Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suy tôn cố Hòa thượng Tuệ Sỹ là đức Tăng thống thứ 6
Viện Tăng thống thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vừa suy tôn cố Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là Bảo vị Đệ lục Tăng thống, tức vị Tăng thống thứ 6 của giáo hội có từ trước năm 1975.
Bài vị của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - gdptthegioi.net
Việc suy tôn được diễn ra ngày 9/3/2024, tại chùa Từ Hiếu (quận 8, thành phố Hồ Chí Minh) nhân lễ húy kỵ (lễ giỗ) lần thứ hai của Đức cố Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ - Đệ Ngũ Tăng thống của giáo hội.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ nguyên là Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống, viên tịch ngày 24/11/2023 tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai.
Nói về việc suy tôn này, Hòa thượng Thích Nguyên Lý - thành viên trong Hội đồng Giáo phẩm Trung ương kiêm Trưởng phòng Hành sự Văn phòng Chánh Thư ký Viện Tăng thống nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 21/3 :
"Theo đúng Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đúng 100 ngày sau khi Chánh Thư ký Viện Tăng thống viên tịch thì Hội đồng Giáo phẩm Trung ương mới tấn phong ngài Tuệ Sỹ lên Đại lục Tăng thống".
Cũng trong dịp này, Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước An đăng lâm Pháp tịch Tăng trưởng còn Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thắng đăng lâm Pháp tịch Chánh Thư ký Xử lý thường vụ Viện Tăng thống.
Hòa thượng Thích Nguyên Lý cho biết, cần có một đại hội để có thể tấn phong tân Tăng thống nhưng việc này khó xảy ra trong xã hội cộng sản vì Nhà nước Việt Nam chỉ công nhận duy nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Ông cho rằng những thành viên của giáo hội hiện nay cố gắng giữ lửa cho thế hệ mai sau. Ông khẳng định :
"Mình (Giáo hội - PV) chỉ giữ lửa giống như một ngọn lửa, ngọn đèn của Giáo hội và giữ đừng cho nó tắt bởi vì thời gian này là phong ba bão táp. Bổn phận của chúng tôi là giữ ngọn lửa để sau này khi trời yên biển lặng thì nhờ ngọn lửa đó đem lại lợi ích cho đạo pháp và dân tộc".
Vị hòa thượng cho biết từ trước năm 1975 cho đến năm 1981, giáo hội có các chùa rộng khắp từ Cà Mau cho đến Quảng Trị. Sau khi Nhà nước cho thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam - một thành viên của Mặt trận Tổ Quốc vào năm 1981, chính quyền độc đảng tăng cường hạn chế tự do tôn giáo đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Ông cho biết, sau thời điểm đó giáo hội bị thu hẹp sinh hoạt và những vị tăng lữ muốn sinh hoạt tôn giáo bị tù đầy và kìm kẹp. Nhiều tăng lữ vì nhiều lý do khác nhau đã rời khỏi giáo hội và gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Do vậy, giáo hội cố gắng hoạt động để tồn tại và giúp ích cho người dân :
"Chúng tôi làm được cái gì mà làm được thì mình làm, làm sao mình tạo niềm tin cho Phật tử cho đồng bào của mình.
Chẳng hạn như vấn đề từ thiện xã hội tôi hay đi, khi mình không nhân danh được giáo hội thì mình nhân danh chùa (Từ Hiếu). Làm gì đó giúp ích được cho dân thì mình làm.
Mình đi chỗ này đi chỗ khác mình diễn giảng hay gì đó (khi được) cho phép thì mình luồn sâu để hướng dẫn các Phật tử trong vấn đề tu học".
Vị hòa thượng này cho biết phương hướng hoạt động của giáo hội :
"Đồng lòng mình không tạo cái gì mà khiến nhà nước hiểu lầm, chẳng hạn mình không có tổ chức bạo động này nọ, mình cứ làm theo luật Phật hay giáo lý nhà Phật".
Ông cho biết, theo Hiến chương, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không theo thế quyền, không theo đảng phái tổ chức nào mà chỉ có thái độ chính trị.
Trong thể chế Việt Nam hiện hành, các tổ chức tôn giáo do Nhà nước kiểm soát là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của Đảng cộng sản cầm quyền. Nhiều tăng lữ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và linh mục công giáo là đại biểu quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân địa phương.
Tuy nhiên, theo Hòa thượng Thích Nguyên Lý, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không đồng ý trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc vì không muốn "hoạt động cho Đảng" mà chỉ thuần túy tôn giáo.
Ông cho biết trước năm 1975 và sau này, sư sãi của giáo hội không tham gia chính trị mà chỉ có Phật tử tranh cử làm dân biểu hay thành viên Quốc hội.
Dẫn chứng Phật Thích Ca từ bỏ ngai vàng để đi tu, ông khẳng định "Nếu chúng tôi làm chính trị thì trái với đức bổn sư của chúng tôi".
