‘Khủng hoảng tàu ngầm’ ảnh hưởng ra sao đến Biển Đông và vai trò Việt Nam ?
Carl Thayer, Khánh An, VOA, 21/09/2021
Việc Australia hủy bỏ hợp đồng mua tàu ngầm thông thường của Pháp trị giá 40 tỷ đô la để chuyển sang thỏa thuận đóng ít nhất 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với Hoa Kỳ và Anh sau khi công bố mối quan hệ đối tác an ninh ba bên vào cuối tuần qua đang gây ra "sóng gió" trong quan hệ của các đồng minh phương Tây.
Tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Los Angeles USS Cheyenne của Hoa Kỳ.
Phía Pháp tỏ ra rất tức giận, nói rằng Úc đã "phạm sai lầm ngoại giao to lớn" và việc hủy bỏ hợp đồng đã đạt được từ năm 2016 là một "cú đâm sau lưng" của các đồng minh. Nước này cũng hủy bỏ các sự kiện liên quan ngoại giao ở Washington và lập tức triệu hồi đại sứ từ Washington và Canberra về nước.
Trong khi đó, Thủ tướng Morrison bảo vệ quyết định của Australia với lý do "lợi ích quốc gia" và khẳng định rằng đã thông báo cho Pháp về khả năng hủy "hợp đồng thế kỷ" này từ hồi tháng 06/2021.
Giữa lúc tình trạng căng thẳng giữa các cường quốc đồng minh phương Tây chưa có dấu hiệu được giải quyết, phóng viên Khánh An của VOA thực hiện cuộc phỏng vấn với Giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Australia, Đại học New South Wales, để tìm hiểu về những ảnh hưởng và tác động của sự kiện này đối với vấn đề an ninh và cân bằng quyền lực trên Biển Đông, cũng như vai trò của Việt Nam trong chiến lược của mối quan hệ an ninh vừa mới thành lập AUKUS.
VOA : Thưa giáo sư, trong sự việc căng thẳng mới nhất xảy ra giữa các đồng minh phương Tây, về phía Pháp, mà cụ thể ở đây là Bộ trưởng Ngoại giao Jean-Yves Le Drian, đã lên án việc Australia hủy hợp đồng mua tàu ngầm của Pháp và ông nói rằng thỏa thuận tàu ngầm mới của Australia với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là hành động "đâm sau lưng" của các đồng minh. Là một nhà nghiên cứu các vấn đề quan hệ quốc tế và là một công dân Australia, ông đánh giá thế nào về sự kiện này ?
Carl Thayer : Trong chín năm qua, Australia và Pháp đã phát triển mối quan hệ quốc phòng-an ninh. Năm 2012, hai bên đã thông qua Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược. Năm 2016, Pháp và Australia đã ký một thỏa thuận để Pháp đóng tàu ngầm thông thường cho Australia.
Sau khi ông Emmanuel Macron đắc cử tổng thống Pháp, ông đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để xây dựng nền tảng này. Pháp và Australia đã công bố Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược nâng cao vào năm 2017 nhằm tăng cường sự tham gia của họ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, mang lại lợi ích ưu tiên cho các mối quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh và tình báo. Năm 2018, hai nước đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn về Mối quan hệ Úc-Pháp.
Thỏa thuận tàu ngầm với Tập đoàn Hải quân của Pháp là một vấn đề nan giải về chi phí thực hiện và thời hạn kéo dài. Không nghi ngờ gì việc Thủ tướng Scott Morrison đã đề cập với Tổng thống Macron về những khó khăn này khi họ gặp mặt trực tiếp trong năm nay, nhưng ông Morrison đã không nói với ông Macron rằng vì hoàn cảnh chiến lược thay đổi nhanh chóng mà những tàu ngầm của Pháp sẽ được thay thế bằng các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân do Mỹ thiết kế.
Tổng thống Macron chưa bao giờ được tiết lộ về các cuộc đàm phán kéo dài nhiều tháng giữa Australia, Mỹ và Anh. Ông Macron chỉ biết về quan hệ đối tác AUKUS vào đêm trước khi nó được công bố. Dĩ nhiên ông Macron và nước Pháp cảm thấy bị phản bội vì cách xử lý kém của ông Morrison trong vụ này. Điều này đặt ra câu hỏi về những nỗ lực đã đạt được trong 9 năm qua trong việc Pháp và Australia hợp tác với tư cách là đối tác chiến lược nhằm đảm bảo một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình và ổn định.
VOA : Pháp nói rằng nước này đang gặp "khủng hoảng" với Australia và Mỹ sau khi hợp đồng tàu ngầm trị giá hàng chụctỷ đô la bị hủy bỏ. Trongkhi Pháp cũng là một trong các bên tham gia vàonhững nỗ lực của phương Tây trong việc kiềmchế những hành vi lấn lướt và quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông, theogiáo sư, liệu cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng gì đến những nỗ lực của phương Tâyhay không ? Và liệu nó có đề ra bất kỳ mốiquan ngại hay rủi ro nào về an ninh ở Biển Đông haykhông ?
Carl Thayer : Việc hình thành quan hệ đối tác an ninh ba bên AUKUS là một bước phát triển chiến lược quan trọng gắn kết Australia với Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới. Nhưng những bước phát triển không kém phần quan trọng khác cũng đang diễn ra bên cạnh việc chuyển giao công nghệ hạt nhân. Nhóm Bộ tứ sắp tổ chức cuộc họp trực tiếp đầu tiên để vạch ra chiến lược nhằm chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc ở Ấn Độ - Thái Bình Dương. Riêng Australia đã củng cố quan hệ quốc phòng song phương với Nhật Bản, Ấn Độ, Indonesia và Hàn Quốc.
Dấu ấn về phòng thủ của Hoa Kỳ tại Australia sẽ ngày càng phát triển mạnh hơn cùng với việc gia tăng triển khai luân phiên Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, và việc đồn trú các tàu chiến và máy bay quân sự của Hoa Kỳ tại các căn cứ quân sự của Úc. Australia sẽ có được khả năng tấn công tên lửa tầm xa trước khi các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của họ được triển khai.
Những lợi ích chiến lược của Pháp trong việc bảo vệ các vùng lãnh thổ của họ ở Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương sẽ không thay đổi, cũng như lợi ích của Pháp trong việc giữ cho các tuyến thủy lộ trên Biển Đông được an toàn và an ninh cũng không thay đổi. Thời gian sẽ trả lời nếu như Pháp quyết định đi một mình. Điều này sẽ chỉ ảnh hưởng nhẹ đến sự cân bằng ở Biển Đông, nơi Mỹ, Nhật Bản và Australia sẽ đóng vai trò lớn hơn.
VOA : Vâng. Như vậy, liệu cuộc khủng hoảnggiữa các đồng minh phương Tây có mang lại lợi ích gì cho Trung Quốchay không ?
Carl Thayer : Trung Quốc có thể có được một số lợi ích chính trị ngắn hạn từ cuộc khủng hoảng này ở Châu Âu. Nhưng Trung Quốc nay phải đương đầu với một thực tế là việc hiện đại hóa quân đội của họ sẽ phải đối mặt với một thách thức thậm chí còn ghê gớm hơn ở Biển Đông, không chỉ bây giờ nhưng trong những thập niên tới khi Australia có được 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân.
VOA : Có ý kiến cho rằng Hoa Kỳ sẽ đạt được ba mục tiêu nếu mua lạicác tàu ngầm Shortfin Barracuda của Pháp và sau đó chuyển giao chúng cho Việt Nam. Các mục tiêu sẽ đạt được bao gồm : Chính quyền Biden sẽ sửa chữa đượcmối quan hệ với đồng minh lâu đời nhất của Mỹlà Pháp. Thứ hai, cung cấp cho một đối tác an ninh đang lênbằng những phương tiện mới mạnh mẽ để thách thức chủ nghĩa bànhtrướng của Trung Quốc. Thứ ba, hành động này sẽ kiểm tra đượccam kết của Tổng thống Emmanuel Macron đối với an ninh quốc tế ở Biển Đông. Giáosư bình luận gì về ý kiến này ? Liệu đây có thể là một lựa chọn khả thi để giải quyết cuộc khủng hoảng giữa các đồng minh phương Tây hiện nay ?
Carl Thayer : Đề xuất này chỉ là một chiếc bánh vẽ. Việt Nam đang sở hữu 6 tàu ngầm thông thường Varshavyanka (lớp Kilo) do Nga sản xuất. Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào Nga và một số quốc gia quen thuộc với công nghệ quân sự của Nga (như Ấn Độ, Belarus, Ukraine) về hải quân, trong đó có hạm đội tàu ngầm. Sẽ là một cơn ác mộng về chi phí nếu tích hợp công nghệ của Pháp vào cơ cấu lực lượng hiện nay của Việt Nam.
