Việt Nam muốn dạy học sinh "tư duy phản biện" và "tư duy lịch sử" nhưng vẫn chưa khỏi vòng kim cô
RFA, 02/05/2023
Tháng 8 năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công bố "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử". Trong chương trình này, Bộ Giáo dục xác định sẽ dạy cho học sinh các kỹ năng "tư duy lịch sử" (historical thinking skills) và "tư duy phản biện" (critical thinking skills.)
AFP
Tư duy lịch sử được Chương trình khung nói trên giải thích là "nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử", "hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập", "tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết về diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp".
Quan niệm coi việc giáo dục lịch sử là giáo dục kỹ năng, "tư duy lịch sử" là một điều mới ở Việt Nam ngày nay ; nhưng không mới ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa ra yêu cầu khá chi tiết đối với việc giáo dục "tư duy lịch sử" cho học sinh trong "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" công bố tháng 8 năm 2022 có thể được coi là một bước tiến bộ hay không ? RFA trao đổi với một số chuyên gia quốc tế về vấn đề này.
Cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979 được viết sơ sài trong Sách giáo khoa lớp 12. (Ảnh : Đại học Quốc gia Hà Nội)
Vì sao "tư duy lịch sử" lại quan trọng ?
Trong một bài viết bằng tiếng Anh gửi cho RFA để chia sẻ về những trải nghiệm cá nhân đối với việc học sử ở Hoa Kỳ thời kì trung học, Tiến sĩ Nu-Anh Tran, một Giáo sư sử học ở Đại học Connecticut, cho biết trong chương trình Tú tài Quốc tế (International Baccalaureate - IB) mà bà được học hồi nhỏ ở bang Washington, bà và bạn học đã được thực hành tranh luận với nhau về cách diễn giải quá khứ. Dưới đây là một trích đoạn trong bài được RFA dịch sang tiếng Việt.
"Cuộc tranh luận về lịch sử đầu tiên mà tôi từng đọc thời trung học là một loạt bài viết về nguyên nhân của Cách mạng Nga, và các tác giả thực sự không đồng ý với nhau. Đọc những bài báo đó, tôi nhận ra rằng lịch sử không chỉ là về những sự thật và sự kiện về những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà còn là cách chúng ta giải thích và diễn giải những sự kiện đó, cũng như tầm quan trọng của những sự thật đó. Các nhà sử học không phải là tác giả sách giáo khoa thông thạo mọi thứ, mà là những nhà tư tưởng tìm kiếm và vật lộn với bằng chứng, để đưa ra những lập luận cạnh tranh với nhau về cách hiểu quá khứ".
Giáo sư Olga Dror, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam ở Đại học Texas A&M, giải thích với RFA vì sao trên thế giới người ta lại quan niệm về giáo dục lịch sử như vậy. Theo Giáo sư Olga, sử học không phải là một khoa học chính xác như các môn khoa học tự nhiên hay một số môn khoa học nghiên cứu về xã hội (như kinh tế học, xã hội học). Đó là một môn học có tính "chủ quan". Khi nhìn về quá khứ, chúng ta không có "quá khứ" mà chỉ có "tư liệu về quá khứ". Chúng ta phải nghiên cứu các tư liệu này và diễn giải chúng để tạo ra nhận thức về lịch sử. Vì vậy, mỗi người với những tư liệu khác nhau, cách phân tích tư liệu khác nhau, sẽ cho ra những nhận thức khác nhau về quá khứ. Chính vì lí do này, bản thân việc "nghiên cứu tư liệu lịch sử" và "diễn giải tư liệu lịch sử", tức là "kĩ năng tư duy lịch sử", trở nên vô cùng quan trọng.
Vẫn chưa đi ra khỏi vòng kim cô ?
Trao đổi với RFA, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị học, Đại học Oregon, cho rằng chúng ta phải xem cách Bộ Giáo dục hay tác giả các bộ sách giáo khoa cụ thể hóa chương trình khung này thì mới đánh giá được. Giáo sư nói :
"Việc nhấn mạnh vào các kĩ năng tư duy này là rất tốt, là cái mới. Nếu họ thực sự làm được thì rất tốt. Nếu họ cho phép tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện phát triển đúng theo cách hiểu khoa học của những khái niệm này thì rất là hay. Miễn là họ đừng bóp méo nó đi, kiểu như "tư duy phản biện" thì chỉ phê phán Mỹ chứ không được phê phán Việt Nam, hay "phản biện" thì chỉ phản biện những quan điểm lịch sử trái với Nhà nước thôi, chứ không phải là phản biện quan điểm Nhà nước".
Thành ra khái niệm mà Chương trình khung đưa ra thì hay, nhưng nội dung thực thế như thế nào, cách vận dụng ra sao, thì còn phải xem xét thêm.
Đi vào chi tiết của Chương trình khung nói trên, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra rằng, ở Mục số II, "Quan điểm xây dựng chương trình", Chương trình Khung này đưa ra năm nội dung là "Khoa học, hiện đại", "hệ thống, cơ bản", "thực hành, thực tiễn", "dân tộc, nhân văn", "mở, liên thông". Theo Giáo sư, nội dung đầu tiên của quan điểm "Khoa học, hiện đại", là "quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam" thì hỏng rồi, vì một tổ chức chính trị dù lớn đến mấy cũng không hiển nhiên đại diện cho tính "khoa học, hiện đại", mà ngược lại, tổ chức đó có nhiệm vụ phải cố gắng đạt được tính "khoa học, hiện đại".
"Mục tiêu hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử theo nguyên tắc "khoa học lịch sử", qua đó phát triển "tư duy lịch sử", "tư duy phản biện" chỉ nằm ở vị trí thứ 3. Vì nằm ở vị trí thứ yếu, nó phải được hiểu là phát triển tư duy lịch sử sao cho quán triệt quan điểm của Đảng. Ví dụ, hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử thì có thể hiểu là đi thăm quê hương cụ Trần Phú, viếng mộ mẹ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục "thực hành, thực tiễn" nói đến một số kĩ thuật giáo dục mới, như thay vì học tại lớp thì học tại thực địa, như tại các bảo tàng, di sản. Nhưng ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng, di sản được được thiết kế cẩn thận thành một mạng lưới phục vụ nhu cầu chính trị của Đảng cầm quyền, trong khi đó nội dung thực tế của sự thật lịch sử cần khám phá thì rộng lớn hơn thế rất nhiều. Các nội dung về tính "dân tộc, nhân văn" thì tôi nghĩ sẽ không có gì mới so với cách dạy cũ, vì khái niệm "dân tộc, nhân văn" ở Việt Nam cũng được chính trị hóa, kiểu như yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội chẳng hạn".
Ở phần III, Mục tiêu Chương trình, chương trình khung này có đặt ra yêu cầu giúp học sinh "nhận diện các loại hình tư liệu lịch sử". Giáo sư Vũ Tường cho rằng điều này rất hay, nhưng chúng ta phải xem tư liệu lịch sử nào là tư liệu học sinh trong thực tế được phép tiếp cận và phân tích, thảo luận cởi mở, tư liệu nào bị cấm, coi như không tồn tại.
"Về mục tiêu dạy cho học sinh kĩ năng phân tích các quá trình lịch sử thì lâu nay lịch sử chính thống vẫn dùng cách "cưỡng ép lịch sử", tức là loại trừ tư liệu này, nhấn mạnh tư liệu kia. Chúng ta phải xem cách nhà giáo dạy học sinh cách đánh giá tư liệu nữa. Trong mỗi giai đoạn, sự kiện, nhân vật, có tư liệu thứ yếu và tư liệu chủ yếu. Tất cả đều phải được xem xét chứ không phải loại trừ những tư liệu quan trọng, coi như chúng không tồn tại, trong khi đó lại nhấn mạnh những tư liệu thứ yếu. Nói chung có nhiều vấn đề phải xem xét ở đây".
Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên
Theo Giáo sư Vũ Tường, ở đây vấn đề cốt lõi không chỉ là giáo dục "tư duy lịch sử" cho học sinh mà là "tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên". Ông giải thích, trong chính trị, đại khái, chủ nghĩa đa nguyên chủ trương là tất cả các bên, các thành phần chính trị xã hội khác nhau đều được tham gia vào quá trình thảo luận của Nhà nước để ra một quyết định nào đó. Không có nhóm nào bị loại bỏ, dù họ nhỏ bé đến mấy đi nữa. Người ra đặt ra yêu cầu như vậy vì thực tế chính trị xã hội rất đa dạng, chứ không ở đâu và khi nào lại có một lực lượng duy nhất là có ý nghĩa, còn các nhóm khác "đáng" bị loại bỏ cả. Các quá trình lịch sử trong quá khứ cũng tương tự như vậy. Có rất nhiều biến số, nhiều lực lượng, nhiều nhóm hiện diện trong mỗi giai đoạn lịch sử, với những động lực khác nhau. Trong quá khứ, họ có thể hợp tác hay va chạm với nhau tùy thời điểm, và những gì họ để lại đều là tư liệu lịch sử. Do đó thường thì có nhiều tư liệu lịch sử của nhiều bên khác nhau cùng liên quan đến một sự kiện lịch sử, một quá trình lịch sử. "Tư duy lịch sử đa chiều" là chúng ta khảo sát và phân tích tư liệu của tất cả các chiều, chứ không sử dụng một nguồn tư liệu duy nhất và loại bỏ các nguồn tư liệu đến từ các chiều nhìn, góc nhìn khác. Độc tôn một nguồn tư liệu thì chỉ tạo ra một bức tranh lịch sử phiến diện. "Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên" do đó rất cần thiết để hiểu một quá trình lịch sử nào đó trong quá khứ một cách toàn diện và đúng đắn.
Chính vì sự đa dạng này của đời sống chính trị xã hội, mỗi nhóm xã hội sẽ có một nguồn tư liệu lịch sử khác nhau, do đó nhìn lịch sử cũng khác nhau. Giáo sư Vũ Tường lấy ví dụ, cùng một sự kiện, một quá trình lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn lịch sử theo kiểu này, nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhìn lịch sử theo kiểu khác. Người Việt trong nước nhìn thế này, người Việt hải ngoại nhìn thế khác. Cùng là nhìn lại một cuộc chiến, nam giới có thể nhìn lịch sử kiểu này, phụ nữ có thể nhìn kiểu khác, những "anh hùng" của cuộc chiến đó có thể nhìn lại theo kiểu này, còn những người dân có số phận nhỏ bé, bình thường thì nhìn kiểu khác.
Cái nhìn lịch sử đa chiều, đa nguyên là sử dụng, tham chiếu, khảo sát tất cả các góc nhìn đó cũng như những tư liệu lịch sử mà tất cả các bên lưu giữ.
Trong Chương trình khung nói trên của Bộ Giáo dục, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra là Bộ Giáo dục nói là sẽ dạy học sinh kĩ năng tái hiện các sự kiện, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp. Ta có thể lấy ví dụ như một vụ nổ bom (sự kiện đơn giản), hay sự ra đời của một nhà nước hay cả cuộc chiến tranh Lạnh (quá trình lịch sử phức tạp). Họ không nói đến tính đa chiều, đa nguyên của tư duy lịch sử. Thành ra những gì Chương trình khung nói là đúng, nhưng không đầy đủ. Cái thiếu sót là một tư duy lịch sử "đa chiều" chấp nhận sự đối thoại sử học dựa trên các tư liệu lịch sử "chính thống" hay "phi chính thống". Tư liệu lịch sử chính thống là tư liệu cho các nhà nước sưu tập, lưu giữ, công bố. Nhà nước nào, thời nào, ở đâu cũng có những bộ tư liệu chính thống như vậy. Ví dụ thời phong kiến, "Đại Việt Sử kí Toàn thư" là tư liệu chính thống, còn "Lĩnh Nam chích quái" là phi chính thống. Còn đối với lịch sử thế kỉ 20 ở Việt Nam, ví dụ, các bộ Văn kiện Đảng là tư liệu chính thống, còn lời kể của những số phận nhỏ bé đã phải kinh qua chiến tranh là tư liệu phi chính thống.
Quan điểm lịch sử hiện đại là chấp nhận những nguồn tư liệu phi chính thống, tư liệu của những người không thuộc tầng lớp tinh hoa, những người không có điều kiện và phương tiện để cất lên tiếng nói của họ.
Tư duy lịch sử đa chiều không đánh giá về giá trị của tư liệu lịch sử bằng cách dựa vào "vị thế" chính thống hay phi chính thống của nó, vì "vị thế" này sẽ thay đổi theo thời đại chứ không tồn tại vĩnh viễn, mà là khảo sát tính xác thực của nó, giá trị của nó trong việc tìm hiểu quá khứ.