Nguồn : RFA, 22/03/2024
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch
BBC, 24/11/2023
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, người từng bị chính quyền Việt Nam kết án tử hình, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - một tổ chức tôn giáo không được chính quyền Việt Nam công nhận, vừa qua đời.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
Báo Giác Ngộ xác nhận Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch lúc 16 giờ ngày 24/11/2023, thọ 81 tuổi.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ vốn nổi tiếng là một nhà tu hành uyên bác, là dịch giả của nhiều bộ kinh, luật, luận, tác giả của các công trình nghiên cứu Phật học giá trị.
Ông thông thạo nhiều ngoại ngữ, là nhà thơ, dịch giả và từng có nhiều hoạt động được cho là bất đồng với chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà thơ, thiền sư Tuệ Sỹ là một trong những tên tuổi trẻ có uy tín nhất trong những danh tính nổi bật của văn học miền Nam giai đoạn 1963-1975, theo các tài liệu sau này công bố ở hải ngoại.
Nhà văn Viên Linh từng viết về uy tín của thầy Tuệ Sỹ trên lĩnh vực Phật học và Triết học ở Viện Đại học Vạn Hạnh :
"Trong các nhà tu hành trẻ tuổi hồi thập niên ’70, khuôn mặt của Tuệ Sỹ, vóc dáng của một hiền giả, nhìn vào, nói tới, là nhìn vào, nói tới một tinh thần, một phong cách sáng lạn".
Giai đoạn sau 1975
Trong số các sự kiện gây chấn động Phật giáo Việt Nam thời gian trước là việc ông bị bắt năm 1984, sau đó bị chính quyền Việt Nam tuyên án tử hình năm 1988, với tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân".
Sau các đợt vận động và sự can thiệp của các tổ chức quốc tế, tu sĩ Thích Tuệ Sỹ thoát án tử năm 1998.
Cũng trong năm này, ông cùng bảy người Việt khác được Tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng nhân quyền Hellmann-Hamett Awards.
Thời điểm tháng 9/2022, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã nhận vai trò lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, thay Hòa thượng Thích Quảng Độ, người viên tịch vào ngày 22/02/2020. Đây là giáo hội không được nhà nước công nhận.
Trên mạng xã hội, nhiều người bày tỏ lòng tiếc thương trước sự ra đi của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Một số người trích đăng lại một đoạn trong ‘Thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế’ của ông :
"Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong dòng xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại ; một đức tính dũng mãnh vô úy ; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu ; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng...".
Các quan điểm nói trên không được báo chí chính thống Việt Nam thừa nhận và đăng tải.
Báo Giác Ngộ chỉ giới thiệu đóng góp của ông về mặt học thuật, triết học và Phật học và không đề cập đến phần hoạt động khác :
"Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ được biết nổi tiếng về sự uyên bác, thông thạo nhiều loại cổ ngữ lẫn sinh ngữ như : Hán văn, Phạn văn, Tạng văn, tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga… Trong gần trọn cuộc đời, Hòa thượng dành phần lớn thời gian và tâm huyết của mình cho việc phiên dịch và chú giải kinh điển, đặc biệt là tạng kinh A-hàm. Các dịch phẩm nổi bật của Hòa thượng đã được xuất bản chính thức, đến với độc giả trong và ngoài nước".
BBC sẽ đăng thêm các bài về Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và Phật giáo Việt Nam trong những ngày tới.
BBC, 24/11/2023
******************************
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch
RFA, 24/11/2023
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất), viên tịch
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký Xử lý thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Thầy Hạnh Viên
Mạng báo Giác Ngộ loan tin Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch vào lúc 16 giờ chiều ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai.
Ông sinh năm 1943 tại Paksé (Lào), nguyên quán tại tỉnh Quảng Bình, pháp úy Nguyên Chứng.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ từng bị chính quyền Hà Nội bắt đi học tập cải tạo ba năm từ năm 1978. Vào tháng 9/1988, ông bị tuyên án tử hình với cáo buộc "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Tuy nhiên, do sự vận động của quốc tế, án tử hình đối với ông được giảm xuống chung thân. Ông được trả tự do vào ngày 1/9/1998. Vào năm 2003, ông bị chính quyền Việt Nam áp lệnh quản chế hai năm.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ được suy cử làm Chánh Thư ký xử lý thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào tháng 8/2022 theo di chúc của Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ, người viên tịch trước đó vào tháng 2/2020.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo. Ông còn làm thơ và viết truyện ngăn.
Tổ chức Giám sát Nhân quyền Human Rights Watch vào năm 1998 trao cho ông giải Hellman-Hammet.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được chính quyền Việt Nam hiện nay thừa nhận. Lãnh đạo cùa giáo hội bị nhà cầm quyền đàn áp, sách nhiễu kể từ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975.
RFA, 24/11/2023
*****************************
Thích Tuệ Sỹ, vị tu sĩ ‘xuất chúng’ về tri thức và giáo dục
VOA, 24/11/2023
Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một bậc tăng tài xuất chúng của Phật giáo Việt Nam với kiến thức uyên bác, Phật học uyên thâm và có nhiều đóng góp vào công việc giáo dục và nghiên cứu kinh điển Phật giáo, những người từng quen biết Hòa thượng nói với VOA.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (phải) đứng cạnh Hòa thượng Thích Huyền Quang (giữa), Đức Đệ Tứ Tăng thống, và Hòa Thượng Thích Quảng Độ (trái), Đức Đệ ngũ Tăng thống
Hòa thượng Tuệ Sỹ sinh năm 1943 tại Lào, trưởng thành trong cái nôi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở miền Nam trước năm 1975. Ông từng là giáo sư của Đại học Vạn Hạnh từ khi còn rất trẻ.
Sau năm 1975, ông không tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam do chính quyền cộng sản vận động thành lập. Ông bị bắt vào năm 1984 về tội ‘Hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’ và bị kết án tử hình, nhưng sau 4 năm thì được thả dưới áp lực của cộng đồng quốc tế.
Hồi tháng 9/2022, Hòa thượng Tuệ Sỹ cho biết ông đã làm theo di nguyện của cố Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đức Đệ ngũ Tăng thống, là tái lập Hội đồng Giáo phẩm Trung ương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Hội đồng này đã suy cử ông làm Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.
Bên cạnh là một nhà giáo dục Phật giáo, ông còn được đến như là nhà văn, nhà thơ và dịch giả. Ông được cho là thông thạo nhiều ngoại ngữ như tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hoa và tiếng Nhật.
'Làm sáng tỏ Phật giáo bằng ngôn ngữ hiện đại'
Từ miền nam California, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, người cùng giảng dạy với Hòa thượng Tuệ Sỹ tại Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975, nói ông ‘rất kính trọng’ người đồng nghiệp trẻ hơn ông một tuổi này.
"Thầy còn trẻ mà đã rất già dặn, là giảng viên đại học có hiểu biết và kiến thức thông tuệ", Giáo sư Hoạt nói với VOA hồi tháng 10/2023, lúc Hòa thượng lâm trọng bệnh.
Giáo sư Hoạt nhận xét : "Cái hay của thầy Tuệ Sỹ là, dù là một tu sĩ nhưng ông giao tiếp với xã hội như là một người bình thường, tức là ông rất dễ gần".
Ông cũng chỉ ra Hòa thượng Tuệ Sỹ là ‘người rất trực tính, tôn trọng sự thật, nói sao nghĩ vậy chứ không giữ miệng nhiều’. "Vị tu sĩ như thầy Tuệ Sỹ thì không thể nào thích hợp dưới chế độ cộng sản", ông nói.
Về những điều Hòa thượng Tuệ Sỹ từng lên tiếng, Giáo sư Hoạt nói ‘không đề cập đến chính trị mà chỉ nói về tư tưởng, các vấn đề về con người, về xã hội’.
Sau năm 1975, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã đi ngược đường với người thầy mà ông rất mực tôn kính và xem như bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Thủ, lúc đó là Viện trưởng Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nhưng sau đó tham gia vào công cuộc vận động thống nhất Phật giáo của chính quyền và trở thành lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đánh giá về đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ, giáo sư Hoạt nói : "Công lao lớn nhất của ông là về mặt tư tưởng, hiểu theo nghĩa là làm sáng tỏ đạo Phật".
Giáo sư Hoạt chỉ ra những bài viết của Hòa thượng Tuệ Sỹ trong những ấn bản của Đại học Vạn Hạnh cũng như nhiều nơi khác là ‘đã làm sáng tỏ Phật giáo bằng ngôn ngữ hiện đại’.
Trong giảng dạy, Hòa thượng Tuệ Sỹ giảng dạy cho sinh viên ‘sự cao sâu của đạo Phật bên ngoài kinh sách’, cũng theo lời vị giáo sư đồng nghiệp này của hòa thượng.
‘Tấm gương cho tăng ni’
Sau khi chấp chưởng công việc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã mời thêm các vị hòa thượng đủ năng lực để bổ sung vào Hội đồng Phiên dịch Đại Tạng Kinh vốn có 18 vị khi thành lập vào năm 1973 nhưng đến giờ đã viên tịch hết chỉ còn lại bản thân Hòa thượng Tuệ Sỹ và Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Từ, người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm hiện đã 100 tuổi.
Hiện Hội đồng đã dịch và in xong 29 tập của bộ Thanh Văn Kinh, tức là một phần của Tam Tạng Kinh, và đã cho công bố hồi đầu năm nay. Hội đồng sẽ tiếp tục dịch các phần còn lại của Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt.