Không rõ liệu Việt Nam có đủ khả năng để tích hợp tàu ngầm của Pháp vào hạm đội hải quân của mình hay không. Cũng không rõ liệu Việt Nam có thực sự phát triển chương trình về hạm đội tàu ngầm để bổ sung cho chiến lược hàng hải của mình hay không. Bên cạnh đó, việc thêm các tàu ngầm Shortfin Barracuda của Pháp cũng sẽ không làm thay đổi cán cân sức mạnh hàng hải trên Biển Đông.
Có bốn yếu tố khác cần phải được tính đến.
Thứ nhất, Việt Nam đã chậm lại đáng kể trong việc mua lại các phương tiện phòng thủ lớn trong những năm gần đây do chi phí bảo trì và bảo dưỡng hiện tại. Việc mua lại các tàu ngầm Shortfin Barracudas sẽ chỉ làm cho tình hình thêm nghiêm trọng.
Thứ hai, Việt Nam lâu nay có chính sách quốc phòng "ba không" và được mở rộng thành "bốn không" vào cuối năm 2019. Đó là : không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết với một nước chống lại nước thứ ba và không sử dụng vũ lực trước. Vì vậy, Việt Nam không thể bị mua chuộc trong việc tham gia cùng Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc.
Thứ ba, bất chấp tranh chấp Biển Đông, quan hệ song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang tiến triển khá tốt.
Thứ tư, vấn đề là liệu luật pháp Hoa Kỳ và/hoặc Quốc hội Mỹ hiện tại có cho phép một thỏa thuận như vậy xảy ra hay không.
VOA : Vâng, thưa giáo sư, nói vềAUKUS, liệu quan hệ đối tác an ninh ba bên mới hình thành này có mang lại lợi ích cho các nước ASEAN là các bên tranh chấp chủquyền trên Biển Đông hay không ? LiệuViệt Nam có là một trong những quốc gia quan trọng trong chiến lược của mốiquan hệ vừa hình thành giữa Australia, Mỹ và Anh hay không ?
Carl Thayer : Các nước ASEAN, bao gồm cả Singapore, không muốn bị buộc phải chọn phe. Nhưng đa số đều cho rằng sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ là mang lại sự cân bằng và ổn định trong việc kềm chế hành vi của Trung Quốc. Sự kết hợp của Bộ tứ cộng với AUKUS sẽ quyết định sự cân bằng quyền lực trong tương lai trong khu vực. Điều này giúp cho các bên tranh chấp ASEAN có thời gian để phục hồi sau đại dịch Covid-19 và phát triển nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, cần phải nói rõ rằng đối trọng với việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc không giống như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Riêng Việt Nam sẽ đóng một vai trò quan trọng như một lực lượng trung gian mới nổi. Việt Nam sẽ tìm cách tăng cường quyền tự chủ trong các hành động độc lập và tránh ngả về phía Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã thêm vào một cảnh báo trong "bốn không". Sách Trắng Quốc phòng năm 2019 của Việt Nam nói thêm rằng, "Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển các mối quan hệ quốc phòng và quân sự cần thiết, phù hợp với các nước…"
VOA : Vâng. Cám ơn Giáo sư Carl Thayer đã dành thời gian cho VOA.
Đội tàu chiến Úc cập cảng Cam Ranh
VOA, 22/09/2021
Ba tàu hải quân Hoàng gia Úc đang thăm cảng Cam Ranh ở miền Trung Việt Nam trong khuôn khổ nỗ lực của Canberra nhằm tăng cường hợp tác an ninh trong khu vực với các đối tác ở Đông Nam Á.
Ba tàu hải quân Hoàng gia Úc thuộc Nhóm Tác chiến Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương 2021 (IPE21) cập Cảng quốc tế Cam Ranh ở Khánh Hòa hôm 20/9.
Truyền thông trong nước cho biết Nhóm Tác chiến Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương 2021 của Úc (IPE21), gồm 3 tàu kể trên cùng 700 sĩ quan, đã cập cảng Cam Ranh ở Khánh Hòa hôm 20/9 để bắt đầu chuyến thăm 4 ngày.
Chuyến thăm diễn ra giữa lúc Bộ Ngoại giao Úc đang tìm cách trấn an khu vực rằng hiệp ước an ninh mới mà Canberra ký kết với Mỹ và Anh, vừa được công bố vào tuần trước, sẽ không đẩy các quốc gia Đông Nam Á ra ngoài và sẽ không thúc đẩy cho việc phổ biến vũ khí hạt nhân.
Nhóm đặc nhiệm hàng hải của Úc cập cảng Cam Ranh gồm tàu tấn công đổ bộ HMAS Canberra, tàu hộ vệ tên lửa HMAS Anzac và tàu tiếp dầu HMAS Sirius, theo thông cáo của Đại sứ quán Australia tại Hà Nội đượcQuân đội Nhân dân trích dẫn.
Thông cáo cho biết rằng Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là hoạt động hợp tác quan trọng hàng đầu của Úc trong khu vực, với sự tham gia của nhóm tác chiến gồm đại diện các quân binh chủng lực lượng vũ trang và cơ quan chính phủ Australia, cũng như đại diện hải quân từ các nước đối tác.
Các tàu của Úc tới Việt Nam sau khi thăm Brunei, Singapore, Malaysia và Thái Lan, theo kênh tin tức của MalaysiaBernaNews.
Truyền thông trong nước cho biết rằng nhóm tàu của Hải quân Hoàng gia Úc và các đối tác Việt Nam có các chuỗi hoạt động hợp tác song phương tại Cam Ranh, gồm trao đổi về các chủ đề trong đó có hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm hoạ, và an ninh biển nhằm "tăng cường khả năng hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng an ninh trong khu vực".
Quan hệ hợp tác quốc phòng song phương Việt Nam-Australia được tăng cường trong những năm gần đây với các chuyến thăm chính thức và đối thoại cấp cao cùng các hợp tác trong nhiều lĩnh vực từ quân sự cho đến an ninh biển và chống khủng bố. Theo thông cáo của ĐSQ Úc đượcVnExpress trích dẫn, hợp tác quốc phòng là trụ cột quan trọng trong quan hệ Đối tác Chiến lược giữa hai nước.
Chuẩn tướng Mal Wise, chỉ huy của IPE21, được truyền thông trong nước trích lời nói rằng việc Việt Nam tiếp đón nhóm tác chiến trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp là "minh chứng cho quan hệ quốc phòng sâu rộng giữa Việt Nam và Australia".
Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân Quân của Việt Nam đã đón đoàn Úc tại cảng Cam Ranh trong khi một buổi lễ chào xã giao được tổ chức qua mạng sau đó trong ngày 20/9, theo Quân đội Nhân dân.
Chỉ vài ngày trước đó, chính phủ Úc công bố rằng hải quân của nước này sẽ mua 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân theo một hiệp ước đối tác an ninh 3 bên mới với Mỹ và Anh, gọi tắt là AUKUS. Hiệp ước này được xem là nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh chồng lấn với các nước trong khu vực gồm cả Việt Nam.
Trung Quốc phản đối hiệp ước này trong khi các quốc gia Đông Nam Á phản ứng một cách thận trọng, trong đó Malaysia và Indonesia lên tiếng lo ngại rằng Úc có thể gây ra một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Tuy nhiên Đại sứ Úc tại ASEAN, Will Nankervis, đã bác bỏ những lo ngại này hôm 20/9.
Hoạt động của Hải quân Úc ở khu vực trong Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương 2021 bắt đầu từ cuối tháng 8 nhằm "tạo cơ hội cho Australia tham gia với các đối tác Đông Nam Á ngoài các hoạt động quân sự truyền thống", theoBộ Quốc phòng Úc.
Bắt đầu từ năm 2017, Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là sự kiện thường niên nhằm "tăng cường sự tham gia và quan hệ đối tác của Australia với các lực lượng an ninh trong khu vực" nhưng sự kiện này đã không diễn ra vào năm ngoái vì đại dịch Covid-19.
Cam Ranh đón chiến hạm Úc
RFA, 21/09/2021
Ba chiến hạm của Hải Quân Hoàng gia Úc vào ngày 20/9 cập Cảng Cam Ranh của Việt Nam, theo tin từ truyền thông Nhà nước Việt Nam.
Tàu hộ vệ trực thăng HMAS Anzac tiến vào cảng Cam Rang trong khuôn khổ thăm thiện chí Việt Nam của Chương trình Nỗ lực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ảnh : Đại sứ quán Australia
Ba chiến hạm gồm tàu đổ bộ trực thăng HMAS Canberra, tàu hộ vệ tên lửa HMAS Anzac và tàu tiếp dầu HMAS Sirius thuộc Nhóm Tác chiến Nỗ lực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương năm 2021, gọi tắt là IPE21.
