Thiền sư Nhất Hạnh : công và tội với dân tộc
Nguyễn Quốc Khải, 01/02/2022
Trong vài tuần nay khá nhiều góp ý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh kể từ khi ông qua đời vào ngày 22/1/2022. Một cách tổng quát, có hai ý kiến trái ngược nhau ca ngợi và chỉ trích mãnh liệt. Xét cho cùng hai bên đều có thể đúng. Một bên ca ngợi ông về mặt triết lý của cuộc sống và mục tiêu là mưu cầu hạnh phúc, đặc biệt là phương pháp thiền của ông giúp con người sống an nhiên tự tại. Một bên phê phán ông Nhất Hạnh về mặt chính trị dựa trên tinh thần quốc gia dân tộc.
Một đời viết sách
Tính đến 1/2019 ông Nhất Hạnh đã xuất bản trên 130 cuốn sách, bao gồm trên 100 cuốn bằng Anh ngữ và bán được trên năm triệu cuốn trên thế giới. Sách của ông được dịch ra trên hơn 40 ngôn ngữ và viết về những đề tài như hướng dẫn về tâm linh, Phật điển (Buddhist texts), lời dậy về tỉnh thức (mindfulness), thơ và truyện, và những bài tiểu luận về thiền học.
Ông Nhất Hạnh viết khá nhiều về cuộc sống, giúp ích cho mọi gia đình, mọi tôn giáo. The Art of Mindfulness (Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức) bán được 200.000 cuốn chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Giám đốc Ngân Hàng Thế Giới Jim Jong Kim gọi cuốn sách Phép Mầu của Chánh Niệm (Miracle of Mindfulness) là cuốn sách ưa thích nhất của ông. Ngoài ra ông Nhất Hạnh còn có nhiều sách nổi tiếng khác như Bông Hồng Cài Áo, Muốn An Được An, Hạnh Phúc Cầm Tay, Giận, Chỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người Trẻ, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, Thả Một Bè Lau, Bước Tới Thảnh Thơi, Tâm Tình Với Đất Mẹ, Thiền Tập Cho Người Bận Rộn, Con Đường Chuyển Hóa, Gieo Trồng Hạnh Phúc, Để Có Một Tương Lai, Tìm Bình Yên Trong Một Gia Đình.
Ông viết ít hơn về đạo Phật và không đưa ra tư tưởng sâu xa gì mới. Sách về Phật giáo gồm Đạo Phật Cho Tuổi Trẻ, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đường Xưa Mây Trắng, Đạo Bụt Nguyên Chất, Bụt Là Hình Hài, Bụt Là Tâm Thức, Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Sen Nở Trời Phương Ngoại. Ông chỉ trích Phật giáo ở miền Nam Việt Nam là tách biệt với dân. Ông phát huy một ý niệm mới về Phật giáo dấn thân. Theo đó, triết lý và những điều răn dậy của Phật giáo, những bài học về đức tin, có thể áp dụng vào phúc lợi của con người trong các lãnh vực giáo dục, y tế và chính trị. Tức là đạo vào đời. Trong phần sau, người đọc sẽ thấy ông chủ xướng Phật giáo dấn thân, nhưng áp dụng tùy tiện, tùy lúc, tùy nơi.
Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa. Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam. Ông không trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, nhưng thái độ và những hành động mang tính cách chính trị của ông gây nhiều tranh cãi và hậu quả tai hại như chúng ta sẽ thấy ở một phần sau.
Vận động hòa bình
Thiền sư Nhất Hạnh là người thông thạo Việt, Anh, Pháp và một số ngôn ngữ khác. Do đó ông có nhiều môn sinh thuộc các sắc dân khác nhau và có cơ hội gặp gỡ nhiều yếu nhân quốc tế như Dalai Lama, Mục sư Martin Luther King, Jr., Giáo hoàng Paul VI, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert S. McNamara, Thượng nghị sĩ Edward M. Kennedy, Thượng nghị sĩ William Fulbright.
Mục sư Martin Luther King, Jr. sau khi được giải Nobel Hòa Bình vào năm 1964 đã đề cử Thiền sư Nhất Hạnh nhận giải Nobel của năm 1967 nhưng không có kết quả. Ông là một trong những người Việt Nam nổi tiếng trên thế giới và có lẽ là một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng chỉ sau Đức Dalai Lama.
Thiền sư Nhất Hạnh được học bổng Hoa Kỳ du học về tôn giáo tại Princeton University vào năm 1960 trong lúc chiến tranh Việt Nam bắt đầu sôi động và cuối năm đó Mặt trân Dân tộc Giải phóng Miền Nam thành lập. Tiếp theo, ông được nhận vào học tại Princeton Theology Seminary vào 1961-1962. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm bị giết chết, ông trở Việt Nam vào cuối năm 1963 theo lời mời của Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Ba năm sau, vào 1966, lúc 40 tuổi, ông được Cornell University mời trở lại Hoa Kỳ và dự trù ở lại trong ba tháng. Mục tiêu của chuyến đi này là vận động hòa bình cho Việt Nam.
Ngay trên đất Mỹ, ông phát động chiến dịch chống Mỹ tham chiến ở Việt Nam rất sớm, chỉ một năm sau khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Ông lên án các vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo tại miền Nam mặc dù trong thời gian này quyền tự do tôn giáo được bảo đảm. Ông đòi hỏi chính quyền Sài Gòn phải thương thuyết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam để chấm dứt chiến tranh, mặc dù tổ chức này chỉ là công cụ của Hà Nội. Chỉ vài tháng sau khi quân cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị giải tán tức khắc. Ông được tài trợ đi công du tại 19 quốc gia để quảng bá chiến dịch hòa bình này. Ông được mời nói chuyện trước quốc hội Anh, Canada và Thụy Điển. Vì vậy chính quyền quân nhân Sài Gòn cấm ông trở về Việt Nam. Ông Nhất Hạnh buộc lòng phải xin tị nạn tại Pháp vào cuối năm 1966.
Chống chiến tranh, nhưng ông Nhất Hạnh chỉ chống Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam mà không chống miền Bắc mang quân vào xâm chiếm miền Nam. Ông chống Mỹ ném bom vào tỉnh Bến Tre và thổi phồng sự thiệt hại cho dân mà không chống cộng sản Việt Nam tàn sát dân vào Tết Mậu Thân tại Huế. Ông chống miền Nam thiếu tự do, nhưng không chống miền Bắc độc tài đảng trị, chà đạp nhân quyền và tôn giáo tàn bạo. Chính Làng Mai của ông ở Lâm Đồng thiết lập vào 2005 bị tàn phá vào 2009 mà ông bất lực.
Trở về Việt Nam lần đầu
Thiền sư Nhất Hạnh làm đơn xin với Bộ Văn Hóa trở về Việt Nam từ năm 2000 và đã nộp những bài ông sẽ thuyết pháp cho Bộ Văn Hóa kiểm duyệt, nhưng không được chấp thuận. Đáp ứng với Nghị quyết 36 của của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ban hành vào 2004, Thiền sư Nhất Hạnh một lần nữa xin trở về và được chấp thuận vào 2005 cùng trong khoảng thời gian trở về của cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Nhạc sĩ Phạm Duy, cựu Viện trưởng Viện Đại học Hòa Hảo Lê Phước Sang.
Cũng vào thời gian này, Việt Nam đã bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách những quốc gia đáng quan tâm (country of particular concern - CPC) vào 2004 vì vi phạm nhân quyền đặc biệt là tự do tôn giáo. Do đó chính quyền Hà Nội muốn nới lỏng gọng kìm độc tài để chứng tỏ Việt Nam có tự do tôn giáo nên dễ dàng với ông Nhất Hạnh và thả tự do cho một số tu sĩ Phật giáo liên hệ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và Thượng tọa Thích Trí Siêu. Đồng thời chính quyền Hà Nội chuẩn bị tổ chức Hội Nghị Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation – APEC) vào năm 2006.
Sau gần 40 năm lưu vong ở nước ngoài, 30 năm sau chiến tranh chấm dứt, ông Nhất Hạnh về Việt Nam để chứng kiến những tu sĩ từng tranh đấu cho tự do tôn giáo như ông đang bị chính quyền Hà Nội giam cầm hay quản chế là Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, và các thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Viên Định, Thích Thanh Huyền, Thích Nguyên Lý, Thích Hải Tạng ...
Chính sách đàn áp tôn giáo tàn bạo của chế độ cộng sản Việt Nam thể hiện rất rõ ngay từ khi vừa chiếm xong miền Nam. Vào cuối năm 1975 chính quyền cấm không cho treo cờ Phật giáo khiến 12 tăng ni và Phật tử ở chùa Dược Sư, Cần Thơ tự thiêu để phản đối. Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra thông điệp kêu gọi Bảo Vệ Nhân Quyền ở Việt Nam và đòi hỏi tự do tôn giáo vào ngày 9/6/1977, ngay lập tức chính quyền cộng sản Việt Nam bắt giam sáu vị trong ban lãnh đạo bao gồm các thầy Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh. Viện Đại học Vạn Hạnh do Thiền sư Nhất Hạnh sáng lập và Nhà xuất bản Lá Bối bị ngưng hoạt động. Cô nhi viện Quách Thị Trang bị trưng dụng. Thượng tọa Thích Mẫn Giác phải rời nước ra đi bằng đường biển để mang thông điệp ra thế giới bên ngoài. Riêng Thượng tọa Thích Thiện Minh, bị áp giải về trại cải tạo Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải, nay là tỉnh Bình Thuận, và chết trong tù vào ngày 17/10/1978. Thượng tọa Thích Thiên Minh là một chiến lươc gia của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, từng bị thực dân Pháp bắt giam vào 1947 vì tham gia Ủy ban Phật giáo Cứu quốc tại Quảng Trị và chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vào 1963 cùng với một số tu sĩ Phật giáo khác vì chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo.
Hai Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị kết án tử hình vào 1988 vì bị vu khống hoạt động lật đổ chính quyền. Nhờ sự kiên trì và dũng cảm tranh đấu của hai ông, và cuộc vận động hiệu quả của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với sự hỗ trợ của các tổ chức nhân quyền quốc tế, hai ông được giảm án và sau đó được trả tự do vào 1998. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là giáo hội duy nhất đối lập và không chấp nhận chế độ cộng sản Việt Nam bởi vì đi ngược với giáo lý từ bi, trí tuệ của đạo Phật. Các vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chưa bao giờ tiếp cận với ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Vào cuối năm 2003, Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội Âu Châu phê chuẩn hai nghị quyết tố cáo chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Vào tháng 9/2004, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ liệt kê Việt Nam vào danh sách CPC. Vào cuối năm 2004 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM tổ chức tại Việt Nam, hơn 100 dân biểu Quốc hội Âu Châu đã gửi thư yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu đưa vấn đề đàn áp tôn giáo và nhân quyền ra thảo luận với chính quyền cộng sản Việt Nam. Các dân biểu cũng lên tiếng yêu cầu trả tự do cho hai hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và tất cả các tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị tại Việt Nam.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong dịp trở về Việt Nam lần đầu đã trực tiếp trao cho Thủ tướng Phan Văn Khải một bức thư đề nghị bẩy điều về chính sách của Nhà nước với Phật giáo. Quan trọng nhất là các vấn đề tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền, xung khắc và nghi kỵ giữa chính quyền và Phật giáo, hợp nhất hai giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và việc hỗ trợ giữa chính quyền và tôn giáo.
Hà Nội đã hoàn toàn làm ngơ trước tất cả những yêu cầu này, mặc dầu ông Nhất Hạnh là người sinh trưởng ở miền Nam nhưng theo miền Bắc trong chiến tranh Việt Nam. Ông là người đã chống chính quyền miền Nam Việt Nam, chống việc tham gia của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam chống tham vọng bành trướng của cộng sản, và đắc lực tuyên truyền cho chính quyền Hà Nội trong khi ông lưu vong ở nước ngoài.
Ông muốn thống nhất Phật giáo nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại chủ trương chia rẽ và kiểm soát Phật giáo bằng cách lập giáo hội quốc doanh. Ông muốn tôn giáo độc lập, Đảng cộng sản Việt Nam lập gia Ban Tôn giáo để kiểm soát tôn giáo. Những điều ông đòi hỏi hợp lý nhưng đương nhiên không thể được chấp nhận bởi một chính thể độc tài. Sau cùng ông bị chính quyền Hà Nội ra mặt xem ông như một phần tử đối nghịch nguy hiểm, không cho ông được tiếp súc với nhiều người.
Trở về Việt Nam lần thứ hai
Thái độ của chính quyền Hà Nội khá rõ khi ông trở về Việt Nam lần thứ hai vào năm 2007. Sự di chuyển của ông bị hạn chế tối đa. Ông bị cấm đoán tổ chức trai đoàn giải oan cho nạn nhân chiến tranh ở cả hai miền. Một lá thư của Làng Mai giải thích "Theo tư tưởng lãnh đạo, đây là một cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, những người chiến sĩ hy sinh là tại họ muốn hy sinh, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả".
Cũng trong lần về nước lần thứ hai, ông Nhất Hạnh đề nghị với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dựng tượng đài tưởng niệm những nạn nhân đã chết khi vượt biên nhưng không được chấp thuận. Ông cũng kêu gọi Đảng cộng sản Việt Nam đổi tên vì "cái tên đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu lầm và tiếp tục nuôi dưỡng oan hận".
Hai năm sau, vào khuya ngày 28/06/2009 những tu sinh Làng Mai sinh hoạt tại tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng đã bị khoảng 200 côn đồ có vũ trang do công an chỉ đạo đến sách nhiễu, đánh đập và đuổi ra khỏi tu viện. Thiền sư Nhất Hạnh gửi thư cho Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết để cầu cứu, nhưng không được hồi âm. Họ phải chạy qua lãnh nạn tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc.
Hơn 400 tu sinh theo pháp môn Làng Mai đã một lần nữa bị đánh bật ra khỏi chùa Phước Huệ. Họ bị vu cáo là tụ tập chống phá nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Công an ép các tu sinh pháp môn Làng Mai trở về địa phương. Bô Ngoại giao trục xuất những người có ngoại tịch ra khỏi Việt Nam. Vấn đề then chốt là chính quyền không muốn có một tổ chức độc lập nào ở Việt Nam.
Vào năm 2005 Thượng tọa Thích Đức Nghi hiến chùa Bát Nhã cho Thiền sư Nhất Hạnh để truyền dậy pháp môn Làng Mai ở Việt Nam và tiếp tục trụ trì chùa này. Trong ba năm chùa Bát Nhã đã được sửa sang và mở rộng. Nhưng đến giữa năm 2008, chính quyền ép buộc Thượng tọa Thích Đức Nghi đòi lại ngôi chùa và không cho các môn sinh Làng Mai tu học ở đây. Dự tính thành lập nhiều Làng Mai ở Việt Nam của ông Nhất Hạnh đến thời điểm này kể từ khi chùa Bát Nhã bị đập phá đã chấm hết. Sự việc Bát Nhã là một bài học cay đắng cho Thiền sư Nhất Hạnh.
"Không cùng tinh thần quốc gia dân tộc"
Pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh là một tổ chức độc lập, không thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Nhà nước. Trong những lần về Việt Nam ông Nhất Hạnh và phái đoàn Làng Mai hợp tác với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban Tôn giáo của Nhà nước để tổ chức những chuyến viếng thăm một số nhân vật lãnh đạo chính quyến và thuyết pháp truyền đạo.
Báo Tuổi Trẻ tường thuật rằng vào ngày 5/5/2007, trong lần Thiền sư Nhất Hạnh về nước lần thứ 2, "Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tiếp tại Phủ Chủ tịch Thiền sư Nhất Hạnh và đại diện thiền sinh, cư sĩ trong đoàn tăng thân Làng Mai tới thăm xã giao nhân dịp về thăm Việt Nam theo lời mời của Ban Phật giáo quốc tế thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chủ tịch nước đánh giá chuyến về thăm Việt Nam của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cảm ơn Nhà nước, Chính phủ đã tạo điều kiện cho ông cùng các thiền sinh, cư sĩ trong đoàn được về thăm đất nước".
Trong những lần về Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh cũng thỉnh cầu được thăm viếng các vị cao tăng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất gồm Hòa thượng Thích Quảng Độ và Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ, nhưng đều không được toại nguyện. Hòa thượng Thích Quảng Độ từ chối tiếp Thiền sư Nhất Hạnh vì lý do công an không cho phép. Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ đang trong thời gian nhập thất cũng không tiếp ông được. Trong lúc sinh thời Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã bị Hòa thượng Thích Quảng Độ và Hòa thượng Thích Huyền Quang từ chối tiếp.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không cử người chính thức đại diện tới dự tang lễ của Thiền sư Nhất Hạnh. Đại lão Hòa thượng Thích Chí Viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ Nha Trang ra Huế dự tang lễ chỉ với tư cách huynh đệ đồng môn do từng tu học ở chùa Từ Hiếu trước đây. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cố Thiền sư Nhất Hạnh vì không cùng chí hướng với ông trên tinh thần quốc gia dân tộc. Mỗi chùa tùy nghi làm lễ tưởng niệm.
Kết luận
Ông Nhất Hạnh là một người yêu dân tộc, yêu đạo pháp, muốn đất nước có tư do no ấm. Nhưng sinh không hợp thời, cả hai chế độ Nam Bắc đều không chấp nhận ông. Thiền sư Nhất Hạnh có thể nghĩ rằng cộng sản Việt Nam sẽ mang lại tự do no ấm cho dân Việt Nam. Nhưng sau 1975, ông đã thấy hết sự thật như thế nào. Tiếng súng đã im trong gần nửa thế kỷ nhưng hòa bình thật sự vẫn chưa thành sự thật.
Cuối đời Thiền sư Thich Nhất Hạnh toan tính cảm hóa cộng sản Việt Nam theo con đường nhân bản, cho tự do tôn giáo, giải oan cho các nạn nhân chiến tranh hai bên, cầu siêu cho những oan hồn của những người tử nạn trên đường vượt biên, nhưng ông hoàn toàn thất bại. Dự định thiết lập một số Làng Mai ở Việt Nam cũng đã không thành trong cay đắng. Hẳn ông đã vỡ mộng. Vào năm 2018, ông được trở về lần cuối cùng chỉ để chuẩn bị cho sư ra đi của ông ở quê cha đất tổ.
Nói tóm lại Thiền sư Nhất Hạnh đã đóng góp đáng kể cho sự hiểu biết về cuộc sống an lạc nhưng con đường dấn thân của ông cho đất nước đã không đạt được điều gì cả ngoại trừ giúp cho cộng sản Việt Nam chiếm được miền Nam. Ông bị đột quy và cấm khẩu vào cuối năm 2014. Không còn nguy hiểm cho chế độ Hà Nội nữa cho nên ông được phép về Việt Nam vào 2018, sống lặng lẽ trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời. Ông mất tại chùa Từ Hiếu ở Huế vào ngày 22/01/2022, hưởng thọ 95 tuổi.
Nguyễn Quốc Khải
01/02/2022
Tham khảo :
1. "Thiền sư Nhất Hạnh và con đường thứ ba", BBC tiếng Việt, 15/4/2015.
2. "Hai con đường, hai khác biệt", BBC tiếng Việt, [31] 4/5/2015.
3. Nguyễn Hùng, "Thiền sư Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về", VOA tiếng Việt, 24/01/2022.
4. Henry Kamm, "Refugees from Indochina find only further despair", New York Times, June 17, 1977.
5. "Bẩy điểm đề nghị của Thiền sư Nhất Hạnh về chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo", Làng Mai, 25/03/2005.
6. Quang Mai, "Tiểu sử cố Hòa thượng Thích Thiện Minh", Tập san Quảng Đức, 8/10/2018.
7. Thanh Ngoc", Lên án Thiền sư Nhất Hạnh : sân si hay chính đáng", 26/01/2022.
8. "Reflection : Thich Nhat Hanh at Princeton Seminary", Princeton Theological Seminary, January 27, 2022.
9. Trần Phương, "Xưa có ba nhà sư : Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang và Thích Quảng Độ", Luật Khoa, 22/01/2022.
10. Võ Văn Quan",Thích Nhất Hạnh : Chánh niệm hay chính trị ?", 24/01/2022.
11. Matt Schudel, "Thich Nhat Hanh, Buddhist monk who sought peace and mindfulness, dies at 95", The Washington Post, January 22, 2022.
