Trẻ ăn xin ở Việt Nam và trách nhiệm của nhà nước
An Thư, VNTB, 25/04/2022
Đi trên các thành phố tương đối đổi mới như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Sà-gòn người ta thấy nhan nhản cảnh người ăn xin rách rưới bệnh tật hoàn toàn trái ngược với những gì chính phủ rêu rao về việc họ quan tâm đến hạnh phúc của người dân. Chính phủ làm gì để ‘cải thiện’ tình trạng này ?
Những đứa nhỏ từng trong cảnh sống ăn xin lớn lên khó có thể trở thành người hữu ích cho xã hội, nếu không muốn nói chúng sẽ trở thành gánh nặng xã hội, nối tiếp gieo tệ nạn vào xã hội.
Dễ bắt được cảnh một người đàn bà rách rưới, bẩn thỉu bế một đứa nhỏ vài tháng hay vài tuổi quặt quẹo, cũng xanh sao vàng vọt, ngủ, hay bị cho uống thuốc ngủ thiếp trên tay ; hoặc bọn trẻ cả trai lẫn gái, 5,7 tuổi chìa tay gầy guộc dơ bẩn xin khách ăn uống trong quán, đồ ăn còn dư thừa... Nhiều lắm những đau lòng, ứa nước mắt như vậy, có kể mãi cũng không hết. Người ta kể những chuyện người lớn bẻ tay trẻ em biến chúng thành khuyết tật dẫn đi ăn xin. Người ta cũng kể bọn bất lương chăn dắt hàng chục trẻ em, bắt đi ăn xin, móc túi, hay bọn người lớn giả thương tật chìa tay chân ghẻ lở phong cùi nửa dọa khách, nửa gợi lòng thương hại xin tiền. Người ta nói về những chuyện cả làng ngoài Bắc vào Nam ăn xin.
Người ta nói về chuyện người giả ăn xin, người ta nói về người nghèo khổ, bệnh tật thật phải đi ăn xin. Dù thật hay giả, giải quyết cảnh những người ăn xin, những vết thương của xã hội là trách nhiệm của chính phủ.
Chính quyền đã làm gì để giải quyết chuyện này ?
Mỗi lần có hội nghị quốc tế ở một địa phương nào, chính quyền địa phương đó vội vã gom những người ăn xin, vô gia cư, tống những người này lên xe đưa đi đâu đó một thời gian ngắn, xong hội nghị, họ lại bị đuổi ra, trở về chỗ quen thuộc cũ hành nghề, lấp đầy vào mảng đêm xã hội đen tối nghèo nàn hòa với ánh lung lung đèn màu, tiếng nhảy múa xập xình hắt qua cửa sổ của giới tinh hoa lắm bạc, thừa tiền ăn chơi trác táng ; tô vẽ đúng thực trạng một xã hội xã hội chủ nghĩa mất định hướng đang diễn ra ở Việt Nam, song song với các tệ nạn đĩ điếm, ma túy, tham nhũng, lừa đảo trên thượng tầng xã hội, nơi các quan chức, đại gia cùng nhau tranh giành miếng ăn của nhau, và của những người ăn xin tận cùng đáy xã hội.
Nạn người trưởng thành lang thang, vô gia cư, ăn xin ngoài đường đâu cũng có, trong mọi xã hội, vì nhiều lý do, và rất khó giải quyết. Nhưng còn vấn nạn trẻ em tự đi một mình hay từng nhóm, bị người lớn chăn dắt, hay bế đi xin khi còn nhỏ không thể nào chấp nhận được. Nhiều quốc gia đã giải quyết được vấn nạn này. Việt Nam thì không, và vấn nạn này càng ngày càng bành trướng gây nhức nhối cho toàn xã hội.
