RFA, 08/11/2023
Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam hôm 7/11 ban hành Quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
AFP PHOTO
Quy định mới này, theo tin từ truyền thông nhà nước, bao gồm bốn chương với 14 điều. Trong đó quy định về kiểm soát quyền lực trong hoạt động tố tụng và các hoạt động khác có liên quan, nhấn mạnh cần bảo đảm mọi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế.
Nói về kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện các hoạt động tố tụng, thi hành án trong quy định mới này, luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài từ Đức quốc 8/11 cho rằng :
"Chúng ta đã biết một trong những bài học quan trọng nhất để kiểm soát quyền lực là phải có tam quyền phân lập… là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau. Nhưng cả ba cơ quan này đều đứng dưới Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam".
Còn trong lĩnh vực tư pháp, luật sư Đài phân tích tiếp, lại do ông Nguyễn Phú Trọng ngoài đứng đầu Đảng, còn đứng đầu Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng và ban này điều tra tất cả các vụ án…
Do đó, theo luật sư nhân quyền từ Đức Quốc :
"Nó sẽ không đảm bảo tính khách quan, cũng như hiệu lực đối với những người nằm bên ngoài luật pháp Việt Nam… như là những người ở trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cũng như Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng".
Liên quan đến Quy định mới của Việt Nam, luật sư Nguyễn Văn Miếng, người đang "lánh nạn" tại Hoa Kỳ, hôm 8/11 nói với RFA ý kiến của ông :
"Cơ quan Đảng ra quyết định 132 để điều chỉnh các hành vi tố tụng, thì tôi cho rằng quyết định này là không đúng pháp luật. Tại vì Đảng chỉ có điều hành trong nội bộ của Đảng thôi. Họ nói áp dụng quyết định này cho các tổ chức của Đảng và những người tham gia tố tụng. Nhưng thực chất Bộ Luật Tố tụng Hình sự là Hệ thống Pháp luật Hình sự, mà về nguyên tắc không một cơ quan nào có quyền đứng vô can thiệp vào Bộ luật đó, chỉ căn cứ trên pháp luật thôi… Và khi tòa án xử thì cũng có quy định tòa án là độc lập xét xử, không có một cơ quan nào có quyền can thiệp".
Việc Bộ Chính trị đưa ra quyết định 132 để kiểm soát quyền lực ở trong quá trình tố tụng theo luật sư Nguyễn Văn Miếng là "vô pháp, không đúng quy định pháp luật". Ông Miếng phân tích :
"Về vấn đề kiểm soát những người tham gia tố tụng, tôi cho rằng một người tham gia trong quá trình tiến hành tố tụng là đảng viên, thì họ chỉ tuân theo vấn đề sinh hoạt đảng với tư cách đảng viên trong một chi bộ. Còn cá nhân khi đã tham gia quá trình thì họ phải theo quy định của pháp luật về hình sự. Nếu họ viện dