sự ra đi của ông Thích Nhất Hạnh, đã có một bài viết trên Facebook của một vị linh mục hiện sống tại Mỹ chỉ trích rất nặng lời. Bài đăng này nhận được nhiều sự ủng hộ của giới chống cộng và tín hữu công giáo. Tuy nhiên quan điểm chính của bài viết này nhận định ông Thích Nhất Hạnh là "tay sai của cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản" từ những năm 60, là hoàn toàn phi lý, vì đó là một nhận định không có căn nguyên.
Để chứng minh điều này rất rõ, nhiều ngôn luận và nhận định của ông Thích Nhất Hạnh về việc bất đồng với chế độ cộng sản có thể tìm thấy dễ dàng bằng một cú click trên Google. Cụ thể, chẳng hạn trên The New York Review, bài đăng vào năm 1966 đã trích lời khẳng định của ông Thích Nhất Hạnh về cộng sản, qua bản dịch của Giáo sư Hoàng Ngọc Tuấn (Úc) như sau : "Chúng tôi biết rất rõ về những sự cấm đoán đối với Phật giáo ở miền Bắc. Chúng tôi đã nghiên cứu những gì đã xảy ra ở Trung Quốc. Chúng tôi biết rằng tôn giáo không thể tồn tại trong tinh thần của chủ nghĩa Marx". ("We are very well aware of the restrictions on Buddhism in the North. We have studied what has happened in China. We know there is no place for spirituality in Marxism").
Nhiều người vẫn nói là trong khi vị Thiền sư lên tiếng với báo chí về sự chỉ trích Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không lên tiếng nói gì với chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên điều này không đúng, trong các lần trở về Việt Nam, ông Thích Nhất Hạnh đã nói trực tiếp và thậm chí vận động chính quyền Hà Nội về những cải cách chính trị, thả tù nhân lương tâm hay tự do tôn giáo. Những chi tiết này được ghi trong tập 1, bộ Wikileaks do báo người Việt ở Mỹ phát hành. Có thể xem thêm bài viết của nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên, viết cho người Việt, hoặc trên trang BBC.
Việc chọn lựa quan điểm thể hiện nhiều tính chất chính trị hơn trong trong thời cuộc là lựa chọn của ông Thích Nhất Hạnh, và sẽ nhiều năm nữa với những tư liệu đầy đủ hơn được tiết lộ thì có lẽ cái nhìn về ông sẽ rõ ràng hơn, định danh đúng hơn. Nhưng ở lúc này, để xác định ông là "tay sai cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản", hoàn toàn là võ đoán và vô căn cứ. Việc ghét bỏ dựa trên cách ông chống chính quyền Mỹ, vẫn được xem là khuynh hướng chung của những người theo chủ nghĩa dân tộc như hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm chẳng hạn.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Mục sư Martin Luther King ở một họp báo tại Chicago, Mỹ hôm 31/5/1966. AP
2. Có vợ con nhưng che giấu
Sự kiện vô căn cứ này được rộ lên sau khi Thiền sư ra đi. Ai đó đã tung một bức ảnh mơ hồ có ông và một vài phụ nữ, trẻ em, và nhất định xác quyết đó là gia đình ông. Trong số những người đưa và tung những tin giả này, có cả một nhân vật từng làm trong Bộ Nội vụ của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên, rất nhanh là những ngôn luận này bị vạch mặt, bởi đó là bức ảnh của gia đình họa sĩ Võ Đình đi thăm ông Thích Nhất Hạnh và chụp làm kỷ niệm. Chính phu nhân của họa sĩ Võ Đình đã công khai tố cáo rằng bọn lưu manh đã nhặt, cắt xén và ghép thêm hình vào tấm ảnh gia đình do chính họa sĩ Võ Đình chụp thầy Nhất Hạnh và các con của họa sĩ Võ Đình. Tiếc thay tiếng nói thật vẫn đang chìm đắm trong sự loạn lạc của dòng tin thất thiệt.
3. Về tuyên bố Mỹ bỏ bom chết 300.000 dân Bến Tre
Đây là một trong những ngôn luận chính, dẫn theo vô số những lời chỉ trích và khẳng định ông Thích Nhất Hạnh là "việt cộng". Theo những lời kể lan khắp các tranh mạng thì ông Thích Nhất Hạnh đã "bịa đặt chuyện Mỹ bỏ bom và giết 300.000 dân" để kêu gọi thế giới chống chiến tranh Nam-Bắc.