12. Văn Tâm, "Cuộc đời của Thiền sư Nhất Hạnh", Tạp Chí Luật Khoa, 22/01/2022.
13. "Thiền sư Nhất Hạnh : Không làm chính trị nhưng chọn thái độ chính trị", Việt Tân, 26/01/2005.
14. Đan Thanh, "Thiền sư Thích Nhất Hạnh và biến cố Bát Nhã năm ấy", Báo Tiếng Dân, 27/01/2022.
15. "Quan chức Mặt Trận Tổ Quốc viếng Thiền sư Nhất Hạnh", VOA tiếng Việt, 25/01/2022.
16. Oprah Winfrey, "Oprah talks to Thich Nhat Hanh", 9/2009.
****************************
Thầy Nhất Hạnh mất đi, nỗi buồn Việt Nam vẫn còn đó
Bùi Văn Phú, Việt Báo, 29/01/2022
Người Việt đã dùng nhiều danh hiệu khác nhau như Thượng tọa, Hòa thượng, Thiền sư, Sư ông để gọi Thầy Nhất Hạnh. Nửa thế kỷ trước thầy đã không dùng danh xưng "Thích Nhất Hạnh" mà chỉ là "Nhất Hạnh", như in trên bìa tập sách nhỏ "Bông hồng cài áo", xuất bản lần đầu tại Sài Gòn giữa thập niên 1960. Ý tưởng trong tác phẩm nổi tiếng này được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đưa vào ca khúc mang cùng tên mà rất nhiều người Việt thường cất tiếng ca để nhớ về mẹ.
Bông hồng cài áo – tiếng hát Bằng Kiều, nhạc Phạm Thế Mỹ -lời Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Courtesy of Thúy Nga
Từ những năm đó, thầy đã khai mở một Phật pháp môn mới là Tiếp Hiện, sau này là Làng Mai hải ngoại, với tinh thần tu tập dấn thân được nhiều người theo học, để nhận ra thầy là một bậc tu hành người Việt được thế giới kính trọng.
"Thầy" là cách xưng hô người Việt dùng khi tiếp xúc với các nhà tu hành Phật giáo, nhưng với tôi, nhìn qua lăng kính tâm lý giáo dục tôi gọi là "Thầy" vì ông thực sự là bậc thầy về tâm lý học hơn là một nhà tu truyền giảng tín lý tôn giáo.
Một số tác phẩm của thầy Nhất Hạnh
Những điều thầy nói ra là "hiểu và thương" trong giao tiếp giữa người và người, là "tỉnh thức" trong từng lời nói, việc làm dù rất thường ngày như quyét nhà, rửa chén hay vui chơi, học hành, như thầy đã viết trong "Nói với tuổi hai mươi" là một tác phẩm quen thuộc với giới trẻ ở Việt Nam từ thập niên 1960 và với giới trẻ hải ngoại sau năm 1975.
Buổi quán niệm với Tăng đoàn Làng Mai ở Oakland, California.
Nhiều người ngoại quốc được thầy chỉ dẫn vào "chánh niệm", qua "Phép lạ của sự tỉnh thức" được xuất bản ở Sài Gòn trước đây và nay đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Thầy dạy một điều thật đơn giản là trong từng bước chân, nhịp thở hãy sống ngay phút giây hiện tại để giúp nhận ra chính mình đang hạnh phúc, giúp con người trầm tĩnh lại, nhận ra bình an trong tâm hồn, khi mà xã hội văn minh vật chất luôn năng động quay cuồng và áp lực cuộc sống đè nặng trên vai.
Thị trưởng Oakland Jerry Brown phát biểu chào mừng Tăng đoàn Làng Mai trong một buổi quán niệm ở Oakland, California đầu thập niên 1990.
Lần đầu tiên tôi được gặp thầy là vào mùa xuân 1983 trong buổi thuyết giảng tại Berkeley Community Theater.
Năm 1981, Bút nhóm Ý Thức do tôi khởi xướng sinh hoạt với sinh viên Đại học Berkeley có in lại "Bông hồng cài áo", tôi viết thư qua Pháp xin phép và được thầy đồng ý cho in. Hôm đó tôi có đem theo tập sách nhỏ để xin thầy chữ ký.
Nửa thế kỷ trước thầy đã không dùng danh xưng "Thích Nhất Hạnh" mà chỉ là "Nhất Hạnh", như in trên bìa tập sách nhỏ "Bông hồng cài áo", xuất bản lần đầu tại Sài Gòn giữa thập niên 1960.
Những năm ở đại học tôi đọc "Lotus in the Sea of Fire" để thấy thầy là người Việt đã lên tiếng phản đối chiến tranh, kêu gọi hòa bình, đòi quyền dân tộc tự quyết. Qua tác phẩm, qua những phát biểu, qua những "Đề nghị hòa bình" cho Việt Nam, chủ yếu thầy yêu cầu người Mỹ rút lui, chấm dứt can thiệp vào Việt Nam.
Tháng Tư 1975 người Mỹ quấn cờ ra đi. Chiến tranh chấm dứt, hòa bình không thấy mà thanh niên Việt lại phải tiếp tục hy sinh trên chiến trường biên giới phía bắc, mất mạng bên nước láng giềng phía tây.
Chiến tranh chấm dứt, nhiều người Việt không được vui sống bên gia đình mà lại bị đưa vào những trại học tập cải tạo. Chiến tranh chấm dứt, các cơ sở tôn giáo bị tịch thu. Nhiều người không thể đóng góp cho quê hương mà phải vượt biển, vượt biên bỏ nước ra đi.
Sư cô Chân Không, với khăn áo nâu, trong một buổi quán niệm ở Oakland, California.
Năm 1976 thầy là người đầu tiên có mặt ở Đông Nam Á, với con thuyền do một tổ chức quốc tế về tôn giáo bảo trợ để cứu người vượt biển, dự định đưa họ đến Guam hay qua Úc. Vì thiếu minh bạch tài chánh nên chương trình bị buộc chấm dứt và thầy trở về Pháp. Dù thế nào, đó cũng đã là mở đầu cho nhiều tổ chức sau này thuê tàu ra khơi để cứu người, khi làn sóng thuyền nhân ngày càng lên cao.
Hôm thầy đến diễn thuyết ở Berkeley, ngoài hành lang có bàn ký thỉnh nguyện thư gửi Liên Hiệp quốc, lãnh đạo Việt Nam đòi tự do tôn giáo, tôn trọng nhân quyền cho Việt Nam.
Tình hình Giáo hội Phật giáo ở Việt Nam khi đó rất căng thẳng vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã bị nhà nước giải tán, thay thế bằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc. Các thầy Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị giam hay quản chế cư trú, người ở Quảng Ngãi, người ở Thái Bình.
Thời chiến tranh, thầy kêu gọi chính phủ Sài Gòn cho Giáo hội Phật giáo được tự do hành đạo. Thời cộng sản, Hà Nội đàn áp Giáo hội thì thầy không nói gì.
Thầy lập ra Làng Hồng, sau là Làng Mai để phát triển việc tu thiền, đi thuyết giảng ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia, thu hút đông tăng sinh. Mấy chục quyển sách về tu thiền, về lịch sử, văn hóa Việt Nam của thầy in tại hải ngoại được nhiều người đón nhận.
Hôm thầy thuyết giảng ở Berkeley, vài nghìn người đến nghe, hầu hết là người Mỹ, ngồi kín thính đường và tràn ra cả lối đi.
Ngoài hành lang có bày bán sách của thầy và tôi chú ý đến bài thơ in trên giấy hoa văn, đọc qua thấy mang nhiều ý nghĩa nên tôi mua một bản. Bài thơ "Please call me by my true names" có những câu đã nói lên hoàn cảnh của hàng triệu người Việt sau chiến tranh.
I am the twelve-year-old girl,
refugee on a small boat,
who throws herself into the ocean
after being raped by a sea pirate.
And I am the pirate,
my heart not yet capable
of seeing and loving
I am a member of the politburo,
with plenty of power in my hands.
And I am the man who has to pay
his "debt of blood" to my people
dying slowly in a forced-labor camp
Tạm dịch :
Tôi là bé gái 12 tuổi,
tị nạn trên con thuyền nhỏ,
trầm mình xuống biển
sau khi bị hiếp.
Tôi là tên hải tặc
tim tôi chưa biết
nhìn thấy và thương
Tôi là ủy viên bộ chính trị,
quyền lực trong tay.
Còn tôi một người
phải trả "nợ máu" nhân dân
đang chết dần trong trại lao động cưỡng bách
Bài thơ này sau được in trong tập thơ của thầy, mang cùng tên "Please call me by my true names" do nhà xuất bản Parallax ở Berkeley phát hành năm 1993.
Lần đầu tiên đi nghe thầy thuyết giảng. Sân khấu trang trí thật đơn sơ. Thầy ngồi. Khoan thai gõ chuông trên tay. Tiếng Anh lơ lớ, chậm rãi, thầy yêu cầu mọi người thở ra, hít vào. Thầy nói chuyện như tâm sự, chừng hơn tiếng đồng hồ và mọi người yên lặng lắng nghe.
Mười năm sau, thầy và Tăng đoàn Làng Mai có buổi quán niệm bên hồ Lake Merritt, Oakland với nhiều nghìn người tham dự. Thị trưởng Oakland là Jerry Brown, cựu thống đốc tiểu bang California, đã có mặt và trao bằng khen cho thầy, ông nói trong nhà ông có ảnh chân dung và nhiều sách của thầy.
Dịp này tôi được một anh bạn trước đây cùng nhau sinh hoạt báo chí sinh viên trong vùng Vịnh San Francisco, là Thượng toạ Thích Từ Lực trụ trì chùa Phổ Từ ở Hayward, mời đến chùa dùng cơm trưa với thầy. Bữa cơm chay trong thinh lặng. Sau đó nói chuyện ít lâu với thầy về sinh hoạt giới trẻ địa phương mà anh bạn và tôi thường tổ chức trong phạm vi sinh hoạt của hai tôn giáo khác nhau. Giọng thầy lúc nào cũng nhỏ nhẹ, chậm rãi, như khi thuyết giảng.
Thầy thường đến vùng Vịnh San Francisco vì có những tăng sinh Mỹ đã theo thầy nhiều năm, từ những ngày Làng Mai mới ra đời, đặc biệt là anh chị Arnie và Theresa Kotler sáng lập nhà xuất bản Parallax đã phát hành nhiều tác phẩm của thầy.
Đến năm 1999 xảy ra tranh chấp tài chánh giữa thầy và nhà xuất bản để rồi phải xa cách nhau là điều đáng tiếc vì trong hai chục năm theo thầy, lo tổ chức diễn thuyết, in ấn xuất bản, anh chị Arnie và Theresa còn làm việc với thầy trong chương trình từ thiện giúp người nghèo ở Việt Nam qua việc gửi những gói quà nhỏ bằng đường bưu điện, trong đó có thuốc men, kem đánh răng mà người nhận có thể dùng hay bán đi để có tiền mua thực phẩm.
Có những người nghèo nhận được gói quà, viết thư qua cám ơn. Tôi dịch những lá thư qua tiếng Anh cho những nhà hảo tâm hiểu. Một lá thư từ vùng quê Đà Nẵng kể rằng gia đình ông không có thân nhân ở nước ngòa i, khi nhận được giấy báo lên bưu điện thành phố nhận hàng, ông ngạc nhiên. Nghèo quá, không có phương tiện lên thành phố nên ông phải mượn xe đạp và tiền của hàng xóm để đi lãnh hàng và nộp thuế. Ông kể đã giữ lại món gì trong gói hàng, bán thứ gì để trả nợ, để có tiền mua thực phẩm.
Tuần trước, nhà thơ Bùi Chí Vinh từ trong nước có kể chuyện trên FaceBook của ông về sự kiện năm 1987 ông nhận được gói hàng từ một người xa lạ tên Bùi Thị Chín, gửi từ California nên bị công an mời lên thẩm vấn, nói quà đó là từ Sư cô Chân Không, phụ tá thân tín nhất của thầy, trong chiến dịch chuyển lửa về quê nhà.
Tượng đài với những nhân vật hoạt động vì hoà bình ở Oakland, California.
Về sư cô mà thầy gọi là "Sister Chân Không", theo ghi chú trong tập thơ "Please call me by my true names", năm 1966 từ nước ngoài thầy có làm bài thơ ngắn mang tên "The empty path" viết lên bưu thiếp gửi về cho Cao Ngọc Phượng, tức Chân Không sau này, mà cô nhận được trong ngày bị bắt giam vì tội in và mang trong người những tài liệu chống chiến tranh. Chân Không, cùng Nhất Chi Mai là trong số vài tăng sinh đầu tiên theo pháp môn Tiếp Hiện được thầy chấp nhận thọ giới.
Tập thơ ghi lại những cảm xúc của thầy trong ba thập niên qua nhiều sự kiện, từ chiến tranh với những cái chết của dân vì bom đạn, những vụ ám sát các thành viên của trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, đến cái chết của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, thảm cảnh thuyền nhân sau năm 1975.
Thầy chủ trương bất bạo động nhưng lại là con người thụ động. Thầy không có can đảm để mạnh mẽ nói lên nỗi thống khổ của đồng bào mình dưới chế độ mới, như Gandhi, Martin Luther King Jr., Đức Dalai Lama hay Giám mục Tutu khi nói về đồng bào của họ.
Vì thầy không muốn mất lòng tin của phe cánh tả, của những người phản chiến cũ, những người còn mang mặc cảm tội lỗi vì sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Linh mục công giáo Daniel Berrigan đã viết trong lời giới thiệu sách "Love in Action" của thầy để xin tha thứ : "For your grief, for your long travail, your exile, for the deaf and dumb of uncaring world, for the crucifixion and death of your people. Forgive us". (Vì nỗi buồn của anh, vì đau khổ kéo dài, cuộc sống lưu vong, vì sự câm lặng ngu ngơ của một thế giới không quan tâm, vì sự chịu nạn và cái chết của dân tộc anh. Xin tha lỗi cho chúng tôi).
Một nghệ sĩ Mỹ muốn tôn vinh hoạt động vì hòa bình nhân loại đã khắc tượng thầy chung với Mục sư Martin Luther King Jr., Mẹ Têrêsa, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và nhiều danh nhân khác trong một công viên ở thành phố Oakland, vùng Vịnh San Francisco.
Thầy là nhà tu hành người Việt nổi tiếng khắp thế giới và với quá khứ chống chiến tranh, chống Mỹ can thiệp, nhưng Hà Nội lại không cho phép thầy về.
Ba mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, qua nhiều vận động của quốc tế và Hoa Kỳ, đặc biệt là của cố Thượng Nghị sĩ John McCain, thầy được trở lại quê hương đầu năm 2005 trong phẩm phục, võng lọng chứ không còn là hình ảnh Sư ông Làng Mai đơn sơ với áo nâu sòng, nón lá.
Về nước Đức Tăng thống Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ không tiếp thầy, trong khi thầy được gặp Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời trà. Sư cô Chân Không, như để lấy điểm với nhà nước đã phát biểu rằng những ngôi chùa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nơi có cờ vàng ba sọc đỏ.
Thầy tin Hà Nội sẽ cho pháp môn Làng Mai được sinh hoạt và phát triển. Tu viện Bát Nhã mở ra ở Lâm Đồng với hàng trăm tăng sinh tu tập.
Khi thầy kiến nghị nhà nước đòi sự độc lập cho tôn giáo, bỏ ban tôn giáo nhà nước, Bát Nhã trở thành bãi tha ma sau một đêm côn đồ tấn công vào thiền viện, đuổi mấy trăm tăng sinh đi.
Sau 95 năm ở dương trần, rạng sáng ngày 22/1/2022 thầy Nhất Hạnh thở hơi cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, Huế sau một thời gian bệnh.
Thầy ra đi được nhiều người nước ngoài tiếc nhớ vì tiếng nói cho hòa bình, vì ảnh hưởng của thầy trong sinh hoạt Phật giáo ở phương Tây, qua cách tu thiền để sống hạnh phúc trong từng phút giây mà nhiều người đang theo đuổi.
Với người Việt, vì trên quê hương vẫn thiếu tự do, người dân không có quyền quyết định tương lai cho đất nước, như thầy và nhiều người từng tranh đấu cho lý tưởng đó, nên tranh luận về những gì thầy đã làm vẫn còn tiếp tục.
Từ Houston, Texas Hòa thượng Thích Huyền Việt, đại diện cho Văn phòng 2 Viện Hóa đạo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã trả lời phóng viên đài VOA hôm 25/1 về sự ra đi của thầy với cảm nhận : "Bản thân tôi vẫn kính trọng, ngưỡng mộ Thiền sư về phương diện văn hóa, truyền bá tư tưởng Phật giáo từ bi, bao dung đến thế giới phương tây, nhưng trên tinh thần quốc gia, dân tộc thuần túy thì tôi không cùng đường với Thiền sư Nhất Hạnh".
Bài thơ "Hòa bình" của thầy viết năm 1964, được Phạm Duy phổ thành tâm ca "Tôi ước mơ", có lời vẫn đúng với thực tế trên quê hương hôm nay :
Tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn
và tôi vẫn thở
Nhưng đến bao giờ
tôi mới được nói
những điều tôi ước mơ
Bùi Văn Phú
29/01/2022)
*************************
Thanh Ngọc, Luật Khoa, 26/01/2022
Những chỉ trích về Thích Nhất Hạnh phản ánh mâu thuẫn dân tộc chưa bao giờ được hóa giải.
Trong một bài giảng của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẽ lên bảng hình một cây nến đang cháy sáng. Rồi ông hỏi những người đang ngồi nghe, khi cây nến cháy hết nó sẽ đi về đâu ? Đó có phải sự kết thúc của cây nến ?
Ông cho rằng đời sống của con người giống như cây nến đang cháy. Nó tỏa ánh sáng và nhiệt lượng, thắp sáng cho mọi người cũng như thắp sáng cho chính nó. Con người ta cũng vậy, những gì họ nghĩ, họ nói, họ làm sẽ để lại ảnh hưởng ở hiện tại và ngay cả khi họ đã qua đời. Nó sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên con cháu, bạn bè, xã hội của họ.
Điều ông giảng đang xảy ra với ông. Những lựa chọn của ông trong Chiến tranh Việt Nam và khi ông được phép trở về nước đang bị một số người chỉ trích dữ dội.
Những người lên án Thích Nhất Hạnh cho rằng công chúng không nên quá ngợi ca ông. Theo họ, ông đã gián tiếp gây đau khổ cho nhân dân miền Nam khi thể hiện quan điểm thân cộng sản, chống chiến tranh. Sau năm 1975, trước tình hình nhân quyền bi đát dưới chế độ cộng sản, ông hầu như không lên tiếng phản đối.
Ở phía ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng việc lên án ông thể hiện sự sân si, ganh ghét với một người đã làm rạng danh đất nước Việt Nam – vốn đã không có gì nổi bật với thế giới.
Bạn sẽ đứng về phía bên nào, hoặc bạn sẽ nhìn nhận hai bên như thế nào ? Tranh cãi này đang nói lên điều gì ?
***
Các cuộc tranh cãi tương tự đã xảy ra với một nhà sư khác, hòa thượng Thích Trí Quang, khi ông qua đời vào năm 2019. Cùng với các nhà sư trong khối Ấn Quang, Thượng tọa Trí Quang đã gây ra hàng loạt các xáo trộn chính trị tại miền Nam vào những năm 1960. Thích Nhất Hạnh cũng là một thành viên nổi bật trong nhóm Ấn Quang vào thời điểm đó.
Quan điểm chống chiến tranh của khối Ấn Quang, dù chiếm được cảm tình của giới Phật tử khi ấy, ngày nay bị không ít người chỉ trích.
Sau năm 1975, nếu đất nước thật sự có được "hòa bình" theo đúng nghĩa thì ngày nay mọi chuyện chắc hẳn đã khác. Trên thực tế, đối với nhiều người dân miền Nam, bất kể là dân đen, trí thức, quân nhân hay quan chức của chính quyền cũ, đó là khoảng thời gian kinh hoàng.