Dựa trên những bằng chứng khác nhau mà mỗi bên đưa ra, và thừa nhận rằng quan điểm của mỗi bên, dựa trên tư liệu của mỗi bên, chỉ là một phần của bức tranh lịch sử và cần bổ sung cho nhau. Các bên khác nhau liên quan đến một quá trình lịch sử nào đó có những vị trí, thế đứng, tư liệu khác nhau. Những điều này cần bổ sung được cho nhau để có được cái nhìn đầy đủ về lịch sử.
Giáo sư Vũ Tường lấy ví dụ thời Trần, có "Đại Việt Sử kí Toàn thư" của Việt Nam, có "Nguyên sử" của nhà Nguyên, có "An Nam chí lược" của Trần Ích Tắc… Mỗi nguồn tư liệu đều đến từ các lực lượng chính trị khác nhau, có góc nhìn khác nhau. Hoặc đối với chiến tranh Việt Nam thế kỉ 20, tư liệu lịch sử đến từ "Oral History", tức là "Lịch sử nói", ghi lại cuộc đời, số phận của những con người "nhỏ bé" sẽ cung cấp cho người nghiên cứu sử một phần khác của lịch sử, bổ sung cho bức tranh lịch sử của những nhân vật lịch sử "lớn". Đối với chiến tranh Việt Nam, trước đây giới sử gia quốc tế hầu như chỉ quan tâm đến tư liệu từ phía Bắc Việt. Nhưng sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, người ta thoát khỏi sự chi phối của tinh thần chiến tranh Lạnh, người ta bắt đầu nghiên cứu về hệ thống tư liệu do phía Việt Nam Cộng Hòa để lại. Và từ những tư liệu này, một phần khác của bức tranh lịch sử, bao gồm lịch sử kinh tế, lịch sử chính trị, lịch sử văn hóa, giáo dục, báo chí, tinh thần… được tái hiện để soi chiếu với bức tranh trước đây, vốn chỉ tập trung vào lịch sử quân sự. Các góc nhìn khác nhau này sẽ giúp nhận thức lịch sử toàn diện hơn. Nhưng vấn đề là phải học các kĩ năng tư duy lịch sử để phân tích được các tư liệu đó, và học được tinh thần chấp nhận các tư liệu lịch sử phi chính thống, có thể đem đến những ánh sáng mới, khác với cách nhìn chính thống, thậm chí xung đột với cách nhìn chính thống. Do đó, Giáo sư Vũ Tường cho rằng :
"Ở bất kì thời nào, phía chính thống luôn có nhiều nguồn lực và phương tiện để xây dựng hệ thống tư liệu và quan điểm lịch sử chính thống một cách hệ thống. Phản biện hệ thống quan điểm này không dễ. Giáo dục tư duy lịch sử phải chấp nhận khả năng sinh viên hay học sinh tìm ra các tư liệu có khả năng đối thoại với hệ thống đó. Đó là những gì diễn ra trong lịch sử giáo dục hiện đại trên thế giới. Thậm chí ở các nền giáo dục tiên tiến ngày nay, người ta làm điều đó dễ hơn nữa vì thực ra họ không đặt ra một quan điểm chính thống về lịch sử".
Triết lý giảng dạy và phương pháp giảng dạy lịch sử như trên tác động rất lớn đến sự hứng thú học tập lịch sử của học sinh. Ở Việt Nam, nhiều năm nay, người ta lên tiếng báo động về việc học sinh không thích học sử. Giáo sư Olga Dror chia sẻ với RFA rằng việc học sinh sinh viên không thích theo đuổi môn sử là khá phổ biến trên thế giới, bởi một trong những lí do chủ yếu là môn sử khó giúp cho người học dễ dàng tìm kiếm việc làm trong tương lai như các ngành học khác. Nước Mỹ cũng không phải là ngoại lệ, trừ ngành sử ở những trường Đại học thuộc nhóm "tinh hoa". Nhưng ở Mỹ, theo GS. Olga, học sinh sinh viên được huấn luyện kĩ năng tư duy lịch sử để phát triển tính sáng tạo. Điều này giúp cho việc học sử của họ trở nên thú vị. Theo Giáo sư Olga Dror, điều quan trọng nhất của việc giáo dục kĩ năng tư duy lịch sử cho học sinh, sinh viên là xây dựng khả năng sáng tạo của họ. Quá trình nghiên cứu và diễn giải tư liệu lịch sử, theo bà, giống như là một phương trình của sự sáng tạo. Khảo sát về "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, bà nhận thấy nó chưa thực sự hướng đến mục tiêu ấy. Vốn sinh ra và lớn lên ở Liên Xô và sau đó du học Israel và Hoa Kỳ, Giáo sư Olga nhận xét rằng học sinh, sinh viên Hoa Kỳ "đang làm tốt hơn bởi vì họ được học cách diễn giải tư liệu lịch sử. Lịch sử thực sự là một công cụ tuyệt vời để thực hành kĩ năng xử lý, phân tích, giải thích và phát triển dữ liệu lịch sử".
(02/05/2023)
**************************
Giáo dục lịch sử ở Mỹ hiện nay khác gì với Việt Nam ?
RFA, 08/05/2023
Tiếp theo bài trước bàn về phương hướng giáo dục "tư duy lịch sử" cho học sinh phổ thông trong Chương trình khung của Bộ Giáo dục công bố tháng 8 năm 2022, ở phần này, RFA giới thiệu ý kiến của một số học giả ở Mỹ so sánh giáo dục lịch sử ở Mỹ và Việt Nam. Gần đây, một số bang ở Mỹ như Florida và Texas cấm dạy "lý thuyết chủng tộc phê phán" ("Critical Race theory"), một lý thuyết có liên quan đến lịch sử người nô lệ người Mỹ gốc Phi trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự cấm đoán này ở một số bang ở Mỹ có gì giống và khác với hiện tượng kiểm duyệt lịch sử ở Việt Nam ? Theo các nhà nghiên cứu, mặc dù đều là cấm đoán, nhưng sự cấm đoán ở Mỹ khác với ở Việt Nam vì hệ thống chính trị khác nhau. Giáo dục tư duy lịch sử ở Mỹ khác Việt Nam ở chỗ học sinh được độc lập về tư duy, học cách sưu tập tư liệu lịch sử một cách toàn diện và đa chiều, rèn luyện khả năng sáng tạo trong quá trình học tập, và tất cả những điều này đến từ tính chất tự do và mở của hệ thống chính trị.
Tổng thống Barack Obama và Thủ tướng Australia Julia Gillard tham gia một lớp học môn sử ở trường trung học Wakefield ở Virginia, gần Washington, 07/03/2011. (Ảnh minh họa) - Reuters
Trải nghiệm của một người Việt Nam về môn sử trong trường trung học Mỹ
Ở Việt Nam ngày nay, môn lịch sử trong nhà trường phổ thông được thiết kế như là một môn học độc lập, nhưng Giáo sư Sử học Nu-Anh Tran ở Đại học Connecticut cho biết ở trường trung học Mỹ, lịch sử được giảng dạy như một phần của môn nghiên cứu xã hội, một môn học kết hợp lịch sử, xã hội học, địa lý, công dân và các môn khoa học xã hội khác.
Theo Giáo sư Nu-Anh, giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa có những điểm giống chương trình Tú tài Quốc tế (the International Baccalaureate), một chương trình thành lập ở Châu Âu năm 1968 và tiếp tục phát triển đến ngày nay. Trong một bài viết bằng tiếng Anh gửi cho RFA, bà cho biết chương trình Tú tài Quốc tế mà bà theo học thời nhỏ ở bang Washington chú trọng nhiều vào các kỳ thi vào cuối hai năm cuối trung học. Hệ thống giáo dục công lập thời Việt Nam Cộng Hòa cũng tương tự như vậy. Bà nói, "do đó, mặc dù tôi học trường trung học ở Mỹ, tôi cũng có một trải nghiệm hơi giống với cha mẹ tôi ở Sài Gòn những năm 1960 !"
