Từ điển tiếng Việt giải thích, động từ ‘đối kháng ; có nghĩa là đối lập sâu sắc, một mất một còn, không thể dung hòa được với nhau.
Từ điển tiếng Việt còn cho biết đồng nghĩa với ‘đối kháng’ là ‘đối địch’ , phân định thắng thua bằng cách đối chọi trực tiếp với nhau. Thi đấu đối kháng là một ví dụ.
Như vậy, trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định ở Chương XIII, Bộ Luật hình sự hiện hành, thì điều luật thứ 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", không có dáng dấp của động từ ‘đối kháng’. Bởi trên thực tế chẳng có bất kỳ một nhóm xã hội dân sự nào, thậm chí ngay cả nhóm quyền lực kiểu ’12 sứ quân’, lại đủ sức để có thể phân định thắng thua bằng cách đối chọi trực tiếp với một nhà nước có cả bộ máy quân sự chính quy.
Ở đây, liên quan đến các nội dung trong điều 117 là hàng loạt yêu cầu được nêu ở Chương XV, "Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân".
Cụ thể, điều 163 "Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân", quy định :
"1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác lập hội, hội họp hợp pháp, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 01 năm đến 03 năm : a) Có tổ chức ; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn ; c) Phạm tội 02 lần trở lên ; d) Dẫn đến biểu tình ; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm".
Điều 167 "Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân", quy định :
"1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm : a) Có tổ chức ; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn ; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ từ 01 năm đến 05 năm".
Từ hai điều luật hình sự viện dẫn ở trên, cho thấy xét trong trường hợp tạm gọi theo ngôn ngữ thường thấy của nhà chức trách là "động cơ phạm tội", thì rõ ràng là việc thông qua các bài viết với những căn cứ lập luận theo các quyền công dân được Hiến định – với cụ thể nhà báo Phạm Chí Dũng, hay có thể là cả người viết báo tự do Lê Hữu Minh Tuấn, thì đó không phải là ‘đối kháng’ của hành vi ‘chống’, mà mô tả đúng ở đây, ‘động cơ phạm tội’ là kêu gọi cho thực thi các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin.
Trong một bài viết thuần về kỹ thuật làm luật mà trang Việt Nam Thời Báo có đề cập khi ghi nhận ý kiến của thầy giáo Ngô Huy Cương, "Việt Nam chưa có mô hình pháp luật rõ ràng ?" (*), thì rất có thể một trong những duyên cớ đưa đến chụp chiếc mũ hình sự hóa khi người dân yêu cầu thực thi các quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí, là vì "khác với pháp chế xã hội chủ nghĩa nơi đòi hỏi mọi cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân thủ pháp luật một cách vô điều kiện, nhà nước pháp quyền chỉ đòi hỏi nhà nước phải tuân thủ pháp luật để bảo vệ tự do cá nhân của con người. Hai vấn đề này có thể có sự khác biệt về mục tiêu chính trị – pháp lý" (nguồn đã dẫn).
Lynn Huỳnh
Nguồn : VNTB, 20/06/2020
________________
Chú thích :
(*)https://vietnamthoibao.org/vntb-viet-nam-chua-co-mo-hinh-phap-luat-ro-rang
Một luật sư ở Hà Nội nói với BBC rằng việc khởi tố ông Nguyễn Văn Đài theo cả hai Điều 88 và 79 "là chưa có tiền lệ" và "là chỉ dấu chính quyền xem ông là con cá lớn để đổi chác với quốc tế".
Bà Vũ Minh Khánh, vợ luật sư Nguyễn Văn Đài cùng những người bạn đi thăm ông tại Trại tạm giam B14, Bộ Công an hôm 1/4/2017
Tháng 12/2015, Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt và bị khởi tố theo Điều 88 Bộ Luật hình sự sau khi ông nói chuyện về Hiến pháp và các quyền con người cơ bản trước một cử tọa chừng 70 người tại nhà của một cựu tù nhân chính trị ở xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Hôm 30/7, Bộ công an Việt Nam loan báo việc bắt tạm giam và khởi tố thêm bốn người trong vụ án được gọi là "Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", theo Điều 79, Bộ Luật hình sự.
Việc thay đổi tội danh từ khi bắt tạm giam cho tới khi khởi tố, đưa ra xét xử theo Bộ Luật hình sự đã từng xảy ra trong quá khứ.
Luật sư Lê Công Định từng bị bắt theo điều 88 nhưng khi đưa ra xét xử cùng các ông Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long được áp dụng điều 79 (có khung hình phạt nặng hơn).
Thông báo của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gửi Luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho ông Đài đề hôm 23/8 được luật sư này chia sẻ trên Facebook của ông ghi : "Ông Nguyễn Văn Đài bị khởi tố về các tội "Tuyên truyền chống Nhà nước", "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" theo Điều 88 và 79 Bộ Luật hình sự, thuộc Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia".
"Xét thấy cần phải giữ bí mật trong quá trình điều tra vụ án, Viện Kiểm sát quyết định để người bào chữa [ông Sơn] tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra vụ án".