Hãy tưởng tượng, ngôi nhà mà bạn đang ở bỗng dưng bị tịch biên, gia đình bạn bị đưa đi vùng kinh tế mới để làm nông mặc dù không ai trong nhà bạn biết trồng trọt là gì.
Hãy tưởng tượng, cán bộ có thể ập vào nhà bạn bất cứ khi nào để lục soát, điều tra xem bạn có chuẩn bị đồ đi tị nạn, thẩm vấn con cái của bạn ở trường xem bạn có ý đồ gì về chính trị hay không.
Hãy tưởng tượng, cha bạn bị bắt đi trại cải tạo, trở về nhà với một thân xác đầy bệnh tật hoặc thậm chí, không bao giờ trở về.
Bên ngoài Trại cải tạo Z30D, huyện Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải (nay là tỉnh Bình Thuận). Sau năm 1975, khoảng 2.000 cựu viên chức, quân nhân của chế độ cũ được cải tạo tại đây. Đến năm 1988, phần lớn trong số đó đã ra khỏi trại. Nguồn ảnh và thông tin : Kienthuc.net.vn.
Trong chiến tranh, người miền Bắc cũng mất mát rất nhiều. Tuy nhiên, nỗi đau của họ được bù đắp bằng vật chất lẫn tinh thần, được xoa dịu, được vinh danh, được lấy chiến thắng làm niềm tự hào. Còn người miền Nam (ở một bộ phận) thì ngược lại.
Việc lên án hay ca ngợi thiền sư Nhất Hạnh phản ánh mâu thuẫn phổ biến giữa hai miền về Chiến tranh Việt Nam. Người miền Bắc luôn cho đó là cuộc chiến giải phóng dân tộc. Người miền Nam coi đó là cuộc chiến xâm lược của miền Bắc.
Quan điểm của bạn phụ thuộc vào việc bạn đứng về phía bên nào của vĩ tuyến.
Nếu bạn đứng ở phía miền Nam và trải qua những đau khổ sau năm 1975, bạn rất có thể sẽ xem Thích Nhất Hạnh là người đã góp phần vào sự sụp đổ của miền Nam, đẩy gia đình của bạn vào nghịch cảnh. Còn nếu ở bờ kia của vĩ tuyến, bạn có thể sẽ cho là ông đã làm điều đúng đắn.
Những chỉ trích Thích Nhất Hạnh vượt ra ngoài phạm vi cá nhân về vị thiền sư này. Nó biểu lộ thái độ không công nhận sự kiểm soát của chính quyền cộng sản miền Bắc đối với miền Nam, cũng như sự bất bình về việc áp đặt chủ nghĩa xã hội cực đoan lên đất nước sau năm 1975.
***
Năm ngoái, trên một chuyến taxi ở Thành phố Hồ Chí Minh, tài xế kể cho tôi một mẩu chuyện trong gia đình. Đó là khi cháu của anh ấy xem chương trình truyền hình về đám tang của tướng Võ Nguyên Giáp. Người mẹ phát hiện ra và nạt con : "Mày có biết ông đó đã hại chết ông ngoại mày hay không mà xem ?". Đã hơn năm thập niên, nút thắt giữa hai miền vẫn còn đó.
Nếu bạn không may là một gia đình miền Nam chịu cảnh đọa đày sau năm 1975, cần bao nhiêu thời gian để bạn quên những mất mát đó ? Có lẽ là không bao giờ.
Nói như thiền sư Thích Nhất Hạnh, những điều mà bạn đã trải qua sẽ còn ảnh hưởng đến con cái của bạn, và nó sẽ còn tiếp nối qua những thế hệ sau nữa.
Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Việt Nam. Những mất mát của người dân khắp nơi qua các cuộc chiến tranh, trong thời kỳ Đức Quốc Xã hay thời kỳ cộng sản ở Châu Âu cũng gây ra sự chia rẽ đáng kể. Chỉ khi nó được kể lại một cách công bằng và không ngừng nghỉ, những nỗi đau đó mới được hàn gắn phần nào.
Người miền Bắc có thể đến tham quan những nhà tù cách mạng, những chuồng cọp, những cảnh tra tấn ông cha của họ, những khu vực thảm sát do quân nhân Việt Nam Cộng hòa gây ra. Nhưng người miền Nam phải tìm đến đâu để hiểu về những trại cải tạo, những trận đấu tố diễn ra ngay trên đường phố, những cuộc vượt biên mạo hiểm đầy chết chóc mà ông bà, cha mẹ của họ đã trải qua ?
Sau hơn năm thập niên, nỗi ám ảnh của người dân về Chiến tranh Việt Nam lẫn sự kinh hoàng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau năm 1975 vẫn chưa kết thúc.
Những tranh cãi về Thích Nhất Hạnh rồi sẽ lắng xuống, nhưng bất cứ khi nào có cơ hội, sự bất đồng sẽ lại trỗi dậy, cho đến khi nó được chính thức thừa nhận và thực tâm hóa giải.
Thanh Ngọc
Nguồn : Luật Khoa, 26/01/2022
*********************
Võ Văn Quản, Luật Khoa, 24/01/2022
Bên cạnh thuyết pháp chánh niệm, vai trò chánh trị của ông nổi bật (và gây tranh cãi) không kém.
Trong các nhân vật lãnh tụ tôn giáo từ thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Thích Nhất Hạnh có vẻ là người nổi tiếng nhất, song cũng gây tranh cãi nhất.
Một mặt, tại phương Tây, thiền phái của Thích Nhất Hạnh cũng như sách thiền, sách Phật học do ông viết có tầm ảnh hưởng không hề nhỏ [1]. Ông được xưng tụng là người cha của chánh niệm (mindfulness). Người Tây phương có vẻ rất thích thú với định hướng Phật giáo của Thích Nhất Hạnh.
Trong một bài giảng đạo nổi tiếng, ông từng cho rằng ai cũng có thể trở thành Bồ tát (bodhisattvas) nếu họ học cách tìm thấy niềm vui và thanh thản ngay ở những hành động nhỏ nhặt nhất như lột cam hay uống trà. Với hơn 70 quyển sách được xuất bản, vai trò của Thích Nhất Hạnh trong đời sống tâm linh phương Tây là không thể phủ nhận.
Christiana Figueres, cựu thư ký thường trực của Công ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu, từng chia sẻ vào năm 2016 rằng cô đã không thể tham gia và xây dựng thành công Hiệp định Paris nếu không nhờ vào những lời giảng dạy của Thích Nhất Hạnh. Giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim gọi quyển "Phép màu của Chánh niệm" (Miracle of Mindfulness) của Thích Nhất Hạnh là quyển sách ưa thích nhất của ông [2].
Thích Nhất Hạnh trong một bức ảnh chụp tại Làng Mai vào năm 2009. Ảnh : PVCEB.
Tuy nhiên, đối với nhiều người, đặc biệt đối với cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành ngay sau năm 1975 và những người trong nước có tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, Thích Nhất Hạnh không khác gì con cờ của chính quyền Bắc Việt.
Cùng với Phật giáo Ấn Quang, một nhánh chính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động tích cực tại miền Nam Việt Nam, Thích Nhất Hạnh và giới tăng sư phản chiến thời kỳ này bị nhiều người gọi là "phản quốc" hay "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản".
Điều gì đã tạo ra hai hình ảnh thuộc về hai thái cực khác biệt nhau đến như vậy ? Liệu đó có phải là hiểu nhầm ? Định mệnh của lịch sử ? Hay chúng là sự thật ? Bài viết sẽ không đi quá xa về việc bình luận hay đưa ra những giả thiết mang tính chất âm mưu thường thấy về vị thiền sư lừng danh này (như về đời sống vợ chồng, con riêng hay thực tế tu tập). Do bản thân Thích Nhất Hạnh ít khi được bàn đến trong sử sách chính thống Việt Nam, tác giả mong muốn cung cấp cho bạn đọc những thông tin còn thiếu sót đó.
Danh tiếng của Thích Nhất Hạnh trước tiên đến từ quốc gia nơi ông sinh ra. Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, lớn lên tại Huế, Việt Nam [3]. Ông được ghi nhận là có định hướng tu hành khi còn khá nhỏ. Năm 16 tuổi, Nguyễn Xuân Bảo xuất gia theo phái Thiền Tông tại Việt Nam và chính thức trở thành một sư thầy vào năm 1951.
So với độ tuổi, Thích Nhất Hạnh đạt được những thành tựu tôn giáo đáng kể. Ở giữa tuổi 20, Thích Nhất Hạnh đã có sách xuất bản riêng. Ông bắt đầu quảng bá cho cách tiếp cận đổi mới của riêng ông về Phật giáo.
Thích Nhất Hạnh vào những năm 1950. Ảnh : PVCEB.
Ông chỉ trích Phật giáo miền Nam Việt Nam thời kỳ này quá phi chính trị và cách biệt với đời sống người dân. Từ đó, ông phát động phong trào Phật giáo Dấn thân (thường được biết đến ở phương Tây là "Engaged Buddhism ") [4]. Nhiệm vụ của phong trào này là áp dụng triết lý và điều răn dạy của Phật giáo vào đời sống thực tế để giải quyết các vấn đề như chiến tranh, bất bình đẳng xã hội hay đàn áp chính trị. Thích Nhất Hạnh đồng thời là chủ biên của Tạp chí Phật học Việt Nam, một tờ báo chỉ được phát hành tại miền Nam Việt Nam.
Năm 1960, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Miền Nam Việt Nam là dấu mốc đẩy các cuộc xung đột, giết chóc tại miền Nam Việt Nam ngày càng leo thang và lan tỏa vào thành phố.
Phong trào Phật giáo Dấn thân của Thích Nhất Hạnh được cho là trở thành cái gai trong mắt của chính quyền Ngô Đình Diệm khi công khai phản đối nhiều hoạt động quân sự và khuyến khích người dân phản chiến.
Tuy vậy, Thích Nhất Hạnh vẫn đến Sài Gòn sinh sống trong một thời gian trước khi được chọn tham gia vào chương trình trao đổi do Đại học Princeton, Hoa Kỳ tài trợ. Ông học tập về Tôn giáo học So sánh (Comparative Religion) và được bổ nhiệm làm giảng viên môn Phật giáo Đông phương tại trường Đại học Columbia sau khi kết thúc khóa học. Đây là giai đoạn Thích Nhất Hạnh bắt đầu xây dựng danh tiếng của mình như một nhà vận động phản chiến, hay thậm chí có thể nói là một trong những người đầu tiên khơi mào cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Ông nhanh chóng trở thành gương mặt "người thật việc thật" từ Việt Nam được giới phản chiến Hoa Kỳ thời điểm này ưa chuộng.
Năm 1963, sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và giết hại, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam và tiếp tục các hoạt động của mình. Danh tiếng và ảnh hưởng của Thích Nhất Hạnh đối với phong trào phản chiến trong nước được tăng cường.
Ngay sau khi chính phủ Sài Gòn mới thành hình, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập. Thích Nhất Hạnh là một trong những thành viên tích cực nhất.
Ông được giao làm chủ bút của tuần báo Hải Triều Âm – cơ quan ngôn luận chính của Viện Hóa đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất [5]. Tuần báo này thu hút nhiều tác giả Phật học, nghị luận viên có tiếng nói và nhanh chóng trở thành tạp chí tôn giáo phổ biến nhất miền Nam Việt Nam. Ông cũng tạo cơ sở cho việc thành lập một trường học Phật giáo dành riêng cho thanh thiếu niên có tên gọi Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội [6].
Thích Nhất Hạnh dạy trẻ em tập đọc bằng một bài hát về Quán Thế Âm Bồ Tát tại một làng tự nguyện những năm 1960. Ảnh : PVCEB.
Hải Triều Âm lẫn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đều có xu hướng chống chính phủ Sài Gòn. Các bài viết của Hải Triều Âm đều có mục tiêu chung là chỉ trích Ngô Đình Diệm và biện giải cho phong trào Phật giáo trước đó, với điểm nhấn là việc Thích Quảng Đức tự thiêu. Tờ báo còn dấn sâu vào việc phê bình chính phủ đương thời miền Nam Việt Nam, yêu cầu loại bỏ các thành phần "thân Diệm" còn sót lại trong chính quyền, đồng thời chỉ trích khả năng can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam.
Bản thân Thích Nhất Hạnh cũng cho ra đời quyển "Hoa sen trong biển lửa", viết bằng tiếng Việt (xuất bản và biết đến tại phương Tây với tên gọi "Lotus in the Sea of Fire ") [7]. Theo người viết, cuốn sách này là tác phẩm phê bình và đấu tranh chính trị thuần túy. Nó bàn và phân tích cả đến vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại với mục tiêu gây ảnh hưởng lên dư luận ; và chỉ là "vô tình" có sử dụng ngôn ngữ Phật học.
Năm 1966, nhận lời mời của Đại học Cornell, Thích Nhất Hạnh lên đường sang Hoa Kỳ [8]. Chuyến đi trở thành chuyến công du tại hơn 19 quốc gia. Ông phát biểu trước Quốc hội Vương quốc Anh, Quốc hội Canada, Quốc hội Thụy Điển. Ông gặp gỡ với hai đại diện của hai chiến tuyến ở Hoa Kỳ : phe chủ chiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara và phe phản chiến do Thượng Nghị sĩ William Fulbright đứng đầu. Ông thậm chí còn có cơ hội gặp gỡ riêng và trình bày ý kiến với Giáo hoàng Paul VI.
Thông điệp chủ đạo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài nhất nhất như một : đòi hỏi Hoa Kỳ ngừng can thiệp vào chiến tranh Việt Nam ; yêu cầu các hoạt động quân sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đội Hoa Kỳ chỉ được giới hạn trong phạm vi phòng vệ ; lên án các vi phạm nhân quyền nói chung và quyền tôn giáo nói riêng tại miền Nam Việt Nam ; yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và từ đó chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước [9].
Thông điệp này bị cho là vượt quá vai trò của một lãnh tụ tôn giáo, và khá dễ hiểu khi nó không được Việt Nam Cộng hòa chào đón. Thích Nhất Hạnh bị cấm trở lại miền Nam Việt Nam. Song trong cuộc sống tha hương, hình ảnh và quan điểm của ông ngày càng phổ biến ở phương Tây, mà đặc biệt là Hoa Kỳ. Giới hippies phổ nhạc những bài thơ phản chiến của Thích Nhất Hạnh, và Martin Luther King đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình năm 1967 [10].
Thích Nhất Hạnh cùng mục sư Martin Luther King trong một cuộc họp báo về chiến tranh Việt Nam ở Chicago vào ngày 31/5/1966. Ảnh : PVCEB.
Dù công khai chống lại phe chủ chiến ở Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn trong suốt hai thập niên tồn tại ngắn ngủi của quốc gia này, Thích Nhất Hạnh luôn xem mình nằm ở vị trí trung lập và chưa bao giờ đứng về phe nào. Quan điểm này cũng được báo chí thế giới phản ánh ghi nhận.
Trong luận thư đính kèm với một bài thơ phản chiến gửi cho ấn phẩm New York Review of Books , ông khẳng định [11] :
"Người ta cho rằng chúng tôi quá ngu ngơ về Cộng sản. Chúng tôi không như thế. Chúng tôi biết rằng Phật giáo bị quản thúc và kiểm soát như thế nào tại miền Bắc. Chúng tôi đã được học về những gì xảy ra tại Trung Hoa. Chúng tôi biết không có chỗ cho tâm linh trong chủ nghĩa Marx.
Và chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh chính trị hòa bình đối với những người Cộng sản, nhưng nó chỉ có thể thực hiện nếu chiến tranh kết thúc. Chúng tôi tin rằng người dân miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ mình khỏi chủ nghĩa Cộng sản nếu họ được trao quyền tự quyết và thực hiện đời sống chính trị của mình trong hòa bình".
Những hoạt động chính trị của Thích Nhất Hạnh liên quan đến chiến tranh Việt Nam đã giúp ông trở nên nổi tiếng và nay, có thể nói, là lãnh tụ Phật giáo có ảnh hưởng nhất thế giới, chỉ đứng sau Đức Dalai Lama.
Song dù phong trào phản chiến giúp tiếng nói của ông nhận được sự đồng cảm và ủng hộ rất lớn từ giới bình dân phương Tây, Thích Nhất Hạnh không tìm được nhiều sự ủng hộ từ chính những người ông từng hứa sẽ bảo vệ – người dân miền Nam Việt Nam. Và người viết, ở mức độ nào đó, hiểu được sự bất mãn của phần lớn những người sinh sống dưới thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt là những thuyền nhân phải vượt biên sau năm 1975.
Bạn đọc có thể tham khảo những quan điểm này, được tổng hợp tương đối rời rạc trong tác phẩm "The Dark Journey : Inside the Re-education Camps of Vietcong " của tác giả Hoa Minh Truong, do Strategic Book Publishing xuất bản [12]. Người viết đã cân nhắc và nhận thấy nhà xuất bản có trụ sở ở Hoa Kỳ từng vướng vào nhiều tranh chấp pháp lý với các tác giả và cộng sự, và chắc chắn chúng ta không thể hoàn toàn tin tưởng vào chất lượng biên tập của họ. Tuy nhiên, xét về mặt thông tin, không quá khó để kiểm chứng lại chúng.
Điểm thứ nhất, nhiều người chỉ ra tiêu chuẩn kép trong các vận động chính trị của Thích Nhất Hạnh.
Dù cực lực lên án Hoa Kỳ tham chiến và phê phán tình trạng nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam, ông chưa bao giờ có thái độ tiêu cực đối với vai trò của quân đội Trung Quốc tại Bắc Việt, hay việc quân đội Bắc Việt Nam tiến vào miền Nam Việt Nam. Đặc biệt hơn, ông chưa từng dám lên tiếng phản đối những chiến dịch khủng bố, ám sát tại đô thị do lực lượng Mặt trận (thường được quân nhân Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn gọi là Việt Cộng) thực hiện.
Người dân chạy nạn đợt tấn công Mậu Thân 1968 trở về Huế sau khi binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tái chiếm thành phố. Hình chụp ngày 13/3/1968. Nguồn : Getty Images.
Đây là luận điểm mà người viết cho rằng không hề nói quá. Từ các cuộc thảm sát sau Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 do chính quyền Bắc Việt và phe Mặt trận chủ động thực hiện, cho đến hàng loạt những vụ đánh bom nhắm vào các mục tiêu dân sự suốt từ năm 1968 cho đến 1975, người viết không tìm được bất kỳ tài liệu nào về việc Thích Nhất Hạnh lên tiếng phản đối hay lên án những hành vi leo thang vũ lực của phía chính quyền cộng sản, dù ông luôn tự nhận mình là người trung lập.
Trong suốt giai đoạn này, Thích Nhất Hạnh vẫn tiếp tục những nỗ lực phản chiến, hay đúng hơn là chỉ trích chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam Việt Nam. Đây là điều khó lý giải, bởi sau sự kiện Mậu Thân 1968 đẫm máu, khó ai có thể nghĩ phe quyết chiến tại Việt Nam thật sự là Hoa Kỳ hay chính quyền Sài Gòn.
Song những nỗ lực của Thích Nhất Hạnh với phong trào phản chiến quốc tế vẫn thành công trong việc đẩy toàn bộ trách nhiệm của việc leo thang chiến sự tại miền Nam Việt Nam về phía liên minh Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Một năm trước sự kiện Mậu Thân 1968, trong tác phẩm "Hoa sen trong biển lửa" đã nhắc đến ở trên, ông vẫn cho rằng Mặt trận là một lực lượng đại diện ý nguyện nhân dân mà cả Hoa Kỳ lẫn Sài Gòn phải tôn trọng ý kiến [13].
Vậy, nói về tự do tôn giáo và bảo vệ Phật giáo, liệu Thích Nhất Hạnh có tiền hậu bất nhất hay không ? Có nhiều bằng chứng cho thấy là có.
Trong giai đoạn trước 1975, đặc biệt là sau 1963, dù Lễ Phật Đản và các hoạt động Phật giáo được tiến hành một cách hết sức thuận lợi [14], Thích Nhất Hạnh vẫn vận động mạnh mẽ và nhiều lần lên án chính quyền Sài Gòn trong vấn đề tự do tôn giáo tại quốc hội nhiều nước hay tại Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, sau năm 1975, ông gần như không có bất kỳ chỉ trích nào dành cho Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và sau đó là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, dù các tăng lữ, tăng ni thuộc phái của chính ông phải chịu sự đàn áp và tổn thất nặng nề.