Thượng tọa-Tiến sĩ Thích Nhật Từ, phó Viện trưởng thường trực của Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc giáo của Nhà nước, đánh giá cao công trình dịch kinh điển của Hòa thượng Tuệ Sỹ.
"Đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ xứng đáng là độc nhất trong cộng đồng tăng ni ở chiều sâu, thuật ngữ, chú thích rất đẳng cấp", ông nói và cho biết ông là tổng biên tập của dự án dịch Đại Tạng Kinh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam vốn diễn ra song song với công việc của nhóm Hòa thượng Tuệ Sỹ.
"Riêng phần đóng góp của Hòa thượng Tuệ Sỹ thì phong cách dịch của hòa thượng rất là chuyên môn, có độ sâu và tính học thuật cao. Rất khó tìm được nhà nghiên cứu Phật học có đẳng cấp tương đương ở thời điểm hiện nay".
Nói với VOA hồi tháng 10, Thượng tọa-Tiến sĩ Thích Nhật Từ đưa ra nhận định về ba phương diện của hòa thượng Tuệ Sỹ : thứ nhất là thần đồng Phật giáo vì đã có nền tảng về Phật học khi còn ở tuổi thơ ; thứ hai là trong nghiên cứu, Hòa thượng Tuệ Sỹ đã ‘đi rất là xa so với các hòa thượng cùng lứa tuổi’ ; thứ ba là ‘có đẳng cấp quốc tế’.
"Tấm gương của Hòa thượng Tuệ Sỹ đã trở thành niềm khích lệ rất lớn đối với các thế hệ tăng ni bất luận đi theo bất cứ ý thức hệ giao tiếp nào, sa môn pháp phái nào".
Khi được hỏi về việc Hòa thượng Tuệ Sỹ chống đối Giáo hội Phật giáo Việt Nam vốn là tổ chức do nhà nước quản lý, Thượng tọa Thích Nhật Từ nói ‘không có gì đáng tiếc’ vì ‘mỗi người một hạnh nguyện hành đạo riêng’.
‘Sức hút đặc biệt’
Từ Sài Gòn, nhà thơ Đỗ Trung Quân nói với VOA hồi tháng 10, rằng ông đã được đọc các tác phẩm của Hòa thượng Tuệ Sỹ và ‘có cơ duyên tiếp xúc với thầy tương đối gần’, trong đó có lần ông đến dự dịp Hòa thượng ra mắt một tập thơ và đến thăm Hòa thượng một lần trước khi đại dịch bùng phát.
"Đọc thơ của Thầy tôi phải đọc với cảm quan của một người biết ít nhiều về Phật học trong khi tôi không có nền tảng Phật học nhiều và sâu", nhà thơ Đỗ Trung Quân, vốn là người Công giáo, nói với VOA. "Thơ của thầy phải đọc dưới mặt chữ".
"Tôi không dám nghĩ rằng mình cảm nhận được sự uyên bác của thầy trong thơ, không dám nói mình có thể hiểu được hết", ông nói thêm.
Khi được hỏi có ấn tượng như thế nào về Hòa thượng Tuệ Sỹ, ông Đỗ Trung Quân nói : "Một người gầy gò nhưng có sức thu hút lớn đối với người đối diện, ít nhất là tôi. Tôi cảm thấy Thầy là người khiêm nhã nhưng uy lực thu hút mạnh mẽ.
Theo lời ông thì Hòa thượng Tuệ Sỹ là người ‘rất im lặng’ nhưng ‘có nụ cười của một hiền giả’.
Nhà thơ này chỉ ra ở Hòa thượng Tuệ Sỹ là bậc chân tu ‘có đầy đủ bi, trí, dũng’ tức là ‘từ bi, trí tuệ và dũng khí’. "Từ bi là thầy không dám làm đau một cành hoa", ông giải thích.
"Thầy đã bước qua tất cả những khổ nạn mà chính quyền đã dành cho thầy cũng trên dưới hơn 10 năm. Thầy ung dung, tự tại đi qua mọi khổ nạn một cách can đảm".
Ngoài thơ thì ông Đỗ Trung Quân còn đọc các trước tác của Hòa thượng Tuệ Sỹ về văn chương, chẳng hạn như cuốn ‘Những phương trời viễn mộng’ viết về thi sĩ Tô Đông Pha mà ông cho rằng ‘giúp ông mở mang ở một tầng nấc văn chương không được học ở nhà trường’.
VOA, 24/11/2023
Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong dòng sống của dân tộc và hướng đi của thời đại
Thị Nghĩa Trần Trung Đạo, VOA, 24/11/2023
Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố vấn Hội đồng Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24/11/2023, giờ Việt Nam. (Hình : Trích xuất từ hoavouu.com)
Dù đứng từ góc cạnh nào, không ai có thể phủ nhận vai trò và sự đóng góp của Phật giáo vào dòng sống của dân tộc Việt. Đạo Phật là một tôn giáo rất đặc biệt trong nền văn minh nhân loại vì đáp ứng được các khao khát của con người theo từng thời đại không phân biệt màu da hay sắc tộc.