Thế nhưng câu chuyện lại hoàn toàn khác.
Nguyên văn của câu chuyện được tờ New York Times đăng tải vào năm 2001, là trong một buổi thuyết pháp ở Mỹ vào ngày 25-9 ở Riverside Church, New York, khi đọc một bài thơ của mình, ông Thích Nhất Hạnh có kể là bài thơ ra đời khi ông nghe tin Bến Tre với dân số 300 ngàn người bị ném bom phá hủy vào năm 1968 khi quân đội Mỹ có tin là khoảng chục lính việt cộng đang ẩn nấp trong đó. Bất nhẫn hơn vì qua một bản tin của hãng thông tấn AP, một cấp chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng "Đó là sự cần thiết để phá hủy thành phố này nhằm cứu nó" (It was nesscesay to destroy town to save it) trong bản tin tường trình chiến sự từ Việt Nam vào đầu năm 1968.
Con số về người dân ở Bến Tre lúc đó, chính xác chỉ khoảng từ 30.000-35.000 người, nên về số liệu thì ông Thích Nhất Hạnh đã trích dẫn sai, nhưng nội dung thì hoàn toàn không giống gì với những tin đồn về "tố cáo" và "phục vụ cho việt cộng" vẫn đang thao túng nhiều nơi.
Trên thực tế, yêu hay ghét thiền sư Thích Nhất Hạnh là chuyện bình thường. Mọi nhà lãnh đạo tinh thần trên thế giới đều phải trả giá cho sự độc lập về tư duy của mình. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bị phía chủ trương kháng chiến vũ lực chống Trung Quốc nói ông là phản bội. Đức Thánh Cha Francis vẫn bị nhiều giám mục, linh mục, tín đồ chống đối và ghét bỏ những cải cách, nhận định của ngài. Nhưng mọi thứ cần đặt trên sự thật. Sự ghét bỏ đơn thuần không làm nên nền văn minh, và chính sự hiểu biết và quan sát đủ, mới có thể tạo dựng được phát triển của một dân tộc hay thế giới này.
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 24/01/2022
********************
Thiền sư và chánh niệm
Phạm Phú Khải, VOA, 24/01/2022
Chánh niệm, hay tỉnh thức (mindfulness), bây giờ hiện diện ở khắp nơi, trong mọi hoạt động của con người. Công lao này là do nhiều người, nhất là những ai tin tưởng vào phép mầu nhiệm của chánh niệm. Nhưng lớn nhất vẫn là thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã viết bao nhiêu cuốn sách về chủ đề này, hay viết về bao đề tài khác nhưng luôn đề cập đến yếu tố chánh niệm như là phương thuốc chữa trị "bá bệnh".
Tôi còn nhớ cách đây chừng năm sáu năm, chỗ làm tôi tổ chức khóa đào tạo lãnh đạo. Khóa học này kéo dài một tuần, nhấn mạnh nhiều yếu tố và nhiều vấn đề. Có những bài tập trước, trong và sau khóa học. Có thể nói bàng bạc trong tất cả các đề tài được thảo luận, chánh niệm vẫn là yếu tố mang tính cơ bản và nền tảng.
Theo nhiều học giả về lãnh đạo học và tâm lý học thì chánh niệm là một trạng thái ý thức bao gồm nhận thức và sự chú ý.
Khóa học cũng đào sâu vào chủ đề trí tuệ cảm xúc (emotional intelligence/EI), trong đó bốn khía cạnh chính là nhận thức bản thân (self-awareness), biết tự quản lý (self-management), nhận thức xã hội (social awareness), và biết quản lý quan hệ (relationship management).
Nói cách khác, muốn trở thành một lãnh đạo giỏi, bất kể đó là lãnh đạo một quốc gia, một công ty, một cộng đồng, một tổ chức thiện nguyện, hay đơn giản, một thầy hay cô trong lớp học, hay một lớp trưởng một đội trưởng, người đó phải có khả năng về trí tuệ cảm xúc. Người có trí tuệ cảm xúc là người biết mình, biết tự chủ, hiểu xã hội và giỏi quan hệ.