Mạng báo Chính phủ Việt Nam vào ngày 21/9 loan tin nói rõ Nhóm Tác chiến của Úc cùng Hải quân Việt Nam từ ngày 20/9 đến 23/9 tiến hành một chuỗi các hoạt động hợp tác song phương. Cụ thể, hai phía trao đổi về các chủ đề hỗ trợ nhân đạo ; cứu trợ thảm họa ; hợp tác về an ninh biển ; kết nối giữa sĩ quan hải quân trẻ của Lực lượng quốc phòng Úc (ADF) và các học viên sĩ quan từ Học viện Hải quân Việt Nam ; hoạt động luyện tập chung trên Vịnh Cam Ranh, tập trung vào Quy tắc Xử lý đối với các cuộc gặp bất ngờ trên biển (CUES).
Chuyến thăm Cảng Cam Ranh của Nhóm Tác chiến diễn ra vào khi Bộ Ngoại giao Úc tìm cách trấn an khu vực Đông Nam Á về một thỏa thuận an ninh mà nước này vừa ký kết với Hoa Kỳ và Anh Quốc vào tuần qua. Thỏa ước gọi tắt là AUKUS đang gây ra những quan ngại về gia tăng chạy đua vũ khí hạt nhân.
Thỏa thuận AUKUS được cho nhằm ngăn chặn ảnh hưởng quân sự đang ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương ; đặc biệt ở Biển Đông nơi mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền hầu hết vùng nước có tuyến hàng hải quan trọng của thế giới đi qua.
Trung Quốc đã lên án AUKUS và những quốc gia Đông Nam Á như Malaysia và Indonesia bày tỏ quan ngại về một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực.
Trung Quốc và tham vọng tàu sân bay (RFI, 19/11/2019)
Theo thông báo của hải quân Trung Quốc ngày 18/11/2019, chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự đóng đang trên đường đến Biển Đông sau khi băng qua eo biển Đài Loan.
Hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự đóng. Ảnh chụp tại cảng Đại Liên ngày 14/11/2019. Reuters
Hải quân Trung Quốc khẳng định, tại Biển Đông, tàu sân bay này sẽ chỉ tiến hành "các cuộc thử nghiệm khoa học và thao dượt bình thường", chứ "không nhắm vào mục tiêu cụ thể nào" và hoạt động này "không có liên quan gì đến tình hình hiện nay". Tuy nhiên, hành động nói trên không chỉ là nhằm phô trương sức mạnh của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp này, mà còn một lần nữa phản ánh tham vọng của Bắc Kinh muốn bắt kịp Hoa Kỳ trong lĩnh vực hàng không mẫu hạm.
Theo chủ thuyết quân sự mới do chủ tịch Tập Cận Bình đề ra, quân đội Trung Quốc trong những năm qua đã cắt giảm quân số từ 2,3 triệu người xuống còn 2 triệu, nhưng bên cạnh đó, Bắc Kinh đã đẩy mạnh phát triển hải quân và không quân. Riêng về lực lượng hải quân, theo báo chí chính thức Trung Quốc, được trang mạng The Diplomat trích dẫn, Trung Quốc dự kiến sẽ sở hữu khoảng từ 5 đến 6 hàng không mẫu hạm trong những năm tới.
Tàu sân bay tự đóng đã sẵn sàng được bàn giao
Chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên hoàn toàn do Trung Quốc đóng hiện vẫn chưa được đặt tên, mà chỉ được biết là thuộc lớp "Type 002". Theo các chuyên gia quân sự Trung Quốc, chiếc tàu sân bay này tàu dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động vào năm 2020, nhưng vào năm 2018 đã được cho chạy thử từ căn cứ ở cảng Đại Liên, nơi mà chiếc tàu được đóng. Theo trang mạng The Dipomat, dựa theo báo chí chính thức Trung Quốc, sau khi hoàn tất thành công 8 đợt chạy thử trên biển, chiếc Type 002 đã sẵn sàng cho lễ bàn giao vào trước cuối năm 2019.
Cho tới giờ người ta biết rất ít chi tiết về chương trình đóng hàng không mẫu hạm của Trung Quốc, do đây là bí mật nhà nước. Chính phủ Bắc Kinh chỉ cho biết là chiếc hàng không mẫu hạm mới được thiết kế dựa trên những kinh nghiệm từ chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, chiếc Liêu Ninh, mua lại của Ukraina từ năm 1998 và được Trung Quốc tân trang lại.
Để biết thêm về chương trình hàng không mẫu hạm của Trung Quốc, các nhà quan sát hiện chỉ có thể dựa trên các ảnh vệ tinh. Tuy nhỏ hơn chiếc Liêu Ninh, nhưng hàng không mẫu hạm Type 002 lại có hệ thống radar tối tân hơn và được biết là có thể chở theo chiến đấu cơ Thẩm Dương J-15, mệnh danh "Cá Mập Bay" ( Flying Shark ), vì năm 2018 người ta đã nhìn thấy loại chiến đấu cơ này trên hàng không mẫu hạm.
Theo chuyên gia về an ninh quốc gia và quốc phòng Kyle Mizokami, trong một bài viết đăng ngày 10/11/2019 trên trang mạng The National Interest của Mỹ, các chuyên gia tin rằng Type 002 có thể chở theo nhiều chiến đấu cơ hơn chiếc Liêu Ninh, cụ thể là có thể mang theo tổng cộng từ 32 đến 36 chiếc J-15. Chiếc Liêu Ninh là hàng không mẫu hạm chủ yếu sẽ được sử dụng cho việc huấn luyện, thao dượt, còn Type 002 sẽ là tàu sân bay tác chiến đầu tiên của Trung Quốc.
Thêm hai chiếc đang được đóng
Cũng theo chuyên gia Kyle Mizokami, một hàng không mẫu hạm thứ ba thuộc một lớp khác, Type 003, hiện đang được đóng tại một xưởng đóng tàu ở Thượng Hải. Khác với Type 002, Type 003 được biết là được thiết kế hiện đại hơn, tương tự như hàng không mẫu hạm USS Gerald Ford của Hoa Kỳ và HMS Queen Elizabeth của Anh, cụ thể là sẽ có khả năng phóng những chiến đấu cơ nặng hơn, tức là những máy bay chở theo nhiều nhiên liệu và vũ khí hơn, và như vậy tàu sân bay này sẽ được sử dụng như là một căn cứ để triển khai lực lượng chiến đấu khi cần thiết. Hiện các chuyên gia chưa biết kích thước của Type 003 như thế nào, mà chỉ đoán rằng hàng không mẫu hạm này rộng hơn và có khả năng tác chiến cao hơn Type 002.
Theo Kyle Mizokami, những thông tin đáng tin cậy còn cho biết là tàu sân bay thứ tư của Trung Quốc cũng hiện đang được đóng ở cảng Đại Liên. Chiếc này thuộc lớp Type 004, có thể chở theo nhiều máy bay hơn, không chỉ có các chiến đấu cơ như J-15 hay J-31, mà còn cả phi cơ kiểm soát và báo động sớm KJ-600, trực thăng chiến đấu chống tàu ngầm, máy bay không người lái tàng hình. Với những đặc tính như vậy, ít ra là về mặt lý thuyết, Type 004 sẽ là không thua kém gì các hàng không mẫu hạm lớn của Mỹ.
Phát triển chiến đấu cơ cho tàu sân bay
Bên cạnh việc đóng các hàng không mẫu hạm, hải quân Trung Quốc còn đang nghiên cứu phát triển các chiến đấu cơ thế hệ mới cho tàu sân bay.
Hiện giờ, họ chỉ có 24 chiến đấu cơ J-15, không đủ để trang bị cho các chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên cũng như cho những chiếc khác đang được đóng và cho các đơn vị huấn luyện trên bộ. Theo Kyle Mizokami, chiến đấu cơ tương lai có thể sẽ được thiết kế dựa trên các chiếc Thành Đô J-20 hay J-31/FC-31, hai chiến đấu cơ mới thế hệ thứ năm của Trung Quốc.
Chuyên gia Kyle Mizokami dự đoán rằng Trung Quốc hoàn toàn có khả năng đóng xong cả bốn hàng không mẫu hạm trước năm 2022. Nhưng có nhiều câu hỏi đang được đặt ra mà chưa có lời giải đáp : Bắc Kinh xây dựng lực lượng này nhằm mục đích gì ? Hải quân Trung Quốc muốn đóng tổng cộng bao nhiêu hàng không mẫu hạm ? Lực lượng tàu sân bay ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc là nhằm bảo vệ những lợi ích của họ hay là nhằm mở rộng các lợi ích đó ?
Nhưng đáng lo ngại nhất đối với Việt Nam, đó là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự đóng có thể sẽ được triển khai để bảo vệ Biển Đông. Cụ thể, theo tờ Hoàn Cầu Thời Báo hôm 18/11/2019, sau lễ bàn giao trước cuối năm 2019, chiếc Type 002 là sẽ trú đóng tại cảng Tam Á (Sanya) trên đảo Hải Nam để "bảo vệ hòa bình và chủ quyền trên Biển Hoa Nam ( Biển Đông )".
Thông tin nói trên được đưa ra đúng vào ngày mà phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Trung Quốc Ngô Khiêm ( Wu Qian ) lên tiếng yêu cầu Mỹ "ngưng phô trương sức mạnh" và "chấm dứt các hành động khiêu khích và làm gia tăng căng thẳng" tại vùng Biển Đông.
Dường như Trung Quốc không muốn để cho các hàng không mẫu hạm của Mỹ tiếp tục "một mình một cõi" ở Biển Đông và vùng biển này dường như sẽ là nơi mà Bắc Kinh thể hiện rõ nhất tham vọng của họ về lực lượng tàu sân bay.
Thanh Phương
**********************
Chuyên gia Mỹ : Việt Nam cần đấu tranh mạnh hơn trong đối sách chống Trung Quốc (RFI, 18/11/2019)
Căng thẳng Hà Nội-Bắc Kinh trong vụ Bãi Tư Chính trên Biển Đông đã tạm lắng sau khi tàu Trung Quốc rời khỏi vùng biển Việt Nam trở về nước hôm 23/10/2019. Trong bài nhận định "Việt Nam cần ‘đấu tranh’ mạnh hơn ở Biển Đông - Vietnam Needs to ‘Struggle’ More in the South China Sea", của chuyên gia phân tích Derek Grossman thuộc trung tâm tham vấn Mỹ Rand Corporation, đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 15/11/2019.
"Việt Nam cần ‘đấu tranh’ mạnh hơn ở Biển Đông - Vietnam Needs to ‘Struggle’ More in the South China Sea", của chuyên gia phân tích Derek Grossman
Bài này sau đó được đăng trên trang blog của Rand Corporation, tác giả đã không ngần ngại cho rằng chiến lược an ninh mà Việt Nam áp dụng đã không thành công trong việc ngăn chặn các hành vi bức hiếp của Trung Quốc tại Biển Đông.
Theo ông Grossman, cho đến nay, để bảo đảm lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam đã áp dụng chiến lược an ninh gọi là "vừa hợp tác, vừa đấu tranh" với tất cả các nước – kể cả với Trung Quốc. Trong cuộc đối đầu mới đây với Trung Quốc tại Biển Đông trong vụ Bãi Tư Chính, Việt Nam cũng đã sử dụng chiến lược cố hữu đó.
Chiến lược hợp tác và đấu tranh nào trong vụ Bãi Tư Chính ?
Câu hỏi đặt ra là chiến lược hợp tác và đấu tranh đồng thời đó đã được Việt Nam áp dụng như thế nào trong vụ Bãi Tư Chính.
Chuyên gia Mỹ trước hết nhắc lại sự vụ là kể từ đầu tháng 7, Bắc Kinh đã cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và đội tàu hải cảnh bảo vệ tiến vào vùng biển của Việt Nam để buộc Hà Nội đình chỉ hoạt động của giàn khoan Hakuryu-5 ở gần Trường Sa. Thoạt đầu, Việt Nam đã giữ im lặng trong gần hai tuần lễ, nhưng vô ích vì tàu Trung Quốc rõ ràng đã không rời đi.
Trong hai tháng tiếp theo, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lần lượt đưa ra các tuyên bố càng lúc càng cứng rắn, nêu đích danh Trung Quốc là kẻ xâm lược và yêu cầu Bắc Kinh đình chỉ ngay lập tức các hành vi sách nhiễu liên tục gần Bãi Tư Chính và cho tàu chạy ngang chạy dọc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bên cạnh các tuyên bố, theo ghi nhận của chuyên gia Grossman, Hà Nội còn triển hạn hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 từ ngày 30/07 đến ngày 15/09.
Tuy nhiên, các động thái của Việt Nam hoàn toàn vô hiệu đối với Trung Quốc, thậm chí Bắc Kinh còn tăng cường hoạt động trong vùng biển Việt Nam.
Và như vậy, đến tháng 10, các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam bắt đầu lên tiếng, mà nổi bật nhất là tuyên bố ngày 15/10 của ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng cộng sản kiêm chủ tịch nước Việt Nam.
Theo chuyên gia Grossman, tuyên bố của ông Trọng là một ví dụ điển hình về chiến lược "vừa hợp tác vừa đấu tranh" của Việt Nam. Một mặt, ông để mở cánh cửa hòa giải, khi kêu gọi duy trì một môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, nhưng một mặt khác, ông khẳng định sẽ không bao giờ lùi bước trên các vấn đề chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Hợp tác nhiều hơn đấu tranh
Trên đây là một số ví dụ biểu hiện vế "đấu tranh" trong đối sách chống Trung Quốc của Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Derek Grossman, các động thái cụ thể hóa vế "hợp tác" còn nhiều hơn.
Theo chuyên gia Grossman, Việt Nam đã cố gắng tiếp xúc với Bắc Kinh "ít nhất 40 lần" trong suốt thời gian tàu Trung Quốc hoành hành trong vùng biển Việt Nam.
Không những thế, Việt Nam còn cử Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch qua Trung Quốc tham dự Diễn Đàn An Ninh Hương Sơn của Trung Quốc, một diễn đàn an ninh đa quốc gia được Bắc Kinh dùng để quảng bá cho yêu sách của họ về Biển Đông.
Sau cùng, cũng theo chuyên gia Mỹ, Việt Nam cũng đã tách biệt vấn đề Biển Đông với các lãnh vực hợp tác khác với Trung Quốc để khỏi phương hại đến quan hệ song phương. Thậm chí Việt Nam vẫn cử tàu Cảnh Sát Biển tham gia chiến dịch tuần tra chung hàng năm với lực lượng Hải Cảnh Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ (23-25/10) vốn đã được lên lịch từ trước.
Công luận quốc tế không còn quan trọng đối với Trung Quốc ?
Đến ngày 23 tháng 10, tàu Hải Dương Địa Chất 8 rời Việt Nam, trở về Trung Quốc. Một số nhà quan sát khẳng định rằng Hà Nội đã "thắng" trong cuộc đọ sức vì vẫn "giữ vững lập trường",nhưng theo chuyên gia Mỹ, phân tích như vậy quá sớm và có thể không chính xác.
Để giải thích cho nhận xét của mình, ông Grossman trước hết nêu bật thực tế là Bắc Kinh đã thách thức sự hiện diện của giàn khoan Hakuryu-5 cho đến cùng. Chỉ sau khi giàn khoan này rời đi thì Trung Quốc mới cho rút tàu Hải Dương Địa Chất 8 ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Trung Quốc có vẻ như sẵn sàng ở lại lâu dài. Vào tháng 8, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 đã rời Bãi Tư Chính, nhưng chỉ để ghé Đá Chữ Thập do Trung Quốc kiểm soát ở Trường Sa để được tiếp tế nhiên liệu rồi quay lại. Các đảo nhân tạo Bắc Kinh xây dựng tại Trung Quốc có những cơ sở hạ tầng quân sự cho phép Bắc Kinh thức hiện những chiến dịch tuần tra dài ngày hơn bất kỳ đối thủ tranh chấp chủ quyền nào khác.
Ngoài ra, những lời tố cáo cũng không còn tác dụng với Trung Quốc. Chuyên gia Grossman đã so sánh vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào tháng 05/2014, với vụ Bãi Tư Chính hiện nay.
Vào khi ấy, Bắc Kinh đã cho cắm giàn khoan Hải Dương 981 ở vùng biển Việt Nam ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa. Sau một loạt đụng độ - bao gồm cả các vụ tàu đe dọa lẫn nhau và đâm vào nhau, Trung Quốc đã rút giàn khoan đi. Về mặt công khai, Trung Quốc tuyên bố là công việc của giàn khoan đã được hoàn thành trước thời hạn, nhưng có nhiều khả năng là vào lúc đó Bắc Kinh lo ngại trước sự lên án quốc tế, đặc biệt là từ khối Đông Nam Á ASEAN và từ Washington.
Ngày nay, công luận quốc tế dường như ít quan trọng hơn nhiều đối với Trung Quốc. Theo ông Grossman, trong một cuộc trò chuyện gần đây giữa ông và một người đối thoại tại Việt Nam, Hà Nội từng cho rằng Bắc Kinh sẽ lùi bước trong vụ Bãi Tư Chính trước lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vì sợ vụ việc tác hại đến sự kiện lớn đó.