Ngay sau giải phóng, cơ sở Phật giáo của các giáo phái trong nhánh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như Ấn Quang hay Quốc Tự bị tịch thu trên diện rộng, dù phái Ấn Quang của Thích Nhất Hạnh khá ủng hộ Mặt trận trước đó.
Năm 1977, khi việc quốc hữu hóa tài sản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở nên quyết liệt và phổ biến hơn, Ban trị sự của Giáo hội cũng ra lời kêu gọi tổ chức biểu tình [15]. Song phong trào dân sự, tôn giáo thời điểm này không dễ dàng thành công như trong thời kỳ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những chức sắc lãnh đạo cuộc biểu tình như Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị bắt và bị xét xử hình sự. Các cuộc tự thiêu chìm vào quên lãng.
Thích Quảng Độ trong phiên tòa vào tháng Tám năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực và hai Cư sĩ Đồng Ngọc, Nhật Thường. Ảnh : Phật tử Việt Nam.
Đến năm 1981, Giáo hội này bị chính quyền giải thể bằng quyết định hành chính. Thay vào đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời sau cuộc họp của các đại diện tăng lữ do chính quyền chỉ định.
Kể từ lúc ấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tự nhận mình là đại diện độc tôn của tất cả các hoạt động Phật giáo của người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước. Nó cũng là thành viên đại diện duy nhất của tôn giáo này trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Năm 1981 cho đến đầu thập niên 1990 là giai đoạn mà hoạt động tôn giáo bị kiểm soát chặt chẽ, với việc các cá nhân phản đối bị bắt bớ, giam giữ và xét xử.
Thích Quảng Độ, lãnh đạo cuối cùng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ra tù vào năm 1998 và tá túc tại Thanh Minh Thiền viện ở thành phố Hồ Chí Minh dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền. Do sức ép quá lớn và sự xuất hiện thường xuyên của lực lượng an ninh, công an, Thích Quảng Độ sau đó phải rời thiền viện này [16]. Ông mất vào đầu năm 2020.
Câu chuyện về sự đàn áp của chính quyền đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bằng cách nào đó, chưa bao giờ tìm được đường vào những lời giảng hay những bài phát biểu của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài. Ngược lại, ông tập trung phổ biến và xây dựng nhiều chi nhánh Phật giáo Thiền tông của mình tại nước ngoài, tận hưởng những thành công lớn cả về mặt tôn giáo lẫn tài chính.
***
Trong một khoảng thời gian dài, Thích Nhất Hạnh không hề lên tiếng về những bất công mà người dân miền Nam Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, về nỗi thống khổ của hơn hai triệu thuyền nhân Việt Nam và hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển ; hay ra mặt bảo vệ quyền lợi cho chính giáo hội trong nước của mình.
Đến năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam để chủ trì Đại lễ cầu siêu cho các "nạn nhân chiến tranh Việt Nam". Trớ trêu thay, ông cũng chỉ làm việc thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với sự can dự sâu của chính quyền trước mặt truyền thông quốc tế.
Thích Nhất Hạnh thăm chùa Thiên Mụ tại Huế vào năm 2005. Ảnh : Dang Ngo/ Zuma Press.
Đây có thể xem là giọt nước tràn ly khiến cho một bộ phận lớn người Việt hải ngoại cũng như giới nghiên cứu chiến tranh Việt Nam khó có thể cân nhắc Thích Nhất Hạnh như là một nhân vật trung lập với chánh niệm Phật giáo thuần túy.
Hiển nhiên, Thích Nhất Hạnh có thể tự xem mình là kẻ thù của cả hai phía trong chiến tranh Việt Nam ; như ông tự kể một cách châm biếm rằng tội của ông là "đã xem con người của cả hai bên là anh em, dù họ thuộc phía Cộng sản hay thuộc phía chống Cộng" [17].
Với những bằng chứng đã có, người viết cho rằng chánh niệm của Thích Nhất Hạnh chưa bao giờ chỉ là chánh niệm. Ông thành lập ra phong trào Phật giáo Dấn thân là để can dự và tham gia vào cuộc đối thoại, tranh cãi chính trị của Chiến tranh Việt Nam. Vậy nên, dù đúng hay sai, lịch sử có quyền tháo bỏ cái hào quang thánh người ta đội cho ông và xét lại vai trò của ông như nó đã làm với bất kỳ ai.
Võ Văn Quản
Nguồn : Luật Khoa, 24/01/2022
Chú thích :
1. Aidyn Fitzpatrick. (2019, January 24). The Monk Who Taught the World Mindfulness Awaits the End of This Life. Time. Retrieved 2022
2. Xem [1]
3. Kyte, L. (2022, January 21). The Life of Thich Nhat Hanh. Lion’s Roar. Retrieved 2022
4. Thich Nhat Hanh. (2021, June 10). The Fourteen Precepts of Engaged Buddhism. Lion’s Roar. Retrieved 2022
5. Thích Giác Toàn. (Aug 2014). Lược sử báo chí Phật giáo Việt Nam từ năm 1951 đến năm 1975. Thư viện Hoa Sen.
6. Chân Diệu Hải. (2014). Trái tim thanh niên phụng sự xã hội – Làng Mai. Làng Mai. Retrieved 2022
7. Vietnam : Lotus in a Sea of Fire – A Buddhist Proposal for Peace, Thich Nhat Hanh, Thomas Merton : 9780809013340 : Amazon.com : Books. (1967). Amazon. Retrieved 2022
8. Modernity and Re-enchantment. (2007). Google Books. Retrieved 2022
9. A Proposal for Peace: 1 June, 1966. (2019, October 10). Plum Village. Retrieved 2022
10. Schedneck, B. (2019, March 18). Thich Nhat Hanh, the Buddhist monk who introduced mindfulness to the West, prepares to die. The Conversation. Retrieved 2022
11. Thich Nhat Hanh. (2021, November 21). A Buddhist Poet in Vietnam by Thich Nhat Hanh. The New York Review of Books. Retrieved 2022
12. The Dark Journey. (2010). Google Books. Retrieved 2022
13. Congressional Record. (1967). Google Books. Retrieved 2022
14. Phật Giáo A Lưới. (2015). Lễ Phật đản năm 1964 trong ký ức người dân Sài Gòn – Phật giáo A Lưới. Phật Giáo A Lưới. Retrieved 2022
15. Vietnam. (1995). Human Rights Watch. Retrieved 2022
16. RFA. (2020, October 11). Hòa Thượng Thích Quảng Độ bị đuổi khỏi Thanh Minh Thiền Viện. Radio Free Asia. Retrieved 2022
17. BBC Vietnamese. (2005). Thiền sư Thích Nhất Hạnh về Việt Nam. BBC Việt Ngữ. Retrieved 2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh : 'Không có cái gì chết đi'
Sư ông từng nói rằng "Đám mưa không còn nữa thì mình lại thấy có dòng suối tiếp tục sứ mạng của cơn mưa. Và vì vậy cho nên không có cái gì chết, không có cái gì mất đi cả". Được xem là cha đẻ của 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức),
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề cập đến triết lý tương tức với khái niệm 'interbeing'. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia (inter-are). Không có cái chết thì không có sự sống, không có ánh sáng thì không có bóng tối và ngược lại, chúng không thể tách rời.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai từ Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan nói với BBC News Tiếng Việt rằng "Mindfulness không phải là một tôn giáo. Và nó cũng đã tồn tại, ngấm sâu, phát triển rộng đến mức không còn là một phong trào. Ngoài biên giới Việt Nam, 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức) được nhắc đến như một lối sống. Nó đã vượt ra ngoài các ranh giới của tâm linh, trở thành một phần của ý niệm và hành động thường ngày trong văn hóa, xã hội, kinh doanh, giáo dục, quân sự và chính trị của một phần lớn dân số thế giới".
Vào năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kiến nghị để Phật giáo Việt Nam 'tách khỏi Nhà nước'. 7 điểm này đã được thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho cựu Thủ tướng Phan Văn Khải ngày 25/03/2005.
Nguồn : BBC News tiếng Việt, 25/01/2022
*****************************
Ứng xử hai mang của Giáo hội quốc doanh trong lễ tang Thiền sư Nhất Hạnh
Gió Bấc, RFA, 24/01/2022
Sinh thời, pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh không được Giáo hội Phật giáo Việt Nam công nhận, tăng thân Làng Mai ở Thiền Viện Bát Nhã Lâm Đồng bị truy đuổi, trục xuất khỏi Việt Nam. Khi viên tịch, Thiền sư bị Giáo hội quốc doanh đơn phương, đột xuất truy tặng phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng. Giáo hội quốc doanh xiển dương công đức Thiền sư trên thế giới mà quên bẵng công lao hoằng pháp xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những gửi gắm tâm huyết của Thiền sư về nền tự do tôn giáo, thoát khỏi đảng quyền, công an quyền.
Hình ảnh trong tang lễ của thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng 23/01/2022 từ video của Làng Mai
Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là cao tăng thứ hai của Phật giáo sau Đạt Lai Lạt Ma. Pháp Môn Làng Mai của ông được phát triển nhiều nơi trên thế giới. Phát kiến về Chánh Niệm của ông được nhiều đại học tiếng tăm ở Mỹ và Châu Âu tiếp nhận ứng dụng giảng dạy. Những quan điểm về nhân ái, hòa bình, đối thoại của ông được ngưỡng mộ và đề xuất trao giải Nobel. Những phương pháp thực tập quán niệm hơi thở, bước chân an lạc của ông thật sự đem lại phép lạ của sự tỉnh thức cho mỗi con người.
Trớ trêu thay, tại Việt Nam và với cộng đồng người Việt trên thế giới, cách nhìn, đánh giá về ông có mâu thuẫn đôi khi đến cực đoan. Nhiều người yêu mến, ngưỡng mộ trí tuệ, sự uyên bác và phương pháp thuyết giảng Phật học như là triết lý nhân sinh về giác ngộ, từ bi, chánh niệm… nhưng một số người chống cộng, nạn nhân của cộng sản lại có ấn tượng sâu sắc về tinh thần phản chiến một chiều, phản đối Mỹ đưa quân vào Việt Nam, chống lại chiến tranh mà không phê phán Bắc Việt đưa quân vào Miền Nam, thảm sát Mậu Thân, vi phạm Hiệp Định Paris cưỡng chiếm Miền Nam. Ngay sau 1975, Thiền sư cũng im lặng trước tình trạng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị bức tử hay tình trạng nhân quyền bị đàn áp...
Đảng và nhà nước Việt Nam từ lâu đã tận dụng khai thác những giá trị vàng của ông trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại nhưng vẫn đặt ông trong vòng nghi kỵ tuy không công khai gọi tên là thế lực thù địch.
Mãi ba mươi năm sau 1975, Thiền sư Nhất Hạnh mới được đặt chân về nước trùng hợp với thời điểm Việt Nam được xem xét gia nhập WTO mà một trong những điểm nghẽn là tự do tôn giáo. Tiếp đó năm 2007,2008 Thiền sư về nước tổ chức đại đàn chẩn tế những người chết oan trong chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc, đi thuyết giảng một số nơi và một số tăng thân Làng Mai được bảo lãnh tu tập ở Thiền Viện Bát Nhã đồng thời Giáo hội Quốc doanh Việt Nam được đăng cai tổ chức Vesak Phật giáo Liên Hiệp Quốc. Nhưng đến năm 2009, sóng gió Bát Nhã nổi lên tăng thân Làng Mai bị đánh tan tác, người trong nước phải hồi gia, người nước ngoài bị trục xuất. Công văn 1329 của Ban Tôn giáo chính phủ tên đề đấu đóng hẳn hoi, Bộ ngoại giao cũng họp báo khẳng định trục xuất tu sĩ Làng Mai. Báo Công An có loạt bài lên án Thiền sư Nhất Hạnh. Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam lấy oán trả ân.
Một số vị chân tu lên tiếng nhưng đa số giáo hội quốc doanh đã im lặng. Bằng chứng về tội ác đàn áp tăng sinh Làng Mai còn lưu trữ tại đây (1).
Trước sau Làng Mai chưa bao giờ được giáo hội công nhận và cho phép hoạt động tại Việt Nam. Mãi đến năm 2019 Thiền sư Nhất Hạnh mới quay về tổ đình Từ Hiếu sau cơn bệnh nặng để chờ ngày thu thần xuất thế.
Ấy vậy mà khi Thiền sư Nhất Hạnh viên tịch, bất ngờ Giáo hội lại có công văn xiển dương công đức của Thiền sư và chỉ đạo tổ chức lễ tang. Công văn có đoạn như sau : "Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh là vị cao Tăng của Phật giáo Việt Nam có nhiều công lao trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp góp phần xiển dương Phật giáo Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Ngài là vị Thiền sư hướng đạo của Phật giáo đồ trên thế giới"
"Ban Thường trực Hội đồng Trị sự kính đề nghị Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp chặt chẽ và tham gia giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu trong công tác tổ chức tang lễ Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh trang nghiêm, thành kính theo nghi thức cấp cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thực hiện theo di nguyện tâm tang của ngài" (2).
Thôi thì cứ cho rằng nghĩa tử là nghĩa tận, thừa nhận công đức của người đã tận hiến cuộc đời cho đạo pháp dù trễ cũng không sai. Điều đáng nói là trong công văn này, giáo hội quốc doanh đã ỡm ờ úp mở kết nạp Thiền sư Nhất Hạnh vào tổ chức của mình bằng khái niệm Phật giáo Việt Nam chung chung và cưỡng ép truy phong phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh.
Cái lập lờ cần phân định ở đây là Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của Phật giáo Việt Nam nói chung mà cụ thể là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước 1981 chứ chưa bao giờ là thành viên của giáo hội quốc doanh nhà sản hiện nay.
Thiền sư và các môn đồ, tu sị Làng Mai chưa bao giờ có danh xưng Trưởng Lão Hòa Thượng. Cụ thể trên các văn bản chính thức của Đạo tràng Mai Thôn hay pháp môn Làng Mai đều xưng danh đơn giản là Thiền sư. Quan trọng nhất là Cáo phó : Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch do Tổ Đình Từ Hiếu, Đạo Tràng Mai Thôn ấn hành đã ghi rõ "Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu" )3)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn có danh xưng thân mật, đơn giản khác là Sư Ông Làng Mai trong hệ thống danh xưng thân mật khác như sư cô, sư chú Chưa bao giờ Thiền sư Nhất Hạnh nhận mình là Trưởng Lão Hòa Thượng.
Việc một tổ chức cao nhất của Phật giáo quốc gia tự ý gán ghép danh xưng cho người đã khuất ngay trong lễ tang với một người thường đã là báng bổ huống hồ chi đây là vị cao tăng. Hơn thế nữa, theo hệ thống chính trị của đảng, nhà nước và tôn giáo Việt Nam, mọi thứ đều có tiêu chuẩn và quy trình. Tiêu chuẩn và quy trình của phẩm hàm Hòa Thượng theo Hiến chương Giáo hội được quy định là "Được tấn phong Hòa thượng những Thượng tọa từ 60 tuổi đời, 40 tuổi đạo trở lên, có đạo hạnh, có công đức với đạo pháp và dân tộc, do Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành" (4).
Hơn nửa thế kỷ qua Thiền sư Nhất Hạnh hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và xây dựng đạo tràng Mai Thôn làm gì có Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội nào đề nghị và ; làm gì có chuyện Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành’
Cưỡng phong Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh, giáo hội quốc doanh muốn làm sang cho mình nhưng tự xé bỏ cái Hiến Chương cao quý do chính họ đặt ra.
Điều lạ lùng khác không rõ do Thiền sư Nhất Hạnh không phải là đảng viên cao cấp hay vì lý do nào đó mà một vị cao tăng hàng thứ hai thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Bộ ngoại giao Mỹ, Tổng thống Hàn Quốc và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế khác gửi điện chia buồn thế nhưng giáo hội quốc doanh không đứng ra tổ chức mà lại giao cho Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp, giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu tổ chức lễ tang như là một nhà sư tỉnh lẻ.
Phải chăng đây là cung cách ứng xử đểu cáng kiểu cộng sản giống như Phạm Quang Nghị tặng Nghị sĩ John Mckent bức tượng kỷ niệm bắn rơi máy bay hay Tổng thống Obama được tiếp đón với thang máy bay không thảm đỏ ?
Dù lý do gì đi nữa thi cách làm này cũng trở nên trơ trẽn vì với pháp môn tịnh tiến trí tuệ giác ngộ của mình, Thiền sư Nhất Hạnh đã gạt bỏ tất cả các nghị tiết phù phiếm, những hình thức lễ lạc hào nhoáng vô bổ với di chúc không bảo tháp, lễ Tâm Tang thực hành chánh niệm trong im lặng thì Ban Trị sự cấp tỉnh hay cấp trung ương cũng thành vô tích sự.
"Tang lễ sẽ kéo dài trong 7 ngày theo hình thức của một khóa tu im lặng. Trong suốt thời gian đó, kính xin quý vị đến thăm viếng cùng thực tập chung với chúng tôi – tâm niệm cúng dường – để cho toàn bộ tang Lễ Tâm Tang được diễn ra trong sự im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng" (5).
Có lẽ các quan chức, các đồng chí cao tăng của giáo hội quốc doanh tức anh ách, ghen đến tận cổ mà nghẹn ngào không nói được là Lễ Tâm Trạng của Thiền sư Nhất Hạnh tuy đơn giản nhưng đâu chỉ diễn ra ở Tổ Đình Từ Hiếu hay đạo tràng Mai Thôn mà lan tỏa trên toàn thế giới, trong tâm của người ngưỡng mộ và thực tập hành thiền. Người dự lễ Tâm Trạng không mất tiền của cúng dường mà có thêm năng lượng tích cực an lành, có thêm trí tuệ giác ngộ. Thiền sư Nhất Hạnh rủ bỉ nhục thân nhưng tâm linh, trí tuệ, năng lượng từ bi mãi lan tõa trong lòng phật tử, đại chúng. Nó trái ngược hoàn toàn với những lễ nghi tốn kém, lăng tẩm hoành tráng chiến đất đai tiền của nhân dân.
Mâu thuẫn hơn nữa và có thể nói là đểu cáng hơn nửa, chính người ký công văn cưỡng phong chức danh, cưỡng ép kết nạm Thiền sư vào giáo hội quốc doanh, khi ghi sổ tang lại đẩy Thiền sư vào thế giới phương Tây.
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn - đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội quốc doanh đã viết trong sổ tang
"Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người tiên phong mang đạo Phật đến với xã hội phương Tây, khai mở và hướng dẫn nhân loại tìm đến con đường đúng đắn về đời sống hạnh phúc, giải quyết các vấn đề của xã hội đương thời, góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới theo triết lý Phật giáo".
Tiếp đó, đồng chí Cao tăng này một lần nữa báng bổ cưỡng phong Trưỡng lảo Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh và xê xoa nói theo công thức.
Ngài đã để lại cho chúng ta một gia tài phong phú về kho tàng trước tác văn chương học thuật, về tấm gương sáng ngời ý chí tu hành, về tâm huyết và sứ mạng hoằng pháp lợi sanh..". (6).
Quả thật, Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của nhân loại nhưng trước hết là cao tăng Việt Nam. Thiền sư đã để lại nhiều tâm huyết cho công cuộc hoằng pháp nhưng không phải theo kiểu chùa to Phật lớn, mượn danh tôn giáo, du lịch tâm linh để phá rừng chiếm đất xây chùa hàng ngàn mẫu. Không phải hoằng pháp theo cách đẩy những người ngoài giáo hội vào tù, phá chùa Liên Trì, chiếm Giáo xứ Cồn Dầu. Chiến đất Thái Hà,...