Nói sự thật'
Hôm 25/8, trả lời BBC, Luật sư Lê Quốc Quân nói : "Tôi bị sốc khi hay tin Luật sư Nguyễn Văn Đài bị khởi tố thêm tội danh thế này".
"Lần đầu tiên có người bị khởi tố vì hai hành vi liên quan đến hai Điều 79, 88 thuộc Chương an ninh quốc gia, có mức án rất cao, có thể đến tử hình".
"Dù chỉ khởi tố ông Đài theo một Điều 88 thôi đã là quá đáng, không chấp nhận được vì ông ấy chỉ nói sự thật về hiện trạng đất nước".
"Việc khởi tố thêm tội danh nặng với ông Đài là chỉ dấu cho thấy chính quyền muốn gia tăng đàn áp, không dung thứ cho những ai vì lòng yêu nước muốn thảo luận về tình hình đất nước một cách ôn hòa".
"Việc khởi tố thêm ông Đài theo Điều 79 có nghĩa là chính quyền có quyền giam giữ ông Đài thêm bốn lần tạm giam, tức khoảng 16, 20 tháng nữa mà luật sư bào chữa cho ông không thể can thiệp".
Luật sư Nguyễn Văn Đài, người đang bị Việt Nam khởi tố và tạm giam, được Liên đoàn Thẩm phán Đức trao giải Nhân quyền 2017 hồi tháng Tư
"Còn về bản án cho ông ấy sẽ thế nào thì tôi không dám dự báo, nhưng mong chờ có sự thay đổi hoặc nhìn nhận đúng đắn là ông ấy không phạm tội".
"Như tôi và những người Việt Nam khác tin ông ấy".
Luật sư Quân nói thêm : "Chính quyền xem vụ án Nguyễn Văn Đài là đầu vụ, xem ông là con cá lớn, là món đổi chác cho những vấn đề lớn với quốc tế".
"Nhưng hiện tại Việt Nam đang vỡ trận, bị ảnh hưởng bởi vụ không tôn trọng luật pháp quốc tế sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh nên không có nhiều cơ hội để đổi chác".
"Hơn nữa, bối cảnh quốc đang thay đổi, dường như người ta không quan tâm nhiều lắm đến những cá nhân hoạt động nhân quyền".
'Tiếc là như vậy'
"Bản thân tham gia hoạt động luật sư cùng ông Đài, tôi nhận thấy ông là người chân thành, yêu nước, sống đẹp. Ông đem cái đẹp đi vào một xã hội như thế này nhưng rồi lại bị người ta vùi dập".
"Nhưng tôi biết ông là người có đức tin vào Chúa và lẽ sống nên trời sẽ có mắt, cho ông một giải pháp hoặc một giá trị nào đó".
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, luật sư Phạm Công Út, Trưởng Văn phòng Luật Phạm Nghiêm ở Thành phố Hồ Chí Minh, nói với BBC : "Các quy trình tố tụng của án an ninh quốc gia có lẽ được "đặc quyền" nằm ngoài quy trình tố tụng của các loại án khác. Nên việc bảo vệ của các luật sư đối với thân chủ trong các vụ án an ninh hầu như là vô vọng".
"Vì thế đa phần các luật sư ít tham gia những vụ án được quy kết là xâm phạm an ninh quốc gia là vậy".
Sau phiên xử blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm 10 năm tù trong phiên sơ thẩm vì tội "Tuyên truyền chống phá nhà nước" ở Khánh Hòa hôm 29/06, Luật sư bào chữa Võ An Đôn nói :
"Những vụ án có liên quan đến an ninh quốc gia thì luật sư có cũng như không. Chỉ nói mà chẳng ai nghe hết".
Năm ngoái, sau khi báo chí đăng tải Trịnh Xuân Thanh "đào tẩu" ra nước ngoài, nhà nước cộng sản Việt Nam ra lệnh "truy nã toàn quốc" đồng thời với lệnh "truy nã quốc tế" ngày 16 tháng chín năm 2016. Tôi có viết status ngắn, ngày 17 tháng 9, rằng việc này chưa chắc Interpol đã can thiệp.
Bộ Luật hình sự Việt Nam - Ảnh minh họa
Nội qui Interpol, điều 2 khoản a, qui định về việc trợ giúp hỗ tương giữa cảnh sát hình sự thuộc các nước thành viên của tổ chức, (với điều kiện hành vi này) phù hợp với luật pháp của các quốc gia cũng như tinh thần của "Tuyên ngôn phổ cập về nhân quyền". Điều 3, Interpol không can thiệp vào các việc (tội phạm) có liên quan đến chính trị, quân sự, tôn giáo và chủng tộc.
Theo thông tin của cơ quan điều tra bộ Công an (C46), Trịnh Xuân Thanh bị truy tố vì tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" như qui định ở điều 165 Bộ Luật hình sự.
Hành vi gọi là "làm trái các qui định của nhà nước", ngay cả khi hành vi này làm phá sản xí nghiệp nhà nước, không hề mang ý nghĩa "người làm trái qui định của nhà nước" đã phạm tội "tham nhũng".