Kinh điển giống nhau nhưng đạo Phật mang sắc thái riêng khi đến mỗi quốc độ để từ đó có Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Việt Nam v.v... Nhưng đạo Phật tại Việt Nam rất khác. Đạo Phật Việt Nam hòa tan trong tâm hồn mỗi con người. Tinh thần Phật giáo bàng bạc trong lời ru của mẹ, lời dạy bảo của cha. Một câu thơ, câu văn được các tác giả viết ra đã có tư tưởng Phật giáo dù tác giả không phải là một tín đồ Phật giáo.
Khi dừng chân tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đem lại cho con người những phương tiện cần thiết để đạt đến giải thoát, an lạc như tại nhiều nơi khác mà còn dung hóa và dung hợp một cách hài hòa vào dòng sống dân tộc, góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của dân tộc và là thành lũy tinh thần để bảo vệ Việt Nam.
Sau nhiều trăm năm bị đóng khung trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, dân tộc Việt lại phải đối diện với Thực dân xâm lược. Ông bà chúng ta bàng hoàng trước sức mạnh cơ khí của Thực dân. Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp nhưng tinh thần Việt Nam được hun đúc suốt nhiều ngàn năm không vì thế mà mất đi. Dòng văn hóa vẫn tiếp tục chảy dù phải chảy qua những vách đá cheo leo và có khi phải nhỏ từng giọt xuống trái tim người yêu nước.
Người Việt quan tâm đứng trước hai chọn lựa (1), đi vay mượn các chủ thuyết ngoại lai, mượn súng đạn của ngoại bang về để "giải phóng dân tộc", thực chất là thay một hình thức nô lệ này bằng hình thức nô lệ khác (2), nâng cao nhận thức văn hóa, xã hội, chính trị phù hợp với hướng đi thời đại kết hợp với phát huy nội lực dân tộc để tự khai hóa chính mình thay vì "bị khai hóa" bởi thực dân.
Để tồn tại, vượt qua và vươn lên, chư tổ Phật giáo chọn con đường thứ hai. Con đường đó không phải tìm đâu khác, không vay mượn của ai khác mà trở về và phát huy những tố chất uyên nguyên của dân tộc. Nội dung của hành trình về nguồn đó chính là phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu vào những năm cuối của thập niên 1920.
Giống như ngài Anagarika Dharmapala (1864-1933), nhà văn và nhà đấu tranh cho nền độc lập Tích Lan, các tổ Khánh Hòa, Giác Nguyên, Khánh Anh, Giác Tiên, Phước Huệ, Tố Liên, Trí Hải… của Việt Nam cũng đã rời những thiền phòng để chống gậy trúc đi vào lòng đất nước. Các ngài lắng nghe nỗi đau của dân tộc, đánh thức tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ trong lòng mỗi người dân Việt để qua đó phục hưng dân tộc bằng phương tiện giáo dục bởi vì chỉ nâng cao nhận thức mới có thể chuyển hóa hai nguồn bạo lực đến từ Tây phương gồm chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa cộng sản.
Con đường chấn hưng Phật giáo như chư tổ vạch ra là một con đường dài, cần nhiều thời gian và đầy khó khăn nhưng là con đường đích thực.
Sau nhiều thăng trầm, gian khó và hy sinh, cuộc hành hương về nguồn cội đó đã dẫn đến sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất) vào tháng Giêng, 1964 tại Chùa Xá Lợi, Sài Gòn. "Thống nhất", trong ý nghĩa đó không chỉ là một tập hợp mang tính hình thức của 11 giáo phái ký tên trong Hiến chương 1964 mà là bước phát triển cao hơn của một truyền thống đã có từ nhiều ngàn năm.
Được thành lập trong một giai đoạn lịch sử đầy ngộ nhận, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dễ được hiểu như là kết quả của một biến cố chính trị. Biến cố có thể là "điểm vỡ" để Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được hình thành nhưng các giá trị hàm chứa trong Hiến chương 1964 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không đơn giản chỉ là kết quả của việc đổi thay một chế độ.
Từ đó đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nơi giữ gìn các giá trị tinh thần, các truyền thống văn hóa, lịch sử hai ngàn năm và sau này của Phật giáo Việt Nam. Dù bụi phủ, dù rêu phong căn nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn là căn nhà chính danh và chính thống của mọi người con Phật Việt Nam.
Lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ khi ra đời tháng Giêng, 1964 cho tới khi Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính thức đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống đã gần 60 năm với không biết bao nhiêu gian khó.