Kênh youtube Làng Mai đang chia sẻ hướng dẫn thực hiện nghị tiết Tâm Tang, thầy Pháp Ấn đã nghiêm cẩn đọc bài thơ Xin Gọi Đúng Tên Tôi để đại chúng cùng suy nghiệm, xây dựng chánh kiến hành trì từ bi . Trong bài có đoạn như sau :
Tôi cũng là người chế tạo bom đạn
Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi
Tôi là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim
Chưa biết nhìn biết cảm
Tôi là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát
trong tay
Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang
chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo
Nổi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp
cỏ hoa muôn lối
Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về
bốn đại dương sâu
Hãy gọi đúng tên tôi
Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
Hãy nhớ gọi đúng tên tôi
Cho tôi giật mình tỉnh thức
Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
Cánh cửa xót thương (7)
Không chỉ truyền đạt đến đại chúng Thiền sư Nhất Hạnh còn truyền đạt đến lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam về những điều cần thật tâm cải sữa để không chỉ giáo hội phát triển mà dân tộc được trường tôn, ấm no hạnh phúc.
Ngày 25/03/2005 thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho thủ tướng Phan Văn Khải bảy điểm đề nghị về chính sách của nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo
Trong đó điều quan trọng nhất là : "Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
Ngày xưa vua Lý Thái Tổ đã yểm trợ đạo Phật xây dựng cơ sở giáo hội, và thiền sư Vạn Hạnh đã chỉ bày thêm cho vua về các đường lối kinh tế, văn hóa, đạo đức và chính trị. Nhưng vua không chen vào để kiểm soát Phật giáo và thiền sư cũng không nhận trách vụ gì trong guồng máy chính trị.Nhà nước bảo đảm là từ nay các vị xuất gia sẽ không bị mời làm dân biểu quốc hội, trở nên thành viên hội đồng nhân dân các cấp và của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hoặc trở nên đảng viên của bất cứ một đảng phái chính trị nào. Xen vào lãnh vực chính trị như thế các vị xuất gia sẽ phạm giới, làm mất uy tín của giáo đoàn Phật giáo và cũng làm cho chính quyền mang tiếng là sử dụng những vị ấy để kiểm soát tôn giáo. Từ nay các vị xuất gia sẽ không còn nhận huân chương của chính quyền. Vị cao tăng nào làm cố vấn giỏi, đề nghị được những biện pháp cụ thể lợi nước lợi dân thì chỉ có quyền nhận một chiếc y màu tím như các vị cao tăng quốc sư đời trước".
Ở một đoạn khác, Thiền sư nêu cụ thể hơn "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một thực tại. Nếu quý hòa thượng muốn giáo hội này phục hoạt lại, điều này không phải là một việc khó. Việc khó là chúng ta phải ngồi lại với nhau để nói chuyện, để thiết lập lại truyền thông với nhau, để lắng nghe nhau, để thấy được những khó khăn của nhau và để cùng đi đến những quyết định chung có thể làm đẹp lòng cho cả hai phía" (8).
Năm 2007. Trong lần về nước sau đó, Thiền sư Nhất Hạnh lại tiếp tục trao cho Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết 10 điểm cần cải sửa, trong đó có việc sửa quốc hiệu, bõ đi cái đuôi xã hội chủ nghĩa.
Đàn áp tăng sinh Làng Mai ở Bát Nhã có thể do nhiều nguyên nhân nhưng chắc chán đó là cách trả lời bằng hành động của chính quyền cộng sản Việt Nam với những đề nghị của Thiền sư.
Với các đồng chí giáo hội quốc doanh, nếu có còn chút lòng tin, sự hiểu biết về nhân quả, về sắc không, luật vô thường thì mau sớm quay đầu sám hối và thật sự học, hành trì theo đạo pháp của Phật.
Bám theo bã lợi danh chức quyền của cộng sản, dù dối trá giả danh có dến 10 mặt rồi sẽ có ngày lộ hình lộ dáng và trả nghiệp đã nặng vay. Ngày ấy hẳn không xa.
Gió Bấc
Nguồn : RFA, 24/01/2022
1. https://thuvienhoasen.org/a13106/05-phan-ung-cua-chinh-quyen-viet-nam
2. https://giacngo.vn/trung-uong-ghpgvn-co-cong-van-ve-viec-to-chuc-le-tang...
3. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/cao-pho-thien-su-thich-nhat...
4. https://giacngo.vn/dua-vao-tieu-chi-nao-de-duoc-xung-danh-truong-lao-pos...
5. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-bao-di-huan/
6. https://tuoitre.vn/thien-su-thich-nhat-hanh-da-huong-dan-nhan-loai-tim-d...
7. https://www.youtube.com/watch?v=eTBdzUhHfns
8. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/bay-diem-de-nghi-cua-thien-...
*****************************
Tuấn Khanh, RFA, 24/01/2022
Vào ngày Thiền sư Nhất Hạnh qua đời, đã có nhiều cuộc tranh cãi về cuộc đời và hoạt động của ông ở các cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Vốn là một người chủ trương hòa bình và có những ngôn luận chống chiến tranh với cả hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc), và như hãng tin AP đưa tin, là dù chủ trương kêu gọi các giải pháp hòa giải, nhưng ông vẫn phải trả giá cho quan điểm riêng của mình.
- AP
Sau năm 1975, khi miền Nam sụp đổ, thì sự oán hận của những người đứng về phía miền Nam VNCH vẫn kéo dài suốt nhiều thập niên. Nhiều nhân vật được cho làm lợi cho cộng sản hay đứng về phía cộng sản vẫn bị đưa ra làm đề tài để chỉ trích. Mặc dù không chọn phe, nhưng Thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn bị coi là "đi đêm" với cộng sản, tương tự như Hòa thượng Thích Trí Quang – mặc dù sau khi thống nhất địa lý đất nước, nhà nước Cộng sản vẫn có những đối xử phân biệt khắc nghiệt với cả hai vị này.
Lịch sử hiện đại Việt Nam, đặc biệt qua hai nền Cộng Hòa, và cuộc chiến tranh Nam-Bắc, chồng chéo muôn điều phức tạp. Để nhận định đủ và đúng, cần phải có đủ tư liệu và thời gian để quan sát. Tuy vậy, từ khoảng cuối thế kỷ 20 cho đến nay, những nhận định cá nhân và quan điểm phù hợp với sự tức giận của đám đông đã chiếm ưu thế, bất chấp các chi tiết không đúng, thậm chí là tin giả. Dưới đây là ba lời đồn đãi tiêu biểu.
1. Thiền sư Thích Nhất Hạnh ủng hộ cộng sản, và "đi đêm" với cộng sản
Dĩ nhiên, trong cách nhìn của đám đông ủng hộ chính quyền VNCH, thì bất luận sự phản ứng nào chống lại, hoặc khác biệt quan điểm đều dễ dàng bị coi là "việt cộng". Ngay sau sự ra đi của ông Thích Nhất Hạnh, đã có một bài viết trên Facebook của một vị linh mục hiện sống tại Mỹ chỉ trích rất nặng lời. Bài đăng này nhận được nhiều sự ủng hộ của giới chống cộng và tín hữu công giáo. Tuy nhiên quan điểm chính của bài viết này nhận định ông Thích Nhất Hạnh là "tay sai của cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản" từ những năm 60, là hoàn toàn phi lý, vì đó là một nhận định không có căn nguyên.
Để chứng minh điều này rất rõ, nhiều ngôn luận và nhận định của ông Thích Nhất Hạnh về việc bất đồng với chế độ cộng sản có thể tìm thấy dễ dàng bằng một cú click trên Google. Cụ thể, chẳng hạn trên The New York Review, bài đăng vào năm 1966 đã trích lời khẳng định của ông Thích Nhất Hạnh về cộng sản, qua bản dịch của Giáo sư Hoàng Ngọc Tuấn (Úc) như sau : "Chúng tôi biết rất rõ về những sự cấm đoán đối với Phật giáo ở miền Bắc. Chúng tôi đã nghiên cứu những gì đã xảy ra ở Trung Quốc. Chúng tôi biết rằng tôn giáo không thể tồn tại trong tinh thần của chủ nghĩa Marx". ("We are very well aware of the restrictions on Buddhism in the North. We have studied what has happened in China. We know there is no place for spirituality in Marxism").
Nhiều người vẫn nói là trong khi vị Thiền sư lên tiếng với báo chí về sự chỉ trích Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không lên tiếng nói gì với chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên điều này không đúng, trong các lần trở về Việt Nam, ông Thích Nhất Hạnh đã nói trực tiếp và thậm chí vận động chính quyền Hà Nội về những cải cách chính trị, thả tù nhân lương tâm hay tự do tôn giáo. Những chi tiết này được ghi trong tập 1, bộ Wikileaks do báo người Việt ở Mỹ phát hành. Có thể xem thêm bài viết của nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên, viết cho người Việt, hoặc trên trang BBC.
Việc chọn lựa quan điểm thể hiện nhiều tính chất chính trị hơn trong trong thời cuộc là lựa chọn của ông Thích Nhất Hạnh, và sẽ nhiều năm nữa với những tư liệu đầy đủ hơn được tiết lộ thì có lẽ cái nhìn về ông sẽ rõ ràng hơn, định danh đúng hơn. Nhưng ở lúc này, để xác định ông là "tay sai cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản", hoàn toàn là võ đoán và vô căn cứ. Việc ghét bỏ dựa trên cách ông chống chính quyền Mỹ, vẫn được xem là khuynh hướng chung của những người theo chủ nghĩa dân tộc như hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm chẳng hạn.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Mục sư Martin Luther King ở một họp báo tại Chicago, Mỹ hôm 31/5/1966. AP
2. Có vợ con nhưng che giấu
Sự kiện vô căn cứ này được rộ lên sau khi Thiền sư ra đi. Ai đó đã tung một bức ảnh mơ hồ có ông và một vài phụ nữ, trẻ em, và nhất định xác quyết đó là gia đình ông. Trong số những người đưa và tung những tin giả này, có cả một nhân vật từng làm trong Bộ Nội vụ của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên, rất nhanh là những ngôn luận này bị vạch mặt, bởi đó là bức ảnh của gia đình họa sĩ Võ Đình đi thăm ông Thích Nhất Hạnh và chụp làm kỷ niệm. Chính phu nhân của họa sĩ Võ Đình đã công khai tố cáo rằng bọn lưu manh đã nhặt, cắt xén và ghép thêm hình vào tấm ảnh gia đình do chính họa sĩ Võ Đình chụp thầy Nhất Hạnh và các con của họa sĩ Võ Đình. Tiếc thay tiếng nói thật vẫn đang chìm đắm trong sự loạn lạc của dòng tin thất thiệt.
3. Về tuyên bố Mỹ bỏ bom chết 300.000 dân Bến Tre
Đây là một trong những ngôn luận chính, dẫn theo vô số những lời chỉ trích và khẳng định ông Thích Nhất Hạnh là "việt cộng". Theo những lời kể lan khắp các tranh mạng thì ông Thích Nhất Hạnh đã "bịa đặt chuyện Mỹ bỏ bom và giết 300.000 dân" để kêu gọi thế giới chống chiến tranh Nam-Bắc.
Thế nhưng câu chuyện lại hoàn toàn khác.
Nguyên văn của câu chuyện được tờ New York Times đăng tải vào năm 2001, là trong một buổi thuyết pháp ở Mỹ vào ngày 25-9 ở Riverside Church, New York, khi đọc một bài thơ của mình, ông Thích Nhất Hạnh có kể là bài thơ ra đời khi ông nghe tin Bến Tre với dân số 300 ngàn người bị ném bom phá hủy vào năm 1968 khi quân đội Mỹ có tin là khoảng chục lính việt cộng đang ẩn nấp trong đó. Bất nhẫn hơn vì qua một bản tin của hãng thông tấn AP, một cấp chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng "Đó là sự cần thiết để phá hủy thành phố này nhằm cứu nó" (It was nesscesay to destroy town to save it) trong bản tin tường trình chiến sự từ Việt Nam vào đầu năm 1968.
Con số về người dân ở Bến Tre lúc đó, chính xác chỉ khoảng từ 30.000-35.000 người, nên về số liệu thì ông Thích Nhất Hạnh đã trích dẫn sai, nhưng nội dung thì hoàn toàn không giống gì với những tin đồn về "tố cáo" và "phục vụ cho việt cộng" vẫn đang thao túng nhiều nơi.
Trên thực tế, yêu hay ghét thiền sư Thích Nhất Hạnh là chuyện bình thường. Mọi nhà lãnh đạo tinh thần trên thế giới đều phải trả giá cho sự độc lập về tư duy của mình. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bị phía chủ trương kháng chiến vũ lực chống Trung Quốc nói ông là phản bội. Đức Thánh Cha Francis vẫn bị nhiều giám mục, linh mục, tín đồ chống đối và ghét bỏ những cải cách, nhận định của ngài. Nhưng mọi thứ cần đặt trên sự thật. Sự ghét bỏ đơn thuần không làm nên nền văn minh, và chính sự hiểu biết và quan sát đủ, mới có thể tạo dựng được phát triển của một dân tộc hay thế giới này.
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 24/01/2022
********************
Phạm Phú Khải, VOA, 24/01/2022
Chánh niệm, hay tỉnh thức (mindfulness), bây giờ hiện diện ở khắp nơi, trong mọi hoạt động của con người. Công lao này là do nhiều người, nhất là những ai tin tưởng vào phép mầu nhiệm của chánh niệm. Nhưng lớn nhất vẫn là thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã viết bao nhiêu cuốn sách về chủ đề này, hay viết về bao đề tài khác nhưng luôn đề cập đến yếu tố chánh niệm như là phương thuốc chữa trị "bá bệnh".
Tôi còn nhớ cách đây chừng năm sáu năm, chỗ làm tôi tổ chức khóa đào tạo lãnh đạo. Khóa học này kéo dài một tuần, nhấn mạnh nhiều yếu tố và nhiều vấn đề. Có những bài tập trước, trong và sau khóa học. Có thể nói bàng bạc trong tất cả các đề tài được thảo luận, chánh niệm vẫn là yếu tố mang tính cơ bản và nền tảng.
Theo nhiều học giả về lãnh đạo học và tâm lý học thì chánh niệm là một trạng thái ý thức bao gồm nhận thức và sự chú ý.
Khóa học cũng đào sâu vào chủ đề trí tuệ cảm xúc (emotional intelligence/EI), trong đó bốn khía cạnh chính là nhận thức bản thân (self-awareness), biết tự quản lý (self-management), nhận thức xã hội (social awareness), và biết quản lý quan hệ (relationship management).
Nói cách khác, muốn trở thành một lãnh đạo giỏi, bất kể đó là lãnh đạo một quốc gia, một công ty, một cộng đồng, một tổ chức thiện nguyện, hay đơn giản, một thầy hay cô trong lớp học, hay một lớp trưởng một đội trưởng, người đó phải có khả năng về trí tuệ cảm xúc. Người có trí tuệ cảm xúc là người biết mình, biết tự chủ, hiểu xã hội và giỏi quan hệ.
Những khái niệm và quan niệm trên được các nhà nghiên cứu về quản trị và lãnh đạo tìm hiểu từ bao tài năng lãnh đạo thành công, lẫn thất bại, tại Mỹ và trên thế giới trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ. Đặc biệt là từ các đại học, học viện nghiên cứu về thương mại, như Harvard Business School, chẳng hạn.
Một trong những người đưa các khái niệm này trở thành trụ cột của kỹ năng lãnh đạo là Daniel Goleman. Tác phẩm kinh điển về Emotional Intelligence do Daniel Goleman viết, xuất bản vào năm 1995, là cuốn sách được bán chạy nhất trên The New York Times trong một năm rưỡi, được dịch ra 40 ngôn ngữ khác nhau và trở thành sách ăn khách nhất trên nhiều quốc gia. Goleman cho rằng nhận thức bản thân, tức nhận biết một cảm giác khi nó xảy ra, là nền tảng của trí tuệ cảm xúc. Hơn nữa, xử lý cảm xúc sao cho phù hợp là một khả năng được xây dựng dựa trên nhận thức bản thân. Ngoài ra, sự đồng cảm (empathy), một khả năng khác được xây dựng dựa nhận thức bản thân về mặt cảm xúc, là kỹ năng cơ bản về con người (people’s skill). Sau cùng, nghệ thuật của các mối quan hệ, phần lớn, là kỹ năng quản lý cảm xúc ở người khác. Nghĩa là biết cảm xúc của mình, của người khác, để quản lý tốt đẹp, thì sẽ thành công trong mọi quan hệ.
Phép màu của chánh niệm (The miracle of mindfulness), được thiền sư Thích Nhất Hạnh viết vào năm 1974, sau này được Mobi Ho dịch sang tiếng Anh, đầu tiên vào năm 1975. Tác phẩm này vẫn được xem là cuốn kinh điển về chánh niệm cho đến nay. Thích Nhất Hạnh được xem là người Thầy của chánh niệm, nhưng không phải ai biết về chánh niệm cũng biết về Thích Nhất Hạnh.
Ngày nay dường như làm việc gì cũng được lồng chánh niệm vào trong đó. Có người còn bảo rằng trước đây khi rửa chén tôi không hề nghĩ đó là chánh niệm, cho đến khi biết về các bài giảng của thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Trên tạp chí phổ biến hàng đầu về tâm lý, Psychology Today, dường như lúc nào cũng có một hay nhiều bài trên trang này nói về chánh niệm. Có thể nói ngày nay các phương thức điều trị tâm lý đều dùng đến chánh niệm như là sự khởi đầu, và cũng là điểm đến. Rất nhiều học giả và tác giả của nhiều bài viết hay sách chuyên về tâm lý cũng đề cao vai trò của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Như bài Mind Over Matter, phần đầu trích dẫn Thích Nhất Hạnh : "Chánh niệm không phải là việc chỉ được thực hiện trong thiền đường, nó còn được thực hiện trong bếp, ngoài vườn, khi chúng ta nghe điện thoại, khi lái xe, khi rửa chén".
Như ông Ngô Nhân Dụng viết trong "Sống tỉnh thức với Thiền sư Thích Nhất Hạnh", chánh niệm đã đi vào giòng chính và ảnh hưởng lên mọi mặt đời sống của người Mỹ và khắp nơi.
Tôi còn nhớ cũng trong khóa đào tạo lãnh đạo nói trên, những người hướng dẫn khóa học, và những học viên, đều có vẻ thích thú về chánh niệm hay nhận thức bản thân. Nhưng khi tôi hỏi họ có biết về Thích Nhất Hạnh, hay cuốn "Phép màu của chánh niệm" không, thì đại đa số không biết. Nhưng đây cũng là điều thật dễ hiểu. Một, chánh niệm thuộc về Phật giáo, không phải của riêng ai. Hai, giữa Thích Nhất Hạnh và người đọc là bao nhiêu học giả và tác giả trung gian về chủ đề này. Ba, thời nay người ta đi tìm hiểu khái niệm và ý nghĩa để làm vốn liếng kiến thức nhiều hơn tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của chánh niệm hay bắt cứ một chủ đề hay lĩnh vực nào.
Tôi còn nhớ cách đây ba năm, cũng tại chỗ làm, các bài giảng từ các tâm lý gia về chánh niệm đã được thực hiện để cho mọi nhân viên tìm hiểu và thực tập. Các bài viết đã được phổ biến trên trang mạng Intranet, và các bài giảng bằng giọng đọc thật hay đã được nhân viên tải về để nghe bất cứ lúc nào. Dường như mọi công sở đều thấy giá trị của chánh niệm. Có khi trong các buổi họp hoặc hội thảo kéo dài trên hai tiếng, bài giảng 10 đến 15 phút về chánh niệm đã được phát thanh vào giữa buổi để mọi người thật sự lắng đọng, thư giản và bình yên. Trong các khóa Yoga tôi tham dự cũng có nội dung và hình thức tương tự. Tôi thật sự không biết những những người thực hiện các chương trình này lấy từ đâu. Nhưng đọc các tác phẩm của thiền sư Thích Nhất Hạnh tôi biết rõ Thầy có ghi rõ các bài tập và cách hướng dẫn thực hiện từng bước trong đó.
Trong những lúc thực tập chánh nhiệm, tôi thấy được sự nhiệm màu của nó, nên mang ơn tất cả những ai đã có công mang lại sự tỉnh thức cho nhân loại, trong đó có thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 24/01/2022
*************************
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về
Nguyễn Hùng, VOA, 24/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy mang dòng máu Việt có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới. Cả trường phái phật giáo dấn thân lẫn phương thức thực hành chánh niệm của Thầy đều được sự chú ý và noi theo của triệu triệu người.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh thắp hương tại Tổ đình Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế ngày 4/9/2017 (Ảnh : Báo Giác Ngộ)
Tuy nhiên ảnh hưởng của Thầy ở Việt Nam đã không được như chính Thầy mong muốn vì sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều của giới lãnh đạo cộng sản. Sự nghi ngại, bảo thủ và giáo điều này có thể thấy qua ba lần Thầy nhẫn nại về Việt Nam, nơi giới lãnh đạo có những giá trị đi ngược lại quan điểm sống của người Thầy được thế giới ngưỡng mộ.