Tội phạm gọi là "làm trái qui định của nhà nước về quản lý kinh tế" trong một xí nghiệp nhà nước, không hiện hữu ở các nước "tư bản đang giẫy chết".
Các "qui định của nhà nước về quản lý kinh tế" trong một nước có nền "kinh tế chỉ huy" như Việt Nam, nếu không hoàn toàn trái ngược, thì cũng không có điều gì "tương đồng" với pháp luật của các nhà nước tư bản thì trường.
Tập quán quốc tế xem hành vi "tham nhũng" là một tội phạm.
Interpol có thể can thiệp, giúp đỡ những nhân viên hữu trách bắt giữ tội phạm tham nhũng đào thoát.
Interpol không hề "truy nã" Trịnh Xuân Thanh như ý kiến của ông tướng công an Lê Quí Vương, Thứ trưởng bộ Công an, phát biểu trước Quốc hội ngày 7 tháng 11 năm ngoái.
Ngay cả nhà nước Đức, nơi ông Thanh trú ẩn, các cơ quan hữu trách, đến hôm nay vẫn không hề xem việc "làm trái các qui định của nhà nước" - nếu có - của Trịnh Xuân Thanh là một "hành vi phạm luật" để có thể trục xuất ông này theo yêu cầu của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Ý kiến này của tôi năm ngoái, hôm nay kiểm chứng lại, thấy là đúng như vậy.
Hiện nay trong nước, nhiều bài báo, nhiều ý kiến cho rằng Trịnh Xuân Thanh phạm tội tham nhũng, phá hoại đất nước. Những ý kiến này - như là lời kết tội của quan tòa.
Việt Nam đã hành sử như một quốc gia côn đồ khi đưa mật vụ vào Đức để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Cái cách bào chữa của "học giả", "nhà báo" Việt Nam cho thấy tầm trí tuệ của những người ủng hộ phe chủ trương bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Tôi cũng viết (năm ngoái), 100% các doanh nghiệp lớn của nhà nước "phớt lờ" các qui định của chính phủ đồng thời gây "hậu quả nghiêm trọng" về kinh tế.
Vốn nhà nước đầu tư vào các tập đoàn nhà nước là 1,3 triệu tỉ đồng. Nếu tính lợi nhuận là bình quân 17% thì mỗi năm thì (đáng lẽ) nhà nước thu vô là 200.000 tỉ đồng.
(Số 17% cũng là "mức lời trung bình" cho vay theo qui định của các ngân hàng).
Kết quả là hầu hết các xí nghiệp đều lỗ lã mà vốn cũng "bốc hơi" lần hồi.
Nếu áp dụng điều luật 165 Bộ Luật hình sự (như trường hợp Trịnh Xuân Thanh) cho tất cả các tập đoàn nhà nước, thì lãnh đạo các tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba), Tổng công ty Giấy Việt Nam, Tổng công ty Cà phê Việt Nam (Vinacafe), Tổng công ty Lương thực Miền Bắc (Vinafood 1), Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Thiết bị y tế Việt Nam... đều có thể phải vào tù.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 09/08/2017
Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14 đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ Luật hình sự 2015. Trong một phiên họp của Quốc hội, Đại biểu Bắc Kạn Nguyễn Thị Thủy đề nghị đưa vào Bộ Luật hình sự 2015 nghĩa vụ của luật sư phải tố giác thân chủ mình khi phạm một số tội nghiêm trọng, đặc biệt là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Lý do người đề xuất áp dụng trách nhiệm hình sự đối với luật sư không tố giác thân chủ phạm tội là vì nhân dân, vì sự bình yên của nhân dân. Nhiều người cho rằng đây là một đề xuất khá bất thường, đáng lo ngại. Vì những đề xuất bất thường này xem ra lại được sự ủng hộ của không ít đại biểu quốc hội. Bằng chứng là đề nghị này đã được giữ lại trong dự thảo sửa đổi, bổ sung nơi Điều 19, Khoản 3 Bộ Luật hình sự 2015, dẫn đến một phản ứng mạnh mẽ của nhân dân trong nước, nhất là giới luật sư và luật gia.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Đoàn Đại biểu Bắc Kạn) -
Một câu hỏi được đặt ra : Quốc hội Việt Nam đang cải tiến hay cải lùi hệ thống tư pháp và pháp luật nói chung, luật pháp liên quan đến nghề luật sư tại Việt Nam nói riêng ?
Trong văn thư của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đề ngày 12/6/2017 "Về việc góp ý đối với Khoản 3 Điều 19 của Bộ Luật hình sự 2015", sau khi đưa ra ba căn cứ lập luận khá vững chắc, đã đi đến kết luận rằng "Việ c giữ lại Khoản 3 Điều 19 Bộ Luật hình sự 2015 là một bước lùi trong pháp luật hình sự ; tạo sự xung đột pháp luật với các quy định có liên quan ; hạ thấp vai trò, chức năng xã hội của luật sư ; làm "vẩn đục" đạo đức nghề nghiệp luật sư, đi ngược lại thông lệ của nghề luật sư trên thế giới. Và như thế là không phù hợp với Chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị và chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ…".