Đạo Phật tại Việt Nam không chỉ gồm một nhóm nhỏ những tu sĩ bị tha hóa mà chúng ta thường nghe hay thấy tại Việt Nam. Ẩn mình trong đám mây đen là ánh sáng của vầng dương trí tuệ và che giấu dưới lớp rêu xanh là những viên ngọc từ bi nhẫn nhục. Hàng ngàn, hàng vạn tăng sĩ Phật giáo đang âm thầm chuyên tâm tu tập chờ cơ hội đóng góp thiết thực cho đạo pháp và dân tộc. Các bậc Như Lai Trưởng Tử đó đang dâng hiến cuộc đời cho Phật giáo Việt Nam và Dân tộc Việt Nam trong nhiều cách khác nhau trên khắp ba miền đất nước. Họ có thể chưa nghe nhiều về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hay chưa đứng hẳn về phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nhưng không sao. Tất cả vẫn còn đó. Một mai khi có điều kiện thuận lợi chư tôn đức tăng ni sẽ gặp nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh tăng đoàn dưới một mái nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viên tịch ngày 22/2/2020. Trong di chúc, ngài ủy thác quyền điều hành Viện Tăng thống cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ : "đứng đầu vào vị trí của Viện Tăng thống bảo đảm tiếp tục sứ mệnh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong tương lai. Tôi hoàn toàn tin tưởng và ủy thác trọng trách này cũng như trao toàn quyền cho Hòa thượng Tuệ Sỹ điều hành mọi hoạt động của Giáo hội" (Quyết Định Số T4/QĐ/TT/VTT của Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất).
Tinh hoa và trí tuệ bộc phát trong những ngày tháng cuối đời giúp Đệ ngũ Tăng thống nhìn lại con đường giáo hội đã đi qua và thấy rõ hơn con đường trước mắt mà đạo Phật Việt Nam phải hướng tới. Ngài trao trọng trách cho Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ bởi vì, ngoài cơ sở pháp lý là Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bên cạnh sự thông minh, uyên bác nhiều lãnh vực, Hòa thượng Tuệ Sỹ trước hết vẫn là con người văn hóa và có một tầm nhìn rất xa về tương lai Dân tộc và Phật giáo.
Là một bậc cao tăng dâng hiến cả cuộc đời cho Đạo pháp và Dân tộc, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ biết cuộc vận động chấn hưng Phật giáo từ thập niên 1920 chưa dừng lại mà là một tiến trình liên tục và phải bắt đầu ngay từ nền móng. Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Tuệ Sỹ một cánh cửa mới sẽ mở ra để Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bước đi cùng thời đại.
Hòa thượng Tuệ Sỹ biết mình thân đang mang trọng bệnh. Khó khăn duy nhất mà ngài không thể vượt qua là thời gian. Vì không có đủ thời gian để làm hết những điều mình mong muốn nên Hòa thượng ưu tiên hóa những đề án, những công việc phải làm. Tất cả chỉ vì một mục đích như ngài viết trong Thông Bạch Thỉnh Cử Hội đồng Hoằng pháp : "mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả".
Nội dung Phật chất chứa đựng trong Hiến Chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (tu chính ngày 12/12/1973) hoàn toàn không thay đổi nhưng đưa đến cho mọi người ở mọi nơi bằng những phương tiện nhanh chóng chưa từng có nhờ kết quả của cuộc cách mạng tin học cuối thế kỷ 20.
Trong "thế giới phẳng" ngày nay, khoảng cách không gian và thời gian không còn là những trở ngại mà là những tiện nghi cần được tận dụng. Kết quả thấy rõ, chỉ trong vòng chưa tới hai năm Tạng Thanh Văn 29 cuốn trong Tam Tạng Kinh Điển đã được ấn hành và công bố. Kỳ diệu thay ! Sau gần nửa thế kỷ ngưng trệ vì nhiều lý do nhưng những lời dạy của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục chảy vào dòng văn hóa Việt Nam và dòng văn minh nhân loại.
Hòa thượng Chánh Thư ký Viện Tăng thống cũng biết việc mở cánh cửa, dựng lối vào cũng chỉ là phương tiện, đào tạo tăng tài để bước vào cánh cửa đó mới chính là mục tiêu quan trọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hôm nay và mai sau. Một căn nhà đẹp bao nhiêu nhưng không được gìn giữ, sửa sang, một ngày cũng dột nát và sụp đổ. Truyền thống nếu không biết phát huy sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu.
Sau thời gian bị bệnh Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư ký kiêm Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Chủ tịch Hội đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội đồng Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24/11/2023 nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Phật lịch 2567 tại Phương Trượng Đường Chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Việt Nam, trụ thế 79 năm, 41 hạ lạp.
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là ba bậc tôn đức khai sáng một thời đại mới của Phật giáo Việt Nam.
Dù dốc đá cheo leo, dòng Suối Từ vị diệu vẫn chảy dài theo lịch sử dân tộc. Mỗi thời kỳ đều có những bậc cao tăng thạc đức đứng ra chèo lái con thuyền đạo pháp. Công đức của các ngài sẽ không rơi vào quên lãng mà đã nở thành những bông Hoa Đàm làm đẹp con đường hoằng dương Chánh Pháp của đức Thế Tôn.
Nhiều người lo lắng, một mai khi các bậc cao tăng thạc đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất viên tịch, các thế hệ tăng sĩ và Phật tử sau này sẽ không biết gì về Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Xin đừng bi quan. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, bạo lực có thể thay đổi một thể chế nhưng không thể xóa đi một nền văn hóa và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một phần không thể thiếu của nền văn hóa Việt Nam.
Không một bậc cao tăng thạc đức nào thật sự ra đi. Hành trạng của quý ngài vẫn in dấu sâu đậm trong lòng Dân Tộc và Đạo Pháp. Tác phẩm của các ngài viết, những lời dặn dò của các ngài sẽ còn mãi mãi. Tiếng dương cầm vẫn réo rắt vọng theo dòng Suối Từ Bi. Đời người "như sương mai, như ánh chớp, mây chiều" như Hòa thượng viết trong thơ nhưng ngọn lửa tin yêu và hy vọng không bao giờ tắt cho đến khi nào dân tộc Việt Nam còn tồn tại trên mặt đất này.
Thị nghĩa Trần Trung Đạo
Nguồn : VOA, 24/11/2023
Có hai nhà sư là bạn cùng tu ở tu viện Thũpãrãma, nằm trong thành phố Anurãdhapura, thủ đô của vương quốc mang cùng tên. Một trong hai ông sư không thích đời sống đô thị, đã từ giã bạn, đi về phía Đông tới một ngôi chùa khác trong rừng, ẩn dật. Ông thầy kia ở lại tu viện.
Hòa Thượng Tuệ Sỹ. (Hình : Trích xuất từ hoavouu.com)
Sau mười năm, một bữa ông sư trên rừng nghĩ mình nên mời người bạn cũ tới chia sẻ cuộc sống trên sơn cốc thanh tịnh. Ông trở về tu viện ở Anurãdhapura, nghĩ rằng mình sẽ được người bạn đồng tu tiếp đón, các Phật tử hầu hạ, cơm bưng nước rót đầy đủ. Nhưng không có gì cả. Hai nhà sư cùng đi khất thực, cả ngày chỉ được cúng dường một tô cháo loãng.
Vị sư từ rừng núi về bèn hỏi người bạn cũ có phải ngày nào cuộc sống cũng như vậy hay không. Ông thầy ở lại thành phố trả lời rằng thường thường chỉ có thế thôi. Vị khách tăng bèn rủ ông bạn hãy lên sơn cốc, ở trong rừng với mình, cuộc sống dễ chịu hơn. Ông thầy ở thủ đô đồng ý.
Hai người đi tiếp, đi qua cổng thành, ông thầy từ rừng về thấy ông kia quay đi hướng ra ngoài, ngạc nhiên hỏi :
- Thầy tính đi đâu vậy ?
- Thầy mới rủ tôi đi về sơn cốc với thầy mà ?
- Nhưng thầy không trở về chùa lấy đồ đạc gì sao ?
- Tôi chỉ có mỗi cái bình bát này thôi. Còn cái giường, cái ghế là đồ đạc của chùa. Tôi không có gì hết.
Ông thày từ chùa trên rừng về nói :
-Tôi cần trở lại chùa. Tôi còn để ở đó cái lọ dựng dầu đốt, cái túi dép và cây gậy.
- Thầy về đây mấy ngày mà đã có được nhiều thứ nhỉ !
Ông thày ở rừng trở về nhìn người bạn cũ, thú nhận : "Tu như thầy thì chỗ nào cũng là sơn cốc !"
Những đệ tử đầu tiên của Đức Thích Ca phần lớn sống giản dị như ông thày "không có gì ngoài cái bình bát" ở thủ đô Anurãdhapura. Chắc ông sống ở chùa Thũpãrãma không lâu trước hay trong thế kỷ thứ 5, khi câu chuyện được ghi lại. Đạo Phật đã truyền tới hòn đảo Sri Lanka vào thời vua Ashoka, thế kỷ thứ hai trước Tây lịch, cho đến bây giờ nhiều người vẫn còn hành trì, chắc cũng nhờ những vị tăng sĩ như ông thầy trên. Nếp sống thanh tịnh của các vị tu sĩ như ông, thể hiện trong tập thể "tăng già" (sangha) từ hơn 2,500 năm nay khắp Châu Á, và trên thế giới, là một nền tảng bền chặt cho đạo Bụt.
