Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Thiền sư Nhất Hạnh : công và tội với dân tộc

Nguyễn Quốc Khải, 01/02/2022

Trong vài tuần nay khá nhiều góp ý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh kể từ khi ông qua đời vào ngày 22/1/2022. Một cách tổng quát, có hai ý kiến trái ngược nhau ca ngợi và chỉ trích mãnh liệt. Xét cho cùng hai bên đều có thể đúng. Một bên ca ngợi ông về mặt triết lý của cuộc sống và mục tiêu là mưu cầu hạnh phúc, đặc biệt là phương pháp thiền của ông giúp con người sống an nhiên tự tại. Một bên phê phán ông Nhất Hạnh về mặt chính trị dựa trên tinh thần quốc gia dân tộc.

nhathanh1

Một đời viết sách

Tính đến 1/2019 ông Nhất Hạnh đã xuất bản trên 130 cuốn sách, bao gồm trên 100 cuốn bằng Anh ngữ và bán được trên năm triệu cuốn trên thế giới. Sách của ông được dịch ra trên hơn 40 ngôn ngữ và viết về những đề tài như hướng dẫn về tâm linh, Phật điển (Buddhist texts), lời dậy về tỉnh thức (mindfulness), thơ và truyện, và những bài tiểu luận về thiền học.

Ông Nhất Hạnh viết khá nhiều về cuộc sống, giúp ích cho mọi gia đình, mọi tôn giáo. The Art of Mindfulness (Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức) bán được 200.000 cuốn chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Giám đốc Ngân Hàng Thế Giới Jim Jong Kim gọi cuốn sách Phép Mầu của Chánh Niệm (Miracle of Mindfulness) là cuốn sách ưa thích nhất của ông. Ngoài ra ông Nhất Hạnh còn có nhiều sách nổi tiếng khác như Bông Hồng Cài Áo, Muốn An Được An, Hạnh Phúc Cầm Tay, Giận, Chỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người Trẻ, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, Thả Một Bè Lau, Bước Tới Thảnh Thơi, Tâm Tình Với Đất Mẹ, Thiền Tập Cho Người Bận Rộn, Con Đường Chuyển Hóa, Gieo Trồng Hạnh Phúc, Để Có Một Tương Lai, Tìm Bình Yên Trong Một Gia Đình.

Ông viết ít hơn về đạo Phật và không đưa ra tư tưởng sâu xa gì mới. Sách về Phật giáo gồm Đạo Phật Cho Tuổi Trẻ, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đường Xưa Mây Trắng, Đạo Bụt Nguyên Chất, Bụt Là Hình Hài, Bụt Là Tâm Thức, Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Sen Nở Trời Phương Ngoại. Ông chỉ trích Phật giáo ở miền Nam Việt Nam là tách biệt với dân. Ông phát huy một ý niệm mới về Phật giáo dấn thân. Theo đó, triết lý và những điều răn dậy của Phật giáo, những bài học về đức tin, có thể áp dụng vào phúc lợi của con người trong các lãnh vực giáo dục, y tế và chính trị. Tức là đạo vào đời. Trong phần sau, người đọc sẽ thấy ông chủ xướng Phật giáo dấn thân, nhưng áp dụng tùy tiện, tùy lúc, tùy nơi.

Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa. Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam. Ông không trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, nhưng thái độ và những hành động mang tính cách chính trị của ông gây nhiều tranh cãi và hậu quả tai hại như chúng ta sẽ thấy ở một phần sau.

Vận động hòa bình

Thiền sư Nhất Hạnh là người thông thạo Việt, Anh, Pháp và một số ngôn ngữ khác. Do đó ông có nhiều môn sinh thuộc các sắc dân khác nhau và có cơ hội gặp gỡ nhiều yếu nhân quốc tế như Dalai Lama, Mục sư Martin Luther King, Jr., Giáo hoàng Paul VI, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert S. McNamara, Thượng nghị sĩ Edward M. Kennedy, Thượng nghị sĩ William Fulbright.

nhathanh2

Mục sư Martin Luther King, Jr. sau khi được giải Nobel Hòa Bình vào năm 1964 đã đề cử Thiền sư Nhất Hạnh nhận giải Nobel của năm 1967 nhưng không có kết quả. Ông là một trong những người Việt Nam nổi tiếng trên thế giới và có lẽ là một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng chỉ sau Đức Dalai Lama.

Thiền sư Nhất Hạnh được học bổng Hoa Kỳ du học về tôn giáo tại Princeton University vào năm 1960 trong lúc chiến tranh Việt Nam bắt đầu sôi động và cuối năm đó Mặt trân Dân tộc Giải phóng Miền Nam thành lập. Tiếp theo, ông được nhận vào học tại Princeton Theology Seminary vào 1961-1962. Ngay sau khi ông Ngô Đình Diệm bị giết chết, ông trở Việt Nam vào cuối năm 1963 theo lời mời của Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Ba năm sau, vào 1966, lúc 40 tuổi, ông được Cornell University mời trở lại Hoa Kỳ và dự trù ở lại trong ba tháng. Mục tiêu của chuyến đi này là vận động hòa bình cho Việt Nam.

Ngay trên đất Mỹ, ông phát động chiến dịch chống Mỹ tham chiến ở Việt Nam rất sớm, chỉ một năm sau khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng. Ông lên án các vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo tại miền Nam mặc dù trong thời gian này quyền tự do tôn giáo được bảo đảm. Ông đòi hỏi chính quyền Sài Gòn phải thương thuyết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam để chấm dứt chiến tranh, mặc dù tổ chức này chỉ là công cụ của Hà Nội. Chỉ vài tháng sau khi quân cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị giải tán tức khắc. Ông được tài trợ đi công du tại 19 quốc gia để quảng bá chiến dịch hòa bình này. Ông được mời nói chuyện trước quốc hội Anh, Canada và Thụy Điển. Vì vậy chính quyền quân nhân Sài Gòn cấm ông trở về Việt Nam. Ông Nhất Hạnh buộc lòng phải xin tị nạn tại Pháp vào cuối năm 1966.

Chống chiến tranh, nhưng ông Nhất Hạnh chỉ chống Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam mà không chống miền Bắc mang quân vào xâm chiếm miền Nam. Ông chống Mỹ ném bom vào tỉnh Bến Tre và thổi phồng sự thiệt hại cho dân mà không chống cộng sản Việt Nam tàn sát dân vào Tết Mậu Thân tại Huế. Ông chống miền Nam thiếu tự do, nhưng không chống miền Bắc độc tài đảng trị, chà đạp nhân quyền và tôn giáo tàn bạo. Chính Làng Mai của ông ở Lâm Đồng thiết lập vào 2005 bị tàn phá vào 2009 mà ông bất lực.

Trở về Việt Nam lần đầu

Thiền sư Nhất Hạnh làm đơn xin với Bộ Văn Hóa trở về Việt Nam từ năm 2000 và đã nộp những bài ông sẽ thuyết pháp cho Bộ Văn Hóa kiểm duyệt, nhưng không được chấp thuận. Đáp ứng với Nghị quyết 36 của của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ban hành vào 2004, Thiền sư Nhất Hạnh một lần nữa xin trở về và được chấp thuận vào 2005 cùng trong khoảng thời gian trở về của cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Nhạc sĩ Phạm Duy, cựu Viện trưởng Viện Đại học Hòa Hảo Lê Phước Sang.

Cũng vào thời gian này, Việt Nam đã bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách những quốc gia đáng quan tâm (country of particular concern - CPC) vào 2004 vì vi phạm nhân quyền đặc biệt là tự do tôn giáo. Do đó chính quyền Hà Nội muốn nới lỏng gọng kìm độc tài để chứng tỏ Việt Nam có tự do tôn giáo nên dễ dàng với ông Nhất Hạnh và thả tự do cho một số tu sĩ Phật giáo liên hệ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và Thượng tọa Thích Trí Siêu. Đồng thời chính quyền Hà Nội chuẩn bị tổ chức Hội Nghị Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation – APEC) vào năm 2006.

nhathanh3

Sau gần 40 năm lưu vong ở nước ngoài, 30 năm sau chiến tranh chấm dứt, ông Nhất Hạnh về Việt Nam để chứng kiến những tu sĩ từng tranh đấu cho tự do tôn giáo như ông đang bị chính quyền Hà Nội giam cầm hay quản chế là Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, và các thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Viên Định, Thích Thanh Huyền, Thích Nguyên Lý, Thích Hải Tạng ...

Chính sách đàn áp tôn giáo tàn bạo của chế độ cộng sản Việt Nam thể hiện rất rõ ngay từ khi vừa chiếm xong miền Nam. Vào cuối năm 1975 chính quyền cấm không cho treo cờ Phật giáo khiến 12 tăng ni và Phật tử ở chùa Dược Sư, Cần Thơ tự thiêu để phản đối. Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra thông điệp kêu gọi Bảo Vệ Nhân Quyền ở Việt Nam và đòi hỏi tự do tôn giáo vào ngày 9/6/1977, ngay lập tức chính quyền cộng sản Việt Nam bắt giam sáu vị trong ban lãnh đạo bao gồm các thầy Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh. Viện Đại học Vạn Hạnh do Thiền sư Nhất Hạnh sáng lập và Nhà xuất bản Lá Bối bị ngưng hoạt động. Cô nhi viện Quách Thị Trang bị trưng dụng. Thượng tọa Thích Mẫn Giác phải rời nước ra đi bằng đường biển để mang thông điệp ra thế giới bên ngoài. Riêng Thượng tọa Thích Thiện Minh, bị áp giải về trại cải tạo Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải, nay là tỉnh Bình Thuận, và chết trong tù vào ngày 17/10/1978. Thượng tọa Thích Thiên Minh là một chiến lươc gia của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, từng bị thực dân Pháp bắt giam vào 1947 vì tham gia Ủy ban Phật giáo Cứu quốc tại Quảng Trị và chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vào 1963 cùng với một số tu sĩ Phật giáo khác vì chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo.

Hai Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị kết án tử hình vào 1988 vì bị vu khống hoạt động lật đổ chính quyền. Nhờ sự kiên trì và dũng cảm tranh đấu của hai ông, và cuộc vận động hiệu quả của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với sự hỗ trợ của các tổ chức nhân quyền quốc tế, hai ông được giảm án và sau đó được trả tự do vào 1998. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là giáo hội duy nhất đối lập và không chấp nhận chế độ cộng sản Việt Nam bởi vì đi ngược với giáo lý từ bi, trí tuệ của đạo Phật. Các vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chưa bao giờ tiếp cận với ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.

Vào cuối năm 2003, Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội Âu Châu phê chuẩn hai nghị quyết tố cáo chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Vào tháng 9/2004, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ liệt kê Việt Nam vào danh sách CPC. Vào cuối năm 2004 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM tổ chức tại Việt Nam, hơn 100 dân biểu Quốc hội Âu Châu đã gửi thư yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu đưa vấn đề đàn áp tôn giáo và nhân quyền ra thảo luận với chính quyền cộng sản Việt Nam. Các dân biểu cũng lên tiếng yêu cầu trả tự do cho hai hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và tất cả các tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị tại Việt Nam.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong dịp trở về Việt Nam lần đầu đã trực tiếp trao cho Thủ tướng Phan Văn Khải một bức thư đề nghị bẩy điều về chính sách của Nhà nước với Phật giáo. Quan trọng nhất là các vấn đề tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền, xung khắc và nghi kỵ giữa chính quyền và Phật giáo, hợp nhất hai giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và việc hỗ trợ giữa chính quyền và tôn giáo.

Hà Nội đã hoàn toàn làm ngơ trước tất cả những yêu cầu này, mặc dầu ông Nhất Hạnh là người sinh trưởng ở miền Nam nhưng theo miền Bắc trong chiến tranh Việt Nam. Ông là người đã chống chính quyền miền Nam Việt Nam, chống việc tham gia của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam chống tham vọng bành trướng của cộng sản, và đắc lực tuyên truyền cho chính quyền Hà Nội trong khi ông lưu vong ở nước ngoài.

Ông muốn thống nhất Phật giáo nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại chủ trương chia rẽ và kiểm soát Phật giáo bằng cách lập giáo hội quốc doanh. Ông muốn tôn giáo độc lập, Đảng cộng sản Việt Nam lập gia Ban Tôn giáo để kiểm soát tôn giáo. Những điều ông đòi hỏi hợp lý nhưng đương nhiên không thể được chấp nhận bởi một chính thể độc tài. Sau cùng ông bị chính quyền Hà Nội ra mặt xem ông như một phần tử đối nghịch nguy hiểm, không cho ông được tiếp súc với nhiều người.

Trở về Việt Nam lần thứ hai

Thái độ của chính quyền Hà Nội khá rõ khi ông trở về Việt Nam lần thứ hai vào năm 2007. Sự di chuyển của ông bị hạn chế tối đa. Ông bị cấm đoán tổ chức trai đoàn giải oan cho nạn nhân chiến tranh ở cả hai miền. Một lá thư của Làng Mai giải thích "Theo tư tưởng lãnh đạo, đây là một cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, những người chiến sĩ hy sinh là tại họ muốn hy sinh, những người bên kia chống lại tại vì họ muốn chống lại, hai bên đã chết vì muốn đi theo đường lối và chí hướng của mình, như vậy không có oan ức gì cả".

nhathanh4

Cũng trong lần về nước lần thứ hai, ông Nhất Hạnh đề nghị với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dựng tượng đài tưởng niệm những nạn nhân đã chết khi vượt biên nhưng không được chấp thuận. Ông cũng kêu gọi Đảng cộng sản Việt Nam đổi tên vì "cái tên đảng hiện giờ đang là một chướng ngại, gây hiểu lầm và tiếp tục nuôi dưỡng oan hận".

Hai năm sau, vào khuya ngày 28/06/2009 những tu sinh Làng Mai sinh hoạt tại tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng đã bị khoảng 200 côn đồ có vũ trang do công an chỉ đạo đến sách nhiễu, đánh đập và đuổi ra khỏi tu viện. Thiền sư Nhất Hạnh gửi thư cho Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết để cầu cứu, nhưng không được hồi âm. Họ phải chạy qua lãnh nạn tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc.

Hơn 400 tu sinh theo pháp môn Làng Mai đã một lần nữa bị đánh bật ra khỏi chùa Phước Huệ. Họ bị vu cáo là tụ tập chống phá nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Công an ép các tu sinh pháp môn Làng Mai trở về địa phương. Bô Ngoại giao trục xuất những người có ngoại tịch ra khỏi Việt Nam. Vấn đề then chốt là chính quyền không muốn có một tổ chức độc lập nào ở Việt Nam.

Vào năm 2005 Thượng tọa Thích Đức Nghi hiến chùa Bát Nhã cho Thiền sư Nhất Hạnh để truyền dậy pháp môn Làng Mai ở Việt Nam và tiếp tục trụ trì chùa này. Trong ba năm chùa Bát Nhã đã được sửa sang và mở rộng. Nhưng đến giữa năm 2008, chính quyền ép buộc Thượng tọa Thích Đức Nghi đòi lại ngôi chùa và không cho các môn sinh Làng Mai tu học ở đây. Dự tính thành lập nhiều Làng Mai ở Việt Nam của ông Nhất Hạnh đến thời điểm này kể từ khi chùa Bát Nhã bị đập phá đã chấm hết. Sự việc Bát Nhã là một bài học cay đắng cho Thiền sư Nhất Hạnh.

"Không cùng tinh thần quốc gia dân tộc"

Pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh là một tổ chức độc lập, không thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Nhà nước. Trong những lần về Việt Nam ông Nhất Hạnh và phái đoàn Làng Mai hợp tác với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban Tôn giáo của Nhà nước để tổ chức những chuyến viếng thăm một số nhân vật lãnh đạo chính quyến và thuyết pháp truyền đạo.

nhathanh5

Báo Tuổi Trẻ tường thuật rằng vào ngày 5/5/2007, trong lần Thiền sư Nhất Hạnh về nước lần thứ 2, "Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tiếp tại Phủ Chủ tịch Thiền sư Nhất Hạnh và đại diện thiền sinh, cư sĩ trong đoàn tăng thân Làng Mai tới thăm xã giao nhân dịp về thăm Việt Nam theo lời mời của Ban Phật giáo quốc tế thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chủ tịch nước đánh giá chuyến về thăm Việt Nam của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cảm ơn Nhà nước, Chính phủ đã tạo điều kiện cho ông cùng các thiền sinh, cư sĩ trong đoàn được về thăm đất nước".

Trong những lần về Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh cũng thỉnh cầu được thăm viếng các vị cao tăng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất gồm Hòa thượng Thích Quảng Độ và Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ, nhưng đều không được toại nguyện. Hòa thượng Thích Quảng Độ từ chối tiếp Thiền sư Nhất Hạnh vì lý do công an không cho phép. Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ đang trong thời gian nhập thất cũng không tiếp ông được. Trong lúc sinh thời Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã bị Hòa thượng Thích Quảng Độ và Hòa thượng Thích Huyền Quang từ chối tiếp.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không cử người chính thức đại diện tới dự tang lễ của Thiền sư Nhất Hạnh. Đại lão Hòa thượng Thích Chí Viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ Nha Trang ra Huế dự tang lễ chỉ với tư cách huynh đệ đồng môn do từng tu học ở chùa Từ Hiếu trước đây. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cố Thiền sư Nhất Hạnh vì không cùng chí hướng với ông trên tinh thần quốc gia dân tộc. Mỗi chùa tùy nghi làm lễ tưởng niệm.

Kết luận

Ông Nhất Hạnh là một người yêu dân tộc, yêu đạo pháp, muốn đất nước có tư do no ấm. Nhưng sinh không hợp thời, cả hai chế độ Nam Bắc đều không chấp nhận ông. Thiền sư Nhất Hạnh có thể nghĩ rằng cộng sản Việt Nam sẽ mang lại tự do no ấm cho dân Việt Nam. Nhưng sau 1975, ông đã thấy hết sự thật như thế nào. Tiếng súng đã im trong gần nửa thế kỷ nhưng hòa bình thật sự vẫn chưa thành sự thật.

Cuối đời Thiền sư Thich Nhất Hạnh toan tính cảm hóa cộng sản Việt Nam theo con đường nhân bản, cho tự do tôn giáo, giải oan cho các nạn nhân chiến tranh hai bên, cầu siêu cho những oan hồn của những người tử nạn trên đường vượt biên, nhưng ông hoàn toàn thất bại. Dự định thiết lập một số Làng Mai ở Việt Nam cũng đã không thành trong cay đắng. Hẳn ông đã vỡ mộng. Vào năm 2018, ông được trở về lần cuối cùng chỉ để chuẩn bị cho sư ra đi của ông ở quê cha đất tổ.

Nói tóm lại Thiền sư Nhất Hạnh đã đóng góp đáng kể cho sự hiểu biết về cuộc sống an lạc nhưng con đường dấn thân của ông cho đất nước đã không đạt được điều gì cả ngoại trừ giúp cho cộng sản Việt Nam chiếm được miền Nam. Ông bị đột quy và cấm khẩu vào cuối năm 2014. Không còn nguy hiểm cho chế độ Hà Nội nữa cho nên ông được phép về Việt Nam vào 2018, sống lặng lẽ trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời. Ông mất tại chùa Từ Hiếu ở Huế vào ngày 22/01/2022, hưởng thọ 95 tuổi.

Nguyễn Quốc Khải

01/02/2022

Tham khảo :

1. "Thiền sư Nhất Hạnh và con đường thứ ba", BBC tiếng Việt, 15/4/2015.

2. "Hai con đường, hai khác biệt", BBC tiếng Việt, [31] 4/5/2015.

3. Nguyễn Hùng, "Thiền sư Nhất Hạnh và ba lần nhẫn nại trở về", VOA tiếng Việt, 24/01/2022.

4. Henry Kamm, "Refugees from Indochina find only further despair", New York Times, June 17, 1977.

5. "Bẩy điểm đề nghị của Thiền sư Nhất Hạnh về chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo", Làng Mai, 25/03/2005.

6. Quang Mai, "Tiểu sử cố Hòa thượng Thích Thiện Minh", Tập san Quảng Đức, 8/10/2018.

7. Thanh Ngoc", Lên án Thiền sư Nhất Hạnh : sân si hay chính đáng", 26/01/2022.

8. "Reflection : Thich Nhat Hanh at Princeton Seminary", Princeton Theological Seminary, January 27, 2022.

9. Trần Phương, "Xưa có ba nhà sư : Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang và Thích Quảng Độ", Luật Khoa, 22/01/2022.