Tranh luận xung quanh việc luật sư có nghĩa vụ tố giác thân chủ, trong một bài viết trên báo điện tử Người Đưa Tin, Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh - Viện trưởng viện Pháp luật và Kinh tế ASEAN, Tổng Biên tập tạp chí Pháp luật và Phát triển, đã đưa ra 8 căn cứ lập luận để đi đến "kiế n nghị loại bỏ luật sư ra khỏi chủ thể phải tố giác tội phạm…".
Ông viết "Loạ i bỏ luật sư ra khỏi các chủ thể phải tố giác tội phạm theo Điều 19, Dự thảo luật Sửa đổi, bổ sung BLHS 2015. Đó là phương án tối ưu để đảm bảo cho hệ thống pháp luật Việt Nam không mâu thuẫn với các công ước quốc tế đã ký và đặc biệt là đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, với chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về thúc đẩy và phát triển dân chủ. Phương án này cũng cho thấy giá trị đạo đức và nhân văn của pháp luật hình sự Việt Nam…".
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với các căn cứ và lập luận của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh và của Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh. Chúng tôi cho rằng nếu quốc hội đương nhiệm giữ lại và thông qua Khoản 3 Điều 19 trong luật bổ sung Bộ Luật hình sự 2015, là đã "cải lùi" chứ không "cải tiến" hệ thống tư pháp nói chung và luật pháp liên quan đến nghề luật sư nói riêng. Điều này trái với tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính Trị và kế hoạch 5-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương ; trái với Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/1011 của Thủ tướng Chính phủ. Tất cả đều theo chiếu hướng cải cách là để đáp ứng với đòi hỏi thực tế, phù hợp với thời kỳ "mở cửa" hội nhập với thế giới bên ngoài (sau 1995) ; sau khi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thất bại(1975-1985), không thể cứu vãn dù đã cố gắng thực hiện chủ trương chính sách "Đổi mới" (1985-1995).
Hiệu quả chủ trương chính sách "Mở cửa" để cứu nguy chế độ sau hơn 20 năm từ 1995 đến nay Việt Nam đã thay da đổi thịt như thế nào, bộ mặt phồn vinh ra sao ; nhân dân Việt Nam đã có được một đời sống tốt đẹp hơn so với 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975-1995) không cần nói ra thì mọi người ai cũng thấy. Đó là nhờ sự chuyển đổi kính tế qua con đường làm ăn "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" như đảng và nhà nước nói để tuyên truyền lừa mị ; song thực chất cũng như thực tế "Kinh tế thị trường" đã và đang theo định hướng "tư bản chủ nghĩa" đã là tất yếu.
Nhưng cũng chính sự chuyển đổi kinh tế theo chiều hướng này đã đưa đến chuyển biến về mặt chính trị theo chiều hướng dân chủ hóa từng bước nên thực tế các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền người dân ngày càng được tôn trọng và hành xử ra sao so với hơn 20 năm trước đây ai cũng biết. Do đó, hệ thống tư pháp và pháp luật Việt Nam cần "cải tiến" cho phù hợp cũng là một "tất yếu".
Trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của luật sư Việt Nam cũng cần được nâng cao ngang tầm cao của một luật sư quốc tế là điều cần yếu. Vì vậy, quy chế pháp lý, qui định pháp luật cho cá nhân cũng như đoàn thể luật sư Việt Nam cũng không thể khác với các luật sư và luật sư đoàn quốc tế. Nghĩa là luật sư phải được luật pháp bảo vệ các quyền hành nghề như các luật sư khác trên thế giới, trong đó có quyền độc lập, an toàn cá nhân, quyền giữ bí mật nghề nghiệp, không thể quy kết trách nhiệm hình sự chỉ vì luật sư đã không khai báo những gì mà thân chủ tin cậy đã cho mình biết trong các vụ án mà mình nhiệm cách. Vả lại, khi nhiệm cách cho một thân chủ, các hành vi phạm pháp đã xẩy ra hay chưa kịp xẩy ra bị can đã bị bắt giữ ; việc điều tra, tìm bằng chứng kết tội là nhiệm vụ của các cơ quan điều tra (công an, việ n kiểm sát…) ; trong khi luật sự chỉ làm nhiệm vụ gỡ tội, minh oan cho thân chủ (nế u thực sự họ vô tội), hay tìm cách làm giảm nhẹ hình phạt (nế u thân chủ có đủ chứng cớ phạm tội thật mà có những tình tiết giảm bớt hình phạt).Đây là một nguyên tắc quốc tế bất di bất dịch thể hiện sự quân bình và công bình trong việc xét xử và kết án những nghi can trước tòa án : Công tố buộc tội, luật sư gỡ tội, chánh án hay hội đồng xét xử nghe lý lẽ, bằng chứng đôi bên để kết tội hay tha bổng.
Nay nếu quốc hội thông qua điều luật buộc luật sư phải tố cáo tội trạng của thân chủ mình, là "cải lùi" về thời kỳ "bào chữ a viên nhân dân" với "Đoàn bào chữ a viên nhân dân" là những cá nhân công nhân viên (mộ t trong những điều kiện...) trong một đoàn thể công quyền như công tố đoàn và thẩm phán đoàn đều có ăn lương nhà nước, chung nhiệm vụ xét xử tội phạm theo các nghị quyết của đảng (về chủ trương, chính sách được thể chế hóa thành pháp luật ).