Những khái niệm và quan niệm trên được các nhà nghiên cứu về quản trị và lãnh đạo tìm hiểu từ bao tài năng lãnh đạo thành công, lẫn thất bại, tại Mỹ và trên thế giới trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ. Đặc biệt là từ các đại học, học viện nghiên cứu về thương mại, như Harvard Business School, chẳng hạn.
Một trong những người đưa các khái niệm này trở thành trụ cột của kỹ năng lãnh đạo là Daniel Goleman. Tác phẩm kinh điển về Emotional Intelligence do Daniel Goleman viết, xuất bản vào năm 1995, là cuốn sách được bán chạy nhất trên The New York Times trong một năm rưỡi, được dịch ra 40 ngôn ngữ khác nhau và trở thành sách ăn khách nhất trên nhiều quốc gia. Goleman cho rằng nhận thức bản thân, tức nhận biết một cảm giác khi nó xảy ra, là nền tảng của trí tuệ cảm xúc. Hơn nữa, xử lý cảm xúc sao cho phù hợp là một khả năng được xây dựng dựa trên nhận thức bản thân. Ngoài ra, sự đồng cảm (empathy), một khả năng khác được xây dựng dựa nhận thức bản thân về mặt cảm xúc, là kỹ năng cơ bản về con người (people’s skill). Sau cùng, nghệ thuật của các mối quan hệ, phần lớn, là kỹ năng quản lý cảm xúc ở người khác. Nghĩa là biết cảm xúc của mình, của người khác, để quản lý tốt đẹp, thì sẽ thành công trong mọi quan hệ.
Phép màu của chánh niệm (The miracle of mindfulness), được thiền sư Thích Nhất Hạnh viết vào năm 1974, sau này được Mobi Ho dịch sang tiếng Anh, đầu tiên vào năm 1975. Tác phẩm này vẫn được xem là cuốn kinh điển về chánh niệm cho đến nay. Thích Nhất Hạnh được xem là người Thầy của chánh niệm, nhưng không phải ai biết về chánh niệm cũng biết về Thích Nhất Hạnh.
Ngày nay dường như làm việc gì cũng được lồng chánh niệm vào trong đó. Có người còn bảo rằng trước đây khi rửa chén tôi không hề nghĩ đó là chánh niệm, cho đến khi biết về các bài giảng của thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Trên tạp chí phổ biến hàng đầu về tâm lý, Psychology Today, dường như lúc nào cũng có một hay nhiều bài trên trang này nói về chánh niệm. Có thể nói ngày nay các phương thức điều trị tâm lý đều dùng đến chánh niệm như là sự khởi đầu, và cũng là điểm đến. Rất nhiều học giả và tác giả của nhiều bài viết hay sách chuyên về tâm lý cũng đề cao vai trò của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Như bài Mind Over Matter, phần đầu trích dẫn Thích Nhất Hạnh : "Chánh niệm không phải là việc chỉ được thực hiện trong thiền đường, nó còn được thực hiện trong bếp, ngoài vườn, khi chúng ta nghe điện thoại, khi lái xe, khi rửa chén".
Như ông Ngô Nhân Dụng viết trong "Sống tỉnh thức với Thiền sư Thích Nhất Hạnh", chánh niệm đã đi vào giòng chính và ảnh hưởng lên mọi mặt đời sống của người Mỹ và khắp nơi.
Tôi còn nhớ cũng trong khóa đào tạo lãnh đạo nói trên, những người hướng dẫn khóa học, và những học viên, đều có vẻ thích thú về chánh niệm hay nhận thức bản thân. Nhưng khi tôi hỏi họ có biết về Thích Nhất Hạnh, hay cuốn "Phép màu của chánh niệm" không, thì đại đa số không biết. Nhưng đây cũng là điều thật dễ hiểu. Một, chánh niệm thuộc về Phật giáo, không phải của riêng ai. Hai, giữa Thích Nhất Hạnh và người đọc là bao nhiêu học giả và tác giả trung gian về chủ đề này. Ba, thời nay người ta đi tìm hiểu khái niệm và ý nghĩa để làm vốn liếng kiến thức nhiều hơn tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của chánh niệm hay bắt cứ một chủ đề hay lĩnh vực nào.