10. Võ Văn Quan",Thích Nhất Hạnh : Chánh niệm hay chính trị ?", 24/01/2022.

11. Matt Schudel, "Thich Nhat Hanh, Buddhist monk who sought peace and mindfulness, dies at 95", The Washington Post, January 22, 2022.

12. Văn Tâm, "Cuộc đời của Thiền sư Nhất Hạnh", Tạp Chí Luật Khoa, 22/01/2022.

13. "Thiền sư Nhất Hạnh : Không làm chính trị nhưng chọn thái độ chính trị", Việt Tân, 26/01/2005.

14. Đan Thanh, "Thiền sư Thích Nhất Hạnh và biến cố Bát Nhã năm ấy", Báo Tiếng Dân, 27/01/2022.

15. "Quan chức Mặt Trận Tổ Quốc viếng Thiền sư Nhất Hạnh", VOA tiếng Việt, 25/01/2022.

16. Oprah Winfrey, "Oprah talks to Thich Nhat Hanh", 9/2009.


****************************

Thầy Nhất Hạnh mất đi, nỗi buồn Việt Nam vẫn còn đó

Bùi Văn Phú, Việt Báo, 29/01/2022

Người Việt đã dùng nhiều danh hiệu khác nhau như Thượng tọa, Hòa thượng, Thiền sư, Sư ông để gọi Thầy Nhất Hạnh. Nửa thế kỷ trước thầy đã không dùng danh xưng "Thích Nhất Hạnh" mà chỉ là "Nhất Hạnh", như in trên bìa tập sách nhỏ "Bông hồng cài áo", xuất bản lần đầu tại Sài Gòn giữa thập niên 1960. Ý tưởng trong tác phẩm nổi tiếng này được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đưa vào ca khúc mang cùng tên mà rất nhiều người Việt thường cất tiếng ca để nhớ về mẹ.

Bông hồng cài áo – tiếng hát Bằng Kiều, nhạc Phạm Thế Mỹ -lời Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Courtesy of Thúy Nga

Từ những năm đó, thầy đã khai mở một Phật pháp môn mới là Tiếp Hiện, sau này là Làng Mai hải ngoại, với tinh thần tu tập dấn thân được nhiều người theo học, để nhận ra thầy là một bậc tu hành người Việt được thế giới kính trọng.

"Thầy" là cách xưng hô người Việt dùng khi tiếp xúc với các nhà tu hành Phật giáo, nhưng với tôi, nhìn qua lăng kính tâm lý giáo dục tôi gọi là "Thầy" vì ông thực sự là bậc thầy về tâm lý học hơn là một nhà tu truyền giảng tín lý tôn giáo.

thay1

Một số tác phẩm của thầy Nhất Hạnh

Những điều thầy nói ra là "hiểu và thương" trong giao tiếp giữa người và người, là "tỉnh thức" trong từng lời nói, việc làm dù rất thường ngày như quyét nhà, rửa chén hay vui chơi, học hành, như thầy đã viết trong "Nói với tuổi hai mươi" là một tác phẩm quen thuộc với giới trẻ ở Việt Nam từ thập niên 1960 và với giới trẻ hải ngoại sau năm 1975.

thay2

Buổi quán niệm với Tăng đoàn Làng Mai ở Oakland, California.

Nhiều người ngoại quốc được thầy chỉ dẫn vào "chánh niệm", qua "Phép lạ của sự tỉnh thức" được xuất bản ở Sài Gòn trước đây và nay đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Thầy dạy một điều thật đơn giản là trong từng bước chân, nhịp thở hãy sống ngay phút giây hiện tại để giúp nhận ra chính mình đang hạnh phúc, giúp con người trầm tĩnh lại, nhận ra bình an trong tâm hồn, khi mà xã hội văn minh vật chất luôn năng động quay cuồng và áp lực cuộc sống đè nặng trên vai.

thay3

       Thị trưởng Oakland Jerry Brown phát biểu chào mừng Tăng đoàn Làng Mai trong một buổi quán niệm ở Oakland, California đầu thập niên 1990.

Lần đầu tiên tôi được gặp thầy là vào mùa xuân 1983 trong buổi thuyết giảng tại Berkeley Community Theater.

Năm 1981, Bút nhóm Ý Thức do tôi khởi xướng sinh hoạt với sinh viên Đại học Berkeley có in lại "Bông hồng cài áo", tôi viết thư qua Pháp xin phép và được thầy đồng ý cho in. Hôm đó tôi có đem theo tập sách nhỏ để xin thầy chữ ký.

bonghong1

Nửa thế kỷ trước thầy đã không dùng danh xưng "Thích Nhất Hạnh" mà chỉ là "Nhất Hạnh", như in trên bìa tập sách nhỏ "Bông hồng cài áo", xuất bản lần đầu tại Sài Gòn giữa thập niên 1960.

Những năm ở đại học tôi đọc "Lotus in the Sea of Fire" để thấy thầy là người Việt đã lên tiếng phản đối chiến tranh, kêu gọi hòa bình, đòi quyền dân tộc tự quyết. Qua tác phẩm, qua những phát biểu, qua những "Đề nghị hòa bình" cho Việt Nam, chủ yếu thầy yêu cầu người Mỹ rút lui, chấm dứt can thiệp vào Việt Nam.

Tháng Tư 1975 người Mỹ quấn cờ ra đi. Chiến tranh chấm dứt, hòa bình không thấy mà thanh niên Việt lại phải tiếp tục hy sinh trên chiến trường biên giới phía bắc, mất mạng bên nước láng giềng phía tây.

Chiến tranh chấm dứt, nhiều người Việt không được vui sống bên gia đình mà lại bị đưa vào những trại học tập cải tạo. Chiến tranh chấm dứt, các cơ sở tôn giáo bị tịch thu. Nhiều người không thể đóng góp cho quê hương mà phải vượt biển, vượt biên bỏ nước ra đi.

thay5

Sư cô Chân Không, với khăn áo nâu, trong một buổi quán niệm ở Oakland, California.

Năm 1976 thầy là người đầu tiên có mặt ở Đông Nam Á, với con thuyền do một tổ chức quốc tế về tôn giáo bảo trợ để cứu người vượt biển, dự định đưa họ đến Guam hay qua Úc. Vì thiếu minh bạch tài chánh nên chương trình bị buộc chấm dứt và thầy trở về Pháp. Dù thế nào, đó cũng đã là mở đầu cho nhiều tổ chức sau này thuê tàu ra khơi để cứu người, khi làn sóng thuyền nhân ngày càng lên cao.

Hôm thầy đến diễn thuyết ở Berkeley, ngoài hành lang có bàn ký thỉnh nguyện thư gửi Liên Hiệp quốc, lãnh đạo Việt Nam đòi tự do tôn giáo, tôn trọng nhân quyền cho Việt Nam.

Tình hình Giáo hội Phật giáo ở Việt Nam khi đó rất căng thẳng vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã bị nhà nước giải tán, thay thế bằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc. Các thầy Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị giam hay quản chế cư trú, người ở Quảng Ngãi, người ở Thái Bình. 

Thời chiến tranh, thầy kêu gọi chính phủ Sài Gòn cho Giáo hội Phật giáo được tự do hành đạo. Thời cộng sản, Hà Nội đàn áp Giáo hội thì thầy không nói gì.

Thầy lập ra Làng Hồng, sau là Làng Mai để phát triển việc tu thiền, đi thuyết giảng ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia, thu hút đông tăng sinh. Mấy chục quyển sách về tu thiền, về lịch sử, văn hóa Việt Nam của thầy in tại hải ngoại được nhiều người đón nhận.

thay0

Hôm thầy thuyết giảng ở Berkeley, vài nghìn người đến nghe, hầu hết là người Mỹ, ngồi kín thính đường và tràn ra cả lối đi.

Ngoài hành lang có bày bán sách của thầy và tôi chú ý đến bài thơ in trên giấy hoa văn, đọc qua thấy mang nhiều ý nghĩa nên tôi mua một bản. Bài thơ "Please call me by my true names" có những câu đã nói lên hoàn cảnh của hàng triệu người Việt sau chiến tranh.

I am the twelve-year-old girl,

refugee on a small boat,

who throws herself into the ocean

after being raped by a sea pirate.

And I am the pirate,

my heart not yet capable

of seeing and loving

I am a member of the politburo,

with plenty of power in my hands.

And I am the man who has to pay

his "debt of blood" to my people

dying slowly in a forced-labor camp

Tạm dịch :

Tôi là bé gái 12 tuổi,

tị nạn trên con thuyền nhỏ,

trầm mình xuống biển

sau khi bị hiếp.

Tôi là tên hải tặc

tim tôi chưa biết

nhìn thấy và thương

Tôi là ủy viên bộ chính trị,

quyền lực trong tay.

Còn tôi một người

phải trả "nợ máu" nhân dân

đang chết dần trong trại lao động cưỡng bách

Bài thơ này sau được in trong tập thơ của thầy, mang cùng tên "Please call me by my true names" do nhà xuất bản Parallax ở Berkeley phát hành năm 1993.

Lần đầu tiên đi nghe thầy thuyết giảng. Sân khấu trang trí thật đơn sơ. Thầy ngồi. Khoan thai gõ chuông trên tay. Tiếng Anh lơ lớ, chậm rãi, thầy yêu cầu mọi người thở ra, hít vào. Thầy nói chuyện như tâm sự, chừng hơn tiếng đồng hồ và mọi người yên lặng lắng nghe.

Mười năm sau, thầy và Tăng đoàn Làng Mai có buổi quán niệm bên hồ Lake Merritt, Oakland với nhiều nghìn người tham dự. Thị trưởng Oakland là Jerry Brown, cựu thống đốc tiểu bang California, đã có mặt và trao bằng khen cho thầy, ông nói trong nhà ông có ảnh chân dung và nhiều sách của thầy.

Dịp này tôi được một anh bạn trước đây cùng nhau sinh hoạt báo chí sinh viên trong vùng Vịnh San Francisco, là Thượng toạ Thích Từ Lực trụ trì chùa Phổ Từ ở Hayward, mời đến chùa dùng cơm trưa với thầy. Bữa cơm chay trong thinh lặng. Sau đó nói chuyện ít lâu với thầy về sinh hoạt giới trẻ địa phương mà anh bạn và tôi thường tổ chức trong phạm vi sinh hoạt của hai tôn giáo khác nhau. Giọng thầy lúc nào cũng nhỏ nhẹ, chậm rãi, như khi thuyết giảng.

Thầy thường đến vùng Vịnh San Francisco vì có những tăng sinh Mỹ đã theo thầy nhiều năm, từ những ngày Làng Mai mới ra đời, đặc biệt là anh chị Arnie và Theresa Kotler sáng lập nhà xuất bản Parallax đã phát hành nhiều tác phẩm của thầy.

Đến năm 1999 xảy ra tranh chấp tài chánh giữa thầy và nhà xuất bản để rồi phải xa cách nhau là điều đáng tiếc vì trong hai chục năm theo thầy, lo tổ chức diễn thuyết, in ấn xuất bản, anh chị Arnie và Theresa còn làm việc với thầy trong chương trình từ thiện giúp người nghèo ở Việt Nam qua việc gửi những gói quà nhỏ bằng đường bưu điện, trong đó có thuốc men, kem đánh răng mà người nhận có thể dùng hay bán đi để có tiền mua thực phẩm.

Có những người nghèo nhận được gói quà, viết thư qua cám ơn. Tôi dịch những lá thư qua tiếng Anh cho những nhà hảo tâm hiểu. Một lá thư từ vùng quê Đà Nẵng kể rằng gia đình ông không có thân nhân ở nước ngòa i, khi nhận được giấy báo lên bưu điện thành phố nhận hàng, ông ngạc nhiên. Nghèo quá, không có phương tiện lên thành phố nên ông phải mượn xe đạp và tiền của hàng xóm để đi lãnh hàng và nộp thuế. Ông kể đã giữ lại món gì trong gói hàng, bán thứ gì để trả nợ, để có tiền mua thực phẩm.

Tuần trước, nhà thơ Bùi Chí Vinh từ trong nước có kể chuyện trên FaceBook của ông về sự kiện năm 1987 ông nhận được gói hàng từ một người xa lạ tên Bùi Thị Chín, gửi từ California nên bị công an mời lên thẩm vấn, nói quà đó là từ Sư cô Chân Không, phụ tá thân tín nhất của thầy, trong chiến dịch chuyển lửa về quê nhà.

thay4

Tượng đài với những nhân vật hoạt động vì hoà bình ở Oakland, California.

Về sư cô mà thầy gọi là "Sister Chân Không", theo ghi chú trong tập thơ "Please call me by my true names", năm 1966 từ nước ngoài thầy có làm bài thơ ngắn mang tên "The empty path" viết lên bưu thiếp gửi về cho Cao Ngọc Phượng, tức Chân Không sau này, mà cô nhận được trong ngày bị bắt giam vì tội in và mang trong người những tài liệu chống chiến tranh. Chân Không, cùng Nhất Chi Mai là trong số vài tăng sinh đầu tiên theo pháp môn Tiếp Hiện được thầy chấp nhận thọ giới.

Tập thơ ghi lại những cảm xúc của thầy trong ba thập niên qua nhiều sự kiện, từ chiến tranh với những cái chết của dân vì bom đạn, những vụ ám sát các thành viên của trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, đến cái chết của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, thảm cảnh thuyền nhân sau năm 1975.

Thầy chủ trương bất bạo động nhưng lại là con người thụ động. Thầy không có can đảm để mạnh mẽ nói lên nỗi thống khổ của đồng bào mình dưới chế độ mới, như Gandhi, Martin Luther King Jr., Đức Dalai Lama hay Giám mục Tutu khi nói về đồng bào của họ.

Vì thầy không muốn mất lòng tin của phe cánh tả, của những người phản chiến cũ, những người còn mang mặc cảm tội lỗi vì sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Linh mục công giáo Daniel Berrigan đã viết trong lời giới thiệu sách "Love in Action" của thầy để xin tha thứ : "For your grief, for your long travail, your exile, for the deaf and dumb of uncaring world, for the crucifixion and death of your people. Forgive us". (Vì nỗi buồn của anh, vì đau khổ kéo dài, cuộc sống lưu vong, vì sự câm lặng ngu ngơ của một thế giới không quan tâm, vì sự chịu nạn và cái chết của dân tộc anh. Xin tha lỗi cho chúng tôi).

Một nghệ sĩ Mỹ muốn tôn vinh hoạt động vì hòa bình nhân loại đã khắc tượng thầy chung với Mục sư Martin Luther King Jr., Mẹ Têrêsa, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và nhiều danh nhân khác trong một công viên ở thành phố Oakland, vùng Vịnh San Francisco.

Thầy là nhà tu hành người Việt nổi tiếng khắp thế giới và với quá khứ chống chiến tranh, chống Mỹ can thiệp, nhưng Hà Nội lại không cho phép thầy về.

Ba mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, qua nhiều vận động của quốc tế và Hoa Kỳ, đặc biệt là của cố Thượng Nghị sĩ John McCain, thầy được trở lại quê hương đầu năm 2005 trong phẩm phục, võng lọng chứ không còn là hình ảnh Sư ông Làng Mai đơn sơ với áo nâu sòng, nón lá.

Về nước Đức Tăng thống Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ không tiếp thầy, trong khi thầy được gặp Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời trà. Sư cô Chân Không, như để lấy điểm với nhà nước đã phát biểu rằng những ngôi chùa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nơi có cờ vàng ba sọc đỏ.

Thầy tin Hà Nội sẽ cho pháp môn Làng Mai được sinh hoạt và phát triển. Tu viện Bát Nhã mở ra ở Lâm Đồng với hàng trăm tăng sinh tu tập.

Khi thầy kiến nghị nhà nước đòi sự độc lập cho tôn giáo, bỏ ban tôn giáo nhà nước, Bát Nhã trở thành bãi tha ma sau một đêm côn đồ tấn công vào thiền viện, đuổi mấy trăm tăng sinh đi.

Sau 95 năm ở dương trần, rạng sáng ngày 22/1/2022 thầy Nhất Hạnh thở hơi cuối cùng tại chùa Từ Hiếu, Huế sau một thời gian bệnh.

Thầy ra đi được nhiều người nước ngoài tiếc nhớ vì tiếng nói cho hòa bình, vì ảnh hưởng của thầy trong sinh hoạt Phật giáo ở phương Tây, qua cách tu thiền để sống hạnh phúc trong từng phút giây mà nhiều người đang theo đuổi.

Với người Việt, vì trên quê hương vẫn thiếu tự do, người dân không có quyền quyết định tương lai cho đất nước, như thầy và nhiều người từng tranh đấu cho lý tưởng đó, nên tranh luận về những gì thầy đã làm vẫn còn tiếp tục.

Từ Houston, Texas Hòa thượng Thích Huyền Việt, đại diện cho Văn phòng 2 Viện Hóa đạo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã trả lời phóng viên đài VOA hôm 25/1 về sự ra đi của thầy với cảm nhận : "Bản thân tôi vẫn kính trọng, ngưỡng mộ Thiền sư về phương diện văn hóa, truyền bá tư tưởng Phật giáo từ bi, bao dung đến thế giới phương tây, nhưng trên tinh thần quốc gia, dân tộc thuần túy thì tôi không cùng đường với Thiền sư Nhất Hạnh".

Bài thơ "Hòa bình" của thầy viết năm 1964, được Phạm Duy phổ thành tâm ca "Tôi ước mơ", có lời vẫn đúng với thực tế trên quê hương hôm nay :

Tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn

và tôi vẫn thở

Nhưng đến bao giờ

tôi mới được nói

những điều tôi ước mơ

Bùi Văn Phú

29/01/2022)

*************************

Lên án thiền sư Thích Nhất Hạnh : Sân si hay chính đáng ?

Thanh Ngọc, Luật Khoa, 26/01/2022

Những chỉ trích về Thích Nhất Hạnh phản ánh mâu thuẫn dân tộc chưa bao giờ được hóa giải.

TNH

Ảnh nền trái : Các nhà sư khối Ấn Quang biểu tình ở Sài Gòn vào năm 1966, yêu cầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Nguồn : Bettmann/ CORBIS. Ảnh nền phải : Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai thiền hành tại Hồ Gươm vào năm 2005. Nguồn : PVCEB. Ảnh nhân vật : Thích Nhất Hạnh trong một buổi họp báo tại Washington, D.C., Mỹ vào năm 1966 (trái) và tại Paris, Pháp vào năm 2006. Nguồn : AP/ Washington Star, Wikipedia.

Trong một bài giảng của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẽ lên bảng hình một cây nến đang cháy sáng. Rồi ông hỏi những người đang ngồi nghe, khi cây nến cháy hết nó sẽ đi về đâu ? Đó có phải sự kết thúc của cây nến ?

Ông cho rằng đời sống của con người giống như cây nến đang cháy. Nó tỏa ánh sáng và nhiệt lượng, thắp sáng cho mọi người cũng như thắp sáng cho chính nó. Con người ta cũng vậy, những gì họ nghĩ, họ nói, họ làm sẽ để lại ảnh hưởng ở hiện tại và ngay cả khi họ đã qua đời. Nó sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên con cháu, bạn bè, xã hội của họ.

Điều ông giảng đang xảy ra với ông. Những lựa chọn của ông trong Chiến tranh Việt Nam và khi ông được phép trở về nước đang bị một số người chỉ trích dữ dội.

Những người lên án Thích Nhất Hạnh cho rằng công chúng không nên quá ngợi ca ông. Theo họ, ông đã gián tiếp gây đau khổ cho nhân dân miền Nam khi thể hiện quan điểm thân cộng sản, chống chiến tranh. Sau năm 1975, trước tình hình nhân quyền bi đát dưới chế độ cộng sản, ông hầu như không lên tiếng phản đối.

Ở phía ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng việc lên án ông thể hiện sự sân si, ganh ghét với một người đã làm rạng danh đất nước Việt Nam – vốn đã không có gì nổi bật với thế giới.

Bạn sẽ đứng về phía bên nào, hoặc bạn sẽ nhìn nhận hai bên như thế nào ? Tranh cãi này đang nói lên điều gì ?

***

Các cuộc tranh cãi tương tự đã xảy ra với một nhà sư khác, hòa thượng Thích Trí Quang, khi ông qua đời vào năm 2019. Cùng với các nhà sư trong khối Ấn Quang, Thượng tọa Trí Quang đã gây ra hàng loạt các xáo trộn chính trị tại miền Nam vào những năm 1960. Thích Nhất Hạnh cũng là một thành viên nổi bật trong nhóm Ấn Quang vào thời điểm đó.