Pháp lệnh ngày 18/12/1987 của Hội đồng nhà nước về tổ chức luật sư và nghị định số 15/HĐBT ngày 21/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chê Đoàn luật sư. Căn cứ trên những văn kiện pháp lý hành chánh này, các Đoàn luật sư được thành lập thay thế cho các đoàn bào chữa viên nhân dân trên cả nước. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành quyết định số 635/QĐ-UB ngày 24/10/1989 vê việc Thành lập Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, nơi "Điều 3 : Đoàn luật sư thành phố được chính thức hoạt động và đoàn bào chữa viên nhân dân thành phố chấm dứt hoạt động kể từ ngày ban hành quyết định này".
Nhớ lại vào năm 1989 khi thành lập Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, theo yêu cầu góp ý với Đại Hội 8 đảng cộng sản Việt Nam của Hội luật gia Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó còn ở trong nước, tôi đã viết bài tham luận "Vai trò của luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa". Hai năm sau, một nhân viên báo Sài Gòn giải phóng có đến gặp tôi nói là để đưa tiền nhuận bút 30 đồng lúc đó cho bài tham luận vừa nêu được báo đăng tải và chuyển đạt lời mời cộng tác viết bài cho báo của lãnh đạo. Tôi ngạc nhiên nói là bài tham luận này tôi đã viết cách nay hai năm mà. Nhân viên này cho hay là vì lúc đó "Đảng chưa có quan điểm về dân chủ pháp trị" nên không dám đăng mà giữ lại vì thấy có giá trị.
Như thế phải chăng bắt đầu từ năm 1989 đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam mới có quan điểm về "dân chủ pháp trị" ? Thế nhưng cho đến nay việc thực hiện quan điểm này có tiến bộ đôi chút, nhưng vẫn không thoát được vòng Kim cô "Xã hội chủ nghĩa" nên các quyền dân sinh, dân chủ và nhân quyền vẫn chưa thực hiện đầy đủ, vẫn bị bóp nghẹt. Công cuộc cải cách hệ thống tư pháp và luật pháp trong đó có luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư vẫn nủa nạc nửa mỡ ?
Thực ra khi chúng tôi đưa ra tiêu đề tham luận "Vai trò củ a luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa" vào thời điểm năm 1989 là có tính gượng ép cho phù hợp thời thế. Vì "Dân chủ pháp trị" (cai trị bằng pháp luật) không thể có trong "chế độ xã hội chủ nghĩa" (độ c tài toàn trị, cai trị bằng nghị quyết của đảng cộng sản độc quyền thống trị). Do đó trong bài tham luận mới đây về luật hóa buộc luật sư phải tố cáo tội lỗi thân chủ của mình, Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh có lẽ cũng đã gượng ép theo kiểu viết và lách, rào trước đón sau khi mở đầu bài viết "Tôi mong Bộ Luật hình sự sau khi được ban hành sẽ không một lần nữa trở thành đề tài phê phán của xã hội, đồng thời để nền dân chủ và hệ thống tư pháp hình sự của đất nước không phải trải nghiệm những bước lùi được báo trước. Bài viết này trao đổi một số vấn đề về hình sự hóa việc luật sư không tố giác thân chủ phạm tội…".
Chúng tôi thành tâm ước mong quốc hội hiện nay trong thời kỳ "Mở cửa" (hộ i nhập vào nền văn minh thế giới) phải là quốc hội của dân, khác với quốc hội trong thời kỳ "Đóng cửa" (xây dự ng xã hội chủ nghĩa khép kín đã thất bại hoàn toàn) là quốc hội của đảng cộng sản Việt Nam. Sự khác biệt cần được thể hiện qua nhiệm vụ lập pháp theo chiều hướng cải tiến hệ thống tư pháp và pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư, đóng vai trò cần yếu trong "nền dân chủ pháp trị" thay vì cố duy trì hệ thống tư pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa lỗi thời.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/07/2017
Dư luận Việt Nam tuần qua nóng lên trước thông tin là trong cuộc thảo luận về khoản 3 Điều 19 Bộ luật Hình sự (quy định người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự khi không tố giác thân chủ phạm phải các tội xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã yêu cầu các luật sư phải tố giác thân chủ.
Dư luận lo âu cho kiến thức và tâm thần của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khi yêu cầu các luật sư phải tố giác thân chủ - Ảnh minh họa
Nhiều người, đặc biệt là giới luật sư, đã bày tỏ thái độ phản đối mạnh mẽ trước sự việc trên. Các ý kiến phản đối chủ yếu tập trung vào hai khía cạnh : (i) việc luật sư biết hành vi phạm tội của thân chủ mới chỉ mang tính chất chủ quan, do thân chủ tự thú nhận, và điều đó có thể là không đúng, trong khi tòa án mới là cơ quan có thẩm quyền quyết định người nào đó có tội bằng một bản án, trên cơ sở kết luận điều tra của cơ quan điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát và lập luận bào chữa của luật sư ; và (ii) việc tố giác thân chủ phạm tội là trái với đạo lý nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng, khi thân chủ đã gửi gắm niềm tin cho luật sư để rồi nhận lấy phản bội.