Tôi còn nhớ cách đây ba năm, cũng tại chỗ làm, các bài giảng từ các tâm lý gia về chánh niệm đã được thực hiện để cho mọi nhân viên tìm hiểu và thực tập. Các bài viết đã được phổ biến trên trang mạng Intranet, và các bài giảng bằng giọng đọc thật hay đã được nhân viên tải về để nghe bất cứ lúc nào. Dường như mọi công sở đều thấy giá trị của chánh niệm. Có khi trong các buổi họp hoặc hội thảo kéo dài trên hai tiếng, bài giảng 10 đến 15 phút về chánh niệm đã được phát thanh vào giữa buổi để mọi người thật sự lắng đọng, thư giản và bình yên. Trong các khóa Yoga tôi tham dự cũng có nội dung và hình thức tương tự. Tôi thật sự không biết những những người thực hiện các chương trình này lấy từ đâu. Nhưng đọc các tác phẩm của thiền sư Thích Nhất Hạnh tôi biết rõ Thầy có ghi rõ các bài tập và cách hướng dẫn thực hiện từng bước trong đó.
Trong những lúc thực tập chánh nhiệm, tôi thấy được sự nhiệm màu của nó, nên mang ơn tất cả những ai đã có công mang lại sự tỉnh thức cho nhân loại, trong đó có thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 24/01/2022
*************************
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về
Nguyễn Hùng, VOA, 24/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy mang dòng máu Việt có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới. Cả trường phái phật giáo dấn thân lẫn phương thức thực hành chánh niệm của Thầy đều được sự chú ý và noi theo của triệu triệu người.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thắp hương tại Tổ đình Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế ngày 4/9/2017 (Ảnh : Báo Giác Ngộ)
Tuy nhiên ảnh hưởng của Thầy ở Việt Nam đã không được như chính Thầy mong muốn vì sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều của giới lãnh đạo cộng sản. Sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều này có thể thấy qua ba lần Thầy nhẫn nại về Việt Nam, nơi giới lãnh đạo có những giá trị đi ngược lại quan điểm sống của người Thầy được thế giới ngưỡng mộ.
‘Chuyến đi khó khăn’
Lần trở về thứ nhất là năm 2005, gần 40 năm sau khi Thầy bị buộc phải sống lưu vong vì chính quyền ở miền nam thời trước 1975 không hài lòng với thái độ phản chiến của vị Thiền sư và ngăn cản ông về nước hồi năm 1966.
"Chuyến đi này là một chuyến đi khó khăn vì không khí nghi ngờ, sợ hãi vẫn còn nặng nề trong bối cảnh chính trị, nhất là trong những ngày đầu ở Hà Nội. Ví dụ trong buổi giảng tại Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, người ta đã hứa là 300 người sẽ nhận được giấy mời nghe Sư Ông giảng, nhưng tới ngày chót chỉ có 40 lá thư được gửi ra và cuối cùng chỉ có 18 vị trong số 40 người có thư được vào nghe Sư Ông. Những người còn lại bị công an giữ cửa từ chối không cho vào vì tên họ đã bị gạch bỏ trên danh sách". Đó là những gì được ghi chính thức trongLá thư Làng Mai hồi năm 2006, ấn phẩm ra mắt mỗi năm một lần.
Nhưng Lá thư Làng Mai nói sự sợ hãi sau đó cũng bớt đi nhiều và khi Thiền sư tới giảng ở Học viện hành chính quốc gia ở thành phố Hồ Chí Minh, các quan chức đã cho phép tới 1.000 người tham dự nhờ vào "sự thực tập kiên nhẫn, vững chãi, thảnh thơi, ái ngữ và lắng nghe" của Thầy Thích Nhất Hạnh. Làng Mai nói cuối cùng có cả thảy hơn 200.000 người đã có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với vị Thiền sư và tăng thân tháp tùng cho dù "báo chí được lệnh không đăng tải chương trình và sinh hoạt của chuyến viếng thăm" hồi năm 2005.
Đó cũng là năm Thầy đưa ra bảy đề nghị với Đảng Cộng sản trong đó có việc "[g]iáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản".
Cũng trong chuyến đi, Thầy nói với tạp chí Time : "Để có thể có tự do, điều cần thiết là phải giúp người ta buông bỏ những sợ hãi, ngộ nhận và kỳ thị của họ".