‘Chuyến đi khó khăn’
Lần trở về thứ nhất là năm 2005, gần 40 năm sau khi Thầy bị buộc phải sống lưu vong vì chính quyền ở miền nam thời trước 1975 không hài lòng với thái độ phản chiến của vị Thiền sư và ngăn cản ông về nước hồi năm 1966.
"Chuyến đi này là một chuyến đi khó khăn vì không khí nghi ngờ, sợ hãi vẫn còn nặng nề trong bối cảnh chính trị, nhất là trong những ngày đầu ở Hà Nội. Ví dụ trong buổi giảng tại Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, người ta đã hứa là 300 người sẽ nhận được giấy mời nghe Sư Ông giảng, nhưng tới ngày chót chỉ có 40 lá thư được gửi ra và cuối cùng chỉ có 18 vị trong số 40 người có thư được vào nghe Sư Ông. Những người còn lại bị công an giữ cửa từ chối không cho vào vì tên họ đã bị gạch bỏ trên danh sách". Đó là những gì được ghi chính thức trongLá thư Làng Mai hồi năm 2006, ấn phẩm ra mắt mỗi năm một lần.
Nhưng Lá thư Làng Mai nói sự sợ hãi sau đó cũng bớt đi nhiều và khi Thiền sư tới giảng ở Học viện hành chính quốc gia ở thành phố Hồ Chí Minh, các quan chức đã cho phép tới 1.000 người tham dự nhờ vào "sự thực tập kiên nhẫn, vững chãi, thảnh thơi, ái ngữ và lắng nghe" của Thầy Thích Nhất Hạnh. Làng Mai nói cuối cùng có cả thảy hơn 200.000 người đã có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với vị Thiền sư và tăng thân tháp tùng cho dù "báo chí được lệnh không đăng tải chương trình và sinh hoạt của chuyến viếng thăm" hồi năm 2005.
Đó cũng là năm Thầy đưa ra bảy đề nghị với Đảng Cộng sản trong đó có việc "[g]iáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản".
Cũng trong chuyến đi, Thầy nói với tạp chí Time : "Để có thể có tự do, điều cần thiết là phải giúp người ta buông bỏ những sợ hãi, ngộ nhận và kỳ thị của họ".
‘Chuyến đi lịch sử’
Lần trở về thứ hai hồi năm 2007 trong "chuyến đi lịch sử", Thiền sư đã đứng ra tổ chức ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam để cầu siêu cho hàng triệu người Việt đã tử nạn trong cuộc chiến. Làng Mai nói Thầy đã có lời mời các vị lãnh đạo cao cấp tới tham dự nhưng cuối cùng không có ai tới và viết trongLá thư Làng Mai trong năm 2008 :
"Phân tích cho kỹ ta sẽ thấy có nhiều nguyên nhân [các lãnh đạo không tới], trong đó yếu tố nghi ngại là quan trọng hơn cả. Dấu hiệu đầu tiên là nhà nước, trong đó hẳn có Trung ương Đảng và ban Tư Tưởng đã không muốn Làng Mai sử dụng từ giải oan. Đoàn tiền trạm của Làng Mai dù có giải thích bao nhiêu đi nữa, nói rằng các trai đàn chẩn tế của truyền thống Phật giáo, từ xưa đến nay đều có sử dụng từ giải oan, nhưng rốt cuộc các thầy trong Giáo hội cũng như trong Phái đoàn chỉ được chính thức sử dụng từ bình đẳng mà thôi.
"Theo tư tưởng lãnh đạo, đây là một cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, những người chiến sĩ hy sinh là tại họ muốn hy sinh, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả. Trong tư duy người ta có thể suy luận như thế nhưng trong thực tế, nỗi oan ức mà dân ta đã phải chịu đựng trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng có tầm vóc lớn lao tới mức không lời nói nào có thể diễn tả nổi. Nước Đức cũng đã bị chia đôi, Tây Đức lại có căn cứ quân sự Hoa Kỳ, nhưng rốt cuộc, hai nước Đức đã được thống nhất, các căn cứ hỏa tiễn liên lục địa của Hoa Kỳ ở Tây Đức được giải tỏa mà dân Đức không phải đi ngang qua một cuộc chiến với hàng sáu triệu người thiệt mạng với bao nhiêu đổ nát và tang tóc như ở nước ta".
Mặc dù có nhiều khó khăn, cả ba sự kiện ở ba miền cuối cùng đều được phép diễn ra dù không được hoàn toàn theo ý của Thiền sư. Làng Mai nhận định : "Qua các đại trai đàn chẩn tế ba miền này, ta thấy được tiềm lực lớn lao của nền đạo lý dân tộc, tiềm lực có khả năng chế tác niềm tin và tình huynh đệ, có khả năng khai phá một con đường tâm linh cho đất nước, ngăn chặn những tệ nạn xã hội, làm vững mạnh lại cơ cấu gia đình và cộng đồng, gây cảm hứng cho một niềm tin vào tương lai đất nước và dân tộc".
‘Nghi ngờ và sợ hãi’
Về những điều trái khoáy diễn ra, Lá Thư Làng Mai 2008 viết : "[T]uy nhà nước đã cho phép, nhưng sự nghi ngờ và sợ hãi vẫn còn, đó là một trong những lý do khiến các vị lãnh đạo không tới dự lễ dâng hương bạch Phật. Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Công an Tôn giáo đã "bảo hộ" phái đoàn trong tinh thần ấy, vì vậy cho nên trước ngày khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ đã nói với thầy Pháp Ấn là trong trai đàn, các thầy không được nhắc tới người thuyền nhân bị thiệt mạng trên biển cả, các nạn nhân chiến tranh của miền Nam, trong đó có các binh sĩ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, không được nói tới các hố chôn tập thể, không được nói tới tù đày, học tập cải tạo, v.v Lý do ông nêu ra là để ổn định an ninh vùng. Sau hơn hai tiếng thuyết phục, ông Vụ trưởng không giữ được sự bình tĩnh và đã sử dụng những ngôn từ gay gắt".
Trong chuyến trở về hồi năm 2007, Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị nhà nước dựng Tượng Đài Thuyền Nhân tại bờ biển Vũng Tàu để tưởng niệm đồng bào đã chết trong lúc vượt biển. Đương nhiên đề nghị này làm sao có thể được chấp nhận khi mà chính quyền Việt Nam còn tìm cách xoá bỏ cả các tượng đài thuyền nhân ở những đảo tại các nước khác mà thuyền nhân từng lánh nạn trong đó có Indonesia.
‘Hai tiếng Việt Nam là đẹp nhất rồi’
Khi Thiền sư trở về hồi năm 2007, Việt Nam đã thực hiện chính sách mà họ tự gọi là Đổi Mới được trên 20 năm. Nhưng những gì Thầy và phái đoàn chứng kiến cho thấy sự đổi mãi mà không mới. Lá thư Làng Mai 2008 viết : "Phải công nhận là giới công an và Ban tôn giáo chính phủ đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để bảo đảm an ninh cho phái đoàn, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phải cho công an biết trước ; nếu công an xét không có an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì vậy cho nên trong suốt thời gian thăm viếng, phái đoàn có cảm giác không được thoải mái lắm. Ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, và ở tại các nước Châu Á như Nhật bản, Thái Lan, Đại Hàn, Hồng Kông, v.v khi tới hoằng pháp, phái đoàn Làng Mai không cần ai bảo hộ, không cần giấy mời hoặc sự bảo hộ của bất cứ một giáo hội nào hay của một ban tôn giáo nào. Tới đâu cũng có cảm giác tự do, an ninh và thoải mái".
Lá thư cũng viết thêm : "Tại đất nước ta, cách tư duy trong đảng và trong chánh quyền, đường lối kinh tế của đất nước bây giờ đây đâu còn lấy chủ nghĩa Mác Xít làm khuôn vàng thước ngọc nữa. Đảng Cộng Sản Việt Nam, có người đã nói, cũng nên đổi tên đi thôi, một cái tên mới như Đảng Xã Hội, Đảng Đổi Mới, Đảng Dân Chủ, Đảng Cộng Hòa, Đảng Tự Do, Đảng Dân Tộc tên gì cũng được miễn không phải là cái tên cũ. Cái tên Đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu lầm và tiếp tục nuôi dưỡng oán hận.
"Trong Đảng và trong guồng máy chính quyền chắc chắn đã có những vị suy nghĩ như thế mà chưa nói ra được. Có những vị trong Đảng cũng đã nghĩ tới việc thay quốc hiệu. Thay vì sử dụng quốc hiệu Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một cái tên quá dài, ta có thể đổi lại là Cộng Hòa Việt Nam hay tốt nhất là Việt Nam. Hai tiếng Việt Nam là đẹp lắm rồi, đẹp nhất rồi, không cần thêm vào chữ nào nữa cả".
Bất nhã hậu Bát Nhã
Sự thẳng thắn và cương trực của Thầy Thích Nhất Hạnh đã khiến chính quyền nổi đóa.
Kể từ chuyến trở về đầu tiên của Thầy hồi năm 2005, hàng trăm học trò theo Pháp môn Làng Mai đã theo về và tu tập ở tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng. Nhưng sau hàng loạt các kiến nghị của Thiền sư về chuyện phải có những thay đổi trong đó có việc giải tán ngành kiểm soát tôn giáo và đặc biệt là công an tôn giáo, chính quyền đã không còn ủng hộ việc cho phép đông đảo những tu sinh của Làng Mai ở lại Bát Nhã. Kết quả là tu viện đã bị côn đồ được công an mặc thường phục chỉ đạo vào phá phách và đuổi những học trò theo Làng Mai khỏi đây.
Ngay cả khi họ đã rời khỏi tu viện Bát Nhã tới nương nhờ ở chùa Phước Huệ, cũng ở Lâm Đồng, chính quyền vẫn tiếp tục cho người truy đuổi như lời kể của Sư cô Tâm Nhật trongLá thư Làng Mai năm 2010 về những gì xảy ra hồi tháng 12/2009 :
"Sự yên ắng của không gian Phước Huệ và những bước chân thiền hành bị khuấy động bởi nhóm người lạ mặt đeo khẩu trang. Thế rồi buổi gặp gỡ của Phái đoàn các nước bạn với Ôn Trụ Trì và anh chị em chúng tôi không thành giữa tiếng la hét, chửi rủa và buộc tội của đám đông. Người ta nhục mạ và làm tổn thương nhân phẩm của Ôn Trụ Trì và của anh chị em chúng tôi.
"Tôi rúng động bàng hoàng trước cảnh một người tự xưng là Phật tử dang tay sỉ vả thằng thừng vào mặt một vị tôn đức. Xung quanh tôi là cảnh hỗn loạn ồn ào. Anh chị em tôi vẫn ngồi yên, mỗi người đều duy trì niệm từ bi và bình lặng. Sự hỗn loạn càng tăng lên khi phái đoàn thăm viếng phải ra về. Ôn trụ trì lập tức bị cô lập trong phòng làm việc mấy mét vuông của mình, bao quanh là tiếng la hét chửi rủa nhục mạ của hơn trăm con người. Sau gần một tiếng đồng hồ, Ôn Trụ Trì mới thoát được vào phòng riêng và bên ngoài vẫn còn tiếng đập cửa la hét".
Liên quan tới các diễn biến bạo lực sau đó, Sư cô Tâm Nhật kể tiếp : "Đầu của sư em Hoạt Nghiêm sưng vù một cục to tướng khi lãnh lấy một cú thoi từ một bàn tay thô bạo nào đó rồi bị đẩy từ trong phòng ra và va đầu thêm vào cột nhà. Sư em chỉ mới 17 tuổi. Thầy Phong Thuấn bị xô ra ngoài và bị xé cho rách áo. Thầy Thánh Hiệp, sư em Pháp Doanh, sư em Pháp Chuẩn cũng bị ném ra ngoài kèm theo lời đe dọa gầm gừ của chú công an mặt thường phục. Tôi nhận ra chú công an đó, người có mặt từ đầu những ngày Bát Nhã nguy nan, đứng bình thản quay phim cảnh anh chị em tôi bị đánh đập, rượt đuổi. Tiếng la thất thanh của sư em Đáo Nghiêm khi bị một người đàn ông xô đẩy và đụng vào, rồi sư em cũng bị hất văng ra khỏi phòng…
"Ngay trên đầu chúng tôi là tiếng gào rú của hai, ba cái loa phóng thanh cỡ lớn, dọa dẫm khuyến cáo chúng tôi phải rời khỏi chùa Phước Huệ. Có sư em ngồi vòng ngoài, nhắm mắt niệm Bồ tát mà mặt hứng đầy nước bọt văng ra khi những người hung dữ kia ghé sát xuống mà chửi rủa. Sư em Trung Ngọc cũng ngồi vòng ngoài, cảm thấy tai mình ù đi khi một người đàn bà đã ghé chiếc loa phóng thanh vào tai em mà chửi : " Mày đi tu gì mà ngu và lì quá vậy, cút về địa phương mà ở đi, tới đây tính chiếm chùa hả " ?
‘Đám mây không bao giờ chết’
Sau những gì xảy ra ở Bát Nhã, Làng Mai đành từ bỏ ý định mở rộng hoạt động và ảnh hưởng ở Việt Nam và quay sang củng cố và mở thêm các trung tâm ở bên ngoài trong đó có cả tại Thái Lan.
Khi trở về Việt Nam hồi năm 2018 để dành những năm tháng cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, nơi Thầy xuất gia khi 16 tuổi, Thiền sư đã không còn có thể nói được sau lần đột quỵ hồi năm 2014. Có lẽ Thầy cũng không còn muốn đề đạt gì với chính quyền cộng sản sau khi họ bỏ ngoài tai tất cả những đề đạt trước đó của Thầy.
Sự trở về cuối cùng của Thiền sư thực tế đã được chính ông giải thích ngay trong lần đầu trở lại quê hương sau gần 40 năm xa cách hồi năm 2005 : "Trở về ở đây là trở về nhà, về căn nhà của hải đảo tự thân, về căn nhà của tự tánh chân thật. Trở về ở đây có nghĩa là về nhà của tổ tiên, của đạo pháp, của tăng thân. Quê nhà là nơi có tình thương, hiểu biết, bình an và ấm cúng".
Cũng trong cùng chuyến đi đó Thầy đã hỏi cử toạ ở Quy Nhơn ‘sau khi chết mình sẽ đi về đâu’ và trả lời : "Điều này giống như đám mây trên bầu trời. Sức nóng của mặt trời đã biến nước của sông ngòi thành hơi, hơi này sau đó tụ lại thành mây. Rồi trở về với đất, với sông dưới dạng : mưa, tuyết hoặc băng giá. Đám mây không bao giờ chết. Nó chỉ đổi dạng thành : mưa, sông, nước".
Nguyễn Hùng
Nguồn : VOA, 24/01/2022
Nguyễn Nam, VNTB, 23/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch. Ngài là người nổi tiếng trên thế giới. Theo một số trang mạng thì ngài thường được xếp thứ 2 hay thứ 3 trong số những người hướng dẫn tâm linh còn đang sống ; đứng thứ nhất, tất nhiên là Đức Dalai Lama.
Một trong những cuốn sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh, "Peace Is Every Step : The Path of Mindfulness in Everyday Life" (An lạc từng bước chân) được ghi nhận là đứng số 12 trong 100 tác phẩm tâm linh quan trọng nhất trong thế kỷ XX.
Nhưng đối với người Việt, thiền sư Thích Nhất Hạnh lại cũng là một trong những tác nhân gây chia rẽ khá trầm trọng.
Buồn cho đất nước tôi !
Kẻ thỏa hiệp ?
Sinh thời, thiền sư Thích Nhất Hạnh từng đối diện với cáo buộc như kẻ phản đồ, qua lập luận rằng điều nổi bật hơn về thiền sư là đã được trưởng thành trong căn nhà của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thiền sư cùng tu, cùng ăn, cùng ở với những đồng đạo của mình. Thế nhưng, trong mấy chục năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của ngài bị bức tử, đồng đạo của ngài bị tù đày, quản chế… Và ngài thì vẫn im lặng.
Cay nghiệt hơn khi không ít lên án rằng, "là một trưởng tử của Như Lai, ngài đã làm gì để lấy lại hương vị tinh nguyên của Giáo lý nhà Phật khi bị Đảng cộng sản đang bỏ chung vào một soong để chiên xào xáo trộn với chủ nghĩa Mác-Lê như khẩu hiệu ‘Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội’. Ngài nghĩ gì và đã làm gì ?"…
Đầu năm 2005, trong sự chào đón nồng nhiệt, thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước sau gần 40 năm xa quê hương với tăng đoàn khoảng 200 người của mình. Ngài xuất hiện trong những buổi nói chuyện mà khán giả là đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế và Hà Nội.
Cũng vào lúc đó, hòa thượng Thích Quảng Độ sống một mình trong một căn phòng bị quản thúc tại Thiền viện Thanh Minh ở thành phố Hồ Chí Minh. Trong lần về nước sau 40 năm của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh đến thăm hòa thượng Thích Trí Quang nhưng không thăm được hòa thượng Thích Quảng Độ.
Tên phản động ?
Dưới mắt nhà cầm quyền Việt Nam thì đã có lúc thiền sư Thích Nhất Hạnh được coi là một ‘tên phản động lưu vong’.
Một tài liệu của Bộ Công an, viết (trích) : "Ngày 20/2/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn gồm 150 người với gần 30 quốc tịch khác nhau về Việt Nam lần thứ hai.
Lần này, ý đồ mượn tôn giáo để làm chính trị của ông bắt đầu thể hiện rõ nét qua việc ông tổ chức "trai đàn chẩn tế" ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Lợi dụng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho phát tán tài liệu, đề cao, khuếch trương Pháp môn tu tập Làng Mai, phủ nhận những đóng góp rất nhiệt tình và tích cực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong việc tổ chức "trai đàn chẩn tế", cứ y như không có ông, thì "trai đàn" chẳng bao giờ được hình thành.
Có lẽ ai đã xem hình ảnh Sư ông Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại các "trai đàn chẩn tế" trên báo chí, truyền hình, hoặc xem trực tiếp, cũng đều thấy chướng. Chỉ là một "thiền sư", đứng đầu một môn phái, mà ông đi dưới lọng vàng, cạnh ông là sư nữ Thích Nữ Chân Không – y như vua và hoàng hậu ! Thiên hạ đồn rằng ông với bà Chân Không có "quan hệ" rất gần gũi, chẳng biết thật hay không, nhưng năm 2006, khi một phái đoàn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sang Pháp, thăm Làng Mai, đã phải gửi Sư ông Thích Nhất Hạnh một bức thư, trong đó đề nghị : "Xin sư ông về ở với tăng, sư nữ Chân Không về ở với ni để tránh dư luận".
Và mặc dù ông tuyên bố không can thiệp, không phát biểu những vấn đề liên quan đến chính trị, nhưng khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam tiếp kiến, Sư ông Thích Nhất Hạnh liền đưa ra đề nghị 10 điểm, trong đó có những điểm như : "Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam, giải thể Ban Tôn giáo chính phủ…".
Nhìn nét mặt tự mãn của ông, hầu hết tăng ni thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam – xưa kia vẫn kính nể ông qua những cuốn sách ông đã viết, như "Đường xưa mây trắng", "Nói với tuổi hai mươi", "Bông hồng cài áo", "Nẻo về của Ý", hoặc những bài thuyết giảng của ông ở Trường đại học Vạn Hạnh bao nhiêu thì bây giờ, tăng, ni lại càng cảm thấy thất vọng về ông bấy nhiêu, nhất là khi ông tuyên bố : "Pháp môn Làng Mai tự bổ nhiệm truyền giới, tấn phong, bầu trụ trì, viện chủ, phó viện chủ mới mà không cần phải thông qua Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam" (dừng trích).