Quan điểm chống chiến tranh của khối Ấn Quang, dù chiếm được cảm tình của giới Phật tử khi ấy, ngày nay bị không ít người chỉ trích.

Sau năm 1975, nếu đất nước thật sự có được "hòa bình" theo đúng nghĩa thì ngày nay mọi chuyện chắc hẳn đã khác. Trên thực tế, đối với nhiều người dân miền Nam, bất kể là dân đen, trí thức, quân nhân hay quan chức của chính quyền cũ, đó là khoảng thời gian kinh hoàng.

Hãy tưởng tượng, ngôi nhà mà bạn đang ở bỗng dưng bị tịch biên, gia đình bạn bị đưa đi vùng kinh tế mới để làm nông mặc dù không ai trong nhà bạn biết trồng trọt là gì.

Hãy tưởng tượng, cán bộ có thể ập vào nhà bạn bất cứ khi nào để lục soát, điều tra xem bạn có chuẩn bị đồ đi tị nạn, thẩm vấn con cái của bạn ở trường xem bạn có ý đồ gì về chính trị hay không.

Hãy tưởng tượng, cha bạn bị bắt đi trại cải tạo, trở về nhà với một thân xác đầy bệnh tật hoặc thậm chí, không bao giờ trở về.

thiensu2

Bên ngoài Trại cải tạo Z30D, huyện Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải (nay là tỉnh Bình Thuận). Sau năm 1975, khoảng 2.000 cựu viên chức, quân nhân của chế độ cũ được cải tạo tại đây. Đến năm 1988, phần lớn trong số đó đã ra khỏi trại. Nguồn ảnh và thông tin : Kienthuc.net.vn.

Trong chiến tranh, người miền Bắc cũng mất mát rất nhiều. Tuy nhiên, nỗi đau của họ được bù đắp bằng vật chất lẫn tinh thần, được xoa dịu, được vinh danh, được lấy chiến thắng làm niềm tự hào. Còn người miền Nam (ở một bộ phận) thì ngược lại.

Việc lên án hay ca ngợi thiền sư Nhất Hạnh phản ánh mâu thuẫn phổ biến giữa hai miền về Chiến tranh Việt Nam. Người miền Bắc luôn cho đó là cuộc chiến giải phóng dân tộc. Người miền Nam coi đó là cuộc chiến xâm lược của miền Bắc.

Quan điểm của bạn phụ thuộc vào việc bạn đứng về phía bên nào của vĩ tuyến.

Nếu bạn đứng ở phía miền Nam và trải qua những đau khổ sau năm 1975, bạn rất có thể sẽ xem Thích Nhất Hạnh là người đã góp phần vào sự sụp đổ của miền Nam, đẩy gia đình của bạn vào nghịch cảnh. Còn nếu ở bờ kia của vĩ tuyến, bạn có thể sẽ cho là ông đã làm điều đúng đắn.

Những chỉ trích Thích Nhất Hạnh vượt ra ngoài phạm vi cá nhân về vị thiền sư này. Nó biểu lộ thái độ không công nhận sự kiểm soát của chính quyền cộng sản miền Bắc đối với miền Nam, cũng như sự bất bình về việc áp đặt chủ nghĩa xã hội cực đoan lên đất nước sau năm 1975.

***

Năm ngoái, trên một chuyến taxi ở Thành phố Hồ Chí Minh, tài xế kể cho tôi một mẩu chuyện trong gia đình. Đó là khi cháu của anh ấy xem chương trình truyền hình về đám tang của tướng Võ Nguyên Giáp. Người mẹ phát hiện ra và nạt con : "Mày có biết ông đó đã hại chết ông ngoại mày hay không mà xem ?". Đã hơn năm thập niên, nút thắt giữa hai miền vẫn còn đó.

Nếu bạn không may là một gia đình miền Nam chịu cảnh đọa đày sau năm 1975, cần bao nhiêu thời gian để bạn quên những mất mát đó ? Có lẽ là không bao giờ.

Nói như thiền sư Thích Nhất Hạnh, những điều mà bạn đã trải qua sẽ còn ảnh hưởng đến con cái của bạn, và nó sẽ còn tiếp nối qua những thế hệ sau nữa.

Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Việt Nam. Những mất mát của người dân khắp nơi qua các cuộc chiến tranh, trong thời kỳ Đức Quốc Xã hay thời kỳ cộng sản ở Châu Âu cũng gây ra sự chia rẽ đáng kể. Chỉ khi nó được kể lại một cách công bằng và không ngừng nghỉ, những nỗi đau đó mới được hàn gắn phần nào.

Người miền Bắc có thể đến tham quan những nhà tù cách mạng, những chuồng cọp, những cảnh tra tấn ông cha của họ, những khu vực thảm sát do quân nhân Việt Nam Cộng hòa gây ra. Nhưng người miền Nam phải tìm đến đâu để hiểu về những trại cải tạo, những trận đấu tố diễn ra ngay trên đường phố, những cuộc vượt biên mạo hiểm đầy chết chóc mà ông bà, cha mẹ của họ đã trải qua ?

Sau hơn năm thập niên, nỗi ám ảnh của người dân về Chiến tranh Việt Nam lẫn sự kinh hoàng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau năm 1975 vẫn chưa kết thúc.

Những tranh cãi về Thích Nhất Hạnh rồi sẽ lắng xuống, nhưng bất cứ khi nào có cơ hội, sự bất đồng sẽ lại trỗi dậy, cho đến khi nó được chính thức thừa nhận và thực tâm hóa giải.

Thanh Ngọc

Nguồn : Luật Khoa, 26/01/2022

*********************

Thích Nhất Hạnh : Chánh niệm hay chánh trị ?

Võ Văn Quản, Luật Khoa, 24/01/2022

Bên cạnh thuyết pháp chánh niệm, vai trò chánh trị của ông nổi bật (và gây tranh cãi) không kém.

Mine

Ảnh trái : Thích Nhất Hạnh dẫn đầu một buổi đi bộ thiền tại Làng Mai ở Pháp vào năm 2014. Nguồn : PVCEB. Ảnh phải : Thích Nhất Hạnh tham gia cuộc diễu hành ở Mỹ vào năm 1982 nhằm kêu gọi giải giáp vũ khí hạt nhân. Nguồn : Plum Village. Ảnh giữa : Path of Happiness.

Trong các nhân vật lãnh tụ tôn giáo từ thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Thích Nhất Hạnh có vẻ là người nổi tiếng nhất, song cũng gây tranh cãi nhất.

Một mặt, tại phương Tây, thiền phái của Thích Nhất Hạnh cũng như sách thiền, sách Phật học do ông viết có tầm ảnh hưởng  không hề nhỏ [1]. Ông được xưng tụng là người cha của chánh niệm (mindfulness). Người Tây phương có vẻ rất thích thú với định hướng Phật giáo của Thích Nhất Hạnh.

Trong một bài giảng đạo nổi tiếng, ông từng cho rằng ai cũng có thể trở thành Bồ tát (bodhisattvas) nếu họ học cách tìm thấy niềm vui và thanh thản ngay ở những hành động nhỏ nhặt nhất như lột cam hay uống trà. Với hơn 70 quyển sách được xuất bản, vai trò của Thích Nhất Hạnh trong đời sống tâm linh phương Tây là không thể phủ nhận.

Christiana Figueres, cựu thư ký thường trực của Công ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu, từng chia sẻ vào năm 2016 rằng cô đã không thể tham gia và xây dựng thành công Hiệp định Paris nếu không nhờ vào những lời giảng dạy của Thích Nhất Hạnh. Giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim gọi quyển "Phép màu của Chánh niệm" (Miracle of Mindfulness) của Thích Nhất Hạnh là quyển sách ưa thích nhất của ông [2].

thiensu4

Thích Nhất Hạnh trong một bức ảnh chụp tại Làng Mai vào năm 2009. Ảnh : PVCEB.

Tuy nhiên, đối với nhiều người, đặc biệt đối với cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành ngay sau năm 1975 và những người trong nước có tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, Thích Nhất Hạnh không khác gì con cờ của chính quyền Bắc Việt.

Cùng với Phật giáo Ấn Quang, một nhánh chính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động tích cực tại miền Nam Việt Nam, Thích Nhất Hạnh và giới tăng sư phản chiến thời kỳ này bị nhiều người gọi là "phản quốc" hay "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản".

Điều gì đã tạo ra hai hình ảnh thuộc về hai thái cực khác biệt nhau đến như vậy ? Liệu đó có phải là hiểu nhầm ? Định mệnh của lịch sử ? Hay chúng là sự thật ? Bài viết sẽ không đi quá xa về việc bình luận hay đưa ra những giả thiết mang tính chất âm mưu thường thấy về vị thiền sư lừng danh này (như về đời sống vợ chồng, con riêng hay thực tế tu tập). Do bản thân Thích Nhất Hạnh ít khi được bàn đến trong sử sách chính thống Việt Nam, tác giả mong muốn cung cấp cho bạn đọc những thông tin còn thiếu sót đó.

Con đường đến danh tiếng quốc tế

Danh tiếng của Thích Nhất Hạnh trước tiên đến từ quốc gia nơi ông sinh ra. Thích Nhất Hạnh tên thật  là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, lớn lên tại Huế, Việt Nam [3]. Ông được ghi nhận là có định hướng tu hành khi còn khá nhỏ. Năm 16 tuổi, Nguyễn Xuân Bảo xuất gia theo phái Thiền Tông tại Việt Nam và chính thức trở thành một sư thầy vào năm 1951.

So với độ tuổi, Thích Nhất Hạnh đạt được những thành tựu tôn giáo đáng kể. Ở giữa tuổi 20, Thích Nhất Hạnh đã có sách xuất bản riêng. Ông bắt đầu quảng bá cho cách tiếp cận đổi mới của riêng ông về Phật giáo.

thiensu5

Thích Nhất Hạnh vào những năm 1950. Ảnh : PVCEB.

Ông chỉ trích Phật giáo miền Nam Việt Nam thời kỳ này quá phi chính trị và cách biệt với đời sống người dân. Từ đó, ông phát động phong trào Phật giáo Dấn thân (thường được biết đến ở phương Tây là "Engaged Buddhism ") [4]. Nhiệm vụ của phong trào này là áp dụng triết lý và điều răn dạy của Phật giáo vào đời sống thực tế để giải quyết các vấn đề như chiến tranh, bất bình đẳng xã hội hay đàn áp chính trị. Thích Nhất Hạnh đồng thời là chủ biên của Tạp chí Phật học Việt Nam, một tờ báo chỉ được phát hành tại miền Nam Việt Nam.

Năm 1960, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Miền Nam Việt Nam là dấu mốc đẩy các cuộc xung đột, giết chóc tại miền Nam Việt Nam ngày càng leo thang và lan tỏa vào thành phố.

Phong trào Phật giáo Dấn thân của Thích Nhất Hạnh được cho là trở thành cái gai trong mắt của chính quyền Ngô Đình Diệm khi công khai phản đối nhiều hoạt động quân sự và khuyến khích người dân phản chiến.

Tuy vậy, Thích Nhất Hạnh vẫn đến Sài Gòn sinh sống trong một thời gian trước khi được chọn tham gia vào chương trình trao đổi do Đại học Princeton, Hoa Kỳ tài trợ. Ông học tập về Tôn giáo học So sánh (Comparative Religion) và được bổ nhiệm làm giảng viên môn Phật giáo Đông phương tại trường Đại học Columbia sau khi kết thúc khóa học. Đây là giai đoạn Thích Nhất Hạnh bắt đầu xây dựng danh tiếng của mình như một nhà vận động phản chiến, hay thậm chí có thể nói là một trong những người đầu tiên khơi mào cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Ông nhanh chóng trở thành gương mặt "người thật việc thật" từ Việt Nam được giới phản chiến Hoa Kỳ thời điểm này ưa chuộng.

Năm 1963, sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và giết hại, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam và tiếp tục các hoạt động của mình. Danh tiếng và ảnh hưởng của Thích Nhất Hạnh đối với phong trào phản chiến trong nước được tăng cường.

Ngay sau khi chính phủ Sài Gòn mới thành hình, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập. Thích Nhất Hạnh là một trong những thành viên tích cực nhất.

Ông được giao làm chủ bút của tuần báo Hải Triều Âm  – cơ quan ngôn luận chính của Viện Hóa đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất [5]. Tuần báo này thu hút nhiều tác giả Phật học, nghị luận viên có tiếng nói và nhanh chóng trở thành tạp chí tôn giáo phổ biến nhất miền Nam Việt Nam. Ông cũng tạo cơ sở cho việc thành lập một trường học Phật giáo dành riêng cho thanh thiếu niên có tên gọi Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội [6].

thiensu6

Thích Nhất Hạnh dạy trẻ em tập đọc bằng một bài hát về Quán Thế Âm Bồ Tát tại một làng tự nguyện những năm 1960. Ảnh : PVCEB.

Hải Triều Âm lẫn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đều có xu hướng chống chính phủ Sài Gòn. Các bài viết của Hải Triều Âm đều có mục tiêu chung là chỉ trích Ngô Đình Diệm và biện giải cho phong trào Phật giáo trước đó, với điểm nhấn là việc Thích Quảng Đức tự thiêu. Tờ báo còn dấn sâu vào việc phê bình chính phủ đương thời miền Nam Việt Nam, yêu cầu loại bỏ các thành phần "thân Diệm" còn sót lại trong chính quyền, đồng thời chỉ trích khả năng can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam.

Bản thân Thích Nhất Hạnh cũng cho ra đời quyển "Hoa sen trong biển lửa", viết bằng tiếng Việt (xuất bản và biết đến tại phương Tây với tên gọi "Lotus in the Sea of Fire ") [7]. Theo người viết, cuốn sách này là tác phẩm phê bình và đấu tranh chính trị thuần túy. Nó bàn và phân tích cả đến vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại với mục tiêu gây ảnh hưởng lên dư luận ; và chỉ là "vô tình" có sử dụng ngôn ngữ Phật học.

Năm 1966, nhận lời mời  của Đại học Cornell, Thích Nhất Hạnh lên đường sang Hoa Kỳ [8]. Chuyến đi trở thành chuyến công du tại hơn 19 quốc gia. Ông phát biểu trước Quốc hội Vương quốc Anh, Quốc hội Canada, Quốc hội Thụy Điển. Ông gặp gỡ với hai đại diện của hai chiến tuyến ở Hoa Kỳ : phe chủ chiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara và phe phản chiến do Thượng Nghị sĩ William Fulbright đứng đầu. Ông thậm chí còn có cơ hội gặp gỡ riêng và trình bày ý kiến với Giáo hoàng Paul VI.

Thông điệp chủ đạo  của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài nhất nhất như một : đòi hỏi Hoa Kỳ ngừng can thiệp vào chiến tranh Việt Nam ; yêu cầu các hoạt động quân sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đội Hoa Kỳ chỉ được giới hạn trong phạm vi phòng vệ ; lên án các vi phạm nhân quyền nói chung và quyền tôn giáo nói riêng tại miền Nam Việt Nam ; yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và từ đó chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước [9].

Thông điệp này bị cho là vượt quá vai trò của một lãnh tụ tôn giáo, và khá dễ hiểu khi nó không được Việt Nam Cộng hòa chào đón. Thích Nhất Hạnh bị cấm trở lại miền Nam Việt Nam. Song trong cuộc sống tha hương, hình ảnh và quan điểm của ông ngày càng phổ biến ở phương Tây, mà đặc biệt là Hoa Kỳ. Giới hippies phổ nhạc những bài thơ phản chiến của Thích Nhất Hạnh, và Martin Luther King đề cử  ông cho giải Nobel Hòa bình năm 1967 [10].

thiensu7

Thích Nhất Hạnh cùng mục sư Martin Luther King trong một cuộc họp báo về chiến tranh Việt Nam ở Chicago vào ngày 31/5/1966. Ảnh : PVCEB.

Dù công khai chống lại phe chủ chiến ở Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn trong suốt hai thập niên tồn tại ngắn ngủi của quốc gia này, Thích Nhất Hạnh luôn xem mình nằm ở vị trí trung lập và chưa bao giờ đứng về phe nào. Quan điểm này cũng được báo chí thế giới phản ánh ghi nhận.

Trong luận thư đính kèm với một bài thơ phản chiến gửi cho ấn phẩm New York Review of Books , ông khẳng định [11] :

"Người ta cho rằng chúng tôi quá ngu ngơ về Cộng sản. Chúng tôi không như thế. Chúng tôi biết rằng Phật giáo bị quản thúc và kiểm soát như thế nào tại miền Bắc. Chúng tôi đã được học về những gì xảy ra tại Trung Hoa. Chúng tôi biết không có chỗ cho tâm linh trong chủ nghĩa Marx.

Và chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh chính trị hòa bình đối với những người Cộng sản, nhưng nó chỉ có thể thực hiện nếu chiến tranh kết thúc. Chúng tôi tin rằng người dân miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ mình khỏi chủ nghĩa Cộng sản nếu họ được trao quyền tự quyết và thực hiện đời sống chính trị của mình trong hòa bình".

"Kẻ phản bội" ?

Những hoạt động chính trị của Thích Nhất Hạnh liên quan đến chiến tranh Việt Nam đã giúp ông trở nên nổi tiếng và nay, có thể nói, là lãnh tụ Phật giáo có ảnh hưởng nhất thế giới, chỉ đứng sau Đức Dalai Lama.

Song dù phong trào phản chiến giúp tiếng nói của ông nhận được sự đồng cảm và ủng hộ rất lớn từ giới bình dân phương Tây, Thích Nhất Hạnh không tìm được nhiều sự ủng hộ từ chính những người ông từng hứa sẽ bảo vệ – người dân miền Nam Việt Nam. Và người viết, ở mức độ nào đó, hiểu được sự bất mãn của phần lớn những người sinh sống dưới thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt là những thuyền nhân phải vượt biên sau năm 1975.

Bạn đọc có thể tham khảo những quan điểm này, được tổng hợp tương đối rời rạc trong tác phẩm "The Dark Journey : Inside the Re-education Camps of Vietcong " của tác giả Hoa Minh Truong, do Strategic Book Publishing xuất bản [12]. Người viết đã cân nhắc và nhận thấy nhà xuất bản có trụ sở ở Hoa Kỳ từng vướng vào nhiều tranh chấp pháp lý với các tác giả và cộng sự, và chắc chắn chúng ta không thể hoàn toàn tin tưởng vào chất lượng biên tập của họ. Tuy nhiên, xét về mặt thông tin, không quá khó để kiểm chứng lại chúng.

Điểm thứ nhất, nhiều người chỉ ra tiêu chuẩn kép trong các vận động chính trị của Thích Nhất Hạnh.

Dù cực lực lên án Hoa Kỳ tham chiến và phê phán tình trạng nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam, ông chưa bao giờ có thái độ tiêu cực đối với vai trò của quân đội Trung Quốc tại Bắc Việt, hay việc quân đội Bắc Việt Nam tiến vào miền Nam Việt Nam. Đặc biệt hơn, ông chưa từng dám lên tiếng phản đối những chiến dịch khủng bố, ám sát tại đô thị do lực lượng Mặt trận (thường được quân nhân Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn gọi là Việt Cộng) thực hiện.

thiensu8

Người dân chạy nạn đợt tấn công Mậu Thân 1968 trở về Huế sau khi binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tái chiếm thành phố. Hình chụp ngày 13/3/1968. Nguồn : Getty Images.

Đây là luận điểm mà người viết cho rằng không hề nói quá. Từ các cuộc thảm sát sau Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 do chính quyền Bắc Việt và phe Mặt trận chủ động thực hiện, cho đến hàng loạt những vụ đánh bom nhắm vào các mục tiêu dân sự suốt từ năm 1968 cho đến 1975, người viết không tìm được bất kỳ tài liệu nào về việc Thích Nhất Hạnh lên tiếng phản đối hay lên án những hành vi leo thang vũ lực của phía chính quyền cộng sản, dù ông luôn tự nhận mình là người trung lập.

Trong suốt giai đoạn này, Thích Nhất Hạnh vẫn tiếp tục những nỗ lực phản chiến, hay đúng hơn là chỉ trích chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam Việt Nam. Đây là điều khó lý giải, bởi sau sự kiện Mậu Thân 1968 đẫm máu, khó ai có thể nghĩ phe quyết chiến tại Việt Nam thật sự là Hoa Kỳ hay chính quyền Sài Gòn.