Những đứa nhỏ từng trong cảnh sống ăn xin lớn lên khó có thể trở thành người hữu ích cho xã hội, nếu không muốn nói chúng sẽ trở thành gánh nặng xã hội, nối tiếp gieo tệ nạn vào xã hội. Nhưng lỗi ban đầu không phải do chúng. Do người lớn, do những người tổ chức nền nếp xã hội : chính quyền.
Đảng cộng sản và chính quyền Việt Nam luôn luôn nhận đứng về phía nhân dân, về phía người vô sản, đấu tranh quên mình cho tầng lớp vô sản, nhưng thực trạng nhếch nhác, bẩn thỉu trong xã hội phơi bầy ra trước mắt mọi người thì chính phủ xem như không có.
Quyền trẻ em được đưa vào hiến pháp của Việt Nam và lại còn có luật bảo vệ trẻ em. Chính phủ Việt Nam từng rêu rao là người sớm nhất ký vào công ước Liện Hiệp Quốc về bảo vệ quyền trẻ em.
Đáng lẽ ra Đcộng sản Việt Nam phải thấy việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em là vấn đề vô cùng quan trọng, liên quan đến tương lai đất nước. Đối với những trẻ may mắn được gia đình nuôi dưỡng cho ăn học, chúng bị chính sách giáo dục không căn bản, không định hướng, chỉ nhắm nặn nặn nên những con robot cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của, lúc đầu là thày cô, sau là đảng. Giáo dục Việt Nam tạo nên những đứa trẻ ích kỷ, ghen ghét, thích bạo lực, hay những đứa trẻ ù lỳ, thụ động, bất mãn, chán nản đến chọn cái chết để tự giải thoát khỏi áp lưc của gia đình, bạn bè, xã hội. Những đứa nhỏ kém may nắn phải đi ăn xin hay bị bắt đi ăn xin hoàn toàn không được chính phủ lưu tâm. Vô số bảng hiệu treo trên các cơ sở rộng lớn, bề thế của các hội đoàn, tổ chức xã hội bảo rằng lo cho người già, người nghèo, cô đơn, phụ nữ, trẻ em, nhưng mấy ai thuộc nhóm đối tượng này được lo lắng, giúp đỡ tận tình, thoát hoàn cảnh khó khăn.
Hiến pháp 2013 (Điều 37, chương II) quy định "Trẻ em có quyền được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục ; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em… Nhưng Việt Nam có nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, trẻ em ? Hay họ đã bỏ mặc, để kệ nạn lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em".
Việt Nam tham gia Công Ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em, "Trẻ em có quyền được chăm sóc đầy đủ và toàn diện ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi trưởng thành…". Cảnh tượng trẻ em còn đang ẵm ngửa bị người lớn bế đi ăn xin bày ra trước mắt mọi người. Cảnh hàng chục trẻ em rồng rắn lê lết ăn xin từng nghìn bạc lẻ, từng chén canh cặn, miếng ăn thừa. Cảnh các em sống đầu đường xó chợ, không được đi hoc. Chính quyền không thực sự muốn giải quyết những thảm cảnh thương tâm đó.
Luật Trẻ em (2016) từ Điều 23 đến Điều 32 quy định trách nhiệm của gia đình, nhà nước trong việc hỗ trợ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển của trẻ em, nhưng chính quyền quay mặt không giải quyết chuyện trẻ em bị cha mẹ hay người lớn dẫn đi ăn xin, không cho đi học.
Luật Lao động (2012) dành một chương riêng quy định trẻ được hưởng quyền bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu ; Có khi nào hội bảo vệ bà mẹ trẻ em cho những người đàn bà mang con nhỏ, lê la dọc đường được một hộp sữa ?
Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư còn như sâu sát hơn nữa, đã chỉ đạo cần đẩy mạnh việc xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh ; mở rộng..thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ ; quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em và đặc biệt cần xây dựng chương trình giáo dục quốc gia về gia đình… Những quy định này được áp dụng thế nào đối với những gia đình không nhà, không cửa, cha mẹ dẫn cả đàn con nheo nhóc đi ăn xin ? Họ có lẩn trốn hay khó kiếm đâu. Nhan nhản đầy đường ! Quan chức trong chính phủ, trong đảng không thấy họ vì chẳng bao giờ những kẻ bần hàn, rách rưới, ăn xin được đến gần các khu được canh gác cẩn thận dành riêng là biệt phủ, là nơi ăn chơi, nhảy múa, tụ tập nhậu nhẹt, hút xách của các quan lớn.
An Thư
Nguồn : VNTB, 26/04/2022
*************************
Dạ Lữ Viện : có ai còn nhớ ?
Phú Nhuận, VNTB, 26/04/2022
Nhân bài viết "Trẻ ăn xin ở Việt Nam và trách nhiệm của nhà nước" đăng trên trang Việt Nam Thời Báo, xin được kể về một Sài Gòn từng có một khu gọi là "Dạ Lữ Viện".
"Dạ Lữ Viện" là cái tên mà đến tận năm 2018 người ta vẫn còn nhắc đến…
Tư liệu cho biết, ngày 16/11/1949, Dạ Lữ Viện ở số 345 Galliéni, Sài Gòn được khánh thành sau một thời gian xây dựng theo đề xuất của Bộ Xã hội. Ngôi viện này được dành cho người thất cơ lỡ vận, không nơi ngủ hằng đêm có thể đến để trú ngụ.
Rộng khoảng 200m2, mái ngói và các gian nhà được kiến trúc giống một cánh cửa mở vào một ngôi chùa. Với kiến trúc và cái tên viện như thế, có lẽ chính quyền muốn cho người mang kiếp nạn của phận làm người không no ấm khỏi có cảm giác là người được bố thí.
Đến khi ông Ngô Đình Diệm nắm chính phủ, những cuộc đụng độ thường xuyên khiến Dạ Lữ Viện tan hoang và số phận những con người ở đây trôi dạt tứ phương. Ngôi nhà Dạ Lữ Viện trở thành Ty Cảnh sát công lộ từ năm 1968 với tên là Cảnh sát Lưu Thông.
Một tài liệu lưu trữ thuật rành mạch như sau : Asile de nuit còn gọi là Dạ lữ viện địa phương được thành lập dưới thời chánh phủ Trần Văn Hữu nằm tại đại lộ Gallieni tức là Trần Hưng Đạo về sau. Tòa nhà với cổng chánh có 3 cạnh với nóc tựa mái chùa nằm ở giữa và hai bên là hai dãy phòng và nhà ăn để phục vụ cho những người không nhà tá túc qua đêm và có miếng ăn. Dạ lữ viện địa phương được khánh thành vào ngày 16 tháng 11 năm 1949 vào lúc 18g30 bởi thủ tướng Trần Văn Hữu và ông trường quản lý vùng Sài Gòn – Chợ Lớn.
Năm 1957, Ty cảnh sát công lộ nằm sau lưng của tòa nhà Quốc hội bị thu hồi và năm 1968 dời về Dạ lữ viện địa phương làm bộ chỉ huy.
Dạ lữ viện cῦng tổ chức một văn phὸng giới thiệu việc làm. Với danh sách người xin việc và thông tin việc làm được cập nhật mỗi tuần, văn phὸng được cho là giúp công ăn việc làm cho trên dưới 200 người từ thư kу́, lái xe đến giúp việc và phu phen.
Cὸn "Bὶnh dân phạn điếm" do kiến trúc sư Vō Ðức Diêm xây dựng gần chùa Phổ Giác thὶ được báo Trung Bắc Tân Văn, số ra ngày 17/3/1940 gọi bằng cái tên "nơi cực lạc của những kẻ đầu đường xό chợ".