‘Chuyến đi lịch sử’
Lần trở về thứ hai hồi năm 2007 trong "chuyến đi lịch sử", Thiền sư đã đứng ra tổ chức ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam để cầu siêu cho hàng triệu người Việt đã tử nạn trong cuộc chiến. Làng Mai nói Thầy đã có lời mời các vị lãnh đạo cao cấp tới tham dự nhưng cuối cùng không có ai tới và viết trongLá thư Làng Mai trong năm 2008 :
"Phân tích cho kỹ ta sẽ thấy có nhiều nguyên nhân [các lãnh đạo không tới], trong đó yếu tố nghi ngại là quan trọng hơn cả. Dấu hiệu đầu tiên là nhà nước, trong đó hẳn có Trung ương Đảng và ban Tư Tưởng đã không muốn Làng Mai sử dụng từ giải oan. Đoàn tiền trạm của Làng Mai dù có giải thích bao nhiêu đi nữa, nói rằng các trai đàn chẩn tế của truyền thống Phật giáo, từ xưa đến nay đều có sử dụng từ giải oan, nhưng rốt cuộc các thầy trong Giáo hội cũng như trong Phái đoàn chỉ được chính thức sử dụng từ bình đẳng mà thôi.
"Theo tư tưởng lãnh đạo, đây là một cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, những người chiến sĩ hy sinh là tại họ muốn hy sinh, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả. Trong tư duy người ta có thể suy luận như thế nhưng trong thực tế, nỗi oan ức mà dân ta đã phải chịu đựng trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng có tầm vóc lớn lao tới mức không lời nói nào có thể diễn tả nổi. Nước Đức cũng đã bị chia đôi, Tây Đức lại có căn cứ quân sự Hoa Kỳ, nhưng rốt cuộc, hai nước Đức đã được thống nhất, các căn cứ hỏa tiễn liên lục địa của Hoa Kỳ ở Tây Đức được giải tỏa mà dân Đức không phải đi ngang qua một cuộc chiến với hàng sáu triệu người thiệt mạng với bao nhiêu đổ nát và tang tóc như ở nước ta".
Mặc dù có nhiều khó khăn, cả ba sự kiện ở ba miền cuối cùng đều được phép diễn ra dù không được hoàn toàn theo ý của Thiền sư. Làng Mai nhận định : "Qua các đại trai đàn chẩn tế ba miền này, ta thấy được tiềm lực lớn lao của nền đạo lý dân tộc, tiềm lực có khả năng chế tác niềm tin và tình huynh đệ, có khả năng khai phá một con đường tâm linh cho đất nước, ngăn chặn những tệ nạn xã hội, làm vững mạnh lại cơ cấu gia đình và cộng đồng, gây cảm hứng cho một niềm tin vào tương lai đất nước và dân tộc".
‘Nghi ngờ và sợ hãi’
Về những điều trái khoáy diễn ra, Lá Thư Làng Mai 2008 viết : "[T]uy nhà nước đã cho phép, nhưng sự nghi ngờ và sợ hãi vẫn còn, đó là một trong những lý do khiến các vị lãnh đạo không tới dự lễ dâng hương bạch Phật. Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Công an Tôn giáo đã "bảo hộ" phái đoàn trong tinh thần ấy, vì vậy cho nên trước ngày khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ đã nói với thầy Pháp Ấn là trong trai đàn, các thầy không được nhắc tới người thuyền nhân bị thiệt mạng trên biển cả, các nạn nhân chiến tranh của miền Nam, trong đó có các binh sĩ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, không được nói tới các hố chôn tập thể, không được nói tới tù đày, học tập cải tạo, v.v Lý do ông nêu ra là để ổn định an ninh vùng. Sau hơn hai tiếng thuyết phục, ông Vụ trưởng không giữ được sự bình tĩnh và đã sử dụng những ngôn từ gay gắt".
Trong chuyến trở về hồi năm 2007, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị nhà nước dựng Tượng Đài Thuyền Nhân tại bờ biển Vũng Tàu để tưởng niệm đồng bào đã chết trong lúc vượt biển. Đương nhiên đề nghị này làm sao có thể được chấp nhận khi mà chính quyền Việt Nam còn tìm cách xoá bỏ cả các tượng đài thuyền nhân ở những đảo tại các nước khác mà thuyền nhân từng lánh nạn trong đó có Indonesia.