Song những nỗ lực của Thích Nhất Hạnh với phong trào phản chiến quốc tế vẫn thành công trong việc đẩy toàn bộ trách nhiệm của việc leo thang chiến sự tại miền Nam Việt Nam về phía liên minh Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Một năm trước sự kiện Mậu Thân 1968, trong tác phẩm "Hoa sen trong biển lửa" đã nhắc đến ở trên, ông vẫn cho rằng Mặt trận là một lực lượng đại diện ý nguyện nhân dân  mà cả Hoa Kỳ lẫn Sài Gòn phải tôn trọng ý kiến [13].

Vậy, nói về tự do tôn giáo và bảo vệ Phật giáo, liệu Thích Nhất Hạnh có tiền hậu bất nhất hay không ? Có nhiều bằng chứng cho thấy là có.

Trong giai đoạn trước 1975, đặc biệt là sau 1963, dù Lễ Phật Đản và các hoạt động Phật giáo được tiến hành một cách hết sức thuận lợi [14], Thích Nhất Hạnh vẫn vận động mạnh mẽ và nhiều lần lên án chính quyền Sài Gòn trong vấn đề tự do tôn giáo tại quốc hội nhiều nước hay tại Liên Hiệp Quốc.

Tuy nhiên, sau năm 1975, ông gần như không có bất kỳ chỉ trích nào dành cho Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và sau đó là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, dù các tăng lữ, tăng ni thuộc phái của chính ông phải chịu sự đàn áp và tổn thất nặng nề.

Ngay sau giải phóng, cơ sở Phật giáo của các giáo phái trong nhánh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất như Ấn Quang hay Quốc Tự bị tịch thu trên diện rộng, dù phái Ấn Quang của Thích Nhất Hạnh khá ủng hộ Mặt trận trước đó.

Năm 1977, khi việc quốc hữu hóa tài sản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở nên quyết liệt và phổ biến hơn, Ban trị sự của Giáo hội cũng ra lời kêu gọi tổ chức biểu tình [15]. Song phong trào dân sự, tôn giáo thời điểm này không dễ dàng thành công như trong thời kỳ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những chức sắc lãnh đạo cuộc biểu tình như Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị bắt và bị xét xử hình sự. Các cuộc tự thiêu chìm vào quên lãng.

thiensu9

Thích Quảng Độ trong phiên tòa vào tháng Tám năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực và hai Cư sĩ Đồng Ngọc, Nhật Thường. Ảnh : Phật tử Việt Nam.

Đến năm 1981, Giáo hội này bị chính quyền giải thể bằng quyết định hành chính. Thay vào đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời sau cuộc họp của các đại diện tăng lữ do chính quyền chỉ định.

Kể từ lúc ấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tự nhận mình là đại diện độc tôn của tất cả các hoạt động Phật giáo của người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước. Nó cũng là thành viên đại diện duy nhất của tôn giáo này trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Năm 1981 cho đến đầu thập niên 1990 là giai đoạn mà hoạt động tôn giáo bị kiểm soát chặt chẽ, với việc các cá nhân phản đối bị bắt bớ, giam giữ và xét xử.

Thích Quảng Độ, lãnh đạo cuối cùng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ra tù vào năm 1998 và tá túc tại Thanh Minh Thiền viện ở thành phố Hồ Chí Minh dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền. Do sức ép quá lớn và sự xuất hiện thường xuyên của lực lượng an ninh, công an, Thích Quảng Độ sau đó phải rời thiền viện  này [16]. Ông mất vào đầu năm 2020.

Câu chuyện về sự đàn áp của chính quyền đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, bằng cách nào đó, chưa bao giờ tìm được đường vào những lời giảng hay những bài phát biểu của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài. Ngược lại, ông tập trung phổ biến và xây dựng nhiều chi nhánh Phật giáo Thiền tông của mình tại nước ngoài, tận hưởng những thành công lớn cả về mặt tôn giáo lẫn tài chính.

***

Trong một khoảng thời gian dài, Thích Nhất Hạnh không hề lên tiếng về những bất công mà người dân miền Nam Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, về nỗi thống khổ của hơn hai triệu thuyền nhân Việt Nam và hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển ; hay ra mặt bảo vệ quyền lợi cho chính giáo hội trong nước của mình.

Đến năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam để chủ trì Đại lễ cầu siêu cho các "nạn nhân chiến tranh Việt Nam". Trớ trêu thay, ông cũng chỉ làm việc thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với sự can dự sâu của chính quyền trước mặt truyền thông quốc tế.

thiensu10

Thích Nhất Hạnh thăm chùa Thiên Mụ tại Huế vào năm 2005. Ảnh : Dang Ngo/ Zuma Press.

Đây có thể xem là giọt nước tràn ly khiến cho một bộ phận lớn người Việt hải ngoại cũng như giới nghiên cứu chiến tranh Việt Nam khó có thể cân nhắc Thích Nhất Hạnh như là một nhân vật trung lập với chánh niệm Phật giáo thuần túy.

Hiển nhiên, Thích Nhất Hạnh có thể tự xem mình là kẻ thù của cả hai phía trong chiến tranh Việt Nam ; như ông tự kể một cách châm biếm rằng tội của ông là "đã xem con người của cả hai bên là anh em, dù họ thuộc phía Cộng sản hay thuộc phía chống Cộng" [17].

Với những bằng chứng đã có, người viết cho rằng chánh niệm của Thích Nhất Hạnh chưa bao giờ chỉ là chánh niệm. Ông thành lập ra phong trào Phật giáo Dấn thân là để can dự và tham gia vào cuộc đối thoại, tranh cãi chính trị của Chiến tranh Việt Nam. Vậy nên, dù đúng hay sai, lịch sử có quyền tháo bỏ cái hào quang thánh người ta đội cho ông và xét lại vai trò của ông như nó đã làm với bất kỳ ai.

Võ Văn Quản

Nguồn : Luật Khoa, 24/01/2022

Chú thích :

1.  Aidyn Fitzpatrick. (2019, January 24). The Monk Who Taught the World Mindfulness Awaits the End of This Life. Time. Retrieved 2022

2.  Xem [1]

3.  Kyte, L. (2022, January 21). The Life of Thich Nhat Hanh. Lion’s Roar. Retrieved 2022

4.  Thich Nhat Hanh. (2021, June 10). The Fourteen Precepts of Engaged Buddhism. Lion’s Roar. Retrieved 2022

5.  Thích Giác Toàn. (Aug 2014). Lược sử báo chí Phật giáo Việt Nam từ năm 1951 đến năm 1975Thư viện Hoa Sen. 

6.  Chân Diệu Hải. (2014). Trái tim thanh niên phụng sự xã hội – Làng Mai. Làng Mai. Retrieved 2022 

7.  Vietnam : Lotus in a Sea of Fire – A Buddhist Proposal for Peace, Thich Nhat Hanh, Thomas Merton : 9780809013340 : Amazon.com : Books. (1967). Amazon. Retrieved 2022

8.  Modernity and Re-enchantment. (2007). Google Books. Retrieved 2022 

9.  A Proposal for Peace: 1 June, 1966. (2019, October 10). Plum Village. Retrieved 2022 

10.  Schedneck, B. (2019, March 18). Thich Nhat Hanh, the Buddhist monk who introduced mindfulness to the West, prepares to die. The Conversation. Retrieved 2022 

11.  Thich Nhat Hanh. (2021, November 21). A Buddhist Poet in Vietnam by Thich Nhat Hanh. The New York Review of Books. Retrieved 2022

12.  The Dark Journey. (2010). Google Books. Retrieved 2022

13.  Congressional Record. (1967). Google Books. Retrieved 2022

14.  Phật Giáo A Lưới. (2015). Lễ Phật đản năm 1964 trong ký ức người dân Sài Gòn – Phật giáo A Lưới. Phật Giáo A Lưới. Retrieved 2022

15.  Vietnam. (1995). Human Rights Watch. Retrieved 2022

16.  RFA. (2020, October 11). Hòa Thượng Thích Quảng Độ bị đuổi khỏi Thanh Minh Thiền Viện. Radio Free Asia. Retrieved 2022

17.  BBC Vietnamese. (2005). Thiền sư Thích Nhất Hạnh về Việt Nam. BBC Việt Ngữ. Retrieved 2022

Published in Diễn đàn

Thiền sư Thích Nhất Hạnh : 'Không có cái gì chết đi'

BBC News tiếng Việt, 25/01/2022

Sư ông từng nói rằng "Đám mưa không còn nữa thì mình lại thấy có dòng suối tiếp tục sứ mạng của cơn mưa. Và vì vậy cho nên không có cái gì chết, không có cái gì mất đi cả". Được xem là cha đẻ của 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức),

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đề cập đến triết lý tương tức với khái niệm 'interbeing'. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia (inter-are). Không có cái chết thì không có sự sống, không có ánh sáng thì không có bóng tối và ngược lại, chúng không thể tách rời.

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai từ Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan nói với BBC News Tiếng Việt rằng "Mindfulness không phải là một tôn giáo. Và nó cũng đã tồn tại, ngấm sâu, phát triển rộng đến mức không còn là một phong trào. Ngoài biên giới Việt Nam, 'mindfulness' (chánh niệm – tỉnh thức) được nhắc đến như một lối sống. Nó đã vượt ra ngoài các ranh giới của tâm linh, trở thành một phần của ý niệm và hành động thường ngày trong văn hóa, xã hội, kinh doanh, giáo dục, quân sự và chính trị của một phần lớn dân số thế giới".

Vào năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kiến nghị để Phật giáo Việt Nam 'tách khỏi Nhà nước'. 7 điểm này đã được thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho cựu Thủ tướng Phan Văn Khải ngày 25/03/2005.

Nguồn : BBC News tiếng Việt, 25/01/2022

*****************************

Ứng xử hai mang của Giáo hội quốc doanh trong lễ tang Thiền sư Nhất Hạnh

Gió Bấc, RFA, 24/01/2022

Sinh thời, pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh không được Giáo hội Phật giáo Việt Nam công nhận, tăng thân Làng Mai ở Thiền Viện Bát Nhã Lâm Đồng bị truy đuổi, trục xuất khỏi Việt Nam. Khi viên tịch, Thiền sư bị Giáo hội quốc doanh đơn phương, đột xuất truy tặng phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng. Giáo hội quốc doanh xiển dương công đức Thiền sư trên thế giới mà quên bẵng công lao hoằng pháp xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và những gửi gắm tâm huyết của Thiền sư về nền tự do tôn giáo, thoát khỏi đảng quyền, công an quyền.

nhathanh1

Hình ảnh trong tang lễ của thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng 23/01/2022 từ video của Làng Mai

Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là cao tăng thứ hai của Phật giáo sau Đạt Lai Lạt Ma. Pháp Môn Làng Mai của ông được phát triển nhiều nơi trên thế giới. Phát kiến về Chánh Niệm của ông được nhiều đại học tiếng tăm ở Mỹ và Châu Âu tiếp nhận ứng dụng giảng dạy. Những quan điểm về nhân ái, hòa bình, đối thoại của ông được ngưỡng mộ và đề xuất trao giải Nobel. Những phương pháp thực tập quán niệm hơi thở, bước chân an lạc của ông thật sự đem lại phép lạ của sự tỉnh thức cho mỗi con người.

Trớ trêu thay, tại Việt Nam và với cộng đồng người Việt trên thế giới, cách nhìn, đánh giá về ông có mâu thuẫn đôi khi đến cực đoan. Nhiều người yêu mến, ngưỡng mộ trí tuệ, sự uyên bác và phương pháp thuyết giảng Phật học như là triết lý nhân sinh về giác ngộ, từ bi, chánh niệm… nhưng một số người chống cộng, nạn nhân của cộng sản lại có ấn tượng sâu sắc về tinh thần phản chiến một chiều, phản đối Mỹ đưa quân vào Việt Nam, chống lại chiến tranh mà không phê phán Bắc Việt đưa quân vào Miền Nam, thảm sát Mậu Thân, vi phạm Hiệp Định Paris cưỡng chiếm Miền Nam. Ngay sau 1975, Thiền sư cũng im lặng trước tình trạng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị bức tử hay tình trạng nhân quyền bị đàn áp...

Đảng và nhà nước Việt Nam từ lâu đã tận dụng khai thác những giá trị vàng của ông trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại nhưng vẫn đặt ông trong vòng nghi kỵ tuy không công khai gọi tên là thế lực thù địch.

Mãi ba mươi năm sau 1975, Thiền sư Nhất Hạnh mới được đặt chân về nước trùng hợp với thời điểm Việt Nam được xem xét gia nhập WTO mà một trong những điểm nghẽn là tự do tôn giáo. Tiếp đó năm 2007,2008 Thiền sư về nước tổ chức đại đàn chẩn tế những người chết oan trong chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc, đi thuyết giảng một số nơi và một số tăng thân Làng Mai được bảo lãnh tu tập ở Thiền Viện Bát Nhã đồng thời Giáo hội Quốc doanh Việt Nam được đăng cai tổ chức Vesak Phật giáo Liên Hiệp Quốc. Nhưng đến năm 2009, sóng gió Bát Nhã nổi lên tăng thân Làng Mai bị đánh tan tác, người trong nước phải hồi gia, người nước ngoài bị trục xuất. Công văn 1329 của Ban Tôn giáo chính phủ tên đề đấu đóng hẳn hoi, Bộ ngoại giao cũng họp báo khẳng định trục xuất tu sĩ Làng Mai. Báo Công An có loạt bài lên án Thiền sư Nhất Hạnh. Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam lấy oán trả ân.

Một số vị chân tu lên tiếng nhưng đa số giáo hội quốc doanh đã im lặng. Bằng chứng về tội ác đàn áp tăng sinh Làng Mai còn lưu trữ tại đây (1).

Trước sau Làng Mai chưa bao giờ được giáo hội công nhận và cho phép hoạt động tại Việt Nam. Mãi đến năm 2019 Thiền sư Nhất Hạnh mới quay về tổ đình Từ Hiếu sau cơn bệnh nặng để chờ ngày thu thần xuất thế.

Ấy vậy mà khi Thiền sư Nhất Hạnh viên tịch, bất ngờ Giáo hội lại có công văn xiển dương công đức của Thiền sư và chỉ đạo tổ chức lễ tang. Công văn có đoạn như sau : "Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh là vị cao Tăng của Phật giáo Việt Nam có nhiều công lao trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp góp phần xiển dương Phật giáo Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Ngài là vị Thiền sư hướng đạo của Phật giáo đồ trên thế giới"

"Ban Thường trực Hội đồng Trị sự kính đề nghị Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp chặt chẽ và tham gia giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu trong công tác tổ chức tang lễ Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhất Hạnh trang nghiêm, thành kính theo nghi thức cấp cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và thực hiện theo di nguyện tâm tang của ngài" (2).

Thôi thì cứ cho rằng nghĩa tử là nghĩa tận, thừa nhận công đức của người đã tận hiến cuộc đời cho đạo pháp dù trễ cũng không sai. Điều đáng nói là trong công văn này, giáo hội quốc doanh đã ỡm ờ úp mở kết nạp Thiền sư Nhất Hạnh vào tổ chức của mình bằng khái niệm Phật giáo Việt Nam chung chung và cưỡng ép truy phong phẩm hàm Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh.

Cái lập lờ cần phân định ở đây là Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của Phật giáo Việt Nam nói chung mà cụ thể là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước 1981 chứ chưa bao giờ là thành viên của giáo hội quốc doanh nhà sản hiện nay.

Thiền sư và các môn đồ, tu sị Làng Mai chưa bao giờ có danh xưng Trưởng Lão Hòa Thượng. Cụ thể trên các văn bản chính thức của Đạo tràng Mai Thôn hay pháp môn Làng Mai đều xưng danh đơn giản là Thiền sư. Quan trọng nhất là Cáo phó : Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch do Tổ Đình Từ Hiếu, Đạo Tràng Mai Thôn ấn hành đã ghi rõ "Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu" )3)

Thiền sư Thích Nhất Hạnh còn có danh xưng thân mật, đơn giản khác là Sư Ông Làng Mai trong hệ thống danh xưng thân mật khác như sư cô, sư chú Chưa bao giờ Thiền sư Nhất Hạnh nhận mình là Trưởng Lão Hòa Thượng.

Việc một tổ chức cao nhất của Phật giáo quốc gia tự ý gán ghép danh xưng cho người đã khuất ngay trong lễ tang với một người thường đã là báng bổ huống hồ chi đây là vị cao tăng. Hơn thế nữa, theo hệ thống chính trị của đảng, nhà nước và tôn giáo Việt Nam, mọi thứ đều có tiêu chuẩn và quy trình. Tiêu chuẩn và quy trình của phẩm hàm Hòa Thượng theo Hiến chương Giáo hội được quy định là "Được tấn phong Hòa thượng những Thượng tọa từ 60 tuổi đời, 40 tuổi đạo trở lên, có đạo hạnh, có công đức với đạo pháp và dân tộc, do Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành" (4).

Hơn nửa thế kỷ qua Thiền sư Nhất Hạnh hoạt động tôn giáo ở nước ngoài và xây dựng đạo tràng Mai Thôn làm gì có Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội nào đề nghị và ; làm gì có chuyện Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành’

Cưỡng phong Trưởng Lão Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh, giáo hội quốc doanh muốn làm sang cho mình nhưng tự xé bỏ cái Hiến Chương cao quý do chính họ đặt ra.

Điều lạ lùng khác không rõ do Thiền sư Nhất Hạnh không phải là đảng viên cao cấp hay vì lý do nào đó mà một vị cao tăng hàng thứ hai thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Bộ ngoại giao Mỹ, Tổng thống Hàn Quốc và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế khác gửi điện chia buồn thế nhưng giáo hội quốc doanh không đứng ra tổ chức mà lại giao cho Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp, giúp đỡ tổ đình Từ Hiếu tổ chức lễ tang như là một nhà sư tỉnh lẻ.

Phải chăng đây là cung cách ứng xử đểu cáng kiểu cộng sản giống như Phạm Quang Nghị tặng Nghị sĩ John Mckent bức tượng kỷ niệm bắn rơi máy bay hay Tổng thống Obama được tiếp đón với thang máy bay không thảm đỏ ?

Dù lý do gì đi nữa thi cách làm này cũng trở nên trơ trẽn vì với pháp môn tịnh tiến trí tuệ giác ngộ của mình, Thiền sư Nhất Hạnh đã gạt bỏ tất cả các nghị tiết phù phiếm, những hình thức lễ lạc hào nhoáng vô bổ với di chúc không bảo tháp, lễ Tâm Tang thực hành chánh niệm trong im lặng thì Ban Trị sự cấp tỉnh hay cấp trung ương cũng thành vô tích sự.

"Tang lễ sẽ kéo dài trong 7 ngày theo hình thức của một khóa tu im lặng. Trong suốt thời gian đó, kính xin quý vị đến thăm viếng cùng thực tập chung với chúng tôi – tâm niệm cúng dường – để cho toàn bộ tang Lễ Tâm Tang được diễn ra trong sự im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng" (5).

Có lẽ các quan chức, các đồng chí cao tăng của giáo hội quốc doanh tức anh ách, ghen đến tận cổ mà nghẹn ngào không nói được là Lễ Tâm Trạng của Thiền sư Nhất Hạnh tuy đơn giản nhưng đâu chỉ diễn ra ở Tổ Đình Từ Hiếu hay đạo tràng Mai Thôn mà lan tỏa trên toàn thế giới, trong tâm của người ngưỡng mộ và thực tập hành thiền. Người dự lễ Tâm Trạng không mất tiền của cúng dường mà có thêm năng lượng tích cực an lành, có thêm trí tuệ giác ngộ. Thiền sư Nhất Hạnh rủ bỉ nhục thân nhưng tâm linh, trí tuệ, năng lượng từ bi mãi lan tõa trong lòng phật tử, đại chúng. Nó trái ngược hoàn toàn với những lễ nghi tốn kém, lăng tẩm hoành tráng chiến đất đai tiền của nhân dân.

Mâu thuẫn hơn nữa và có thể nói là đểu cáng hơn nửa, chính người ký công văn cưỡng phong chức danh, cưỡng ép kết nạm Thiền sư vào giáo hội quốc doanh, khi ghi sổ tang lại đẩy Thiền sư vào thế giới phương Tây.

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn - đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội quốc doanh đã viết trong sổ tang

"Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người tiên phong mang đạo Phật đến với xã hội phương Tây, khai mở và hướng dẫn nhân loại tìm đến con đường đúng đắn về đời sống hạnh phúc, giải quyết các vấn đề của xã hội đương thời, góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới theo triết lý Phật giáo".