"Dạ Lữ Viện" lại đến nhắc đến ở những năm đầu 2000 với tin tức về khu nhà tập thể Dạ Lữ Viện, tại số 42/6 và 42/10 Nguyễn Văn Cừ, phường Cầu Kho, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi cư ngụ của người nghèo tứ xứ, sống chen chúc, tạm bợ trong những căn phòng rách nát. Nhiều người vật lộn với đủ thứ nghề để kiếm sống và không ít bà mẹ già tiều tụy vì con…
Tin tức cho biết, năm 1982, khi một số hộ dân tại khu vực Dạ lữ viện ở Sài Gòn trước đó đi kinh tế mới trở về không có nơi cư trú, sống lang bạt trong chợ Nancy thì chính quyền địa phương đã bố trí một làm nơi tạm cư cho họ và gọi luôn tên khu Dạ Lữ Viện.
"Ấn tượng đầu tiên khi chúng tôi đến căn nhà chung Dạ Lữ Viện là hàng chục ô nhỏ dành cho từng căn hộ chưa đầy 6 m2 liền kề nhau trong một không gian tối tù mù, dù là lúc này mới 2 – 3 giờ trưa.
Một ô nhỏ như thế này phải gồng mình từ 5 đến 7 nhân khẩu nên chỉ có những đứa trẻ hoặc người già mới được "ưu tiên" ở trong nhà. Còn thanh niên phải đem ghế bố ra ngoài đường để ngủ. Chị Lê Thị Hà, một người cư ngụ lâu năm tại đây, cho biết : "Khổ nhất là gặp trời mưa, những người ngủ ngoài đường phải trú mưa ở các khu nhà xung quanh chờ trời sáng. Đó là chưa kể những nguy hiểm rình rập như tai nạn giao thông do người đi đường say xỉn hay phụ nữ bị sàm sỡ…" – trích ghi chép của một nhà báo.
Một ghi chép khác vào năm 2008 mà có lẽ giờ đây nhân vật chính cũng đã mãn phần : "Bà Nguyễn Thị Nguyệt, 42/10 Nguyễn Văn Cừ, có người con gái bị phạt tù vì buôn bán ma túy, phải nuôi 3 đứa cháu và 3 đứa chắt. Bà Nguyệt đã kề cái tuổi 80 mà hàng ngày vẫn thức dậy từ 4g sáng để luộc ốc bán.
Bà bộc bạch rằng, đã hơn 50 năm rồi, cuộc đời bà gắn liền với con ốc. Đến bây giờ, khi chợ Nancy bị giải tỏa, bà và quầy ốc của mình lại lui vào trong con hẻm nhỏ chật chội. Bà bám vào cái sạp ốc ấy để sống qua ngày.
Đôi tay run run khều những con ốc trên chiếc chảo nóng, khóe mắt bà tèm nhem vì khói bụi, mái tóc bạc phơ, cái lưng khom, gầy yếu… Tôi chợt nghĩ, có lẽ chỉ cần một cơn gió mạnh cũng đủ cuốn bà đi. Vậy mà ít ai ngờ đã mấy chục năm, bà nuôi 6 đứa con và một đàn cháu.
Giọng bà run run : "Chồng chết từ năm tôi mới 27 tuổi nên tôi phải kiếm sống nuôi con một mình. Rồi 3 đứa con trai lần lượt chết, một đứa con gái đi tù, bỏ lại cho tôi một đàn cháu, chắt. Tiền bán ốc mỗi ngày được 50.000 đồng, trừ chi phí thì tiền lời chẳng còn bao, mà vẫn phải thức khuya dậy sớm. Cả đời tôi, chắc không thể thoát được cái nợ đời, nợ kiếp với con ốc này đâu !". Nói xong, bà đưa tay chùi mắt…".
Xόm nhὀ ổ chuột nghѐo nàn gần chợ Nancy có cùng cái tên "Dạ Lữ Viện" đã bị "giải tỏa", và người viết tin rằng vẫn đang có nhiều xóm nhỏ ổ chuột khác đang theo bước chân sinh kế của người nghèo nơi đô thị.