Thực ra, đây không đơn thuần là một hiện tượng cá biệt, mà nó nằm trong một xu hướng tư duy pháp luật rất đáng quan ngại của bộ máy lập pháp và lập quy ở Việt Nam. Đó là việc các cơ quan lập pháp và lập quy xâm phạm quá mức vào địa hạt mà ở đấy các quy tắc đạo đức truyền thống vẫn chi phối cách ứng xử của con người trong xã hội.
Các mối quan hệ xã hội bị chi phối, trước hết, bởi các quy tắc hay chuẩn mực đạo đức truyền thống. Hàng ngàn năm qua, khi những luật lệ do các vua chúa ban hành chưa nhiều, các mối quan hệ xã hội chủ yếu vẫn chịu sự điều chỉnh của những quy tắc đạo đức hay phong tục, tập quán của dân tộc.
Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội ngày càng phức tạp và đa dạng, con người ngày càng có xu hướng thoát khỏi những ràng buộc truyền thống, một số quy tắc truyền thống hoặc là bị lạc hậu hoặc là không đủ sức điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nữa. Lúc đó, các luật lệ do nhà nước ban hành sẽ khắc phục những bất cập và bổ sung những khiếm khuyết cho các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống.
Sự tiến bộ và tương thích của các luật lệ đó so với các quy tắc điều chỉnh hành vi truyền thống sẽ đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Nếu các luật lệ đó xung đột với các chuẩn mực đạo đức truyền thống thì nguy cơ xã hội rơi vào tình trạng bất ổn xuất hiện. Điều này là bởi khác với các quy tắc đạo đức truyền thống, vốn vận hành dựa trên sự tuân thủ tự nguyện của các thành viên trong xã hội cùng cơ chế chế tài lỏng lẻo, luật lệ do nhà nước ban hành thường kèm theo hình thức chế tài bắt buộc (nếu không muốn những luật lệ đó chỉ tồn tại trên giấy). Vì thế, quyền năng điều chỉnh hành vi của chúng thường cao hơn so với các quy tắc ứng xử truyền thống.
Việc luật sư tố cáo thân chủ là trường hợp cụ thể mà ở đó luật lệ do nhà nước ban hành xung đột với chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Nó sẽ khiến người dân không còn dám đặt niềm tin vào luật sư. Và điều này sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ khác, bởi luật sư là một định chế quan trọng trong xã hội hiện đại, đảm bảo cho sự vận hành ổn định của xã hội : các chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, con người ngày càng nghi kỵ lẫn nhau.
Một dẫn chứng khác về tình trạng luật lệ do nhà nước ban hành xâm phạm quá mức vào địa hạt của các quy tắc đạo đức truyền thống là Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013. Mục 4 ("Vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình") của nghị định này gồm phần lớn những quy định theo kiểu "Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình" (khoản 1 Điều 51).
Chưa hết, tại phiên họp lần thứ nhất của Ban Soạn thảo Luật Hôn nhân & Gia đình ngày 26/7/2012, ông Dương Đăng Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp, cho biết là dự kiến sẽ bổ sung chế tài xử lý hành vi ngoại tình vào luật này. Lý do được ông đưa ra là các hành vi vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình có thể bị xử lý về hành chính hoặc hình sự, nhưng việc áp dụng chế tài trong hôn nhân và gia đình lại chưa được luật quy định cụ thể. Ông Huệ nêu ví dụ là Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000 quy định vợ chồng có nghĩa vụ chung thủy, thương yêu nhau, nhưng khi một bên vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa vụ này (như ngoại tình, ngược đãi, hành hạ…) thì lại thiếu chế tài xử lý.
Tương tự như vậy là Luật Trẻ em do Quốc hội ban hành ngày 5/4/2016 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/6/2017, với những quy định như nghiêm cấm hành vi công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên (khoản 11 Điều 6).
Trước hết, cần thừa nhận rằng không phải sự tồn tại của những niềm tin luân lý sâu sắc và phổ biến trong bất kỳ vấn đề nào là tự nó đã biện minh cho việc áp đặt chúng. Ở đây, việc chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng các thành viên gia đình phải thương yêu nhau, vợ chồng phải "chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau…" hay bố mẹ thì cần giữ bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của con cái… không có nghĩa là xã hội cần phải có chế tài pháp luật để ngăn ngừa các thành viên gia đình lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhau, để các cặp vợ chồng phải "chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau…", hay để bố mẹ phải xin phép con cái khi, chẳng hạn, muốn đăng ảnh của chúng lên Facebook.