Tiếp đó, đồng chí Cao tăng này một lần nữa báng bổ cưỡng phong Trưỡng lảo Hòa Thượng cho Thiền sư Nhất Hạnh và xê xoa nói theo công thức.

Ngài đã để lại cho chúng ta một gia tài phong phú về kho tàng trước tác văn chương học thuật, về tấm gương sáng ngời ý chí tu hành, về tâm huyết và sứ mạng hoằng pháp lợi sanh..". (6).

Quả thật, Thiền sư Nhất Hạnh là cao tăng của nhân loại nhưng trước hết là cao tăng Việt Nam. Thiền sư đã để lại nhiều tâm huyết cho công cuộc hoằng pháp nhưng không phải theo kiểu chùa to Phật lớn, mượn danh tôn giáo, du lịch tâm linh để phá rừng chiếm đất xây chùa hàng ngàn mẫu. Không phải hoằng pháp theo cách đẩy những người ngoài giáo hội vào tù, phá chùa Liên Trì, chiếm Giáo xứ Cồn Dầu. Chiến đất Thái Hà,...

Kênh youtube Làng Mai đang chia sẻ hướng dẫn thực hiện nghị tiết Tâm Tang, thầy Pháp Ấn đã nghiêm cẩn đọc bài thơ Xin Gọi Đúng Tên Tôi để đại chúng cùng suy nghiệm, xây dựng chánh kiến hành trì từ bi . Trong bài có đoạn như sau :

Tôi cũng là người chế tạo bom đạn

Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi

Tôi là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu

Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim

Chưa biết nhìn biết cảm

Tôi là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát

trong tay

Và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân đang

chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo

Nổi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp

cỏ hoa muôn lối

Niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về

bốn đại dương sâu

Hãy gọi đúng tên tôi

Cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một

Hãy nhớ gọi đúng tên tôi

Cho tôi giật mình tỉnh thức

Và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ

Cánh cửa xót thương (7)

Không chỉ truyền đạt đến đại chúng Thiền sư Nhất Hạnh còn truyền đạt đến lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam về những điều cần thật tâm cải sữa để không chỉ giáo hội phát triển mà dân tộc được trường tôn, ấm no hạnh phúc.

Ngày 25/03/2005 thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp trao cho thủ tướng Phan Văn Khải bảy điểm đề nghị về chính sách của nhà nước Việt Nam đối với Phật giáo

Trong đó điều quan trọng nhất là : "Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.

Ngày xưa vua Lý Thái Tổ đã yểm trợ đạo Phật xây dựng cơ sở giáo hội, và thiền sư Vạn Hạnh đã chỉ bày thêm cho vua về các đường lối kinh tế, văn hóa, đạo đức và chính trị. Nhưng vua không chen vào để kiểm soát Phật giáo và thiền sư cũng không nhận trách vụ gì trong guồng máy chính trị.Nhà nước bảo đảm là từ nay các vị xuất gia sẽ không bị mời làm dân biểu quốc hội, trở nên thành viên hội đồng nhân dân các cấp và của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hoặc trở nên đảng viên của bất cứ một đảng phái chính trị nào. Xen vào lãnh vực chính trị như thế các vị xuất gia sẽ phạm giới, làm mất uy tín của giáo đoàn Phật giáo và cũng làm cho chính quyền mang tiếng là sử dụng những vị ấy để kiểm soát tôn giáo. Từ nay các vị xuất gia sẽ không còn nhận huân chương của chính quyền. Vị cao tăng nào làm cố vấn giỏi, đề nghị được những biện pháp cụ thể lợi nước lợi dân thì chỉ có quyền nhận một chiếc y màu tím như các vị cao tăng quốc sư đời trước". 

Ở một đoạn khác, Thiền sư nêu cụ thể hơn "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một thực tại. Nếu quý hòa thượng muốn giáo hội này phục hoạt lại, điều này không phải là một việc khó. Việc khó là chúng ta phải ngồi lại với nhau để nói chuyện, để thiết lập lại truyền thông với nhau, để lắng nghe nhau, để thấy được những khó khăn của nhau và để cùng đi đến những quyết định chung có thể làm đẹp lòng cho cả hai phía" (8).

Năm 2007. Trong lần về nước sau đó, Thiền sư Nhất Hạnh lại tiếp tục trao cho Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết 10 điểm cần cải sửa, trong đó có việc sửa quốc hiệu, bõ đi cái đuôi xã hội chủ nghĩa.

Đàn áp tăng sinh Làng Mai ở Bát Nhã có thể do nhiều nguyên nhân nhưng chắc chán đó là cách trả lời bằng hành động của chính quyền cộng sản Việt Nam với những đề nghị của Thiền sư.

Với các đồng chí giáo hội quốc doanh, nếu có còn chút lòng tin, sự hiểu biết về nhân quả, về sắc không, luật vô thường thì mau sớm quay đầu sám hối và thật sự học, hành trì theo đạo pháp của Phật.

Bám theo bã lợi danh chức quyền của cộng sản, dù dối trá giả danh có dến 10 mặt rồi sẽ có ngày lộ hình lộ dáng và trả nghiệp đã nặng vay. Ngày ấy hẳn không xa.

Gió Bấc

Nguồn : RFA, 24/01/2022

1. https://thuvienhoasen.org/a13106/05-phan-ung-cua-chinh-quyen-viet-nam

2. https://giacngo.vn/trung-uong-ghpgvn-co-cong-van-ve-viec-to-chuc-le-tang...

3. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/cao-pho-thien-su-thich-nhat...

4. https://giacngo.vn/dua-vao-tieu-chi-nao-de-duoc-xung-danh-truong-lao-pos...

5. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-bao-di-huan/

6. https://tuoitre.vn/thien-su-thich-nhat-hanh-da-huong-dan-nhan-loai-tim-d...

7. https://www.youtube.com/watch?v=eTBdzUhHfns

8. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/bay-diem-de-nghi-cua-thien-...

*****************************

Ba điều đồn đãi về Thiền sư Thích Nhất Hạnh phải kiểm chứng bằng sự thật lịch sử

Tuấn Khanh, RFA, 24/01/2022

Vào ngày Thiền sư Nhất Hạnh qua đời, đã có nhiều cuộc tranh cãi về cuộc đời và hoạt động của ông ở các cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Vốn là một người chủ trương hòa bình và có những ngôn luận chống chiến tranh với cả hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc), và như hãng tin AP đưa tin, là dù chủ trương kêu gọi các giải pháp hòa giải, nhưng ông vẫn phải trả giá cho quan điểm riêng của mình.

nhathanh2

Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong một phỏng vấn ở Hà Nội hôm 19/3/2005 - AP

Sau năm 1975, khi miền Nam sụp đổ, thì sự oán hận của những người đứng về phía miền Nam VNCH vẫn kéo dài suốt nhiều thập niên. Nhiều nhân vật được cho làm lợi cho cộng sản hay đứng về phía cộng sản vẫn bị đưa ra làm đề tài để chỉ trích. Mặc dù không chọn phe, nhưng Thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn bị coi là "đi đêm" với cộng sản, tương tự như Hòa thượng Thích Trí Quang – mặc dù sau khi thống nhất địa lý đất nước, nhà nước Cộng sản vẫn có những đối xử phân biệt khắc nghiệt với cả hai vị này.

Lịch sử hiện đại Việt Nam, đặc biệt qua hai nền Cộng Hòa, và cuộc chiến tranh Nam-Bắc, chồng chéo muôn điều phức tạp. Để nhận định đủ và đúng, cần phải có đủ tư liệu và thời gian để quan sát. Tuy vậy, từ khoảng cuối thế kỷ 20 cho đến nay, những nhận định cá nhân và quan điểm phù hợp với sự tức giận của đám đông đã chiếm ưu thế, bất chấp các chi tiết không đúng, thậm chí là tin giả. Dưới đây là ba lời đồn đãi tiêu biểu.

1. Thiền sư Thích Nhất Hạnh ủng hộ cộng sản, và "đi đêm" với cộng sản

Dĩ nhiên, trong cách nhìn của đám đông ủng hộ chính quyền VNCH, thì bất luận sự phản ứng nào chống lại, hoặc khác biệt quan điểm đều dễ dàng bị coi là "việt cộng". Ngay sau sự ra đi của ông Thích Nhất Hạnh, đã có một bài viết trên Facebook của một vị linh mục hiện sống tại Mỹ chỉ trích rất nặng lời. Bài đăng này nhận được nhiều sự ủng hộ của giới chống cộng và tín hữu công giáo. Tuy nhiên quan điểm chính của bài viết này nhận định ông Thích Nhất Hạnh là "tay sai của cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản" từ những năm 60, là hoàn toàn phi lý, vì đó là một nhận định không có căn nguyên.

Để chứng minh điều này rất rõ, nhiều ngôn luận và nhận định của ông Thích Nhất Hạnh về việc bất đồng với chế độ cộng sản có thể tìm thấy dễ dàng bằng một cú click trên Google. Cụ thể, chẳng hạn trên The New York Review, bài đăng vào năm 1966 đã trích lời khẳng định của ông Thích Nhất Hạnh về cộng sản, qua bản dịch của Giáo sư Hoàng Ngọc Tuấn (Úc) như sau : "Chúng tôi biết rất rõ về những sự cấm đoán đối với Phật giáo ở miền Bắc. Chúng tôi đã nghiên cứu những gì đã xảy ra ở Trung Quốc. Chúng tôi biết rằng tôn giáo không thể tồn tại trong tinh thần của chủ nghĩa Marx". ("We are very well aware of the restrictions on Buddhism in the North. We have studied what has happened in China. We know there is no place for spirituality in Marxism").

Nhiều người vẫn nói là trong khi vị Thiền sư lên tiếng với báo chí về sự chỉ trích Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không lên tiếng nói gì với chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên điều này không đúng, trong các lần trở về Việt Nam, ông Thích Nhất Hạnh đã nói trực tiếp và thậm chí vận động chính quyền Hà Nội về những cải cách chính trị, thả tù nhân lương tâm hay tự do tôn giáo. Những chi tiết này được ghi trong tập 1, bộ Wikileaks do báo người Việt ở Mỹ phát hành. Có thể xem thêm bài viết của nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên, viết cho người Việt, hoặc trên trang BBC.

Việc chọn lựa quan điểm thể hiện nhiều tính chất chính trị hơn trong trong thời cuộc là lựa chọn của ông Thích Nhất Hạnh, và sẽ nhiều năm nữa với những tư liệu đầy đủ hơn được tiết lộ thì có lẽ cái nhìn về ông sẽ rõ ràng hơn, định danh đúng hơn. Nhưng ở lúc này, để xác định ông là "tay sai cộng sản" hay "đi đêm với cộng sản", hoàn toàn là võ đoán và vô căn cứ. Việc ghét bỏ dựa trên cách ông chống chính quyền Mỹ, vẫn được xem là khuynh hướng chung của những người theo chủ nghĩa dân tộc như hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm chẳng hạn.

nhathanh3

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Mục sư Martin Luther King ở một họp báo tại Chicago, Mỹ hôm 31/5/1966. AP

2. Có vợ con nhưng che giấu

Sự kiện vô căn cứ này được rộ lên sau khi Thiền sư ra đi. Ai đó đã tung một bức ảnh mơ hồ có ông và một vài phụ nữ, trẻ em, và nhất định xác quyết đó là gia đình ông. Trong số những người đưa và tung những tin giả này, có cả một nhân vật từng làm trong Bộ Nội vụ của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Tuy nhiên, rất nhanh là những ngôn luận này bị vạch mặt, bởi đó là bức ảnh của gia đình họa sĩ Võ Đình đi thăm ông Thích Nhất Hạnh và chụp làm kỷ niệm. Chính phu nhân của họa sĩ Võ Đình đã công khai tố cáo rằng bọn lưu manh đã nhặt, cắt xén và ghép thêm hình vào tấm ảnh gia đình do chính họa sĩ Võ Đình chụp thầy Nhất Hạnh và các con của họa sĩ Võ Đình. Tiếc thay tiếng nói thật vẫn đang chìm đắm trong sự loạn lạc của dòng tin thất thiệt.

3. Về tuyên bố Mỹ bỏ bom chết 300.000 dân Bến Tre

Đây là một trong những ngôn luận chính, dẫn theo vô số những lời chỉ trích và khẳng định ông Thích Nhất Hạnh là "việt cộng". Theo những lời kể lan khắp các tranh mạng thì ông Thích Nhất Hạnh đã "bịa đặt chuyện Mỹ bỏ bom và giết 300.000 dân" để kêu gọi thế giới chống chiến tranh Nam-Bắc.

Thế nhưng câu chuyện lại hoàn toàn khác.

Nguyên văn của câu chuyện được tờ New York Times đăng tải vào năm 2001, là trong một buổi thuyết pháp ở Mỹ vào ngày 25-9 ở Riverside Church, New York, khi đọc một bài thơ của mình, ông Thích Nhất Hạnh có kể là bài thơ ra đời khi ông nghe tin Bến Tre với dân số 300 ngàn người bị ném bom phá hủy vào năm 1968 khi quân đội Mỹ có tin là khoảng chục lính việt cộng đang ẩn nấp trong đó. Bất nhẫn hơn vì qua một bản tin của hãng thông tấn AP, một cấp chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng "Đó là sự cần thiết để phá hủy thành phố này nhằm cứu nó" (It was nesscesay to destroy town to save it) trong bản tin tường trình chiến sự từ Việt Nam vào đầu năm 1968.

Con số về người dân ở Bến Tre lúc đó, chính xác chỉ khoảng từ 30.000-35.000 người, nên về số liệu thì ông Thích Nhất Hạnh đã trích dẫn sai, nhưng nội dung thì hoàn toàn không giống gì với những tin đồn về "tố cáo" và "phục vụ cho việt cộng" vẫn đang thao túng nhiều nơi.

Trên thực tế, yêu hay ghét thiền sư Thích Nhất Hạnh là chuyện bình thường. Mọi nhà lãnh đạo tinh thần trên thế giới đều phải trả giá cho sự độc lập về tư duy của mình. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn bị phía chủ trương kháng chiến vũ lực chống Trung Quốc nói ông là phản bội. Đức Thánh Cha Francis vẫn bị nhiều giám mục, linh mục, tín đồ chống đối và ghét bỏ những cải cách, nhận định của ngài. Nhưng mọi thứ cần đặt trên sự thật. Sự ghét bỏ đơn thuần không làm nên nền văn minh, và chính sự hiểu biết và quan sát đủ, mới có thể tạo dựng được phát triển của một dân tộc hay thế giới này.

Tuấn Khanh

Nguồn : RFA, 24/01/2022

********************

Thin sư và chánh nim

Phạm Phú Khải, VOA, 24/01/2022

Chánh nim, hay tnh thc (mindfulness), bây gi hin din khp nơi, trong mi hot đng ca con người. Công lao này là do nhiu người, nht là nhng ai tin tưởng vào phép mu nhim ca chánh nim. Nhưng ln nht vn là thin sư Thích Nht Hnh, người đã viết bao nhiêu cun sách v ch đ này, hay viết v bao đ tài khác nhưng luôn đ cp đến yếu t chánh nim như là phương thuc cha tr "bá bnh".

nhathanh4

"Trong những lúc thực tập chánh nhiệm, tôi thấy được sự nhiệm màu của nó, nên mang ơn tất cả những ai đã có công mang lại sự tỉnh thức cho nhân loại, trong đó có thiền sư Thích Nhất Hạnh".

Tôi còn nh cách đây chng năm sáu năm, ch làm tôi t chc khóa đào to lãnh đo. Khóa hc này kéo dài mt tun, nhn mnh nhiu yếu t và nhiu vn đ. Có nhng bài tp trước, trong và sau khóa hc. Có th nói bàng bc trong tt c các đ tài được tho lun, chánh nim vn là yếu t mang tính cơ bn và nn tng.

Theo nhiều học giả v lãnh đo hc và tâm lý hc thì chánh nim là mt trng thái ý thc bao gm nhn thc và s chú ý.

Khóa hc cũng đào sâu vào ch đ trí tu cm xúc (emotional intelligence/EI), trong đó bn khía cnh chính là nhn thc bn thân (self-awareness), biết t qun lý (self-management), nhn thc xã hi (social awareness), và biết qun lý quan h (relationship management).

Nói cách khác, mun tr thành mt lãnh đo gii, bt k đó là lãnh đo mt quc gia, mt công ty, mt cng đng, mt t chc thin nguyn, hay đơn gin, mt thy hay cô trong lp hc, hay mt lp trưởng mt đi trưởng, người đó phi có kh năng v trí tu cm xúc. Người có trí tu cm xúc là người biết mình, biết t ch, hiu xã hi và gii quan h.

Nhng khái nim và quan nim trên được các nhà nghiên cu v qun tr và lãnh đo tìm hiu t bao tài năng lãnh đo thành công, ln tht bi, ti M và trên thế gii trong mi lĩnh vc hot đng ca con người trong nhiu thp k. Đc bit là t các đi hc, hc vin nghiên cu v thương mi, như Harvard Business School, chng hn.

Mt trong nhng người đưa các khái nim này tr thành tr ct ca k năng lãnh đo là Daniel Goleman. Tác phm kinh đin v Emotional Intelligence do Daniel Goleman viết, xut bn vào năm 1995, là cun sách được bán chy nht trên The New York Times trong mt năm rưỡi, được dch ra 40 ngôn ng khác nhau và tr thành sách ăn khách nht trên nhiu quc gia. Goleman cho rng nhn thc bn thân, tc nhn biết mt cm giác khi nó xy ra, là nn tng ca trí tu cm xúc. Hơn na, x lý cm xúc sao cho phù hp là mt kh năng được xây dng da trên nhn thc bn thân. Ngoài ra, s đng cm (empathy), mt kh năng khác được xây dng da nhn thc bn thân v mt cm xúc, là k năng cơ bn v con người (peoples skill). Sau cùng, ngh thut ca các mi quan h, phn ln, là k năng qun lý cm xúc người khác. Nghĩa là biết cm xúc ca mình, ca người khác, đ qun lý tt đp, thì s thành công trong mi quan h.

Phép màu ca chánh nim (The miracle of mindfulness), được thin sư Thích Nht Hnh viết vào năm 1974, sau này được Mobi Ho dch sang tiếng Anh, đu tiên vào năm 1975. Tác phm này vn được xem là cun kinh đin v chánh nim cho đến nay. Thích Nht Hnh được xem là người Thy ca chánh nim, nhưng không phi ai biết v chánh nim cũng biết v Thích Nht Hnh.

Ngày nay dường như làm vic gì cũng được lng chánh nim vào trong đó. Có người còn bo rng trước đây khi ra chén tôi không h nghĩ đó là chánh nim, cho đến khi biết v các bài ging ca thin sư Thích Nht Hnh.

Trên tp chí ph biến hàng đu v tâm lý, Psychology Today, dường như lúc nào cũng có mt hay nhiu bài trên trang này nói v chánh nim. Có th nói ngày nay các phương thc điu tr tâm lý đu dùng đến chánh nim như là s khi đu, và cũng là đim đến. Rt nhiu hc gi và tác gi ca nhiu bài viết hay sách chuyên v tâm lý cũng đ cao vai trò ca thin sư Thích Nht Hnh. Như bàMind Over Matter, phn đu trích dn Thích Nht Hnh : "Chánh nim không phi là vic ch được thc hin trong thin đường, nó còn được thc hin trong bếp, ngoài vườn, khi chúng ta nghe đin thoi, khi lái xe, khi ra chén".

Như ông Ngô Nhân Dng viết trong "Sống tỉnh thức với Thiền sư Thích Nhất Hạnh", chánh nim đã đi vào giòng chính và nh hưởng lên mi mt đi sng ca người M và khp nơi.

Tôi còn nh cũng trong khóa đào to lãnh đo nói trên, nhng người hướng dn khóa hc, và nhng hc viên, đu có v thích thú v chánh nim hay nhn thc bn thân. Nhưng khi tôi hi h có biết v Thích Nht Hnh, hay cun "Phép màu ca chánh nim" không, thì đi đa s không biết. Nhưng đây cũng là điu tht d hiu. Mt, chánh nim thuc v Pht giáo, không phi ca riêng ai. Hai, gia Thích Nht Hnh và người đc là bao nhiêu hc gi và tác gi trung gian v ch đ này. Ba, thi nay người ta đi tìm hiu khái nim và ý nghĩa đ làm vn liếng kiến thc nhiu hơn tìm hiu v s hình thành và phát trin ca chánh nim hay bt c mt ch đ hay lĩnh vc nào.