‘Hai tiếng Việt Nam là đẹp nhất rồi’
Khi Thiền sư trở về hồi năm 2007, Việt Nam đã thực hiện chính sách mà họ tự gọi là Đổi Mới được trên 20 năm. Nhưng những gì Thầy và phái đoàn chứng kiến cho thấy sự đổi mãi mà không mới. Lá thư Làng Mai 2008 viết : "Phải công nhận là giới công an và Ban tôn giáo chính phủ đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để bảo đảm an ninh cho phái đoàn, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phải cho công an biết trước ; nếu công an xét không có an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì vậy cho nên trong suốt thời gian thăm viếng, phái đoàn có cảm giác không được thoải mái lắm. Ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, và ở tại các nước Châu Á như Nhật bản, Thái Lan, Đại Hàn, Hồng Kông, v.v khi tới hoằng pháp, phái đoàn Làng Mai không cần ai bảo hộ, không cần giấy mời hoặc sự bảo hộ của bất cứ một giáo hội nào hay của một ban tôn giáo nào. Tới đâu cũng có cảm giác tự do, an ninh và thoải mái".
Lá thư cũng viết thêm : "Tại đất nước ta, cách tư duy trong đảng và trong chánh quyền, đường lối kinh tế của đất nước bây giờ đây đâu còn lấy chủ nghĩa Mác Xít làm khuôn vàng thước ngọc nữa. Đảng Cộng Sản Việt Nam, có người đã nói, cũng nên đổi tên đi thôi, một cái tên mới như Đảng Xã Hội, Đảng Đổi Mới, Đảng Dân Chủ, Đảng Cộng Hòa, Đảng Tự Do, Đảng Dân Tộc tên gì cũng được miễn không phải là cái tên cũ. Cái tên Đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu lầm và tiếp tục nuôi dưỡng oán hận.
"Trong Đảng và trong guồng máy chính quyền chắc chắn đã có những vị suy nghĩ như thế mà chưa nói ra được. Có những vị trong Đảng cũng đã nghĩ tới việc thay quốc hiệu. Thay vì sử dụng quốc hiệu Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một cái tên quá dài, ta có thể đổi lại là Cộng Hòa Việt Nam hay tốt nhất là Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam là đẹp lắm rồi, đẹp nhất rồi, không cần thêm vào chữ nào nữa cả".
Bất nhã hậu Bát Nhã
Sự thẳng thắn và cương trực của Thầy Thích Nhất Hạnh đã khiến chính quyền nổi đóa.
Kể từ chuyến trở về đầu tiên của Thầy hồi năm 2005, hàng trăm học trò theo Pháp môn Làng Mai đã theo về và tu tập ở tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Nhưng sau hàng loạt các kiến nghị của Thiền sư về chuyện phải có những thay đổi trong đó có việc giải tán ngành kiểm soát tôn giáo và đặc biệt là công an tôn giáo, chính quyền đã không còn ủng hộ việc cho phép đông đảo những tu sinh của Làng Mai ở lại Bát Nhã. Kết quả là tu viện đã bị côn đồ được công an mặc thường phục chỉ đạo vào phá phách và đuổi những học trò theo Làng Mai khỏi đây.
Ngay cả khi họ đã rời khỏi tu viện Bát Nhã tới nương nhờ ở chùa Phước Huệ, cũng ở Lâm Đồng, chính quyền vẫn tiếp tục cho người truy đuổi như lời kể của Sư cô Tâm Nhật trongLá thư Làng Mai năm 2010 về những gì xảy ra hồi tháng 12/2009 :
"Sự yên ắng của không gian Phước Huệ và những bước chân thiền hành bị khuấy động bởi nhóm người lạ mặt đeo khẩu trang. Thế rồi buổi gặp gỡ của Phái đoàn các nước bạn với Ôn Trụ Trì và anh chị em chúng tôi không thành giữa tiếng la hét, chửi rủa và buộc tội của đám đông. Người ta nhục mạ và làm tổn thương nhân phẩm của Ôn Trụ Trì và của anh chị em chúng tôi.