Thời điểm của tài liệu cáo buộc nêu trên, thì Tổng bí thư Đảng là ông Nông Đức Mạnh.
Đạo Phật là uyển chuyển
Hai mươi hai năm về trước, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, trong lời đề nghị của thiền sư Thích Nhất Hạnh về cách thức ăn mừng Một Ngàn Năm Thăng Long gồm 12 điểm, nhà tu hành nổi tiếng khuyến cáo chính phủ Việt Nam nên :
"Ân xá cho những người bị lưu đày và tù tội, trong đó có tội góp ý cho chính quyền, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, đa giáo hội, kêu gọi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Cho phép một số phạm nhân được chuộc tội bằng công tác xã hội dưới sự che chở, giám sát và bảo lãnh của các vị xuất gia thuộc các tôn giáo". Các đề nghị này được vị thiền sư tổng hợp trong một văn bản mà theo ngài, không có tính cách tôn giáo, mà chỉ nhằm xây dựng"một nền đạo đức toàn cầu có công năng lành mạnh hóa và từ bi hóa xã hội và cứu hộ được hành tinh".
Tuy nhiên, ngài nhắc lại ảnh hưởng của đạo Phật trong xã hội Việt Nam thời Lý, "đời thuần từ nhất trong lịch sử" (lời sử gia Hoàng Xuân Hãn), và khẳng định phải ghi nhớ điều này khi ăn mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
Lý Thái Tổ, vị vua đầu của thời Lý, đã đặt đô tại Thăng Long năm 1010. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, do vậy, cho rằng "Cách thức ăn mừng 1000 năm Thăng Long hay nhất là nỗ lực của chính quyền và của toàn dân làm được và tiếp tục được những việc mà tiền nhân đã làm trong những năm đầu của kinh thành Thăng Long".
Trong số các khuyến nghị có việc lập trường đại học mang tên Thiền sư Vạn Hạnh, thiết lập giờ đạo đức học ở mọi cấp bậc giáo dục, miễn thuế và tha thuế cho những người có hoàn cảnh khó khăn, thậm chí hạn chế sử dụng đồ nhựa, đồ nylon và tăng cường ăn chay. Ngài cũng yêu cầu Nhà nước cho triệu tập đại hội Phật giáo trong và ngoài nước để thành lập lại giáo hội Phật Giáo dân lập "hoàn toàn đứng ngoài chính trị".
Thời điểm đó, Tổng bí thư Đảng vẫn là ông Nông Đức Mạnh.
Sự kiện Bát Nhã
Năm 2005, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được phía chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai ở tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng. Vào năm 2006, Hoa Kỳ quyết định bỏ tên Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Đến năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO.
Năm 2007, nhân chuyến thăm Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã lập trai đàn cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay còn tại thế. Cũng trong năm 2007, nhân chuyến thăm thứ hai về Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đề nghị Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nên chấm dứt sự kiểm soát của chính phủ đối với tôn giáo. Lời khuyên này của ngài bị chính phủ coi là vi phạm luật pháp Việt Nam.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định các tổ chức tôn giáo phải đăng ký với nhà nước để được hoạt động. Những quy định chặt chẽ của luật này đã bị các giới chức tôn giáo trong và ngoài nước chỉ trích là vi phạm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.
Không lâu sau đó, vào tháng 8 năm 2008, công an tỉnh Lâm Đồng ra công văn trục xuất khoảng 400 tu sinh Làng Mai khỏi tu viện Bát Nhã. Từ khoảng giữa năm 2009 đến cuối năm 2009, các tu sinh Làng Mai ở tu viện Bát Nhã liên tục bị những nhóm người lạ mặt đến tấn công. Chính quyền thì nói rằng vụ việc xảy ra là do những bất đồng giữa các nhà sư trong tu viện Bát Nhã với các tu sinh Làng Mai cư trú ở đây. Những tu sinh này sau đó phải đến cư ngụ tại chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Nhưng họ vẫn bị truy đuổi khỏi chùa này.
Đến cuối năm 2009, khoảng gần 200 tu sĩ Làng Mai cư ngụ tại chùa Phước Huệ bị yêu cầu phải rời khỏi chùa này chậm nhất là vào ngày 31 tháng 12. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc đó đã phải nộp đơn lên Tổng thống Pháp Sarkozy xin cho 400 tu sĩ Làng Mai ở Bát Nhã được tỵ nạn ở Pháp.
Trong một bức thư gửi các tu sinh Làng Mai ở Việt Nam vào tháng 12 năm 2009, thiền sư Thích Nhất Hạnh viết rằng :
"Theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được hưởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo".
Ngài cũng cáo buộc các viên chức chính quyền đã đối xử thô bạo với các tu sinh, thuê côn đồ tấn công tu viện. Ngài viết :
"Tiền đâu để họ thuê côn đồ ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy ? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân ?"…
Nhà hoạt động xã hội dân sự
Năm 1956, thiền sư Thích Nhất Hạnh làm Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thập niên 1960, ngài lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị lửa đạn chiến tranh, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.
Ngài cũng là một trong những người thành lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tập trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra "lời kêu gọi vì hòa bình", với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam – Bắc tìm "giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau".
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Sau này, ngài tham gia giảng dạy tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, mục đích chính của những chuyến đi ra nước ngoài của ngài vẫn là vận động cho hòa bình.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền tây nam nước Pháp.
Bất kể những ý kiến trái chiều xung quanh cuộc đời tu hành, ảnh hưởng chính trị, ngài là một chứng nhân của lịch sử đầy thăng trầm và bi ai của Việt Nam trải dài gần một thế kỷ.
Hãy để lịch sử phán xét
Xưa có ba nhà sư : Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang và Thích Quảng Độ. Cả ba đều tinh thông Phật pháp. Nhất Hạnh nói hay và viết giỏi. Trí Quang có tài lãnh đạo và được quần chúng tin tưởng. Quảng Độ học vấn cao và giỏi ngoại ngữ.
Xưa có ba nhà sư : Khi chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, họ tranh đấu cùng những nhà sư khác. Nhất Hạnh kêu gọi tự do tôn giáo và hòa bình cho Việt Nam ở hải ngoại. Trí Quang dẫn đầu hàng vạn các nhà sư, Phật tử biểu tình ở Sài Gòn. Quảng Độ, nhỏ tuổi nhất trong ba người, sát cánh cùng Phật tử trên đường phố.
Xưa có ba nhà sư : Khi những người cộng sản đến, họ rẽ ra ba hướng khác nhau. Nhất Hạnh nổi tiếng thế giới với tăng đoàn Làng Mai. Trí Quang chịu cảnh tù đày và không bao giờ nói về chính trị nữa. Quảng Độ tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền, trở thành nhà sư bị giam lỏng lâu nhất ở Việt Nam.
Giờ thì tất cả đều về cõi an nhiên. Lịch sử sẽ còn nhắc kể về ba nhà sư này bằng nhiều lát cắt, góc nhìn đa diện mà người đời sau lắm khi dễ nhầm lẫn giữa thực – hư từng giai đoạn thăng trầm của chính trị nước nhà.
‘Tâm tang’ tĩnh lặng cho Thiền sư Nhất Hạnh
Ngọc Lễ, VOA, 22/01/2022
Tang lễ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ diễn ra dưới hình thức ‘tâm tang’ để mọi người ‘tưởng nhớ đến ông một cách nhẹ nhàng, tĩnh lặng’, Đạo tràng Mai thôn và Tổ đình Từ Hiếu cho biết trong một bản cáo bạch chung.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng thế giới, viên tịch vào lúc nửa đêm ngày 22 tháng 1 năm 2022 ở Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế. Ông thọ 95 tuổi.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Nhà nước kiểm soát sẽ để môn đồ pháp quyến Thiền sư toàn quyền tổ chức tang lễ theo ý nguyện của ông và sẽ hết lòng hỗ trợ để thực hiện tang lễ ‘theo nghi thức cấp cao của Giáo hội’, theo công văn vừa được loan báo.
Trước đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay còn được gọi là ‘Sư Ông Làng Mai’ – nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng thế giới – đã viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu ở Huế ở tuổi 95 sau nhiều năm bị đột quỵ.
Công văn của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam gọi Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ‘vị cao Tăng của Phật giáo Việt Nam có nhiều công lao trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp’ và là ‘vị Thiền sư hướng đạo của Phật giáo đồ trên thế giới’.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vốn bị chính quyền đàn áp và Đạo tràng Mai thôn của ông độc lập với giáo hội nhà nước.
Khóa tu 7 ngày
Nghi thức ‘tâm tang’ này được tổ chức theo di huấn của chính Thiền sư Nhất Hạnh. Theo đó, tang lễ sẽ không có nghi lễ, không kèn trống, không vòng hoa, không trướng liễn theo truyền thống mà trở thành ‘khóa tu im lặng trong 7 ngày’.
"Trong suốt thời gian đó, kính xin quý vị đến thăm viếng cùng thực tập chung với chúng tôi – tâm niệm cúng dường – để cho toàn bộ tang Lễ Tâm Tang được diễn ra trong sự im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng", bản cáo bạch viết.
Sau lễ trà tỳ (tức hỏa thiêu) vào ngày 29/01, Thiền sư sẽ không được an táng trong các bảo tháp như truyền thống mà xá lợi của ông sẽ được chia ra để ở Tổ đình Từ Hiếu và các tự viện của Làng Mai trên khắp thế giới, cũng theo cáo bạch.
Theo thời khóa tang lễ mà VOA có được, thì hoạt động chủ yếu trong 7 ngày tang lễ Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ngồi thiền, thiền hành, tụng kinh, tụng giới luật. Riêng ngày cuối cùng sẽ có các nghi lễ ‘cung tuyên tiểu sử, cung tiễn, lễ phất trần, lễ rước kim quan’.
Tổ đình Từ Hiếu đang bày trí hôm 22/01/2022 để chuẩn bị cho tang lễ Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Hình ảnh phát trực tiếp từ Tổ đình Từ Hiếu trên trang mạng xã hội của Làng Mai cho thấy trong ngày 22/1, khi chưa tẩm liệm, nhục thân Thiền sư trong trang phục nâu sồng nằm ngay ngắn trên một chiếc giường nhỏ trong gian thất nhỏ, không đắp mặt, hai tay khép lại. Phía đầu giường là bàn thờ nhỏ đặt dưới một di ảnh lớn. Một số pháp tử quỳ xung quanh trong khi một số khác đến lễ lạy, chiêm bái rồi lui ra.
‘Không khí yên ắng’
Có mặt ở Tổ đình Từ Hiếu ngay sáng sớm ngày 22/1, anh Phạm Châu Thương, pháp danh Tâm Đạo Hỷ, cư sĩ tiếp hiện của Pháp môn Làng Mai đến từ thành phố Hồ Chí Minh, cho biết anh đã mua vé bay ra Huế ngay trong đêm sau khi biết tin Sư Ông Làng Mai viên tịch.
Theo lời anh mô tả thì ‘mọi người đang đổ về Từ Hiếu nhưng không khí rất là yên lặng’. "Nếu ai đó đi vào chùa sẽ không biết là đang có lễ tang của một vị cao tăng. Mọi người vào, đảnh lễ, vãn cảnh rồi ngồi nghỉ theo từng nhóm rất là yên lặng", anh nói với VOA.
Theo lời anh thì chính quyền sở tại có cắt cử công an đến giữ gìn trật tự và ngay trong buổi sáng, ‘các vị cao tăng ở Huế đã có mặt đầy đủ’ nhưng không có vòng hoa.
"Trong không khí yên lặng bao trùm đó thì tất nhiên bất cứ ai đến viếng đều không thể ồn ào", anh Thương, vốn đi theo Pháp môn Làng Mai từ năm 2005 khi lần đầu tiên Thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước, nói thêm.
Anh cho biết trong lúc nhà chùa đang dựng rạp, đặt bàn thờ, làm long vị để chuẩn bị phát tang vào ngày mai thì đã có nhiều người ‘xin vào đảnh lễ nhục thân của Sư Ông nhưng không được vì không gian chật hẹp’.
"Cho nên các Phật tử cứ tùy nghi. Có người đứng đảnh lễ từ xa. Có người đi một vòng thiền hành. Có người đứng ở vòng ngoài vái vọng xong rồi về", anh cho biết.
Kể về giây phút cuối cùng của Thiền sư, anh nói với VOA là anh nghe quý Thầy kể lại rằng ‘Sư Ông nằm yên, mắt yếu dần và đi thôi chứ không có biểu hiện gì’.
‘Để tang trong lòng’
Vị cư sĩ tiếp hiện này giải thích rằng ‘tâm tang là để tang trong lòng’ và cho biết đây là tập quán trước giờ của Tăng thân Làng Mai và đã được Thiền sư Thích Nhất Hạnh ‘hướng dẫn cho các đệ tử khi Thầy còn khỏe’.
"Bản thân tôi theo Thầy đã lâu, tôi chấp nhận hình thức (tâm tang) này", anh nói và cho biết anh đã thuyết phục được gia đình làm ‘tâm tang’ khi cha anh qua đời.
"Bảy ngày khóa tu là để mọi người trở về sống với giây phút hiện tại như điều mà Sư Ông luôn nhắc nhở các xuất sĩ và cư sỹ", anh nói thêm. "Đó là cách tốt nhất để tưởng nhớ bậc Đạo sư chứ không phải nghi lễ, cúng kiếng rìng rang hay than khóc".
Theo anh Thương giải thích vì việc tổ chức ‘tâm tang’ cho Thiền sư Nhất Hạnh là vấn đề ‘được cả hội đồng giáo thọ Làng Mai quyết định vì đây là điều mà chúng tôi lĩnh hội từ Thầy’.
Riêng ngày tang lễ cuối cùng, anh cho biết sẽ làm theo nghi lễ truyền thống theo ý nguyện của quý Thầy Tổ đình Từ Hiếu.
Do đó, trong những ngày tang lễ, anh nói hàng cư sĩ và xuất sĩ sẽ ‘theo đúng thời khóa, giữ sự yên lặng, đi lại nhẹ nhàng’ và ‘làm những điều thiện để hồi hướng công đức cho Thầy’.
Anh Thương trở thành cư sĩ tiếp hiện, tức hàng đệ tử tại gia ‘tiếp xúc với giây phút hiện tại’ từ năm 2013 (Triết lý của Làng Mai là sống sâu sắc ở giây phút hiện tại). Anh cùng vợ đã tổ chức ‘tăng thân tại gia’ ở thành phố Hồ Chí Minh được 10 năm để truyền pháp môn cho giới trẻ bên cạnh công việc chính của anh là chủ một công ty du lịch.
Anh cho biết nhóm tăng thân tại gia của anh ở thành phố Hồ Chí Minh vào tối ngày 22/10 sẽ có buổi ngồi thiền ‘để gửi năng lượng bình an đến Sư Ông’ và cũng để ‘ôn lại công hạnh, những lời dạy của Sư Ông để xem mình học được những gì, đã tiếp nối được những gì của Thầy’.
"Các tăng thân, đạo tràng của Làng Mai trên khắp thế giới cũng làm như vậy", anh cho biết.
‘Thầy không mất đi’
Giải thích về thái độ có phần bình thản này, vị cư sĩ tiếp hiện này nói : "Có thể mọi người cũng có đau buồn trong lòng, nhưng có lẽ chúng tôi đã được Thầy dạy khá kỹ về không sinh, không diệt, không sợ hãi".
Chúng tôi đều hiểu rằng ‘Thầy không mất đi mà sẽ còn được tiếp nối trong chính các học trò’.
"Tôi quán chiếu điều này khá thường xuyên nên khi người thân mình mất và bây giờ là Sư Ông, dù có buồn nhưng tâm lý đã chuẩn bị nên tâm khá an", anh nói.
Khi được hỏi Pháp môn Làng Mai sẽ tiếp nối thế nào nếu không còn Thiền sư Nhất Hạnh làm người dẫn đường, anh nói : "Giáo pháp Thầy đã dạy hết, trao hết rồi. Nếu thực hành lời dạy của Thầy, sống theo giáo pháp đó, thì nó sẽ được trao truyền cho thế hệ tương lai".
"Giáo pháp còn mãi không phải vì Sư Ông còn sống hay không", anh nói thêm và cho biết đó là lý do anh duy trì sinh hoạt tăng thân tại gia ‘để cố gắng trao truyền những gì mình đã học được cho các bạn trẻ’.
Anh Thương cho biết hiện giờ có rất nhiều môn đồ pháp quyến của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở nhiều nơi trên thế giới muốn đến Huế tham dự tang lễ nhưng trong hoàn cảnh dịch bệnh ‘chắc chắn nhiều người sẽ về không kịp’ dù tang lễ được kéo dài đến 7 ngày.
"Ví dụ như các vị bên Thái Lan, mỗi tuần có hai chuyến bay, một chuyến là ngày hôm nay thì đi xét nghiệm bằng PCR sẽ không kịp, còn để đến chuyến sau thì quá trễ vì về còn phải cách ly ba ngày nữa nên họ đang tính đi đường vòng qua Singapore", anh nói.
Sống Tỉnh Thức với Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Ngô Nhân Dụng, VOA, 22/01/2022
Trong cuốn "Không Diệt, Không Sinh, Đừng Sợ Hãi" (dịch tiếng Anh :No Death, No Fear), Thiền sư Nhất Hạnh nói rằng sống và chết chỉ là những ý niệm không có thật. Biết như vậy thì mình không còn sợ cái chết nữa. Các đệ tử của ông đang cần suy ngẫm điều này sau khi nghe tin thầy qua đời.
Trang web Làng Mai thông báo về sự ra đi của Hòa Thượng Nhất Hạnh. (Hình : Trích xuất từ plumvillage.org)
Tháng Hai năm 2019, tuần báoTime ở Mỹ viết, "Vị sư dạy Thế giới về Sống Tỉnh Thức đang chờ ngày chấm dứt cuộc đời ;" nhận xét rằng : "Nhất Hạnh được nhiều người phương Tây gọi là cha đẻ của mindfulness. Ông dạy rằng ai cũng có thể là những vị bồ tát, bằng cách sống hạnh phúc trong những công việc tầm thường – như khi gọt một trái cam hay nhấp một hớp trà, một cách tỉnh thức".
Thiền sư Thích Nhất Hạnh không phải chỉ đóng góp vào việc phổ biến phương pháp "Sống Tỉnh Thức". Ông đã nối kết các tư tưởng sâu xa trong kinh điển đạo Phật Bắc tông (thường gọi là Đại Thừa) với những các phương pháp hành trì được Nam tông chú trọng, như Thiền Hành và Thiền Minh Sát, Vipassana.
Đây là một truyền thống của Phật giáo Việt Nam, từ nhiều đời. Thích Nhất Hạnh cho thế giới nhìn thấy và công nhận có một nền Phật giáo Việt Nam mà ông là người tiêu biểu, bên cạnh các truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, vân vân, đã được truyền bá rộng từ trước.
Nước Việt Nam là nơi Phật giáo Nam tông và Bắc tông đều có mặt. Một kinh căn bản được Phật giáo Nam tông hành trì là Anapana đã được Thiền sư Khương Tăng Hội ở Giao Châu dịch thànhAn Bang Thủ Ý từ thế kỷ thứ ba. Thiền sư Thích Nhất Hạnh thường khuyên nọi người thực tập "thiền hành", một phương pháp mà các vị tăng sĩ Thái Lan, Miến Điện, Campuchia thực tập mỗi ngày.
Đối với giới truyền thông phương Tây thì nói đến Thích Nhất Hạnh là họ nghĩ tới "mindfulness", và ngược lại. Ngày nay, mindfulness đã thành một phong trào, từ sinh hoạt tâm linh, văn hóa, xã hội, đến cả trong kinh doanh và quân sự !
Đầu tháng Tư, 2019, nhật báoNew York Times loan tin quân đội Mỹ cũng tập mindfulness. Tướng Walter Piatt, chỉ huy quân Mỹ ở Iraq mỗi buổi sáng ngồi thở chậm và đều, bắp thịt cằm thả lỏng và mắt chăm chú nhìn vào một cây dừa. Ông cho thuộc cấp tập "quán niệm" để cải thiện khả năng chú ý và ngăn ngừa bệnh tâm thần do căng thẳng gây ra vì chiến trận. Ông đã đọc kết quả các cuộc nghiên cứu của bà Amishi Jha, một giáo sư tâm lý học ở Đại học Miami.
Hải quân Hoàng gia Anh, quân đội các nước Hòa Lan và New Zealand cũng đang áp dụng mindfulness trong chương trình huấn luyện. Trong tuần đầu tháng Tư, khối NATO có một cuộc hội thảo về phương pháp mindfulness ở Berlin.
Cứ 10 người Mỹ thì có 6 người đã thử tập Mindfulness. Các công ty Google, Apple, General Mills, Goldman Sachs và Aetna đang cho nhân viên thực tập. Năm 2012 có 260 triệu đô la "đầu tư" vào Mindfulness. "Công nghệ quán niệm" mỗi năm thu nhập 1,2 tỷ đô la.
Từ năm 2006, Công ty General Mills ởGolden Valley, Minnesota, bắt đầu có những buổi ngồi thiền nửa giờ vào buổi sáng, nghe chuông và theo dõi hơi thở. Công ty bán lẻ Target, tại trụ sở ở Minneapolis, có những buổi tập quán niệm hàng tuần. Ông tổng giám đốc trông thấy một nhân viên vừa đi vừa ngó vào iPhone, cũng nói đùa, "Này, đi đứng cho mindfully nhé !"
Một phần tư trong số 50.000 nhân viên của Aetna đã tập quán niệm ít nhất một lần. Và hãng bảo hiểm y tế này nói họ thấy hiệu quả. Họ tính ra thành các con số và tiền : Những người tu tập thấy giảm bớt trạng thái căng thẳng (stress) được 28 phần trăm, 20% ngủ ngon hơn, và 19% bớt đau nhức. Nhờ thế năng suất làm việc tăng lên, trung bình mỗi người một tuần làm việc thêm 62 phút. Tính ra, mang lại thêm 3.000 đô la một năm !
Tại Thung Lũng Điện Tử, California, Công ty Intel bắt đầu chương trình Awake@Intel từ năm 2012. Google có người đặc biệt phụ trách chương trình dạy quán niệm, tạitrụ sởcó những phòng cho nhân viên vào ngồi thiền bất cứ giờ nào. Năm 2013 Google đã mời Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, cùng hơn 100 tăng ni Làng Mai từ Pháp qua giảng và dạy thực tập. Ông nói với họ : "Chúng ta đang bị tràn ngập thông tin. Có lẽ mình không cần nhiều thông tin như thế !".
Mindfulness được điện tử hóa với hàng ngàn "apps" để tập quán niệm qua computer. Công ty Headspace sản xuất một app trong số này, đã được cài trên máy bay của tám công ty hàng không, cho hành khách tập thiền. Headspace đang thiết kế những "phòng thư giãn cá nhân", giống như phòng điện thoại công cộng đời xưa, để ai muốn thì ghé vào đó thiền quán trong chốc lát.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được mời nói chuyện về quán niệm với các nhân viên và một số đại biểu quốc hội Mỹ. Ở Mỹ, ông đã hướng dẫn các khóa tu cho cảnh sát viên, cho nhân viên coi nhà tù, có người sau đó đã tu tập trở thành giáo thọ. Tu viện Làng Mai ở Pháp đã làm mẫu cho các tu viện khác ở Bắc Mỹ và Âu châu. Tại nước Mỹ có các tu viện Bích Nham (New York), Lộc Uyển (California), Mộc Lan (Mississippi).
Đạo Phât và việc hành trì thiền quán đã được truyền sang Mỹ và các nước phương Tây từ nhiều thế kỷ. Đại sư Vivekananda đã đi giảng tại Mỹ và Anh trong những năm 1894 đến 1896. Ông nói, "Tôi mang tới Phương Tây bản thông điệp mà Đức Phật đã tặng cho người Phương Đông". Trong thế kỷ 20, Jiddu Krishnamurti cũng từ Ấn Độ đã qua Mỹ dạy thiền quán mà không cần gọi đó là Phật giáo. Thiền sư Shunryu Suzuki từ Nhật Bản đem theo truyền thống "Zen" phái Tào Động, lập ra thiền viện lớn đầu tiên trên đất Mỹ. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khai thị đạo Phật Tây Tạng cho hàng triệu người tập sống Từ bi và Trí tuệ.
Nhưng Thiền sư Thích Nhất Hạnh ảnh hưởng rộng nhất vì ông dạy các điều giản dị, cụ thể, ai cũng có thể làm, ngay trong đời sống bình thường. Thiền, Zen, không còn là một bí quyết dành cho các tu viện. Ai cũng có thể thực tập. Nhiều người đã thấy là chính họ chuyển hóa ; không những bản thân mình hạnh phúc hơn mà còn sống với người chung quanh hòa hợp hơn.
Người sáng lập công ty Salesforce là Marc Benioff (tài sản 10 tỷ mỹ kim), đi dự một khóa tu của Thích Nhất Hạnh, thấy chính mình thay đổi. Ông mời hòa thượng, hoặc các tăng ni Làng Mai đến dạy nhân viên về Hiểu và Thương (Từ Bi, Trí Tuệ) nhiều lần. Năm 2015 ông gửi máy bay riêng đưa hòa thượng từ Pháp qua San Francisco trị bệnh ; nhường một ngôi nhà của ông cho các tăng ni tạm trú cả năm trời.
Trong cuốn sách đầu tiên gây ảnh hưởng trong giới tập thiền phương Tây, Thích Nhất Hạnh kể lại kinh nghiệm tu tập của mình khi vào chùa Từ Hiếu. Mỗi khi làm bất cứ việc gì, chú tiểu đều đọc mấy câu thơ ngắn. Đó là những bài "kệ" nhắc nhở người sa di ý thức mình đang làm gì và chỉ chú tâm vào cử chỉ, hành động mình đang làm mà thôi. Nhờ thế, tâm an lạc, gọi là có chánh niệm, Thích Nhất Hạnh nói giản dị, là "sống trong giây phút hiện tại". Cuốn "Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức" viết từ thời 1960, nay đã được dịch ra bốn, năm chục thứ tiếng, bản tiếng Anh là Zen Key.
Theo đúng truyền thống Bắc tông, ông đã nhấn mạnh rằng tập sống quán niệm không chỉ nhắm tìm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Phải tập sống an lạc với những người chung quanh, từ gia đình tới những người cộng sự, với xã hội và với cả trái đất đang nuôi dưỡng mình.
Thích Nhất Hạnh vốn là một thi sĩ, nhà văn và một thầy giáo. Ông sử dụng thứ ngôn ngữ truyền đạt dễ dàng, nhanh chóng. Ông chia sẻ những rung động, xao xuyến, âu lo của con người bình thường, nên những lời ông nói đi thẳng vào tâm hồn họ. Như khi ông nói, "Đức Phật là một người giác ngộ, yêu thương và tha thứ. Có nhiều lúc các bạn cũng thấy lòng mình như vậy. Thế thì, hãy vui sống lúc mình là Phật đi".
Những người tập mindfulness không nhất thiết phải theo đạo Phật. Như Vivekananda nói ở Mỹ hơn 100 năm trước, "Tôi tới đây không phải để mời các bạn theo một tín ngưỡng mới. Tôi mong quý bạn giữ tín ngưỡng của mình. Một người theo Methodist sẽ thành một người Methodist tốt hơn ; một người Presbyterian thành người Presbyterian tốt hơn"… Thích Nhất Hạnh luôn luôn khuyên người phương Tây không nên bỏ đạo. Cho nên trong các khóa tu ở Làng Mai bên Pháp, có các mục sư, có linh mục, cả người Hồi giáo và Do Thái giáo đến tham dự.
Vivekananda và Thích Nhất Hạnh đều theo đúng truyền thống Phật giáo. Đức Phật cống hiến một cách sống, chứ không có ý lập ra một tôn giáo mới. Người tu tập theo Đức Phật có thể chia sẻ kinh nghiệm tâm linh với tín đồ các tôn giáo khác. CuốnLiving Buddha, Living Christ của Thích Nhất Hạnh xuất bản trước đây 20 năm đã được hàng triệu người mua trong mấy năm đầu.
Trở về Việt Nam sống những ngày cuối cùng, Thiền sư Thích Nhất Hạnh có thể giúp Phật giáo ỏ quê hương mình tìm đường trở về nguồn. Cách sống trong Làng Mai đưa người Việt trở về gần với Phật giáo dân tộc hơn. Như một ni cô kể, "tại Làng Mai, chúng tôi cười đùa vui vẻ suốt cả ngày, nhưng không một ai trong chúng tôi có tài khoản ngân hàng thuộc sở hữu cá nhân. Không ai trong chúng tôi có xe hơi hoặc điện thoại riêng"… Chắc ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc giản dị như thế, dù ít người làm được !
Anh Vũ, RFI, 22/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam và thế giới đã viên tịch lúc 00 giờ ngày 22/01/2022 tại chùa Từ Hiếu, thành phố Huế, ở tuổi 95, theo thông báo của Tăng đoàn Làng Mai tại Pháp.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các gia đình phật tử trong một ngày lễ hội của Phật giáo ở thiền viện Làng Mai, Thènac, Dordogne, Pháp, ngày 06/08/2004 AFP – Derrick Ceyrac
Chùa Từ Hiếu là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh bắt đầu nghiệp tu hành cách đây 80 năm. Ông sinh năm 1926 tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình có 6 anh chị em. Tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo, 16 tuổi xuất gia đi tu đến năm 25 tuổi trở thành nhà sư Nhất Hạnh.
Từ năm 1960, sư ông đã theo học tại đại học Princeton, Hoa Kỳ và giảng dạy thần học nhiều năm ở đại học Cornell Columbia. Năm 1966 nhà sư lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều thiền viện ở nhiều nước để truyền bá triết lý đạo Phật. Đây là quãng thời gian mà phương Tây biết đến vị tu sĩ Phật giáo này như một nhân vật tích cực hoạt động phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam.
Sau Hiệp định Paris được ký kết 1973, ông ở lại Pháp và lập ra Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne, tây nam nước Pháp, tiếp tục hành đạo, tu thiền, thuyết giảng đạo Phật và đã thu hút được đông đảo những thành phần tôn giáo, chính trị khác nhau ở Pháp cũng như nhiều nước khác.
Quan hệ của Thiền sư với chính quyền Việt Nam cũng trải qua nhiều thăng trầm, bị nhiều nghi kỵ, thậm chí nhà sư có lúc còn bị những cáo buộc vu khống về chính trị. Sau bốn chục năm hoạt động Phật giáo ở nước ngoài, năm 2005, thiền sư được chính quyền Việt Nam cho phép về thăm quê hương.
Sau đó, nhà sư tiếp tục các hoạt động tu tập và phổ biến đạo Phật, chủ yếu ở ngoại quốc. Năm 2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh bị tai biến mạch máu não. Sau khi được điều trị sức khỏe tương đối ổn định tại Pháp, năm 2018, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về chùa Từ Hiếu, Huế, tịnh dưỡng cho đến ngày cuối cùng cuộc đời trần thế.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ nổi tiếng là một triết gia Phật giáo có kiến thức uyên thâm ghi dấu ấn với khái niệm "Phật giáo dấn thân", theo đó đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống xã hội, bao gồm cả chính trị, mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Trong cả cuộc đời tu hành của mình, thiền sư đã để lại hơn 100 đầu sách về đạo và đời, bao gồm các lĩnh vực từ tôn giáo, tu tập, thiền, nghệ thuật sống, quan hệ xã hội… trong đó có hàng chục tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và được độc giả quốc tế đón nhận.
Ở phương Tây, Thích Nhất Hạnh được đánh giá là một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, một nhà triết học, thần học truyền bá những thông điệp từ bi, nhân bản để xóa bỏ hận thù, đã được nhiều cộng đồng lắng nghe.
Rất đông các hãng truyền thông quốc tế ngày hôm nay 22/01, đưa tin về sự ra đi của thiền sư Thích Nhất Hạnh với sự ngưỡng mộ một con người đã có nhiều đóng góp cho Phật giáo và hòa bình thế giới.
Nguyễn Tuấn, VNTB, 22/01/2022
Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây,
Mỉm cười chánh niệm, an trú hôm nay.
Bụt là lá chín, Pháp là mây bay,
Tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này.
Thông tin từ Làng Mai cho biết Thiền sư Thích Hạnh mới qua đời lúc 0 giờ ngày 22/1/2022 ở Việt Nam [1]. Ông thọ 95 tuổi. Việt Nam đã mất một người con ưu tú, và Phật giáo thế giới đã mất một trong những danh nhân ưu tú nhứt. Ông hơn là một thiền sư, mà còn là giảng sư, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động vì hòa bình thế giới.
Ông được xem là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ 2 ở phương Tây, chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông là tác giả của hơn 100 cuốn sách xuất bản từ trước 1975 cho đến nay. Vào hiệu sách nào ở phương Tây đều có 2 khu sách dành cho ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một số cuốn sách nổi tiếng mà tôi còn giữ trong tủ sách như Đường xưa mây trắng, Phật trong ta, Chúa trong ta, v.v.
Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sanh ngày 11/10/1926 ở Thừa Thiên, Huế. Thời niên thiếu, ông đã được tiếp xúc với sách vở và tư liệu Phật giáo, nên năm 16 tuổi ông quyết định xuất gia tại chùa Từ Hiếu (Huế) và được hòa thượng Thanh Quý Châu Thật đặt pháp danh là Trừng Quang và pháp hiệu là Nhất Hạnh. Qua nhiều năm học hành và tu tập, ông chánh thức trở thành nhà sư năm 23 tuổi. Ông theo phái tu Đại Thừa.
Thiền sư Nhất Hạnh là một thành viên quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (không phải giáo hội ngày nay mà người ta hay đùa là ‘giáo hội quốc doanh’) trước 1975 ở miền Nam. Tuy nhiên, Phật giáo thời đó có 2 ‘trường phái’ không thuận nhau : trường phái Ấn Quang do Thích Trí Quang và Thích Nhất Hạnh lãnh đạo, và trường phái Việt Nam Quốc Tự do hòa thượng Thích Tâm châu lãnh đạo. Theo đánh giá của chánh quyền VNCH, phái Ấn Quang thiên về cánh tả và ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, còn phái Việt Nam Quốc Tự thì ôn hoà.
Thiền sư Nhất Hạnh là một trong những thành viên sáng lập Viện Đại học Vạn Hạnh vào năm 1964. (Hai sáng lập viên khác là học giả Hồ Hữu Tường và Đoàn Viết Hoạt, cả hai đều đi tù sau 1975). Vạn Hạnh là một viện đại học tư thục Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam, và dưới sự điều hành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ban giảng huấn Viện Đại học Vạn Hạnh bao gồm nhiều học giả nổi tiếng như Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (tức thầy Lê Mạnh Thát) và Thích nữ Trí Hải. Tuy nhiên, sau 1975 thì Viện Đại học Vạn Hạnh bị nhà cầm quyền mới giải thể, và cả hai thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu bị kêu án tử hình.
Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh có thể nói là khá… sóng gió. Ông là người đề xướng trường phái "Engaged Buddhism" (Phật giáo Dấn thân). Ông từng tuyên bố "Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn". Do đó, theo ông, người theo Phật không chỉ tu thân, mà còn phải hành động vì một mục tiêu hay một chủ trương. Dấn thân do đó bao gồm những việc làm như nhận trẻ mồ côi để nuôi, làm thiện nguyện, thậm chí nhập ngũ, hay nói chung là ‘nhập thể’. Nhập thể là đi tu không phải chỉ giới hạn trong chùa, trong thiền am, mà phải ra ngoài xã hội là tác động.
Cả đời của ông có thể nói là hành động theo trường phái dấn thân đó. Ngay từ thập niên 1960, ông đã lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Sài Gòn, qui tụ hơn 10.000 thanh niên và sinh viên. Thanh niên Phụng sự thực chất là một tổ chức xã hội dân sự nhằm cứu trợ trẻ mồ côi trong chiến tranh. Ông cho biết triết lí đằng sau của Thanh niên Phụng sự là : "Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền".
Một trong những dấn thân của ông gây ra nhiều tranh cãi là chống chiến tranh. Ngay từ giữa thập niên 1960 ông đã kêu gọi "Đã tới lúc hai miền Nam – Bắc của Việt Nam họp lại để tìm ra một giải pháp để chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, để mọi người Việt Nam đều được sống trong hòa bình và lòng tôn trọng lẫn nhau". Nhưng dĩ nhiên, lời kêu gọi của ông chỉ được một bên nghe, còn một bên thì xem ông là … phản động. Thiền sư Nhất Hạnh là bạn của Martin Luther King và từng kêu gọi ông chống chiến tranh Việt Nam, tìm biện pháp hòa bình và tự do. Ông từng được đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình vào năm 1967.
Trong thập niên 1960s, ông đi thuyết trình hòa bình ở nhiều nơi ngoài Việt nam, kể cả Đại học Columbia (nơi ông tốt nghiệp thạc sĩ). Ông kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Những hành động dấn thân của ông không được chánh quyền VNCH ‘mặn mà’. Do đó, từ sau Hòa đàm Paris 1973, ông không được quay về Việt Nam.
Không về được Việt Nam, ông sáng lập cộng đồng Phật giáo Sweet Potato (Khoai Lang) gần Paris vào năm 1975. Năm 1982, thì cộng đồng dời về vùng Dordogne thuộc tây nam nước Pháp và xây dựng nên Tu viện Làng Mai (Đạo tràng Mai Thôn) cho đến ngày nay. Ở đây (Làng Mai) ông tổ chức nhiều ‘workshop’ tu hành cho các nhà lãnh đạo chánh trị, doanh nghiệp, chuyên gia, trí thức phương Tây và trở nên một địa chỉ nối tiếng trên thế giới. Ông có rất nhiều đệ tử từ Làng Mai.
Sau nhiều lần ‘thương thảo’, mãi đến năm 2005, ông mới được nhà cầm quyền cho về Việt Nam. Trong chuyến đi đó, có hàng trăm tăng ni người Việt và người nước ngoài tháp tùng. Sau đó, ông còn có dịp về Việt Nam để tổ chức các khóa tu, giảng dạy, và diễn giả trong đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc năm 2008.
Năm 2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh bị đột quị và phải điều trị ở Làng Mai (Thái Lan). Dù vậy, ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động Phật giáo. Năm 2018, thiền sư Nhất Hạnh về lại Việt Nam và ở chùa Từ Hiếu (nơi ông là một lãnh đạo tinh thần), với ước nguyện "lá rụng về cội". Ông viên tịch tại Từ Hiếu lúc 0 giờ ngày 22/1/2022.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã tạ thế, nhưng những di sản tinh thần của ông thì sẽ còn ở lại với đời rất lâu. Mỗi chúng ta có thể không có cùng quan điểm với ông về cuộc chiến vừa qua, nhưng tôi nghĩ ai cũng đồng ý rằng ông là một người Việt Nam xuất sắc và đã để lại dấu ấn Việt Nam rất sâu đậm trên trường quốc tế. Xin nhắc lại rằng ông là nhân vật Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhứt trên thế giới (chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma).
Ông để lại cho đời rất nhiều câu nói mang tính wisdom. Chẳng hạn như "Khi một người nào đó làm cho bạn đau khổ, bạn nên hiểu rằng chính người đó bị khổ đau lắm trong người và nỗi khổ đó lan tràn sang người khác. Không nên phạt người đó ; nên giúp người đó". Hay câu "Our own life has to be our message" (cuộc đời của chúng ta phải là một thông điệp của chúng ta). Thông điệp từ cuộc đời và sự nghiệp của ông là đấu tranh ôn hoà, hòa bình, hòa giải và hòa hợp.
Nhiều ý tưởng của ông sẽ còn khai thác trong tương lai. Riêng cá nhân tôi, nhắc đến ông là tôi nghĩ ngay đến bài "Bông hồng cài áo". Đó là một đoản văn viết về mẹ rất hay, và sau này được phổ thành một ca khúc rất nổi tiếng.
Tôi chưa bao giờ tu tập với ông, nhưng lúc nào cũng xem ông như một người Thầy (viết hoa). Những câu nói của ông là kim chỉ nam cho cuộc sống mà tôi lựa chọn. Cầu mong hương hồn thầy Thích Nhất Hạnh siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng.
Nguyễn Tuấn
Nguồn : VNTB, 22/01/2022