Tôi còn nh cách đây ba năm, cũng ti ch làm, các bài ging t các tâm lý gia v chánh nim đã được thc hin đ cho mi nhân viên tìm hiu và thc tp. Các bài viết đã được ph biến trên trang mng Intranet, và các bài ging bng ging đc tht hay đã được nhân viên ti v đ nghe bt c lúc nào. Dường như mi công s đu thy giá tr ca chánh nim. Có khi trong các bui hp hoc hi tho kéo dài trên hai tiếng, bài ging 10 đến 15 phút v chánh nim đã được phát thanh vào gia bui đ mi người tht s lng đng, thư gin và bình yên. Trong các khóa Yoga tôi tham d cũng có ni dung và hình thc tương t. Tôi tht s không biết nhng nhng người thc hin các chương trình này ly t đâu. Nhưng đc các tác phm ca thin sư Thích Nht Hnh tôi biết rõ Thy có ghi rõ các bài tp và cách hướng dn thc hin tng bước trong đó.

Trong nhng lúc thc tp chánh nhim, tôi thy được s nhim màu ca nó, nên mang ơn tt c nhng ai đã có công mang li s tnh thc cho nhân loi, trong đó có thin sư Thích Nht Hnh.

Phạm Phú Khải

Nguồn : VOA, 24/01/2022

*************************

Thin sư Thích Nht Hnh và ba ln nhn ni tr v

Nguyễn Hùng, VOA, 24/01/2022

Thin sư Thích Nht Hnh là người thy mang dòng máu Vit có nh hưởng ln nht đi vi thế gii. C trường phái pht giáo dn thân ln phương thc thc hành chánh nim ca Thy đu được s chú ý và noi theo ca triu triu người.

nhathanh6

Thin sư Thích Nht Hnh thp hương ti T đình T Hiếu - Tha Thiên Huế ngày 4/9/2017 (nh : Báo Giác Ng)

Tuy nhiên nh hưởng ca Thy Vit Nam đã không được như chính Thy mong mun vì s nghi ngi, bo th và giáo điu ca gii lãnh đo cng sn. S nghi ngi, bo th và giáo điu này có th thy qua ba ln Thy nhn ni v Vit Nam, nơi gii lãnh đo có nhng giá tr đi ngược li quan đim sng ca người Thy được thế gii ngưỡng m.

‘Chuyến đi khó khăn

Ln tr v th nht là năm 2005, gn 40 năm sau khi Thy b buc phi sng lưu vong vì chính quyn min nam thi trước 1975 không hài lòng vi thái đ phn chiến ca v Thin sư và ngăn cn ông v nước hi năm 1966.

"Chuyến đi này là mt chuyến đi khó khăn vì không khí nghi ng, s hãi vn còn nng n trong bi cnh chính tr, nht là trong nhng ngày đu Hà Ni. Ví d trong bui ging ti Vin Nghiên Cu Tôn Giáo, người ta đã ha là 300 người s nhn được giy mi nghe Sư Ông ging, nhưng ti ngày chót ch có 40 lá thư được gi ra và cui cùng ch có 18 v trong s 40 người có thư được vào nghe Sư Ông. Nhng người còn li b công an gi ca t chi không cho vào vì tên h đã b gch b trên danh sách". Đó là nhng gì được ghi chính thc trongLá thư Làng Mai hi năm 2006, n phm ra mt mi năm mt ln.

Nhưng Lá thư Làng Mai nói s s hãi sau đó cũng bt đi nhiu và khi Thin sư ti ging Hc vin hành chính quc gia thành ph H Chí Minh, các quan chc đã cho phép ti 1.000 người tham d nh vào "s thc tp kiên nhn, vng chãi, thnh thơi, ái ng và lng nghe" ca Thy Thích Nht Hnh. Làng Mai nói cui cùng có c thy hơn 200.000 người đã có cơ hi trc tiếp tiếp xúc vi v Thin sư và tăng thân tháp tùng cho dù "báo chí được lnh không đăng ti chương trình và sinh hot ca chuyến viếng thăm" hi năm 2005.

Đó cũng là năm Thy đưa ra by đ ngh vi Đng Cng sn trong đó có vic "[g]iáo quyn và chính quyn là hai lãnh vc riêng bit không có quyn can thip vào nhau. Nhưng c giáo quyn và chính quyn đu phi có đo đc, nếu c hai đu không mun phá sn".

Cũng trong chuyến đi, Thy nói vi tp chí Time : có th có t do, điu cn thiết là phi giúp người ta buông b nhng s hãi, ng nhn và k th ca h".

‘Chuyến đi lch s

Ln tr v th hai hi năm 2007 trong "chuyến đi lch s", Thin sư đã đng ra t chc ba Đi Trai đàn Chn tế Bình đng Gii oan c ba min Bc, Trung và Nam đ cu siêu cho hàng triu người Vit đã t nn trong cuc chiến. Làng Mai nói Thy đã có li mi các v lãnh đo cao cp ti tham d nhưng cui cùng không có ai ti và viết trongLá thư Làng Mai trong năm 2008 :

"Phân tích cho k ta s thy có nhiu nguyên nhân [các lãnh đo không ti], trong đó yếu t nghi ngi là quan trng hơn c. Du hiu đu tiên là nhà nước, trong đó hn có Trung ương Đng và ban Tư Tưởng đã không mun Làng Mai s dng t gii oan. Đoàn tin trm ca Làng Mai dù có gii thích bao nhiêu đi na, nói rng các trai đàn chn tế ca truyn thng Pht giáo, t xưa đến nay đu có s dng t gii oan, nhưng rt cuc các thy trong Giáo hội cũng như trong Phái đoàn ch được chính thc s dng t bình đng mà thôi.

"Theo tư tưởng lãnh đo, đây là mt cuc chiến tranh gii phóng đt nước, nhng người chiến sĩ hy sinh là ti h mun hy sinh, nhng người bên kia chng li ti vì h mun chng li, hai bên đã chết vì mun đi theo đường li và chí hướng ca mình, như vy không có oan c gì c. Trong tư duy người ta có th suy lun như thế nhưng trong thc tế, ni oan c mà dân ta đã phi chu đng trong sut cuc chiến tranh dai dng có tm vóc ln lao ti mc không li nói nào có th din t ni. Nước Đc cũng đã b chia đôi, Tây Đc li có căn c quân s Hoa K, nhưng rt cuc, hai nước Đc đã được thng nht, các căn c ha tin liên lc đa ca Hoa K Tây Đc được gii ta mà dân Đc không phi đi ngang qua mt cuc chiến vi hàng sáu triu người thit mng vi bao nhiêu đ nát và tang tóc như nước ta".

Mc dù có nhiu khó khăn, c ba s kin ba min cui cùng đu được phép din ra dù không được hoàn toàn theo ý ca Thin sư. Làng Mai nhn đnh : "Qua các đi trai đàn chn tế ba min này, ta thy được tim lc ln lao ca nn đo lý dân tc, tim lc có kh năng chế tác nim tin và tình huynh đ, có kh năng khai phá mt con đường tâm linh cho đt nước, ngăn chn nhng t nn xã hi, làm vng mnh li cơ cu gia đình và cng đng, gây cm hng cho mt nim tin vào tương lai đt nước và dân tc".

‘Nghi ng và s hãi

V nhng điu trái khoáy din ra, Lá Thư Làng Mai 2008 viết : "[T]uy nhà nước đã cho phép, nhưng s nghi ng và s hãi vn còn, đó là mt trong nhng lý do khiến các v lãnh đo không ti d l dâng hương bch Pht. Ban Tôn giáo Chính ph và ngành Công an Tôn giáo đã "bo h" phái đoàn trong tinh thn y, vì vy cho nên trước ngày khai mc Đi Trai đàn Chn tế chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hu Dược, V trưởng v Pht giáo ca Ban Tôn giáo Chính ph đã nói vi thy Pháp n là trong trai đàn, các thy không được nhc ti người thuyn nhân b thit mng trên bin c, các nn nhân chiến tranh ca min Nam, trong đó có các binh sĩ ca chế đ Vit Nam Cng Hòa, không được nói ti các h chôn tp th, không được nói ti tù đày, hc tp ci to, v.v Lý do ông nêu ra là đ n đnh an ninh vùng. Sau hơn hai tiếng thuyết phc, ông V trưởng không gi được s bình tĩnh và đã s dng nhng ngôn t gay gt".

Trong chuyến tr v hi năm 2007, Thin sư Thích Nht Hnh cũng đã có thư gi Th tướng Nguyn Tn Dũng đ ngh nhà nước dng Tượng Đài Thuyn Nhân ti b bin Vũng Tàu đ tưởng nim đng bào đã chết trong lúc vượt bin. Đương nhiên đ ngh này làm sao có th được chp nhn khi mà chính quyn Vit Nam còn tìm cách xoá b c các tượng đài thuyn nhân nhng đo ti các nước khác mà thuyn nhân tng lánh nn trong đó có Indonesia.

‘Hai tiếng Vit Nam là đp nht ri

Khi Thin sư tr v hi năm 2007, Vit Nam đã thc hin chính sách mà h t gi là Đi Mi được trên 20 năm. Nhưng nhng gì Thy và phái đoàn chng kiến cho thy s đi mãi mà không mi. Lá thư Làng Mai 2008 viết : "Phi công nhn là gii công an và Ban tôn giáo chính ph đã đ ra rt nhiu thì gi và công sc đ bo đm an ninh cho phái đoàn, tn kém không biết bao nhiêu mà k. Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phi cho công an biết trước ; nếu công an xét không có an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì vy cho nên trong sut thi gian thăm viếng, phái đoàn có cm giác không được thoi mái lm. các nước Châu Âu, Châu M, và ti các nước Châu Á như Nht bn, Thái Lan, Đi Hàn, Hng Kông, v.v khi ti hong pháp, phái đoàn Làng Mai không cn ai bo h, không cn giy mi hoc s bo h ca bt c mt giáo hi nào hay ca mt ban tôn giáo nào. Ti đâu cũng có cm giác t do, an ninh và thoi mái".

Lá thư cũng viết thêm : "Ti đt nước ta, cách tư duy trong đng và trong chánh quyn, đường li kinh tế ca đt nước bây gi đây đâu còn ly ch nghĩa Mác Xít làm khuôn vàng thước ngc na. Đng Cng Sn Vit Nam, có người đã nói, cũng nên đi tên đi thôi, mt cái tên mi như Đng Xã Hi, Đng Đi Mi, Đng Dân Ch, Đng Cng Hòa, Đng T Do, Đng Dân Tc tên gì cũng được min không phi là cái tên cũ. Cái tên Đng hin gi đang là mt chướng ngi, gây hiu lm và tiếp tc nuôi dưỡng oán hn.

"Trong Đng và trong gung máy chính quyn chc chn đã có nhng v suy nghĩ như thế mà chưa nói ra được. Có nhng v trong Đng cũng đã nghĩ ti vic thay quc hiu. Thay vì s dng quc hiu Cng Hòa xã hội chủ nghĩa Vit Nam, mt cái tên quá dài, ta có th đi li là Cng Hòa Vit Nam hay tt nht là Vit Nam. Hai tiếng Vit Nam là đp lm ri, đp nht ri, không cn thêm vào ch nào na c".

Bt nhã hu Bát Nhã

S thng thn và cương trc ca Thy Thích Nht Hnh đã khiến chính quyn ni đóa.

K t chuyến tr v đu tiên ca Thy hi năm 2005, hàng trăm hc trò theo Pháp môn Làng Mai đã theo v và tu tp tu vin Bát Nhã, Lâm Đng. Nhưng sau hàng lot các kiến ngh ca Thin sư v chuyn phi có nhng thay đi trong đó có vic gii tán ngành kim soát tôn giáo và đc bit là công an tôn giáo, chính quyn đã không còn ng h vic cho phép đông đo nhng tu sinh ca Làng Mai li Bát Nhã. Kết qu là tu vin đã b côn đ được công an mc thường phc ch đo vào phá phách và đui nhng hc trò theo Làng Mai khi đây.

nhathanh7

Ngay c khi h đã ri khi tu vin Bát Nhã ti nương nh chùa Phước Hu, cũng Lâm Đng, chính quyn vn tiếp tc cho người truy đui như li k ca Sư cô Tâm Nht trongLá thư Làng Mai năm 2010 v nhng gì xy ra hi tháng 12/2009 :

"S yên ng ca không gian Phước Hu và nhng bước chân thin hành b khuy đng bi nhóm người l mt đeo khu trang. Thế ri bui gp g ca Phái đoàn các nước bn vi Ôn Tr Trì và anh ch em chúng tôi không thành gia tiếng la hét, chi ra và buc ti ca đám đông. Người ta nhc m và làm tn thương nhân phm ca Ôn Tr Trì và ca anh ch em chúng tôi.

"Tôi rúng đng bàng hoàng trước cnh mt người t xưng là Pht t dang tay s v thng thng vào mt mt v tôn đc. Xung quanh tôi là cnh hn lon n ào. Anh ch em tôi vn ngi yên, mi người đu duy trì nim t bi và bình lng. S hn lon càng tăng lên khi phái đoàn thăm viếng phi ra v. Ôn tr trì lp tc b cô lp trong phòng làm vic my mét vuông ca mình, bao quanh là tiếng la hét chi ra nhc m ca hơn trăm con người. Sau gn mt tiếng đng h, Ôn Tr Trì mi thoát được vào phòng riêng và bên ngoài vn còn tiếng đp ca la hét".

Liên quan ti các din biến bo lc sau đó, Sư cô Tâm Nht k tiếp : u ca sư em Hot Nghiêm sưng vù mt cc to tướng khi lãnh ly mt cú thoi t mt bàn tay thô bo nào đó ri b đy t trong phòng ra và va đu thêm vào ct nhà. Sư em ch mi 17 tui. Thy Phong Thun b xô ra ngoài và b xé cho rách áo. Thy Thánh Hip, sư em Pháp Doanh, sư em Pháp Chun cũng b ném ra ngoài kèm theo li đe da gm g ca chú công an mt thường phc. Tôi nhn ra chú công an đó, người có mt t đu nhng ngày Bát Nhã nguy nan, đng bình thn quay phim cnh anh ch em tôi b đánh đp, rượt đui. Tiếng la tht thanh ca sư em Đáo Nghiêm khi b mt người đàn ông xô đy và đng vào, ri sư em cũng b ht văng ra khi phòng

"Ngay trên đu chúng tôi là tiếng gào rú ca hai, ba cái loa phóng thanh c ln, da dm khuyến cáo chúng tôi phi ri khi chùa Phước Hu. Có sư em ngi vòng ngoài, nhm mt nim B tát mà mt hng đy nước bt văng ra khi nhng người hung d kia ghé sát xung mà chi ra. Sư em Trung Ngc cũng ngi vòng ngoài, cm thy tai mình ù đi khi mt người đàn bà đã ghé chiếc loa phóng thanh vào tai em mà chi : " Mày đi tu gì mà ngu và lì quá vy, cút v đa phương mà đi, ti đây tính chiếm chùa h " ?

‘Đám mây không bao gi chết

Sau nhng gì xy ra Bát Nhã, Làng Mai đành t b ý đnh m rng hot đng và nh hưởng Vit Nam và quay sang cng c và m thêm các trung tâm bên ngoài trong đó có c ti Thái Lan.

Khi tr v Vit Nam hi năm 2018 đ dành nhng năm tháng cui cùng ti chùa T Hiếu, nơi Thy xut gia khi 16 tui, Thin sư đã không còn có th nói được sau ln đt qu hi năm 2014. Có l Thy cũng không còn mun đ đt gì vi chính quyn cng sn sau khi h b ngoài tai tt c nhng đ đt trước đó ca Thy.

S tr v cui cùng ca Thin sư thc tế đã được chính ông gii thích ngay trong ln đu tr li quê hương sau gn 40 năm xa cách hi năm 2005 : "Tr v đây là tr v nhà, v căn nhà ca hi đo t thân, v căn nhà ca t tánh chân tht. Tr v đây có nghĩa là v nhà ca t tiên, ca đo pháp, ca tăng thân. Quê nhà là nơi có tình thương, hiu biết, bình an và m cúng".

Cũng trong cùng chuyến đi đó Thy đã hi c to Quy Nhơn sau khi chết mình s đi v đâu và tr li : iu này ging như đám mây trên bu tri. Sc nóng ca mt tri đã biến nước ca sông ngòi thành hơi, hơi này sau đó t li thành mây. Ri tr v vi đt, vi sông dưới dng : mưa, tuyết hoc băng giá. Đám mây không bao gi chết. Nó ch đi dng thành : mưa, sông, nước".

Nguyễn Hùng

Nguồn : VOA, 24/01/2022

Published in Diễn đàn
dimanche, 23 janvier 2022 12:34

Tưởng nhớ Thiền sư trong tĩnh lặng

Đất nước tôi, đất nước của những xung đột bất tận

Nguyễn Nam, VNTB, 23/01/2022

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch. Ngài là người nổi tiếng trên thế giới. Theo một số trang mạng thì ngài thường được xếp thứ 2 hay thứ 3 trong số những người hướng dẫn tâm linh còn đang sống ; đứng thứ nhất, tất nhiên là Đức Dalai Lama.

thiensu6

Một trong những cuốn sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh, "Peace Is Every Step : The Path of Mindfulness in Everyday Life" (An lạc từng bước chân) được ghi nhận là đứng số 12 trong 100 tác phẩm tâm linh quan trọng nhất trong thế kỷ XX.

Nhưng đối với người Việt, thiền sư Thích Nhất Hạnh lại cũng là một trong những tác nhân gây chia rẽ khá trầm trọng.

Buồn cho đất nước tôi !

Kẻ thỏa hiệp ?

Sinh thời, thiền sư Thích Nhất Hạnh từng đối diện với cáo buộc như kẻ phản đồ, qua lập luận rằng điều nổi bật hơn về thiền sư là đã được trưởng thành trong căn nhà của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thiền sư cùng tu, cùng ăn, cùng ở với những đồng đạo của mình. Thế nhưng, trong mấy chục năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của ngài bị bức tử, đồng đạo của ngài bị tù đày, quản chế… Và ngài thì vẫn im lặng.

Cay nghiệt hơn khi không ít lên án rằng, "là một trưởng tử của Như Lai, ngài đã làm gì để lấy lại hương vị tinh nguyên của Giáo lý nhà Phật khi bị Đảng cộng sản đang bỏ chung vào một soong để chiên xào xáo trộn với chủ nghĩa Mác-Lê như khẩu hiệu ‘Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội’. Ngài nghĩ gì và đã làm gì ?"…

Đầu năm 2005, trong sự chào đón nồng nhiệt, thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước sau gần 40 năm xa quê hương với tăng đoàn khoảng 200 người của mình. Ngài xuất hiện trong những buổi nói chuyện mà khán giả là đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế và Hà Nội.

Cũng vào lúc đó, hòa thượng Thích Quảng Độ sống một mình trong một căn phòng bị quản thúc tại Thiền viện Thanh Minh ở thành phố Hồ Chí Minh. Trong lần về nước sau 40 năm của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh đến thăm hòa thượng Thích Trí Quang nhưng không thăm được hòa thượng Thích Quảng Độ.

Tên phản động ?

Dưới mắt nhà cầm quyền Việt Nam thì đã có lúc thiền sư Thích Nhất Hạnh được coi là một ‘tên phản động lưu vong’.

Một tài liệu của Bộ Công an, viết (trích) : "Ngày 20/2/2007, Sư ông Thích Nhất Hạnh cùng đoàn gồm 150 người với gần 30 quốc tịch khác nhau về Việt Nam lần thứ hai.

Lần này, ý đồ mượn tôn giáo để làm chính trị của ông bắt đầu thể hiện rõ nét qua việc ông tổ chức "trai đàn chẩn tế" ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Lợi dụng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Sư ông Thích Nhất Hạnh cho phát tán tài liệu, đề cao, khuếch trương Pháp môn tu tập Làng Mai, phủ nhận những đóng góp rất nhiệt tình và tích cực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong việc tổ chức "trai đàn chẩn tế", cứ y như không có ông, thì "trai đàn" chẳng bao giờ được hình thành.

Có lẽ ai đã xem hình ảnh Sư ông Thích Nhất Hạnh xuất hiện tại các "trai đàn chẩn tế" trên báo chí, truyền hình, hoặc xem trực tiếp, cũng đều thấy chướng. Chỉ là một "thiền sư", đứng đầu một môn phái, mà ông đi dưới lọng vàng, cạnh ông là sư nữ Thích Nữ Chân Không – y như vua và hoàng hậu ! Thiên hạ đồn rằng ông với bà Chân Không có "quan hệ" rất gần gũi, chẳng biết thật hay không, nhưng năm 2006, khi một phái đoàn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sang Pháp, thăm Làng Mai, đã phải gửi Sư ông Thích Nhất Hạnh một bức thư, trong đó đề nghị : "Xin sư ông về ở với tăng, sư nữ Chân Không về ở với ni để tránh dư luận".