Thế nhưng, ngay cả một cảnh báo nghiêm khắc từ phía Mỹ lên án hành vi bắt nạt của Trung Quốc cũng không lay động Bắc Kinh. Thậm chí họ còn làm mạnh hơn nữa khi tiếp tế nhiên liệu cho chiếc Hải Dương Địa Chất 8 rồi đưa trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Bãi Tư Chính.
Nhận định chung của chuyên gia Derek Grossman là "Chiến lược ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’ của Hà Nội lần này đã không đạt kết quả.
Theo chuyên gia Mỹ, ‘hợp tác’, trong tình huống tốt nhất chỉ là vô thưởng vô phạt, còn xấu nhất là phản tác dụng vì lẽ tách biệt Biển Đông với các lãnh vực khác trong quan hệ song phương, đồng nghĩa với việc để cho mọi việc đâu vẫn vào đấy, bất chấp hành vi bức hiếp của Trung Quốc.
Còn về ‘đấu tranh’, việc vạch mặt chỉ tên để bêu xấu Trung Quốc giờ đây không còn tác dụng nữa.
Việt Nam cần đẩy mạnh vế đấu tranh, tăng cường quan hệ quốc tế
Câu hỏi mà chuyên gia Derek Grossman đặt ra là trong tình hình như vừa kể, chiến lược chống Trung Quốc của Việt Nam sẽ phải ra sao ?
Đối với chuyên gia Mỹ, Hà Nội có thể xem xét khả năng tiếp thêm sức mạnh cho vế đấu tranh trong chiến lược cố hữu của mình - mà không làm phương hại đến thế cân bằng tế nhị của chủ trương "vừa hợp tác, vừa đấu tranh".
Khả năng tăng cường vế đấu tranh, theo ông Grossman, có thể là nâng cấp quan hệ với Washington lên hàng "đối tác chiến lược". Một thông báo như vậy sẽ báo hiệu rằng Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng một lợi ích chiến lược lâu dài – một lời thách thức kín đáo gởi đến Trung Quốc. Hà Nội vẫn có thể hợp tác với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh sẽ biết rằng Washington có thể xen vào các cuộc khủng hoảng Biển Đông tương lai một cách cụ thể hơn là những lời nói suông hiện nay.
Hà Nội cũng có thể tiếp tục phát triển và tăng cường mạng lưới quan hệ quốc phòng với các nước ASEAN, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ. Thúc đẩy được khối nước đó lên tiếng trong cuộc khủng hoảng tiếp theo với Trung Quốc - lần này không nước nào làm như vậy - sẽ là một thách thức, nhưng không phải là không thể được. Theo ông Grossman, có một cách để đảm bảo sự hỗ trợ của các kể trên là Hà Nội cởi mở hơn trong việc thảo luận với họ về các thách thức an ninh và cách đối phó.
Trở ngại chính cho cách tiếp cận này là chính sách quốc phòng "3 Không" của Việt Nam : không tham gia các liên minh quân sự, không cho nước ngoại đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước thứ hai để chống lại một nước thứ ba. Tuy nhiên, theo ông Grossman, Việt Nam đã âm thầm tìm cách lách chính sách này trong quá khứ gần đây. Ví dụ, vào tháng 5 năm 2018, Việt Nam đã tập trận với Ấn Độ và đang tiến hành một loạt các hoạt động quân sự với Washington nhưng không mang danh nghĩa "liên minh".
Đối với chuyên gia Mỹ, nếu muốn gửi cho Trung Quốc một thông điệp thực sự nghiêm khắc, Việt Nam có thể tham gia – trong tư cách là đối tác đối thoại - vào cơ chế Đối Thoại An Ninh Bộ Tứ (hay Quad) bao gồm 4 nước Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản. Triển vọng này, tuy nhiên, chắc chắn còn rất xa vời đối với Hà Nội.
Những lựa chọn khác
Tuy nhiên, ở một mức thấp hơn, để tăng thêm sức "đấu tranh" chống Trung Quốc Việt Nam còn có vô số lựa chọn khác
Chuyên gia Grossman nêu một số ví dụ : Việt Nam có thể ngừng kiểm duyệt thông tin trong nước về các vụ va chạm giữa tàu thuyền đánh cá Trung Quốc và Việt Nam… Việt Nam cũng có thể, như Philippines đã làm, kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về các yêu sách Biển Đông quá mức của Bắc Kinh.
Hà Nội có thể không khoan nhượng trong tiến trình đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử với Trung Quốc trong tư cách là chủ tịch ASEAN, và nêu bật những vi phạm của Trung Quốc với tư cách là thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc – cả hai chức vị mà Việt Nam sẽ nắm giữ trong năm 2020.
Sau cùng, Việt Nam cũng có thể hợp tác ít hơn với Trung Quốc để cho thấy rằng các hành vi quyết đoán của Bắc Kinh đã khiến toàn bộ quan hệ song phương gặp nguy hiểm.
Chuyên gia Mỹ kết luận : "Trước một Bắc Kinh ngày càng tự tin và quyết đoán, có lẽ đã đến lúc Việt Nam phải nghĩ đến việc điều chỉnh lại một cách cẩn thận đối sách Trung Quốc của mình để cho phép tăng phần "đấu tranh" và bớt phần "hợp tác".
Mai Vân
*******************
Hà Nội lên án Bắc Kinh ‘không tuân thủ luật pháp quốc tế’ (Người Việt, 18/11/2019
Hà Nội gián tiếp lên án Bắc Kinh "không tuân thủ luật pháp quốc tế" khi đơn phương, không tôn trọng lợi ích của các nước khác dẫn đến nguy cơ leo thang căng thẳng, "đối đầu".
Bản đồ Biển Đông với 9 vạch "lưỡi bò" ngang ngược của Trung Quốc. (Hình : Wikipedia)
Đài VOV thuật lại bài phát biểu của Tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tại Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN diễn ra sáng Chủ Nhật, 17/11/2019, tại Bangkok, Thái Lan.
Theo nguồn tin vừa kể, ông Lịch thấy được thuật lời "đề cập căng thẳng vừa qua (trên Biển Đông) là do có những hành động đơn phương, không tôn trọng lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nước khác".
Người ta hiểu ngay ông ám chỉ việc Trung Quốc cho nhóm tài hải giám, dân quân biển hộ tống tàu khảo sát địa chất Haiyang Dizhi 8 xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam suốt thời gian hơn hai tháng, từ đầu tháng Bảy đến giữa tháng Chín, cản trở, quấy rối hoạt động dò tìm và khai thác dầu khí của Việt Nam.
Trung Quốc ngang ngược tuyên bố chủ quyền chiếm hơn 80% Biển Đông theo những cái vạch tưởng tượng nối lại giống hình "lưỡi bò" mà nhiều khu vực liếm rất sâu vào các vùng biển đặc quyền kinh tế của các nước khu vực, theo Công ước Quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Ngày 13/07/2016, Tòa Trọng Tài Quốc Tế tại The Hague, Hòa Lan, phán quyết tuyên bố chủ quyền "lưỡi bò" của Trung Quốc là phi lý và không có giá trị, theo đơn kiện của Philippines.
Tuy nhiên, cậy sức mạnh quân sự ăn trùm các nước nhỏ trong khu vực, Bắc Kinh tuyên bố không tôn trọng phán quyết. Mất chỗ dựa pháp lý, Bắc Kinh lại lươn lẹo tuyên bố các vùng biển "lưỡi bò" đó là do "tổ tiên để lại" và tiếp tục cản trở Việt Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
Tại cuộc họp nói trên ở Bangkok, ông Ngô Xuân Lịch được VOV thuật lời gián tiếp lên án Trung Quốc, "không tuân thủ luật pháp quốc tế, diễn giải hoặc chỉ áp dụng luật pháp quốc tế khi có lợi cho mình sẽ gây ra sự nghi kỵ, mất lòng tin với nhau và thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ leo thang căng thẳng, đối đầu".
VOV dẫn lời ông Lịch : "Một ví dụ dễ thấy nhất là những căng thẳng trên Biển Đông vừa qua là do có những hành động đơn phương, không tôn trọng lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nước khác, không phù hợp với luật pháp và chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 đã dẫn đến nguy cơ đe doạ hòa bình ổn định khu vực và thu hút được sự quan tâm của nhiều nước ngoài khu vực".
Ngày hôm sau, Thứ Hai, 18 Tháng Mười Một, 2019, trong phiên họp mở rộng cấp Bộ trưởng quốc phòng giữa ASEAN và các đối tác khu vực (Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ), người ta lại thấy ông Lịch nói : "Những căng thẳng vừa qua trên Biển Đông cho thấy, một khi luật pháp quốc tế không được tôn trọng, an ninh và ổn định khu vực nói chung và trên biển nói riêng sẽ bị đe dọa".
Tân Hoa Xã tường thuật Bộ trưởng quốc phòng Wei Fenghe (Ngụy Phụng Hòa) tham dự cuộc họp ngày Chủ Nhật ở Bangkok, giữa các Bộ trưởng quốc phòng ASEAN và Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc, tảng lờ những lời đả kích của ông Ngô Xuân Lịch. Chỉ thấy Tân Hoa Xã đưa tin : "Trung Quốc và ASEAN cam kết củng cố hợp tác quốc phòng để bảo vệ ổn định khu vực".
Nhưng các hãng tin quốc tế từ CNN đến AP, Reuters đều đưa tin, trong cuộc họp song phương giữa Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phụng Hòa với Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper, hai bên đã có những bất đồng ý kiến về Biển Đông.
Khi bị ông Esper đả kích Trung Quốc ngày càng gia tăng chèn ép, ức hiếp các nước nhỏ trong khu vực, ông Ngụy Phụng Hòa đã đòi Mỹ "chấm dứt khoe cơ bắp trên Biển Đông và đừng kích thích gia tăng căng thẳng trên Biển Đông". (TN)
******************
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Esper lên tiếng bênh vực Việt Nam trước sự bá quyền của Bắc Kinh (VOA, 18/11/2019)
Hôm 18/11, Trung Quốc đã hối thúc quân đội Hoa Kỳ "ngừng phô trương sức mạnh" trên Biển Đông đang có tranh chấp. Cùng lúc Washington lên tiếng bênh vực Hà Nội trước hành động của Bắc Kinh cản trở Việt Nam khai tác dầu khí ở Biển Đông.
Người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Đại tá Ngô Khiêm (Wu Qian), nói với các phóng viên ở Bangkok rằng Biển Đông là một trong những vấn đề được thảo luận trước đó trong cùng ngày khi Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper có cuộc gặp lần đầu tiên với Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa. Hai bên gặp nhau hơn nửa tiếng bên lề Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng hôm 18/11.
"Chúng tôi đồng ý tiếp tục hội đàm và tiếp xúc thường xuyên", Bộ trưởng Esper nói với các phóng viên trong một cuộc họp báo ngắn. "Chúng tôi tiếp tục đạt được tiến bộ trong các vấn đề", ông Esper nói thêm.
Phát ngôn viên Ngô nói tại một cuộc họp báo rằng hai nhà lãnh đạo quốc phòng đã có một cuộc gặp gỡ "rất tích cực và mang tính xây dựng" và đã đồng ý trên nhiều khu vực. Nhưng ông nói rõ rằng Bắc Kinh thấy khó chịu trước sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ ở Biển Đông. Ông Ngô nói rằng Bộ trưởng Ngụy đã tái khẳng định cam kết của Trung Quốc trong việc bảo vệ "chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi hàng hải" trên Biển Đông.
"Phía Trung Quốc cũng kêu gọi phía Hoa Kỳ ngừng thị uy cơ bắp ở Biển Đông và không kích động, leo thang căng thẳng ở Biển Đông", ông Ngô nói thông qua một phiên dịch viên Trung Quốc.
Được hỏi cụ thể hơn về sự phản đối của Trung Quốc, ông Ngô nói rằng Hoa Kỳ nên "ngừng can thiệp vào Biển Đông và ngừng khiêu khích quân sự", cũng theo AP.
Ông Jonathan Hoffman, người phát ngôn của Bộ trưởng Esper, nói trong một tuyên bố sau đó rằng Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ "tái khẳng định rằng Hoa Kỳ sẽ cử máy bay, tàu để tuần tra bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép - và chúng tôi sẽ bảo vệ và khuyến khích các quốc gia có chủ quyền khác hành động tương tự".
Trong bài phát biểu tại kỳ họp ASEAN –US hôm 18/11, Bộ trưởng Esper nói rằng Trung Quốc đã "tăng cường sử dụng cái mà họ gọi là ‘tàu dân quân hàng hải’" để xua đuổi các thủy thủ và ngư dân Philippines, Indonesia, Malaysia và Việt Nam, cũng như sử dụng lực lượng bảo vệ bờ biển để ngăn chặn Việt Nam "khoan dầu và khí đốt tự nhiên ngoài bờ biển của nước này", theo hãng tin Kyodo.
"Thông qua các hành động khiêu khích lặp đi lặp lại để khẳng định đường chín đoạn, Bắc Kinh đang ngăn cản các thành viên ASEAN tiếp cận hơn 2,5 nghìn tỷ đôla dự trữ năng lượng, đồng thời châm ngòi cho sự bất ổn và tăng nguy cơ xung đột", Esper nói.
"Hành vi này tương phản với trật tự dựa trên quy tắc mà tất cả chúng ta đang cùng nhau thực hiện và vun đắp trong hơn 70 năm qua", ông Esper nói thêm.
Bộ trưởng Esper cho biết "các hành động ở Biển Đông của Bắc Kinh đưa ra một thách thức hàng hải đòi hỏi một giải pháp đa phương".
Hôm 17/11, trong bài phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN tại Bangkok, Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch cũng đề cập đến vấn đề Biển Đông, nói rằng "căng thẳng vừa qua là do có những hành động đơn phương, không tôn trọng lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nước khác", theo Infonet.vn.
*******************
Biển Đông và vai trò của Mỹ : Tâm điểm Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (RFI, 17/11/2019)
Thủ đô Thái Lan, trong hai ngày liên tiếp 17-18/11/2019, đón các Bộ trưởng quốc phòng của 10 nước ASEAN và 8 quốc gia khác, dự các cuộc họp về an ninh khu vực. Căng thẳng Biển Đông là chủ đề chính tại hai hội nghị, Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM Retreat) và Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM Plus).
Đại diện Hoa Kỳ tham gia một hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng. Hội nghị tổ chức tại Manila hồi 2017. NOEL CELIS / AFP
Trong bài diễn văn khai mạc phiên họp Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng 10 nước thành viên ASEAN ngày 17/11, phó thủ tướng Thái Lan, Prawit Wongsuwan, bày tỏ hy vọng tiếp tục hợp tác giữa các nước thành viên để giải quyết các thách thức đối với an ninh khu vực.
Theo tờ NHK World của Nhật Bản, cuộc họp ngày hôm nay tập trung thảo luận về tình hình Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng gia tăng sự hiện diện quân sự trong khu vực. Ngoài ra, hồ sơ phi hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên cũng là một chủ đề khác trong chương trình nghị sự.
Giới quan sát nhận định các nước thành viên ASEAN dường như đang nỗ lực tìm kiếm một thế cân bằng trong quá trình thảo luận các vấn đề có liên quan đến Trung Quốc, sao cho không làm tổn hại đến các mối kinh tế giữa khối ASEAN và Trung Quốc, vốn dĩ ngày càng trở nên chặt chẽ.
Tuy nhiên, tờ South China Morning Post trích dẫn phân tích của giới chuyên gia cho rằng "những lo ngại về các hành động ngày càng hiếu chiến của Bắc Kinh tại Biển Đông và sự vắng bóng của các lãnh đạo Mỹ trong những sự kiện ngoại giao quan trọng tại Đông Nam Á có lẽ sẽ là trọng tâm cuộc thảo luận trong phiên họp cuối tuần này".
Thứ Hai, 18/11/2019, lãnh đạo quốc phòng 10 nước ASEAN có một phiên họp mở rộng với Bộ trưởng quốc phòng 8 nước khác như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Úc, New Zealand và Ấn Độ.
Minh Anh
Mỗi ngày đi qua lại có thêm bằng chứng Lãnh đạo Việt Nam quên nhắc đến tên Biển Đông như điều kiện làm hài lòng Trung Quốc.
Bằng chứng đã thấy trong các bài diễn văn hay bài viết cuối năm kiểm điểm tình hình quốc nội và ngoại giao của hai ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Riêng ông Phúc đã không nói đến Biển Đông trong hai bài phát biểu quan trọng trước kỳ họp 6 của Quốc hội hồi tháng 10 và 11/2018.
Bài thứ nhất là Báo cáo về "Tình hình Kinh tế-Xã hội năm 2018 và Kế hoạch phát triển Kinh tế-Xã hội năm 2019". Bài thứ hai ghi lại phát biểu của ông Phúc tại Phiên giải trình và trả lời chất vấn của Quốc hội.
Ngư dân Việt Nam bất lực trước sự chèn ép và tấn công của tàu Trung Quốc ngay trong hải phận - Ảnh minh họa
Đề cập đến "quốc phòng, an ninh, đối ngoại", ông Phúc nói : "Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tập trung chỉ đạo ; phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia ; góp phần nâng cao vị thế đất nước. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố ; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. C hủ động ứng phó với các tình huống phức tạp, bảo đảm an ninh, an toàn cho ngư dân và các hoạt động kinh tế trên biển. Thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ ; xây dựng, quản lý biên giới hòa bình, ổn định và phát triển".
Toàn là những điều chung chung, thiếu chi tiết cụ thể và ảo tưởng. Không có chữ nào nói đến tình hình phức tạp do Trung Quốc gây ra cho an ninh và ngư phủ Việt Nam đánh bắt ở hai vùng biển truyền thống Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó, khi ông Phúc nói Chính phủ đã "Chủ động ứng phó với các tình huống phức tạp, bảo đảm an ninh, an toàn cho ngư dân và các hoạt động kinh tế trên biển" là ông đã nói loạn cào cào, không thật. Bởi vì từ xưa đến nay, lực lượng Cảnh sát biển và Lực lượng biên phòng Việt Nam chưa bao giờ dám can thiệp, nghênh chiến hoặc đánh đuổi Hải quân Trung Quốc trá hình Hải giám khi chúng tấn công ngư dân Việt Nam ở Biển Đông.
Thậm chí báo đài chính thống của nhà nước Việt Nam còn không dám gọi đích danh quân Trung Quốc và tầu Trung Quốc mà chỉ nói bâng quơ "tầu lạ" hay "tầu nước ngoài", mặc dù ngư phủ Việt nói thẳng đó là tầu và lính Trung Quốc.
Do đó, khi ông Nguyễn Xuân Phúc nói bừa rằng, Chính phủ do ông cầm đầu đã "Thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ ; xây dựng, quản lý biên giới hòa bình, ổn định và phát triển" là ông đã nói theo miệng lưỡi của hạng người muốn cắn răng bóp bụng để được sống chung hòa bình với quân thù.
Trong bài viết khoe thành tích đầu năm 2019 nhan đế "Quyết liệt hành động để phát triển nhanh, bền vững", thêm lần nữa ông Phúc không nói một chữ nào về tình hình Biển Đông, mặc dù hiểm họa Trung Quốc chiếm thêm biển đảo của Việt Nam chưa bao giờ đến gần như năm 2018.
Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch "Quân sự hóa" 7 bãi đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa từ năm 1988 gồm Vành Khăn, Tư Nghĩa, Subi, Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên.
Sân bay, bến cảng, lực lượng phòng không, đài radar và lực lượng đồn trú đã sẵn sàng cho Trung Quốc sử dụng bất kỳ lúc nào có lệnh của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Hoa Tập Cận Bình.
Theo các nhà phân tích về nội tình Trung Quốc thì phe "diều hâu" trong Quân đội Trung Quốc đang gia tăng áp lực đòi công khai đương đầu với Hải quân Mỹ ở Biển Đông, sau vài vụ "quấy nhiễu nhẹ" giữa các tầu chiến hai nước ở Biển Đông từ giữa năm 2018.
Một trong số tướng "diều hâu" của Trung Quốc tên La Viện đã đề nghị "Phải đánh chìm tàu sân bay Mỹ" ở Biển Đông. La Viện nói : "Mỹ sợ nhất là chết người, chỉ cần đánh chìm 2 tàu sân bay, chết 10 ngàn người là Mỹ sợ ngay".
Theo bài dịch của Thu Thủy đăng trên báo VietTimes ở trong nước ngày 02/01/2019 thì tuyên bố của La Viện đã được đăng trên trang tin Hoa ngữ Đa Chiều "DWNews" được cho là thân cận với Bắc Kinh. Theo tin này, hôm 20/12/2018 Trung Quốc đã tổ chức tại Thâm Quyến "Hội nghị công nghiệp quân sự 2018", La Viện, Phó Tổng thư ký Hội Khoa học quân sự Trung Quốc" đã có bài phát biểu dài tập trung nói về vấn đề đối đầu Trung - Mỹ.
Ngày 23/12/2018, toàn văn bài nói của La Viện được đăng tải trên tạp chí "Hoa Sơn cung kiếm" dưới tiêu đề "Thiếu tướng La Viện : Chiến tranh mậu dịch Trung - Mỹ là gì ? Vì sao ? Làm thế nào ?
Lâu nay, từ Tập Cận Bình trở xuống cho đến Thủ tướng Lý Khắc Cường và Bộ trưởng ngoại giao Vương Nghị đều nằng nặc hô hoán rằng tất cả các bãi, đảo và vùng nước cung quanh ở Biển Đông là của Trung Hoa từ thời cổ đại.
Trung Quốc cũng nói không nhượng bộ chủ quyền lãnh thổ, dù chỉ 1 ly. Ngược lại phía Việt Nam thì từ ông Trọng trở xuống đều ngậm môi không dám hé răng, động lưỡi. Do đó, cả hai ông Trọng và Phúc chỉ hứa suông : "Kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc", nhưng tuyệt đối tránh nói đến Biển Đông, dường như sợ làm mất lòng Trung Quốc.
Riêng Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, trong bài viết phổ biến cuối năm 2018, lại nói khơi khơi không bằng chứng rằng : "Trên Biển Ðông, chúng ta tiếp tục bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc".
Hai chữ "vững chắc" là chỉ chắc ở 21 vị trí đóng quân của Việt Nam ở Trường Sa vì chưa bị quân Trung Quốc tấn công, hay không có động thái gây chiến với bất kỳ lực lượng nước ngoài nào ở Biển Đông. Nên biết, ngoài Việt Nam và Trung Quốc, còn có các bên tranh chấp nhiều hay ít gồm Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai Á, Brunei và Đài Loan.
Mới đây, trong chuyến thăm Hà Nội, Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã sử dụng thỏa hiệp khai thác dầu khí chung với Phi Luật Tân ở Biển Đông để áp lực Việt Nam cùng hợp tác trên vùng tranh chấp nhưng Hà Nội chưa đồng ý.
Riêng phần ông Nguyễn Phú Trọng thì đã từ lâu, ít ra trong toàn năm 2018, danh từ Biển Đông và tình hình ở đó an nguy cho Việt Nam ra sao không thuộc danh mục ông muốn nói với dân trong các cuộc tiếp xúc với Cử tri Hà Nội hay tại các buổi làm việc với cán bộ, đảng viên.
Vì vậy, nếu có thắc mắc "phải chăng lãnh đạo Việt Nam đã bị dị ứng nên ngọng miệng với hai chữ Biển Đông" không dám nói vì là vấn đế "nhậy cảm" với những ngưởi mà ông Trọng gọi là "vừa là đồng chí, vừa là anh em Trung Quốc".
Ngoài ra ai cũng biết Lãnh đạo Việt Nam muốn cho dân ăn bánh vẽ hòa bình, ổn định giả tạo ở Biển Đông với Trung Quốc chỉ vì muốn giữ cho tròn nghĩa vụ phải tuân theo 16 chữ vàng "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", và bảo vệ tinh thần 4 tốt "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". Những chữ ma quái phù thủy này đã được phía Trung Quốc, thời Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào trao cho Việt Nam như cẩm nang phải giữ. Ngược lại phía Trung Quốc lại không cần làm theo nên Bắc Kinh đã ngạo ngược hành động quân sự đơn phương ở Biển Đông từ bấy lâu nay.
Võ Văn Thưởng - Báo chí
Bên cạnh những bất thường quanh hai chữ Biển Đông, dư luận trong và ngoài nước cũng quan tâm không ít đến những phát biểu cuối năm của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng đối với tình trạng báo chí đã "xa rời tôn chỉ và mục đích", hoặc có khi còn xoay chiều, làm ngược với chỉ thị của đảng.
Cũng như hai ông Trọng và Phúc, Trưởng ban Tuyên giáo, cơ quan nắm đầu báo chí và giữ vững tư tưởng đảng đã không nói, dù 1 chữ chỉ thị cho báo chí về tình hình Biển Đông.
Bởi vì, theo lời ông Thưởng, hiện nay báo chí đang phải đối mặt với tình trạng : "Xu hướng xã hội hóa thông tin, tìm kiếm thông tin ngày càng cá nhân hóa ; hiểm họa tin giả ; quảng cáo giảm sút ; nguy cơ tụt hậu của báo chí nước ta trước sự phát triển rất nhanh của báo chí và truyền thông thế giới ; biểu hiện mơ hồ về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một phận người làm báo…".
Do đó, ông Thưởng đã nói với Hội nghị báo chí toàn quốc ngày 28/12/2018 rằng : "Những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng nghề báo cao quý để trục lợi một cách bất lương cần phải được ngăn chặn với những biện pháp nghiêm khắc nhất ; có chế tài, quy định chặt chẽ để những cán bộ báo chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp nhiều lần nghiêm trọng phải bị tẩy chay, không còn cơ hội len lỏi vào các cơ quan báo chí".
Ông ra lệnh : "Khắc phục tối đa bị kỷ luật ở cơ quan này chạy qua cơ quan khác, bị tước thẻ nhà báo thì vẫn mang bút danh khác… Tôi nhớ kỷ niệm năm trước, tôi đã nói báo chí phê phán người ta... nhưng tôi thấy rằng nhiều phóng viên viết bài trên báo mình rất hay nhưng rời khỏi tòa soạn viết trên mạng xã hội là như con người đa nhân cách. Một mặt viết trên báo đào hoa phong nhã, tư cách sáng ngời, lên mặt phê bình người này, dạy dỗ người khác nhưng khi viết trên mạng cũng không thua kém người vô bổ vô thực, chửi tục nói phét".
Rồi ông kêu gọi Hội Nhà báo : "Cần tăng cường nhiều hơn, có giải pháp tích cực hơn nữa nhằm phê bình những vi phạm đạo đức nghề nghiệp của hội viên, cơ quan báo chí với những quy định chặt chẽ, nghiêm khắc, đủ sức răn đe, tương xứng với những sai phạm. Đây cũng là một trong những giải pháp cần thiết nhằm góp phần phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong tổ chức Hội, hội viên và người làm báo".
Cuối cùng, ông Thưởng nhìn nhận Đảng đang phải đối phó với "thách thức từ mạng xã hội là rất lớn". Ông nói : "Thách thức lớn hơn chính là tư tưởng, tâm thế thất bại, thua cuộc của những người làm báo và hành động chưa kiên quyết, chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả của các cơ chế phối hợp cũng như các cơ chế quản lý nhà nước về thông tin".
Như vậy rõ ràng, tình trạng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" không chỉ xẩy ra trong cán bộ, đảng viên mà còn đầy rẫy trong làng báo, những người lèo lái dư luận theo lệnh đảng.
Hèn chi ông Thưởng đã khôn không yêu cầu báo chí giúp đảng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, vì khi hai Lãnh đạo đầu não Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Xuân Phúc không màng thì ai thèm quan tâm ?
Phạm Trần
(04/01/2019)
Quốc hội Việt Nam thừa nhận sự quyết liệt của Trung Quốc ở Biển Đông (RFA, 06/12/2017)
Quốc hội Việt Nam nói rằng Trung Quốc ngày càng quyết liệt hơn trong việc sử dụng nhiều biện pháp để chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Những người biểu tình phản đối Trung Quốc với các biểu ngữ "Gạc ma, đất nước không quên' trong một cuộc tập trung ở Hà Nội hôm 14/3/2016 kỷ nhiệm trận chiến ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988. AFP
Nhận định này được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đưa ra trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 12 và được báo chí Việt Nam trích dẫn.
Báo cáo này ghi rõ là Trung Quốc đã sử dụng cả biện pháp đâm chìm tàu Việt Nam để ngăn cản các hoạt động của Việt Nam trên biển.
Ngoài ra, báo cáo nói thêm là Trung Quốc cũng gia tăng liên tục việc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam để đánh trộm hải sản.
Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía Bắc Biển Đông hiện do Trung Quốc chiếm giữ hoàn toàn, là nơi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc chiếm đoạt lấy quần đảo này từ Miền Nam Việt Nam sau một trận hải chiến hồi năm 1974.
Quần đảo Trường Sa nằm ở phía Nam Biển Đông là nơi tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Trung Quốc đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào trong một đơn vị hành chính mà họ đơn phương lập ra để kiểm soát khu vực rộng lớn ở Biển Đông gọi là tỉnh Tam Sa.
Đối Với Việt Nam, Hoàng Sa là một huyện trực thuộc Thành phố Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Trong thời gian mấy năm gần đây Trung Quốc thực hiện nhiều nổ lực gầy dựng sức mạnh quân sự ở những nơi họ đang chiếm đóng thuộc hai quần đảo này bằng cách xây đắp những đảo nhân tạo, triển khai máy bay chiến đấu hiện đại ra hai quần đảo này.
Vào đầu tháng 12 này, Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhận đã đưa chiến đấu cơ đến Hoàng Sa.
****************
Tư lệnh Hải quân Liên Bang Nga thăm Việt Nam (RFA, 06/12/2017)
Đô đốc Vladimir Ivanovich Korolev, Tư lệnh Hải quân Liên Bang Nga đã đến Việt Nam hôm thứ Tư 5/12, bắt đầu chuyến thăm Việt Nam.
Lễ đón Đô đốc Vladimir Ivanovich Korolev tại cơ quan Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam ngày 4/12/2017 - Courtesy baochinhphu.vn
Phát ngôn viên Hải quân Nga cho báo chí biết thông tin vừa nói hôm 6/12.
Theo chương trình làm việc, Đô đốc Vladimir Ivanovich Korolev sẽ gặp một số lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam, thăm Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam tại Hải Phòng, thăm Học viện Hải quân, thăm một chiến hạm và một tàu ngầm thuộc Hải quân Việt Nam.
Được biết, chuyến thăm của vị Tư lệnh Hải quân Liên Bang Nga theo lời mời từ phía Việt Nam.
Việt Nam cũng là nước mua nhiều vũ khí của Nga, đặc biệt là 6 tàu ngầm Kilo mà Nga đã chuyển giao cho Việt Nam và gần đây là các chiến hạm Gepard. Nga cũng giúp đào tạo các thủy thủ tàu ngầm cho Việt Nam.
*******************
Nga đào tạo ‘chuyên ngành đặc biệt’ cho Hải quân Việt Nam (VOA, 06/12/2017)
Tư lệnh Hải quân Nga Đô đốc Vladimir Korolev khẳng định Hải quân Nga sẵn sàng hợp tác và giúp đỡ Việt Nam trong đào tạo, hợp tác về lĩnh vực kỹ thuật quân sự, và "hỗ trợ xây dựng Hải quân Việt Nam chính quy, hiện đại".
Đô đốc Hải quân Nga Vladimir Korolev và Chuẩn Đô đốc Hải quân Việt Nam Phạm Hoài Nam, ngày 4/12/2017. (Ảnh : Thanh Niên)
Theo Thông Tấn Xã Việt Nam, chiều 5/12, tại Hà Nội, Đô đốc Korolev đã gặp Thượng tướng Phan Văn Giang, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam, bày tỏ mong muốn tăng cường hơn nữa giao lưu, hợp tác giữa lực lượng hải quân hai nước.
Hãng Thông Tấn TASS của Nga dẫn lời đại úy Igor Dygalo, người phát ngôn Hải quân Nga, nói rằng chuyến công du của Đô đốc Korolev đến Việt Nam kéo dài từ ngày 4 đến 8 tháng 12, là do phía Việt Nam mời.
Bộ Quốc phòng Nga hôm 6/12 nói chuyến công du này nhằm tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa hải quân hai nước.
Theo báo VietnamNet, trong cuộc gặp với chuẩn Đô đốc Phạm Hoài Nam, Tư lệnh Hải quân Việt Nam chiều 4/12 tại thành phố Hải Phòng, Đô đốc Korolev nói Nga sẵn sàng "hỗ trợ xây dựng Hải quân Việt Nam chính quy, hiện đại".
Báo Thanh Niên trích lời ông Nam đánh giá cao Hải quân Nga đào tạo cán bộ và học viên giúp Hải quân Việt Nam, nhất là về các chuyên ngành đặc biệt. Tuy nhiên, báo này không nêu rõ ‘chuyên ngành đặc biệt’ là gì.
Chuẩn Đô đốc Phạm Hoài Nam đề xuất việc thiết lập kênh thông tin liên lạc giữa Hải quân hai nước để khi tàu Nga đi qua vùng biển Việt Nam và nếu có yêu cầu, thì Hải quân Việt Nam sẽ sẵn sàng hỗ trợ, theo VietnamNet.
Trong chuyến công du kéo dài một tuần, Đô đốc Korolev và đoàn công tác sẽ đến chào xã giao lãnh đạo Bộ Quốc phòng ; thăm một số đơn vị Hải quân Việt Nam và tham quan di tích lịch sử ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Khánh Hòa, Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh.
Hãng Thông tấn TASS nói ông Korolev sẽ thăm Học viện Hải quân Việt Nam, thăm một tàu chiến và một tàu ngầm của Việt Nam trong chuyến công du này.
Truyền thông trong nước trích lời Đô đốc Korolev nói ông mong muốn Hải quân Việt Nam cử đại biểu tham dự hội nghị quốc tế và cử đại diện tham gia các kỳ hội thao do Hải quân Nga tổ chức.
Việt Nam loan báo đã đặt mua bốn tàu khu trục Gepard có trang bị ngư lôi chống tàu ngầm của Nga. Theo đó, ba chiếc đã về đến Việt Nam và chiếc thứ tư, tính đến sáng ngày 6/12 đang được tàu vận tải Rolldock Star vận chuyển ở ngoài khơi Istanbul, sau khi khởi hành từ Novorossiysk của Nga vào chiều ngày 4/12.
Bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trước đây nói với báo chí : "Việc Nga giao tàu khu trục cho Việt Nam nằm trong khuôn khổ hợp tác quốc phòng giữa hai nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng của Việt Nam".