Hầu hết học sinh ở độ tuổi trung học có xu hướng nghĩ về lịch sử như là những sự kiện mình đọc trong sách giáo khoa, được viết bởi các tác giả dường như "biết tất cả" nhưng vô danh. Theo GS. Nu-Anh, thực ra, sử học là ngành nghiên cứu và viết về quá khứ, được thực hiện bởi các nhà sử học và học giả các ngành khác. Họ tranh luận với nhau để có được cách diễn giải quá khứ tốt nhất. Bà kể lại một trải nghiệm học sử theo kiểu "chương trình Tú tài Quốc tế" ở Mỹ. Môn lịch sử của chương trình trung học này đã đặt ra những yêu cầu về kĩ năng khá cao đối với học sinh :
"Vào thời điểm đó, chương trình IB yêu cầu tất cả học sinh phải viết một bài nghiên cứu dài 10 ngàn từ bên ngoài lớp học về bất kỳ chủ đề nào mà học sinh lựa chọn. Yêu cầu 10 ngàn từ là rất dài đối với tôi lúc đó ! (...) Tôi muốn viết một bài luận về lịch sử Công giáo Việt Nam thời thuộc địa. Tôi cần nhiều người hướng dẫn hơn các bạn khác vì lúc đó không có nhiều nghiên cứu về Việt Nam thuộc địa hoặc Công giáo Việt Nam bằng tiếng Anh hoặc tiếng Việt. Nhưng kinh nghiệm đó đã giúp tôi viết một bài báo nghiên cứu hay hơn nhiều về Cuba cho lớp lịch sử của tôi".
Không chỉ là vấn đề triết lý và phương pháp giảng dạy, môi trường giáo dục luôn tìm ra tiềm năng của học sinh và khuyến khích họ khám phá bản thân cũng ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh, trong đó có việc học sử. Giáo sư Nu-Anh kể rằng thời mình học trung học, bà đã được thầy cô khuyến khích và hướng dẫn thực hành khám phá những tri thức lịch sử mới, thông qua việc sưu tầm và tìm hiểu những tư liệu lịch sử. Đôi khi tương lai của một con người được quyết định bởi những khám phá của thầy cô giáo về tiềm năng của người đó từ thời trung học.
"Cũng trong khoảng thời gian đó, tôi nhờ những người thân lớn lên ở Đồng bằng sông Cửu Long kể cho nghe về cuộc bạo động sắc tộc giữa người Việt Nam và người Campuchia năm 1945 – điều mà tôi chưa từng thấy trong bất kỳ cuốn sách lịch sử bằng tiếng Anh nào – và họ đã viết thư cho tôi bằng tiếng Việt về kinh nghiệm cá nhân của họ về bạo lực.
Tôi đã dịch một số bức thư sang tiếng Anh và đưa chúng cho giáo viên lịch sử của mình. Người giáo viên đã nói về những bức thư đó với một người họ hàng của anh ấy, người có bằng thạc sĩ lịch sử, và nhận được hồi đáp rằng chủ đề đó có thể trở thành một luận án tiến sĩ trong tương lai.
Vào một dịp nào đó trong năm cuối cấp mà tôi không còn nhớ, giáo viên lịch sử của tôi đã gọi tôi sang một bên và hỏi tôi rằng liệu tôi đã bao giờ coi việc nghiên cứu lịch sử là một công việc chưa. Một công việc ! Tôi thậm chí chưa bao giờ nghĩ rằng có ai đó sẽ trả tiền cho tôi để viết các bài nghiên cứu về lịch sử ! Thầy ấy giải thích với tôi rằng đó là công việc của các nhà sử học, và để trở thành một nhà sử học, tôi sẽ phải học Đại học, sau đó lấy bằng thạc sĩ và cuối cùng là tiến sĩ. Và trong khoảnh khắc đó, tôi quyết định mình sẽ trở thành một nhà sử học".
Môn sử ở Đại học
Giáo sư Olga Dror ở Đại học Texas A&M và Giáo sư Nu-Anh Tran ở Đại học Connecticut cho biết giáo dục kĩ năng tư duy của môn sử ở bậc trung học tuy ở mức đơn giản hơn ở bậc ở bậc Đại học nhưng không khác lắm ở các bước cơ bản. Đó là sự tập trung vào đào tạo kĩ năng sưu tầm và phân tích tư liệu lịch sử. Giáo sư Nu-Anh cho biết, nếu như ở bậc trung học, bà từng viết tiểu luận về những vấn đề của lịch sử Việt Nam còn chưa được nghiên cứu nhiều ở thời điểm đó, thì ở bậc Đại học cũng vậy, "sinh viên thường được yêu cầu viết một bài báo nghiên cứu mới mẻ, dựa trên các nguồn tư liệu gốc, sao cho những bài viết như vậy đạt được vị trí nào đó trong cuộc tranh luận học thuật lớn hơn về một chủ đề". Bà cho biết hầu hết các khóa học lịch sử ở bậc Đại học nhấn mạnh vào việc phân tích nguồn tư liệu gốc. Các nguồn tư liệu gốc bao gồm các bài phát biểu, các bài viết chính trị, các bài báo, âm nhạc và văn học từ một giai đoạn lịch sử nhất định, cũng như hồi ký và các hình thức tư liệu khác của những người sống qua thời kỳ đó. Bà nói :
"Các giáo sư thường yêu cầu sinh viên xem xét các câu hỏi như sau :
- Các nhà sử học có thể học được gì từ một tài liệu cụ thể ?
- Nguồn tư liệu này phản ánh quan điểm của ai ? Nguồn tư liệu này loại bỏ quan điểm của ai ?
Tôi muốn học sinh của mình đọc nhiều nguồn tư liệu gốc từ các quan điểm khác nhau để giúp họ hiểu được sự đa dạng của các trải nghiệm lịch sử. Ví dụ, trong khóa học về lịch sử phụ nữ, tôi chỉ định các đoạn trích từ nhiều tiểu thuyết của Việt Nam, Thái Lan và Philippines được xuất bản từ những năm 1880 đến những năm 1930, để giúp sinh viên thẩm định quá trình thay đổi nhận thức về hôn nhân sắp đặt ở thời kì đó, cũng như sự đa dạng của phong tục hôn nhân trong khu vực Đông Nam Á".
Giáo sư Nu-Anh cho rằng cách hiệu quả nhất để thay đổi và phát triển năng lực suy nghĩ của học sinh, sinh viên là giới thiệu cho họ các cuộc tranh luận học thuật.
"Một chiến lược sư phạm điển hình là chỉ định cho học sinh, sinh viên khảo sát những bài báo hoặc sách nghiên cứu có quan điểm đối lập nhau hoàn toàn, và yêu cầu học sinh sinh viên đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của cả hai lập luận đối chọi nhau đó. Họ đồng ý với lập luận nào và tại sao ? Các tác giả sử dụng các loại nguồn tư liệu chính tương tự như nhau hay khác nhau ? Có bất kỳ sai sót hoặc thành kiến nào trong các lập luận của cả hai bên không ?"
"Kiểm duyệt" : Mỹ khác Việt Nam thế nào ?
Gần đây, một số bang ở Mỹ, trong đó có hai bang lớn là Texas và Florida, thông qua luật cấm dạy "lý thuyết chủng tộc phê phán" (Critical Racial theory) trong trường học. Đây là một lý thuyết xã hội có liên quan đến lịch sử người nô lệ gốc Phi ở Mỹ. Ở Việt Nam, chương trình giáo dục lịch sử cũng loại bỏ, cấm đoán hoặc hạn chế nhiều nội dung lịch sử bị gán nhãn là "nhạy cảm". Vậy hai hiện tượng này có gì giống và khác nhau ?
Giáo sư Olga Dror cho rằng hai hiện tượng này vẫn khác biệt nhau căn bản. Bà nói :
"Theo quan điểm của tôi, đó là một quyết định tồi tệ. Nhưng nó được thực hiện bởi một số tiểu bang chứ không phải quyết định ở cấp toàn quốc. Quyết định đó được thực hiện khi Đảng Cộng Hòa chiếm đa số ở các bang đó, và ví dụ, nếu trong cuộc bầu cử tiếp theo mà số đảng viên Đảng Dân chủ giành được ghế nhiều hơn, họ sẽ tiếp quản chính quyền và sửa đổi.
Vì vậy, những quyết định đó nếu xét về lâu dài thì không tồn tại mãi mãi. Hệ thống chính trị ở đây tạo cơ hội để sửa đổi những điều đó trong những nhiệm kì tiếp theo. Khả năng thay đổi là cao trong tương lai, và Texas có tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất cho vấn đề cấm dạy "lý thuyết chủng tộc phê phán".
Chúng tôi có sai lầm, nhưng hệ thống này cho phép tranh luận để sửa đổi, nếu thống nhất được có một cái gì được coi là sai lầm. Điều đó là có thể, không phải chỉ vì nó không do tổng thống Hoa Kỳ quyết định ở cấp toàn quốc, mà còn bởi vì chúng tôi có một xã hội tự do. Đã có 80 phiếu đồng ý thay đổi nó (luật cấm đó) dù chưa phải là đa số. Không phải cứ thông qua luật cấm xong là không còn tranh luận gì nữa. Ý chí cuộc sống sẽ đến với tất cả mọi người. Phải như thế mới đúng. Vì vậy, điều sai ấy bị hạn chế, bị khoanh vùng trong một phạm vi cục bộ".
Giáo sư Olga cho rằng phải đặt luật cấm đó ở Mỹ trong bối cảnh một xã hội dân chủ, nơi người ta tôn trọng những luật được thông qua bởi đa số. Bà nói :
"Tôi rất phản đối việc cấm đoán như vậy, nhưng nếu mọi người chọn đại diện của họ, ai sẽ bỏ phiếu cho điều này ? Đây là nền dân chủ. Dân chủ là một hệ thống cho phép người ta suy nghĩ độc lập để cùng nhau vượt qua khó khăn, và đó là lý do tại sao họ có thể vượt qua. Hướng dẫn và lãnh đạo dễ dàng hơn nhiều trong một nền dân chủ và có sự khai sáng. Một ví dụ để so sánh, chẳng hạn như bây giờ, đình công là một vấn đề, nhưng đó là nền dân chủ. Chúng ta phàn nàn về nó, và tôi không thích các chuyến tàu điện mà tôi đi làm, hay tất cả các buổi lên lớp của tôi bị hủy bỏ vì chỗ nào đó đình công. Nhưng đây là nền dân chủ. Đây là cách họ thể hiện ý kiến và quyền tự do biểu đạt của họ. Cũng giống như ngay cả trong Chiến tranh Việt Nam, chúng tôi đã chiến đấu ở Việt Nam. Nhiều người lính đã thương vong vì họ chiến đấu để bảo vệ hệ thống tự do. Nhưng nước Mỹ cũng có những người ngược lại, họ phản đối chiến tranh, họ nghĩ rằng theo ý kiến của họ, chống chiến tranh là tốt nhất cho đất nước của họ. Phải, cả những người đã chiến đấu ở Việt Nam và những người phản đối cuộc chiến đó đều đã chiến đấu vì đất nước và nền dân chủ theo cách của họ".
Về quan điểm của phía cấm đoán, Giáo sư Vũ Tường ở Đại học Oregon cho biết lập luận của phía cấm đoán, hiện chiếm đa số trong Quốc hội những tiểu bang ra lệnh cấm, là "lý thuyết chủng tộc phê phán" sử dụng vấn đề chủng tộc như là nguyên nhân duy nhất để giải thích cho mọi hiện tượng xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế ở Hoa Kỳ, rồi căn cứ vào đó để đưa ra các hàm ý chính sách. Theo họ thì điều này là quá đà, vì mặc dù trường phái lý thuyết nào cũng chỉ nhấn mạnh một hai yếu tố, nhưng độc tôn một yếu tố thì dẫn đến nhận lệch lạc về thực tế và những chính sách bất ổn. Cách giải thích đó, theo phía cấm đoán, chưa có cơ sở khoa học chắc chắn mà mới chỉ là một "thuyết" mà thôi, vì luật pháp Mỹ ngày nay đã khác xa với các thời kì trước đây mà đã có hệ thống luật pháp bảo vệ quyền tự do bình đẳng giữa các cá nhân, không phân biệt về mặt chủng tộc. Cả hai phía vẫn đang còn đang tranh luận với nhau nhưng phía muốn cấm đoán thì đang chiếm đa số trong Quốc hội nên có thể thông qua luật cấm với một số lượng phiếu nhiều hơn. Ở Mỹ, người dân có thể thay đổi chính sách bằng cách đi bầu cử. Nếu người dân muốn thay đổi luật pháp, họ cần phải đi bỏ phiếu, và nếu đại diện của họ chiếm nhiều ghế hơn ở cơ quan lập pháp, họ có thể thay đổi những điều luật họ không thích. Đây là điều khác biệt cản bản với Việt Nam.
Nguồn : RFA, 08/05/2023