Và mặc dù ông tuyên bố không can thiệp, không phát biểu những vấn đề liên quan đến chính trị, nhưng khi được lãnh đạo Nhà nước Việt Nam tiếp kiến, Sư ông Thích Nhất Hạnh liền đưa ra đề nghị 10 điểm, trong đó có những điểm như : "Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam, giải thể Ban Tôn giáo chính phủ…".

Nhìn nét mặt tự mãn của ông, hầu hết tăng ni thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam – xưa kia vẫn kính nể ông qua những cuốn sách ông đã viết, như "Đường xưa mây trắng", "Nói với tuổi hai mươi", "Bông hồng cài áo", "Nẻo về của Ý", hoặc những bài thuyết giảng của ông ở Trường đại học Vạn Hạnh bao nhiêu thì bây giờ, tăng, ni lại càng cảm thấy thất vọng về ông bấy nhiêu, nhất là khi ông tuyên bố : "Pháp môn Làng Mai tự bổ nhiệm truyền giới, tấn phong, bầu trụ trì, viện chủ, phó viện chủ mới mà không cần phải thông qua Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam" (dừng trích).

Thời điểm của tài liệu cáo buộc nêu trên, thì Tổng bí thư Đảng là ông Nông Đức Mạnh.

Đạo Phật là uyển chuyển

Hai mươi hai năm về trước, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, trong lời đề nghị của thiền sư Thích Nhất Hạnh về cách thức ăn mừng Một Ngàn Năm Thăng Long gồm 12 điểm, nhà tu hành nổi tiếng khuyến cáo chính phủ Việt Nam nên :

"Ân xá cho những người bị lưu đày và tù tội, trong đó có tội góp ý cho chính quyền, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, đa giáo hội, kêu gọi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Cho phép một số phạm nhân được chuộc tội bằng công tác xã hội dưới sự che chở, giám sát và bảo lãnh của các vị xuất gia thuộc các tôn giáo". Các đề nghị này được vị thiền sư tổng hợp trong một văn bản mà theo ngài, không có tính cách tôn giáo, mà chỉ nhằm xây dựng"một nền đạo đức toàn cầu có công năng lành mạnh hóa và từ bi hóa xã hội và cứu hộ được hành tinh".

Tuy nhiên, ngài nhắc lại ảnh hưởng của đạo Phật trong xã hội Việt Nam thời Lý, "đời thuần từ nhất trong lịch sử" (lời sử gia Hoàng Xuân Hãn), và khẳng định phải ghi nhớ điều này khi ăn mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.

Lý Thái Tổ, vị vua đầu của thời Lý, đã đặt đô tại Thăng Long năm 1010. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, do vậy, cho rằng "Cách thức ăn mừng 1000 năm Thăng Long hay nhất là nỗ lực của chính quyền và của toàn dân làm được và tiếp tục được những việc mà tiền nhân đã làm trong những năm đầu của kinh thành Thăng Long".

Trong số các khuyến nghị có việc lập trường đại học mang tên Thiền sư Vạn Hạnh, thiết lập giờ đạo đức học ở mọi cấp bậc giáo dục, miễn thuế và tha thuế cho những người có hoàn cảnh khó khăn, thậm chí hạn chế sử dụng đồ nhựa, đồ nylon và tăng cường ăn chay. Ngài cũng yêu cầu Nhà nước cho triệu tập đại hội Phật giáo trong và ngoài nước để thành lập lại giáo hội Phật Giáo dân lập "hoàn toàn đứng ngoài chính trị".

Thời điểm đó, Tổng bí thư Đảng vẫn là ông Nông Đức Mạnh.

Sự kiện Bát Nhã

Năm 2005, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được phía chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai ở tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng. Vào năm 2006, Hoa Kỳ quyết định bỏ tên Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Đến năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO.

Năm 2007, nhân chuyến thăm Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã lập trai đàn cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay còn tại thế. Cũng trong năm 2007, nhân chuyến thăm thứ hai về Việt Nam, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đề nghị Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nên chấm dứt sự kiểm soát của chính phủ đối với tôn giáo. Lời khuyên này của ngài bị chính phủ coi là vi phạm luật pháp Việt Nam.

Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định các tổ chức tôn giáo phải đăng ký với nhà nước để được hoạt động. Những quy định chặt chẽ của luật này đã bị các giới chức tôn giáo trong và ngoài nước chỉ trích là vi phạm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.

Không lâu sau đó, vào tháng 8 năm 2008, công an tỉnh Lâm Đồng ra công văn trục xuất khoảng 400 tu sinh Làng Mai khỏi tu viện Bát Nhã. Từ khoảng giữa năm 2009 đến cuối năm 2009, các tu sinh Làng Mai ở tu viện Bát Nhã liên tục bị những nhóm người lạ mặt đến tấn công. Chính quyền thì nói rằng vụ việc xảy ra là do những bất đồng giữa các nhà sư trong tu viện Bát Nhã với các tu sinh Làng Mai cư trú ở đây. Những tu sinh này sau đó phải đến cư ngụ tại chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Nhưng họ vẫn bị truy đuổi khỏi chùa này.

Đến cuối năm 2009, khoảng gần 200 tu sĩ Làng Mai cư ngụ tại chùa Phước Huệ bị yêu cầu phải rời khỏi chùa này chậm nhất là vào ngày 31 tháng 12. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc đó đã phải nộp đơn lên Tổng thống Pháp Sarkozy xin cho 400 tu sĩ Làng Mai ở Bát Nhã được tỵ nạn ở Pháp.

Trong một bức thư gửi các tu sinh Làng Mai ở Việt Nam vào tháng 12 năm 2009, thiền sư Thích Nhất Hạnh viết rằng :

"Theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được hưởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo".

Ngài cũng cáo buộc các viên chức chính quyền đã đối xử thô bạo với các tu sinh, thuê côn đồ tấn công tu viện. Ngài viết :

"Tiền đâu để họ thuê côn đồ ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy ? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân ?"…

Nhà hoạt động xã hội dân sự

Năm 1956, thiền sư Thích Nhất Hạnh làm Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thập niên 1960, ngài lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị lửa đạn chiến tranh, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.

Ngài cũng là một trong những người thành lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tập trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra "lời kêu gọi vì hòa bình", với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam – Bắc tìm "giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau".

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Sau này, ngài tham gia giảng dạy tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, mục đích chính của những chuyến đi ra nước ngoài của ngài vẫn là vận động cho hòa bình.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền tây nam nước Pháp.

Bất kể những ý kiến trái chiều xung quanh cuộc đời tu hành, ảnh hưởng chính trị, ngài là một chứng nhân của lịch sử đầy thăng trầm và bi ai của Việt Nam trải dài gần một thế kỷ.

Hãy để lịch sử phán xét

Xưa có ba nhà sư : Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang và Thích Quảng Độ. Cả ba đều tinh thông Phật pháp. Nhất Hạnh nói hay và viết giỏi. Trí Quang có tài lãnh đạo và được quần chúng tin tưởng. Quảng Độ học vấn cao và giỏi ngoại ngữ.

Xưa có ba nhà sư : Khi chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, họ tranh đấu cùng những nhà sư khác. Nhất Hạnh kêu gọi tự do tôn giáo và hòa bình cho Việt Nam ở hải ngoại. Trí Quang dẫn đầu hàng vạn các nhà sư, Phật tử biểu tình ở Sài Gòn. Quảng Độ, nhỏ tuổi nhất trong ba người, sát cánh cùng Phật tử trên đường phố.

Xưa có ba nhà sư : Khi những người cộng sản đến, họ rẽ ra ba hướng khác nhau. Nhất Hạnh nổi tiếng thế giới với tăng đoàn Làng Mai. Trí Quang chịu cảnh tù đày và không bao giờ nói về chính trị nữa. Quảng Độ tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo và nhân quyền, trở thành nhà sư bị giam lỏng lâu nhất ở Việt Nam.

Giờ thì tất cả đều về cõi an nhiên. Lịch sử sẽ còn nhắc kể về ba nhà sư này bằng nhiều lát cắt, góc nhìn đa diện mà người đời sau lắm khi dễ nhầm lẫn giữa thực – hư từng giai đoạn thăng trầm của chính trị nước nhà.

Nguyễn Nam

Nguồn : VNTB, 23/01/2022

*********************

‘Tâm tang’ tĩnh lng cho Thin sư Nht Hnh

Ngọc Lễ, VOA, 22/01/2022

Tang l ca Thin sư Thích Nht Hnh s din ra dưới hình thc tâm tang đ mi người tưởng nh đến ông mt cách nh nhàng, tĩnh lng, Đo tràng Mai thôn và T đình T Hiếu cho biết trong mt bn cáo bch chung.

thiensu1

Thiền sư Thích Nht Hnh, nhà lãnh đo Pht giáo ni tiếng thế gii, viên tch vào lúc na đêm ngày 22 tháng 1 năm 2022 T đình T Hiếu, thành ph Huế. Ông th 95 tui.

Giáo hi Pht giáo Vit Nam do Nhà nước kim soát s đ môn đ pháp quyến Thin sư toàn quyn t chc tang l theo ý nguyn ca ông và s hết lòng h tr đ thc hin tang l theo nghi thc cp cao ca Giáo hi, theo công văn va được loan báo.

Trước đó, Thin sư Thích Nht Hnh, hay còn được gi là Sư Ông Làng Mai nhà lãnh đo Pht giáo ni tiếng thế gii đã viên tch ti T đình T Hiếu Huế tui 95 sau nhiu năm b đt qu.

Công văn ca Hi đng Tr s Giáo hi Pht giáo Vit Nam gi Thin sư Thích Nht Hnh là v cao Tăng ca Pht giáo Vit Nam có nhiu công lao trong s nghip hong dương chính pháp và là v Thin sư hướng đo ca Pht giáo đ trên thế gii.

Thin sư Thích Nht Hnh tng là người ca Giáo hi Pht giáo Vit Nam Thng nht vn b chính quyn đàn áp và Đo tràng Mai thôn ca ông đc lp vi giáo hi nhà nước.

Khóa tu 7 ngày

Nghi thc tâm tang này được t chc theo di hun ca chính Thin sư Nht Hnh. Theo đó, tang l s không có nghi l, không kèn trng, không vòng hoa, không trướng lin theo truyn thng mà tr thành khóa tu im lng trong 7 ngày.

"Trong sut thi gian đó, kính xin quý v đến thăm viếng cùng thc tp chung vi chúng tôi tâm nim cúng dường đ cho toàn b tang L Tâm Tang được din ra trong s im lng, trang nghiêm, thanh tnh, tĩnh lng và nh nhàng", bn cáo bch viết.

Sau l trà t (tc ha thiêu) vào ngày 29/01, Thin sư s không được an táng trong các bo tháp như truyn thng mà xá li ca ông s được chia ra đ T đình T Hiếu và các t vin ca Làng Mai trên khp thế gii, cũng theo cáo bch.

Theo thi khóa tang l mà VOA có được, thì hot đng ch yếu trong 7 ngày tang l Thin sư Thích Nht Hnh là ngi thin, thin hành, tng kinh, tng gii lut. Riêng ngày cui cùng s có các nghi l cung tuyên tiu s, cung tin, l pht trn, l rước kim quan.

thiensu2

T đình T Hiếu đang bày trí hôm 22/01/2022 đ chun b cho tang l Thin sư Thích Nht Hnh

Hình nh phát trc tiếp t T đình T Hiếu trên trang mng xã hi ca Làng Mai cho thy trong ngày 22/1, khi chưa tm lim, nhc thân Thin sư trong trang phc nâu sng nm ngay ngn trên mt chiếc giường nh trong gian tht nh, không đp mt, hai tay khép li. Phía đu giường là bàn th nh đt dưới mt di nh ln. Mt s pháp t qu xung quanh trong khi mt s khác đến l ly, chiêm bái ri lui ra.

‘Không khí yên ng

Có mt T đình T Hiếu ngay sáng sm ngày 22/1, anh Phm Châu Thương, pháp danh Tâm Đo H, cư sĩ tiếp hin ca Pháp môn Làng Mai đến t thành ph H Chí Minh, cho biết anh đã mua vé bay ra Huế ngay trong đêm sau khi biết tin Sư Ông Làng Mai viên tch.

Theo li anh mô t thì mi người đang đ v T Hiếu nhưng không khí rt là yên lng. "Nếu ai đó đi vào chùa s không biết là đang có l tang ca mt v cao tăng. Mi người vào, đnh l, vãn cnh ri ngi ngh theo tng nhóm rt là yên lng", anh nói vi VOA.

Theo li anh thì chính quyn s ti có ct c công an đến gi gìn trt t và ngay trong bui sáng, các v cao tăng Huế đã có mt đy đ nhưng không có vòng hoa.

"Trong không khí yên lng bao trùm đó thì tt nhiên bt c ai đến viếng đu không th n ào", anh Thương, vn đi theo Pháp môn Làng Mai t năm 2005 khi ln đu tiên Thin sư Thích Nht Hnh v nước, nói thêm.

Anh cho biết trong lúc nhà chùa đang dng rp, đt bàn th, làm long v đ chun b phát tang vào ngày mai thì đã có nhiu người xin vào đnh l nhc thân ca Sư Ông nhưng không được vì không gian cht hp.

"Cho nên các Pht t c tùy nghi. Có người đng đnh l t xa. Có người đi mt vòng thin hành. Có người đng vòng ngoài vái vng xong ri v", anh cho biết.

K v giây phút cui cùng ca Thin sư, anh nói vi VOA là anh nghe quý Thy k li rng Sư Ông nm yên, mt yếu dn và đi thôi ch không có biu hin gì’.

‘Đ tang trong lòng

V cư sĩ tiếp hin này gii thích rng tâm tang là đ tang trong lòng và cho biết đây là tp quán trước gi ca Tăng thân Làng Mai và đã được Thin sư Thích Nht Hnh hướng dn cho các đ t khi Thy còn khe.

"Bn thân tôi theo Thy đã lâu, tôi chp nhn hình thc (tâm tang) này", anh nói và cho biết anh đã thuyết phc được gia đình làm tâm tang khi cha anh qua đi.

"By ngày khóa tu là đ mi người tr v sng vi giây phút hin ti như điu mà Sư Ông luôn nhc nh các xut sĩ và cư s", anh nói thêm. "Đó là cách tt nht đ tưởng nh bc Đo sư ch không phi nghi l, cúng kiếng rìng rang hay than khóc".

Theo anh Thương gii thích vì vic t chc tâm tang cho Thin sư Nht Hnh là vn đ ‘được c hi đng giáo th Làng Mai quyết đnh vì đây là điu mà chúng tôi lĩnh hi t Thy.

Riêng ngày tang l cui cùng, anh cho biết s làm theo nghi l truyn thng theo ý nguyn ca quý Thy T đình T Hiếu.

Do đó, trong nhng ngày tang l, anh nói hàng cư sĩ và xut sĩ s theo đúng thi khóa, gi s yên lng, đi li nh nhàng và làm nhng điu thin đ hi hướng công đc cho Thy.

Anh Thương tr thành cư sĩ tiếp hin, tc hàng đ t ti gia tiếp xúc vi giây phút hin ti t năm 2013 (Triết lý ca Làng Mai là sng sâu sc giây phút hin ti). Anh cùng v đã t chc tăng thân ti gia thành ph H Chí Minh được 10 năm đ truyn pháp môn cho gii tr bên cnh công vic chính ca anh là ch mt công ty du lch.

Anh cho biết nhóm tăng thân ti gia ca anh thành ph H Chí Minh vào ti ngày 22/10 s có bui ngi thin ‘đ gi năng lượng bình an đến Sư Ông và cũng đ ‘ôn li công hnh, nhng li dy ca Sư Ông đ xem mình hc được nhng gì, đã tiếp ni được nhng gì ca Thy.

"Các tăng thân, đo tràng ca Làng Mai trên khp thế gii cũng làm như vy", anh cho biết.

‘Thy không mt đi

Gii thích v thái đ có phn bình thn này, v cư sĩ tiếp hin này nói : "Có th mi người cũng có đau bun trong lòng, nhưng có l chúng tôi đã được Thy dy khá k v không sinh, không dit, không s hãi".

Chúng tôi đu hiu rng Thy không mt đi mà s còn được tiếp ni trong chính các hc trò’.

"Tôi quán chiếu điu này khá thường xuyên nên khi người thân mình mt và bây gi là Sư Ông, dù có bun nhưng tâm lý đã chun b nên tâm khá an", anh nói.

Khi được hi Pháp môn Làng Mai s tiếp ni thế nào nếu không còn Thin sư Nht Hnh làm người dn đường, anh nói : "Giáo pháp Thy đã dy hết, trao hết ri. Nếu thc hành li dy ca Thy, sng theo giáo pháp đó, thì nó s được trao truyn cho thế h tương lai".

"Giáo pháp còn mãi không phi vì Sư Ông còn sng hay không", anh nói thêm và cho biết đó là lý do anh duy trì sinh hot tăng thân ti gia ‘đ c gng trao truyn nhng gì mình đã hc được cho các bn tr.

Anh Thương cho biết hin gi có rt nhiu môn đ pháp quyến ca Thin sư Thích Nht Hnh nhiu nơi trên thế gii mun đến Huế tham d tang l nhưng trong hoàn cnh dch bnh chc chn nhiu người s v không kp dù tang l được kéo dài đến 7 ngày.

"Ví d như các v bên Thái Lan, mi tun có hai chuyến bay, mt chuyến là ngày hôm nay thì đi xét nghim bng PCR s không kp, còn đ đến chuyến sau thì quá tr vì v còn phi cách ly ba ngày na nên h đang tính đi đường vòng qua Singapore", anh nói.

Ngọc Lễ

Nguồn : VOA, 22/01/2022

************************

Sng Tnh Thc vi Thiền sư Thích Nht Hnh

Ngô Nhân Dụng, VOA, 22/01/2022

Trong cun "Không Dit, Không Sinh, Đng S Hãi" (dch tiếng Anh :No Death, No Fear), Thin sư Nht Hnh nói rng sng và chết ch là nhng ý nim không có tht. Biết như vy thì mình không còn s cái chết na. Các đ t ca ông đang cn suy ngm điu này sau khi nghe tin thy qua đi.

thiensu3

Trang web Làng Mai thông báo v s ra đi ca Hòa Thượng Nht Hnh. (Hình : Trích xut t plumvillage.org)

Tháng Hai năm 2019, tun báoTime  M viết, "V sư dy Thế gii v Sng Tnh Thc đang ch ngày chm dt cuc đi ;" nhn xét rng : "Nht Hnh được nhiu người phương Tây gi là cha đ ca mindfulness. Ông dy rng ai cũng có th là nhng v b tát, bng cách sng hnh phúc trong nhng công vic tm thường như khi gt mt trái cam hay nhp mt hp trà, mt cách tnh thc".

Thiền sư Thích Nht Hnh không phi ch đóng góp vào vic ph biến phương pháp "Sng Tnh Thc". Ông đã ni kết các tư tưởng sâu xa trong kinh đin đo Pht Bc tông (thường gi là Đi Tha) vi nhng các phương pháp hành trì được Nam tông chú trng, như Thin Hành và Thin Minh Sát, Vipassana.

Đây là mt truyn thng ca Phật giáo Vit Nam, t nhiu đi. Thích Nht Hnh cho thế gii nhìn thy và công nhn có mt nn Phật giáo Vit Nam mà ông là người tiêu biu, bên cnh các truyn thng Phật giáo n Đ, Trung Hoa, Nht Bn, Tây Tng, Miến Đin, Thái Lan, vân vân, đã được truyn bá rng t trước.

Nước Vit Nam là nơi Pht giáo Nam tông và Bc tông đu có mt. Mt kinh căn bn được Pht giáo Nam tông hành trì là Anapana đã được Thin sư Khương Tăng Hi Giao Châu dch thànhAn Bang Th Ý t thế k th ba. Thin sư Thích Nht Hnh thường khuyên ni người thc tp "thin hành", mt phương pháp mà các v tăng sĩ Thái Lan, Miến Đin, Campuchia thc tp mi ngày.

Đi vi gii truyn thông phương Tây thì nói đến Thích Nht Hnh là h nghĩ ti "mindfulness", và ngược li. Ngày nay, mindfulness đã thành mt phong trào, t sinh hot tâm linh, văn hóa, xã hi, đến c trong kinh doanh và quân s !