Một mặt, những quy định pháp luật như thế sẽ xâm phạm quá mức vào phạm vi riêng tư của quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng hay quan hệ giữa bố mẹ và con cái, nơi mà các quy tắc đạo đức truyền thống vẫn đủ sức điều chỉnh. Mặt khác, bộ máy công quyền lúc đó sẽ trở nên quá cồng kềnh và tốn kém để thực thi pháp luật, trong khi mức độ hiệu quả (bảo vệ hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội) rõ ràng là rất đáng phải đặt dấu hỏi.
Tóm lại, Việt Nam đang ngày càng sinh sôi nảy nở những quy định pháp luật tréo ngoe, phi nhân, trong khi lại thiếu vắng những đạo luật nền tảng vốn cần thiết cho sự ổn định và phát triển của một xã hội dân chủ như luật lập hội hay luật biểu tình. Kết cục, như chúng ta đã thấy, là một xã hội ngày càng bất ổn, đạo đức xã hội ngày càng suy đồi.
Lê Anh Hùng
Nguồn : VOA, 03/06/2017
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định : "Mọi người bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội" nhưng đó là… hiến định (Điều 16, Hiến pháp 2013). Thực tế thì còn… lâu !
Các đại biểu tham dự một phiên họp Quốc hội. (Ảnh tư liệu)
***
Vừa có hai chuyện mà người trong cuộc công khai nhổ toẹt vào Điều 16 Hiến pháp 2013.
Chuyện thứ nhất, sáng 24 tháng 5, khi thảo luận về việc sửa Luật hình sự 2015, Đại tá Nguyễn Thị Xuân, Phó Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk, đại diện cho dân chúng tỉnh này ở Quốc hội Việt Nam, đề nghị đưa thêm yếu tố "phạm tội đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước" vào các điều 155 (làm nhục người khác), 156 (vu khống), xem yếu tố đó là tình tiết tăng nặng, nhằm răn đe hành vi bôi nhọ làm mất uy tín, xúc phạm danh dự "lãnh đạo Đảng, Nhà nước", mà theo bà Xuân đang càng ngày càng gia tăng.
Đại tá Nguyễn Thị Xuân, Phó Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk, đề nghị đưa thêm yếu tố "phạm tội đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước" vào Bộ Luật hình sự (ảnh CAND, 09/06/2016)
Nếu Điều 16, Hiến pháp 2013 thật sự có giá trị, mọi người bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội thì tại sao lại muốn xếp các cá nhân "lãnh đạo Đảng, Nhà nước" vào một nhóm riêng để trừng phạt nghiêm khắc hơn những ai dám "vu khống", "làm nhục" họ ? Một thành viên cơ quan lập pháp mà tư duy như vậy, hơn 400 thành viên khác im lặng không phản bác thì đối tượng nào thực thi "sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật" ?
Còn một điểm đáng chú ý khác là để tăng thêm sức nặng cho đề nghị của mình, bà Xuân nhấn mạnh, bà đã "tham khảo kinh nghiệm quốc tế" và thấy "nhiều nước trên thế giới quy định như vậy trong Luật hình sự". Hi vọng sẽ có ai đó hỏi bà Xuân xem qui định như vậy có trong Luật hình sự của những nước nào trên thế giới ? Nếu chỉ có Bắc Triều Tiên thì dùng từ "nhiều" có phải là ngoa ngôn không ? Tại sao lại lấy Bắc Triều Tiên làm mẫu mực lập pháp ?
Sau khi xem tường thuật của VietNamNet về việc sửa Luật hình sự 2015 tại Quốc hội, facebooker Thuy Le nhận định như thế này về đề nghị của Đại tá Nguyễn Thị Xuân : Tại sao đại tá công an mà lại chẳng hiểu biết gì về luật pháp ? Thực thi luật pháp thì lẽ ra phải hiểu luật hơn dân, ăn nói phải chuẩn xác, không dè lại phát ngôn vớ vẩn như thế, bảo sao xã hội đầy dẫy bất công, hỗn loạn, mãi không phát triển được.
Facebooker Cuộc Đời Phiêu Du thì bảo rằng, đề nghị của Đại tá Nguyễn Thị Xuân là dấu hiệu bọn "đày tớ" định… nổi loạn ! Facebooker La Quang Thái chửi thề vì chẳng lẽ tiền thuế dân mình đóng lại dùng để nuôi "đám cô hồn" này hay sao ? Facebooker Hoang Manh thắc mắc, lãnh đạo sợ mất uy tín, ảnh hưởng đến danh dự, không cho dân nói thì làm sao mà phát triển được ? Facebooker Hương Nguyễn nêu thêm một thắc mắc khác, lãnh đạo không nhọ mà bôi thì xử lý nhưng nếu không bôi cũng đã nhọ rồi thì xử lý ra sao ?
Thắc mắc ấy cũng là lõi của chuyện thứ hai – sử dụng hệ thống công quyền để bảo vệ những cá nhân… không bôi cũng đã nhọ.
Báo điện tử Tầm Nhìn, vừa có một loạt bài về "khu đất kim cương" tại thành phố Lào Cai. Những phóng viên thực hiện loạt bài này giải thích, lý do khu đất ấy được xem là kim cương vì giá mỗi mét vuông được ước đoán phải từ 100 triệu đến 200 triệu. Tuy diện tích "khu đất kim cương" khoảng 3000 mét vuông nhưng chỉ có sáu biệt thự và 5/6 có hai mặt tiền. Cả sáu biệt thự đều liên quan đến các viên chức lãnh đạo tỉnh Lào Cai (ông Nguyễn Văn Vịnh - Bí thư tỉnh, ông Đinh Tiến Quân - Giám đốc Công an tỉnh, ông Nguyễn Trường Thanh – sĩ quan Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh, ông Dương Hùng Yên – Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh, ông Ngô Đức Ảnh - Giám đốc Sở Tài chính tỉnh, ông Nguyễn Trọng Hài – cựu Giám đốc Sở Giao thông Vận tải, hiện là Bí thư huyện Sa Pa).
Cả 6 lô biệt thự ở vị trí đắc địa của tỉnh Lào Cai, sau đấu giá đều thuộc quyền sở hữu, sử dụng của gia đình quan chức tỉnh này (ảnh Dân Trí, 26/05/2017).
"Khu đất kim cương" nằm trong khu vực vốn đã được qui hoạch làm công viên của thành phố Lào Cai. Năm 2010, chính quyền tỉnh Lào Cai quyết định lấy 17.000 mét vuông đã được chừa ra để làm công viên đó phân thành 114 lô dạng nhà phố và 6 lô dạng biệt thự rồi giao cho Quỹ Đầu tư - Phát triển tỉnh Lào Cai xây dựng. Ông Hoàng Văn Khoa, Phó Giám đốc Quỹ đầu tư - Phát triển tỉnh Lào Cai chỉ có thể trả lời phóng viên báo điện tử Tầm Nhìn rằng, sáu biệt thự khởi công hồi tháng 5 năm 2014 còn chủ, còn sáu biệt thự này mua bán ra sao (tham gia đấu giá rồi thắng hay mua lại) thì ông Khoa… không rõ. Sau khi liên tục bị cật vấn, ông Khoa thừa nhận, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai chỉ tính giá đất của sáu biệt thự ở mức 10,5 triệu/m2, rẻ hơn giá đất của các lô dạng nhà phố từ 500.000 đến 1,5 triệu/mét vuông (?!).
Sáu biệt thự trên "khu đất kim cương" ở thành phố Lào Cai vốn đã đáng chú ý nhưng đáng chú ý hơn là phóng viên báo điện tử Tầm Nhìn liên tục bị công an Lào Cai hăm dọa.
Một sĩ quan là Phó phòng Cảnh sát hình sự của Công an Lào Cai đã tìm gặp, cảnh cáo các phóng viên báo điện tử Tầm Nhìn rằng họ đang chạm đến "vấn đề nhạy cảm của địa phương", do "thông tin ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh nên một số tờ báo đã phải gỡ tin, bài rồi". Thượng tá Nguyễn Văn Thịnh, Trưởng Công an thành phố Lào Cai thì nói thẳng, "khu đất kim cương" là "vấn đề đặc biệt vì liên quan đến các lãnh đạo". Lãnh đạo tỉnh đã giao cho công an nắm bắt "đối tượng" nào đến, làm những gì, như thế nào. Thậm chí ông Thịnh nhấn mạnh là đã yêu cầu Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai phải thông báo cho công an khi báo giới đến "làm việc về các vấn đề nhạy cảm". Theo ông Thịnh, ông phải "nắm bắt" vì có cả "giám đốc của tôi" trong đó.
Theo cách nói của bà Xuân, ông Thịnh thì rõ ràng xã hội Việt Nam hiện có hai giai tầng. Uy tín, danh dự của lãnh đạo – giai tầng trên - cần phải được bảo vệ bằng mọi giá, bất kể Hiến pháp hay pháp luật qui định ra sao. Hoạt động của lực lượng thực thi luật pháp không hướng vào chỗ mà nhiều người ở giai tầng dưới như facebooker Thai Le (Chúng làm gì mà giàu thế nhỉ ?) hay facebooker Thu Huyền (Bọn này ăn lương nhà nước, thế tiền lấy từ đâu nhỉ) nêu ra, mà chỉ muốn che cho kín chỗ "nhạy cảm". Khi Bí thư cả tỉnh lẫn huyện, Giám đốc Công an tỉnh, sĩ quan Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh, Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh, Giám đốc Sở Tài chính tỉnh mà giàu bất thường như thế thì giữ như thế nào để "tình hình an ninh" không xấu ?
Tuy facebooker Nguyễn Tư Dân đề nghị, "còn 62 tỉnh, thành nữa kìa, làm luôn cho nó nóng", Facebooker Sách cho Trẻ khẳng định, "vụ này, quê tui… đầy", tuy Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Việt Nam thường ra lệnh điều tra ngay lập tức các vụ tai nạn gây hậu quả nghiêm trọng nhưng những vụ không bôi cũng đã nhọ như sáu biệt thự ở Lào Cai thì cứ đợi đấy. Hiến pháp, luật pháp được soạn, ban hành, áp dụng với toàn dân, lãnh đạo là ngoại lệ.
Trân Văn
Nguồn : VOA, 03/06/2017