"Tôi rúng động bàng hoàng trước cảnh một người tự xưng là Phật tử dang tay sỉ vả thằng thừng vào mặt một vị tôn đức. Xung quanh tôi là cảnh hỗn loạn ồn ào. Anh chị em tôi vẫn ngồi yên, mỗi người đều duy trì niệm từ bi và bình lặng. Sự hỗn loạn càng tăng lên khi phái đoàn thăm viếng phải ra về. Ôn trụ trì lập tức bị cô lập trong phòng làm việc mấy mét vuông của mình, bao quanh là tiếng la hét chửi rủa nhục mạ của hơn trăm con người. Sau gần một tiếng đồng hồ, Ôn Trụ Trì mới thoát được vào phòng riêng và bên ngoài vẫn còn tiếng đập cửa la hét".
Liên quan tới các diễn biến bạo lực sau đó, Sư cô Tâm Nhật kể tiếp : "Đầu của sư em Hoạt Nghiêm sưng vù một cục to tướng khi lãnh lấy một cú thoi từ một bàn tay thô bạo nào đó rồi bị đẩy từ trong phòng ra và va đầu thêm vào cột nhà. Sư em chỉ mới 17 tuổi. Thầy Phong Thuấn bị xô ra ngoài và bị xé cho rách áo. Thầy Thánh Hiệp, sư em Pháp Doanh, sư em Pháp Chuẩn cũng bị ném ra ngoài kèm theo lời đe dọa gầm gừ của chú công an mặt thường phục. Tôi nhận ra chú công an đó, người có mặt từ đầu những ngày Bát Nhã nguy nan, đứng bình thản quay phim cảnh anh chị em tôi bị đánh đập, rượt đuổi. Tiếng la thất thanh của sư em Đáo Nghiêm khi bị một người đàn ông xô đẩy và đụng vào, rồi sư em cũng bị hất văng ra khỏi phòng…
"Ngay trên đầu chúng tôi là tiếng gào rú của hai, ba cái loa phóng thanh cỡ lớn, dọa dẫm khuyến cáo chúng tôi phải rời khỏi chùa Phước Huệ. Có sư em ngồi vòng ngoài, nhắm mắt niệm Bồ tát mà mặt hứng đầy nước bọt văng ra khi những người hung dữ kia ghé sát xuống mà chửi rủa. Sư em Trung Ngọc cũng ngồi vòng ngoài, cảm thấy tai mình ù đi khi một người đàn bà đã ghé chiếc loa phóng thanh vào tai em mà chửi : " Mày đi tu gì mà ngu và lì quá vậy, cút về địa phương mà ở đi, tới đây tính chiếm chùa hả " ?
‘Đám mây không bao giờ chết’
Sau những gì xảy ra ở Bát Nhã, Làng Mai đành từ bỏ ý định mở rộng hoạt động và ảnh hưởng ở Việt Nam và quay sang củng cố và mở thêm các trung tâm ở bên ngoài trong đó có cả tại Thái Lan.
Khi trở về Việt Nam hồi năm 2018 để dành những năm tháng cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, nơi Thầy xuất gia khi 16 tuổi, Thiền sư đã không còn có thể nói được sau lần đột quỵ hồi năm 2014. Có lẽ Thầy cũng không còn muốn đề đạt gì với chính quyền cộng sản sau khi họ bỏ ngoài tai tất cả những đề đạt trước đó của Thầy.
Sự trở về cuối cùng của Thiền sư thực tế đã được chính ông giải thích ngay trong lần đầu trở lại quê hương sau gần 40 năm xa cách hồi năm 2005 : "Trở về ở đây là trở về nhà, về căn nhà của hải đảo tự thân, về căn nhà của tự tánh chân thật. Trở về ở đây có nghĩa là về nhà của tổ tiên, của đạo pháp, của tăng thân. Quê nhà là nơi có tình thương, hiểu biết, bình an và ấm cúng".
Cũng trong cùng chuyến đi đó Thầy đã hỏi cử toạ ở Quy Nhơn ‘sau khi chết mình sẽ đi về đâu’ và trả lời : "Điều này giống như đám mây trên bầu trời. Sức nóng của mặt trời đã biến nước của sông ngòi thành hơi, hơi này sau đó tụ lại thành mây. Rồi trở về với đất, với sông dưới dạng : mưa, tuyết hoặc băng giá. Đám mây không bao giờ chết. Nó chỉ đổi dạng thành : mưa, sông, nước".
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 24/01/2022