Đu tháng Tư, 2019, nht báoNew York Times loan tin quân đi M cũng tp mindfulness. Tướng Walter Piatt, ch huy quân M Iraq mi bui sáng ngi th chm và đu, bp tht cm th lng và mt chăm chú nhìn vào mt cây da. Ông cho thuc cp tp "quán nim" đ ci thin kh năng chú ý và ngăn nga bnh tâm thn do căng thng gây ra vì chiến trn. Ông đã đc kết qu các cuc nghiên cu ca bà Amishi Jha, mt giáo sư tâm lý hc Đi hc Miami.

Hi quân Hoàng gia Anh, quân đi các nước Hòa Lan và New Zealand cũng đang áp dng mindfulness trong chương trình hun luyn. Trong tun đu tháng Tư, khi NATO có mt cuc hi tho v phương pháp mindfulness Berlin.

C 10 người M thì có 6 người đã th tp Mindfulness. Các công ty Google, Apple, General Mills, Goldman Sachs và Aetna đang cho nhân viên thc tp. Năm 2012 có 260 triu đô la u tư" vào Mindfulness. "Công ngh quán nim" mi năm thu nhp 1,2 t đô la.

T năm 2006, Công ty General Mills Golden Valley, Minnesota, bt đu có nhng bui ngi thin na gi vào bui sáng, nghe chuông và theo dõi hơi th. Công ty bán l Target, ti tr s Minneapolis, có nhng bui tp quán nim hàng tun. Ông tng giám đc trông thy mt nhân viên va đi va ngó vào iPhone, cũng nói đùa, "Này, đi đng cho mindfully nhé !"

Mt phn tư trong s 50.000 nhân viên ca Aetna đã tp quán nim ít nht mt ln. Và hãng bo him y tế này nói h thy hiu qu. H tính ra thành các con s và tin : Nhng người tu tp thy gim bt trng thái căng thng (stress) được 28 phn trăm, 20% ng ngon hơn, và 19% bt đau nhc. Nh thế năng sut làm vic tăng lên, trung bình mi người mt tun làm vic thêm 62 phút. Tính ra, mang li thêm 3.000 đô la mt năm !

Ti Thung Lũng Đin T, California, Công ty Intel bt đu chương trình Awake@Intel t năm 2012. Google có người đc bit ph trách chương trình dy quán nim, titr scó nhng phòng cho nhân viên vào ngi thin bt c gi nào. Năm 2013 Google đã mi Hòa thượng Thích Nht Hnh, cùng hơn 100 tăng ni Làng Mai t Pháp qua ging và dy thc tp. Ông nói vi h : "Chúng ta đang b tràn ngp thông tin. Có l mình không cn nhiu thông tin như thế !".

Mindfulness được đin t hóa vi hàng ngàn "apps" đ tp quán nim qua computer. Công ty Headspace sn xut mt app trong s này, đã được cài trên máy bay ca tám công ty hàng không, cho hành khách tp thin. Headspace đang thiết kế nhng "phòng thư giãn cá nhân", ging như phòng đin thoi công cng đi xưa, đ ai mun thì ghé vào đó thin quán trong chc lát.

Thin sư Thích Nht Hnh đã được mi nói chuyn v quán nim vi các nhân viên và mt s đi biu quc hi M. M, ông đã hướng dn các khóa tu cho cnh sát viên, cho nhân viên coi nhà tù, có người sau đó đã tu tp tr thành giáo th. Tu vin Làng Mai Pháp đã làm mu cho các tu vin khác Bc M và Âu châu. Ti nước M có các tu vin Bích Nham (New York), Lc Uyn (California), Mc Lan (Mississippi).

Đo Phât và vic hành trì thin quán đã được truyn sang M và các nước phương Tây t nhiu thế k. Đi sư Vivekananda đã đi ging ti M và Anh trong nhng năm 1894 đến 1896. Ông nói, "Tôi mang ti Phương Tây bn thông đip mà Đc Pht đã tng cho người Phương Đông". Trong thế k 20, Jiddu Krishnamurti cũng t n Đ đã qua M dy thin quán mà không cn gi đó là Phật giáo. Thin sư Shunryu Suzuki t Nht Bn đem theo truyn thng "Zen" phái Tào Đng, lp ra thin vin ln đu tiên trên đt M. Đc Đt Lai Lt Ma đã khai th đo Pht Tây Tng cho hàng triu người tp sng T bi và Trí tu.

Nhưng Thin sư Thích Nht Hnh nh hưởng rng nht vì ông dy các điu gin d, c th, ai cũng có th làm, ngay trong đi sng bình thường. Thin, Zen, không còn là mt bí quyết dành cho các tu vin. Ai cũng có th thc tp. Nhiu người đã thy là chính h chuyn hóa ; không nhng bn thân mình hnh phúc hơn mà còn sng vi người chung quanh hòa hp hơn.

Người sáng lp công ty Salesforce là Marc Benioff (tài sn 10 t m kim), đi d mt khóa tu ca Thích Nht Hnh, thy chính mình thay đi. Ông mi hòa thượng, hoc các tăng ni Làng Mai đến dy nhân viên v Hiu và Thương (T Bi, Trí Tu) nhiu ln. Năm 2015 ông gi máy bay riêng đưa hòa thượng t Pháp qua San Francisco tr bnh ; nhường mt ngôi nhà ca ông cho các tăng ni tm trú c năm tri.

Trong cun sách đu tiên gây nh hưởng trong gii tp thin phương Tây, Thích Nht Hnh k li kinh nghim tu tp ca mình khi vào chùa T Hiếu. Mi khi làm bt c vic gì, chú tiu đu đc my câu thơ ngn. Đó là nhng bài "k" nhc nh người sa di ý thc mình đang làm gì và ch chú tâm vào c ch, hành đng mình đang làm mà thôi. Nh thế, tâm an lc, gi là có chánh nim, Thích Nht Hnh nói gin d, là "sng trong giây phút hin ti". Cun "Phép L Ca S Tnh Thc" viết t thi 1960, nay đã được dch ra bn, năm chc th tiếng, bn tiếng Anh là Zen Key.

Theo đúng truyn thng Bc tông, ông đã nhn mnh rng tp sng quán nim không ch nhm tìm hnh phúc riêng cho mi người. Phi tp sng an lc vi nhng người chung quanh, t gia đình ti nhng người cng s, vi xã hi và vi c trái đt đang nuôi dưỡng mình.

Thích Nht Hnh vn là mt thi sĩ, nhà văn và mt thy giáo. Ông s dng th ngôn ng truyn đt d dàng, nhanh chóng. Ông chia s nhng rung đng, xao xuyến, âu lo ca con người bình thường, nên nhng li ông nói đi thng vào tâm hn h. Như khi ông nói, c Pht là mt người giác ng, yêu thương và tha th. Có nhiu lúc các bn cũng thy lòng mình như vy. Thế thì, hãy vui sng lúc mình là Pht đi".

Nhng người tp mindfulness không nht thiết phi theo đo Pht. Như Vivekananda nói M hơn 100 năm trước, "Tôi ti đây không phi đ mi các bn theo mt tín ngưỡng mi. Tôi mong quý bn gi tín ngưỡng ca mình. Mt người theo Methodist s thành mt người Methodist tt hơn ; mt người Presbyterian thành người Presbyterian tt hơn"… Thích Nht Hnh luôn luôn khuyên người phương Tây không nên b đo. Cho nên trong các khóa tu Làng Mai bên Pháp, có các mc sư, có linh mc, c người Hi giáo và Do Thái giáo đến tham d.

Vivekananda và Thích Nht Hnh đu theo đúng truyn thng Pht giáo. Đc Pht cng hiến mt cách sng, ch không có ý lp ra mt tôn giáo mi. Người tu tp theo Đc Pht có th chia s kinh nghim tâm linh vi tín đ các tôn giáo khác. CunLiving Buddha, Living Christ ca Thích Nht Hnh xut bn trước đây 20 năm đã được hàng triu người mua trong my năm đu.

Tr v Vit Nam sng nhng ngày cui cùng, Thin sư Thích Nht Hnh có th giúp Pht giáo quê hương mình tìm đường tr v ngun. Cách sng trong Làng Mai đưa người Vit tr v gn vi Pht giáo dân tc hơn. Như mt ni cô k, "ti Làng Mai, chúng tôi cười đùa vui v sut c ngày, nhưng không mt ai trong chúng tôi có tài khon ngân hàng thuc s hu cá nhân. Không ai trong chúng tôi có xe hơi hoc đin thoi riêng"… Chc ai cũng mong mun được sng hnh phúc gin d như thế, dù ít người làm được !

Ngô Nhân Dụng

Nguồn : VOA, 22/01/2022

***********************

Việt Nam : Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch ở tuổi 95

Anh Vũ, RFI, 22/01/2022

Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam và thế giới đã viên tịch lúc 00 giờ ngày 22/01/2022 tại chùa Từ Hiếu, thành phố Huế, ở tuổi 95, theo thông báo của Tăng đoàn Làng Mai tại Pháp.

thiensu4

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và các gia đình phật tử trong một ngày lễ hội của Phật giáo ở thiền viện Làng Mai, Thènac, Dordogne, Pháp, ngày 06/08/2004  AFP – Derrick Ceyrac

Chùa Từ Hiếu là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh bắt đầu nghiệp tu hành cách đây 80 năm. Ông sinh năm 1926 tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình có 6 anh chị em. Tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo, 16 tuổi xuất gia đi tu đến năm 25 tuổi trở thành nhà sư Nhất Hạnh.

Từ năm 1960, sư ông đã theo học tại đại học Princeton, Hoa Kỳ và giảng dạy thần học nhiều năm ở đại học Cornell Columbia. Năm 1966 nhà sư lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều thiền viện ở nhiều nước để truyền bá triết lý đạo Phật. Đây là quãng thời gian mà phương Tây biết đến vị tu sĩ Phật giáo này như một nhân vật tích cực hoạt động phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sau Hiệp định Paris được ký kết 1973, ông ở lại Pháp và lập ra Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne, tây nam nước Pháp, tiếp tục hành đạo, tu thiền, thuyết giảng đạo Phật và đã thu hút được đông đảo những thành phần tôn giáo, chính trị khác nhau ở Pháp cũng như nhiều nước khác.

Quan hệ của Thiền sư với chính quyền Việt Nam cũng trải qua nhiều thăng trầm, bị nhiều nghi kỵ, thậm chí nhà sư có lúc còn bị những cáo buộc vu khống về chính trị. Sau bốn chục năm hoạt động Phật giáo ở nước ngoài, năm 2005, thiền sư được chính quyền Việt Nam cho phép về thăm quê hương.

Sau đó, nhà sư tiếp tục các hoạt động tu tập và phổ biến đạo Phật, chủ yếu ở ngoại quốc. Năm 2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh bị tai biến mạch máu não. Sau khi được điều trị sức khỏe tương đối ổn định tại Pháp, năm 2018, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về chùa Từ Hiếu, Huế, tịnh dưỡng cho đến ngày cuối cùng cuộc đời trần thế.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ nổi tiếng là một triết gia Phật giáo có kiến thức uyên thâm ghi dấu ấn với khái niệm "Phật giáo dấn thân", theo đó đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống xã hội, bao gồm cả chính trị, mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Trong cả cuộc đời tu hành của mình, thiền sư đã để lại hơn 100 đầu sách về đạo và đời, bao gồm các lĩnh vực từ tôn giáo, tu tập, thiền, nghệ thuật sống, quan hệ xã hội… trong đó có hàng chục tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và được độc giả quốc tế đón nhận.

Ở phương Tây, Thích Nhất Hạnh được đánh giá là một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, một nhà triết học, thần học truyền bá những thông điệp từ bi, nhân bản để xóa bỏ hận thù, đã được nhiều cộng đồng lắng nghe.

Rất đông các hãng truyền thông quốc tế ngày hôm nay 22/01, đưa tin về sự ra đi của thiền sư Thích Nhất Hạnh với sự ngưỡng mộ một con người đã có nhiều đóng góp cho Phật giáo và hòa bình thế giới.

Anh Vũ

*****************************

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Nguyễn Tuấn, VNTB, 22/01/2022

Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây,

Mỉm cười chánh niệm, an trú hôm nay.

Bụt là lá chín, Pháp là mây bay,

Tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này.

thiens5

Thông tin từ Làng Mai cho biết Thiền sư Thích Hạnh mới qua đời lúc 0 giờ ngày 22/1/2022 ở Việt Nam [1]. Ông thọ 95 tuổi. Việt Nam đã mất một người con ưu tú, và Phật giáo thế giới đã mất một trong những danh nhân ưu tú nhứt. Ông hơn là một thiền sư, mà còn là giảng sư, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động vì hòa bình thế giới.

Ông được xem là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ 2 ở phương Tây, chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông là tác giả của hơn 100 cuốn sách xuất bản từ trước 1975 cho đến nay. Vào hiệu sách nào ở phương Tây đều có 2 khu sách dành cho ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một số cuốn sách nổi tiếng mà tôi còn giữ trong tủ sách như Đường xưa mây trắng, Phật trong ta, Chúa trong ta, v.v.

Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sanh ngày 11/10/1926 ở Thừa Thiên, Huế. Thời niên thiếu, ông đã được tiếp xúc với sách vở và tư liệu Phật giáo, nên năm 16 tuổi ông quyết định xuất gia tại chùa Từ Hiếu (Huế) và được hòa thượng Thanh Quý Châu Thật đặt pháp danh là Trừng Quang và pháp hiệu là Nhất Hạnh. Qua nhiều năm học hành và tu tập, ông chánh thức trở thành nhà sư năm 23 tuổi. Ông theo phái tu Đại Thừa.

Thiền sư Nhất Hạnh là một thành viên quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (không phải giáo hội ngày nay mà người ta hay đùa là ‘giáo hội quốc doanh’) trước 1975 ở miền Nam. Tuy nhiên, Phật giáo thời đó có 2 ‘trường phái’ không thuận nhau : trường phái Ấn Quang do Thích Trí Quang và Thích Nhất Hạnh lãnh đạo, và trường phái Việt Nam Quốc Tự do hòa thượng Thích Tâm châu lãnh đạo. Theo đánh giá của chánh quyền VNCH, phái Ấn Quang thiên về cánh tả và ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, còn phái Việt Nam Quốc Tự thì ôn hoà.

Thiền sư Nhất Hạnh là một trong những thành viên sáng lập Viện Đại học Vạn Hạnh vào năm 1964. (Hai sáng lập viên khác là học giả Hồ Hữu Tường và Đoàn Viết Hoạt, cả hai đều đi tù sau 1975). Vạn Hạnh là một viện đại học tư thục Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam, và dưới sự điều hành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ban giảng huấn Viện Đại học Vạn Hạnh bao gồm nhiều học giả nổi tiếng như Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (tức thầy Lê Mạnh Thát) và Thích nữ Trí Hải. Tuy nhiên, sau 1975 thì Viện Đại học Vạn Hạnh bị nhà cầm quyền mới giải thể, và cả hai thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu bị kêu án tử hình.

Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh có thể nói là khá… sóng gió. Ông là người đề xướng trường phái "Engaged Buddhism" (Phật giáo Dấn thân). Ông từng tuyên bố "Khi bom dội lên đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện. Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn". Do đó, theo ông, người theo Phật không chỉ tu thân, mà còn phải hành động vì một mục tiêu hay một chủ trương. Dấn thân do đó bao gồm những việc làm như nhận trẻ mồ côi để nuôi, làm thiện nguyện, thậm chí nhập ngũ, hay nói chung là ‘nhập thể’. Nhập thể là đi tu không phải chỉ giới hạn trong chùa, trong thiền am, mà phải ra ngoài xã hội là tác động.

Cả đời của ông có thể nói là hành động theo trường phái dấn thân đó. Ngay từ thập niên 1960, ông đã lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Sài Gòn, qui tụ hơn 10.000 thanh niên và sinh viên. Thanh niên Phụng sự thực chất là một tổ chức xã hội dân sự nhằm cứu trợ trẻ mồ côi trong chiến tranh. Ông cho biết triết lí đằng sau của Thanh niên Phụng sự là : "Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền".

Một trong những dấn thân của ông gây ra nhiều tranh cãi là chống chiến tranh. Ngay từ giữa thập niên 1960 ông đã kêu gọi "Đã tới lúc hai miền Nam – Bắc của Việt Nam họp lại để tìm ra một giải pháp để chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, để mọi người Việt Nam đều được sống trong hòa bình và lòng tôn trọng lẫn nhau". Nhưng dĩ nhiên, lời kêu gọi của ông chỉ được một bên nghe, còn một bên thì xem ông là … phản động. Thiền sư Nhất Hạnh là bạn của Martin Luther King và từng kêu gọi ông chống chiến tranh Việt Nam, tìm biện pháp hòa bình và tự do. Ông từng được đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình vào năm 1967.

Trong thập niên 1960s, ông đi thuyết trình hòa bình ở nhiều nơi ngoài Việt nam, kể cả Đại học Columbia (nơi ông tốt nghiệp thạc sĩ). Ông kêu gọi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Những hành động dấn thân của ông không được chánh quyền VNCH ‘mặn mà’. Do đó, từ sau Hòa đàm Paris 1973, ông không được quay về Việt Nam.

Không về được Việt Nam, ông sáng lập cộng đồng Phật giáo Sweet Potato (Khoai Lang) gần Paris vào năm 1975. Năm 1982, thì cộng đồng dời về vùng Dordogne thuộc tây nam nước Pháp và xây dựng nên Tu viện Làng Mai (Đạo tràng Mai Thôn) cho đến ngày nay. Ở đây (Làng Mai) ông tổ chức nhiều ‘workshop’ tu hành cho các nhà lãnh đạo chánh trị, doanh nghiệp, chuyên gia, trí thức phương Tây và trở nên một địa chỉ nối tiếng trên thế giới. Ông có rất nhiều đệ tử từ Làng Mai.

Sau nhiều lần ‘thương thảo’, mãi đến năm 2005, ông mới được nhà cầm quyền cho về Việt Nam. Trong chuyến đi đó, có hàng trăm tăng ni người Việt và người nước ngoài tháp tùng. Sau đó, ông còn có dịp về Việt Nam để tổ chức các khóa tu, giảng dạy, và diễn giả trong đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc năm 2008.

Năm 2014, thiền sư Thích Nhất Hạnh bị đột quị và phải điều trị ở Làng Mai (Thái Lan). Dù vậy, ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động Phật giáo. Năm 2018, thiền sư Nhất Hạnh về lại Việt Nam và ở chùa Từ Hiếu (nơi ông là một lãnh đạo tinh thần), với ước nguyện "lá rụng về cội". Ông viên tịch tại Từ Hiếu lúc 0 giờ ngày 22/1/2022.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã tạ thế, nhưng những di sản tinh thần của ông thì sẽ còn ở lại với đời rất lâu. Mỗi chúng ta có thể không có cùng quan điểm với ông về cuộc chiến vừa qua, nhưng tôi nghĩ ai cũng đồng ý rằng ông là một người Việt Nam xuất sắc và đã để lại dấu ấn Việt Nam rất sâu đậm trên trường quốc tế. Xin nhắc lại rằng ông là nhân vật Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhứt trên thế giới (chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma).

Ông để lại cho đời rất nhiều câu nói mang tính wisdom. Chẳng hạn như "Khi một người nào đó làm cho bạn đau khổ, bạn nên hiểu rằng chính người đó bị khổ đau lắm trong người và nỗi khổ đó lan tràn sang người khác. Không nên phạt người đó ; nên giúp người đó". Hay câu "Our own life has to be our message" (cuộc đời của chúng ta phải là một thông điệp của chúng ta). Thông điệp từ cuộc đời và sự nghiệp của ông là đấu tranh ôn hoà, hòa bình, hòa giải và hòa hợp.

Nhiều ý tưởng của ông sẽ còn khai thác trong tương lai. Riêng cá nhân tôi, nhắc đến ông là tôi nghĩ ngay đến bài "Bông hồng cài áo". Đó là một đoản văn viết về mẹ rất hay, và sau này được phổ thành một ca khúc rất nổi tiếng.

Tôi chưa bao giờ tu tập với ông, nhưng lúc nào cũng xem ông như một người Thầy (viết hoa). Những câu nói của ông là kim chỉ nam cho cuộc sống mà tôi lựa chọn. Cầu mong hương hồn thầy Thích Nhất Hạnh siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng.

Nguyễn Tuấn

Nguồn : VNTB, 22/01/2022

[1] https://plumvillage.org

Published in Diễn đàn