Ở Việt Nam, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ mới viết một bức thư, "Thư Khánh Tuế", gửi đến "Chư Tôn Đức", và Phật tử, nhân mùa Vu Lan, sau ba tháng an cư. Bức thư viết, "Cùng chung niềm vui của bốn chúng, nương theo uy đức Tăng-già, tôi kính gởi đến Chư Tôn đức lời chúc mừng đã hoàn mãn ba tháng tĩnh tu …"
Trong bức thư trên Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viết, "Trong lịch sử hoằng hóa lâu dài, Tăng-già, chúng đệ tử Phật, tự thể vốn thanh tịnh và hòa hiệp, là cỗ xe vững chắc mà Đức Thích Tôn đã tác thành …" làm công việc truyền bá giáo pháp "chỉ bằng đức từ vô lượng", và "thể tính thanh tịnh hòa hiệp của Tăng-già".
Hòa thượng Tuệ Sỹ nhấn mạnh "Tăng-già hòa hiệp sẽ là ngọn hải đăng bất động trước mọi sóng gió ;" và kể lại, "Cho đến những ngày tháng cuối cùng, bằng các tâm thư, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống (Hòa thượng Thích Quảng Độ) đã thiết tha kêu gọi Tăng-già hòa hiệp".
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viết bức thư đã nhắc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam gần đây, với việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1963. Nhưng sau năm 1975 "một Giáo hội mới được thành lập với định hướng Đạo Pháp - Dân tộc - Xã hội chủ nghĩa"… phải theo "định hướng xã hội chủ nghĩa" mà Hòa thượng Tuệ Sỹ thấy là "Một định hướng mơ hồ … áp đặt vào lịch sử Việt Nam, trong quá khứ cũng như hiện tại". Giáo hội mới đó do "Ban Tôn Giáo Chính phủ trực tiếp điều hành, … từ trung ương đến địa phương". Họ được "đặt dưới sự chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc", chi nhánh của "một Đảng chính trị chuyên chính…"
Nhưng Đại hội VIII Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất năm 1999 "đã đồng tâm nhất trí suy cử bốn vị lãnh đạo : Hòa thượng Thích Huyền Quang, Viện Tăng Thống ; Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Viện Hóa Đạo ; Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo ; và Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo".
Năm ngoái, vị tăng thống sau cùng, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viên tịch. Cho đến nay, nhiều người vẫn thắc mắc không biết Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đang đi về đâu. Trong bức "Thư Khánh Tuế" mùa Vu Lan này, có mấy điểm quan trọng được Hòa thượng Tuệ Sỹ nêu ra, nên phổ biến cho mọi người cùng biết.
Thứ nhất, Hòa thượng Tuệ Sỹ xác định "Tôi được ủy thác nhiệm vụ kế thừa"… và đã không ngần ngại "Khâm thừa Ủy thác" theo ý Cố Tăng Thống Thích Quảng Độ". Để đáp lại "…di chúc ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống", Thày Tuệ Sỹ "trông lên Tổ đức uy nghiêm, vô khả nại hà, tôi cúi đầu lãnh thọ".
Với bức "Thư Khánh Tuế", Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - Đương kim Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, đã nhắc nhở, giúp cho Phật tử ở trong nước và hải ngoại có thể yên tâm, vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất vẫn tồn tại và theo đuổi mục tiêu phục vụ đạo pháp và dân tộc.
Bức thư được gửi tới quý vị lãnh đạo tinh thần trong cộng đồng Phật giáo ở Việt Nam và thế giới, nhấn mạnh đến lời di huấn Hòa thượng Thích Quảng Độ khi ngài kêu gọi Tăng-già hòa hiệp. Đức cố Tăng Thống nói, "Một Giáo hội mà không y chỉ trên y xứ Tăng-già hòa hiệp chỉ là một ngôi nhà trên bãi cát, lực tự tồn còn chưa đủ, nói gì đến hoằng pháp lợi sanh".
Từ 25 thế kỷ nay, Tăng Già vẫn là nền tảng để giữ gìn và truyền bá Phật giáo. Câu chuyện ngôi hai vị tăng sĩ trong ngôi chùa ở thủ đô Anurãdhapura được kể lại trongVisuddhimagga (Đường Thanh Tịnh) của Buddhaghosa. Vị đại sư này đã từng sống ở tu viện Thũpãrãma kể trên vào thể kỷ thứ năm. Trước đó một thế kỷ, nhà sư Pháp Hiền người Trung Quốc đã đi Ấn Độ và Tích Lan thuật lại rằng tu viện này có ba ngàn tăng sĩ. Vương quốc Anurãdhapura cai trị một phần ba đảo Sri Lanka (Tích Lan) ở miền Bắc, từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch cho đến thế kỷ 11. Vương quốc đã mở mang hệ thống kênh đào và hồ chứa nước giúp nông nghiệp phát triển. Chế độ bền vững gần 15 thế kỷ một phần cũng nhờ giới tăng già thanh tịnh, hòa hiệp, và khuyến khích dân chúng sống theo giáo lý từ bi, trí tuệ.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 09/09/2020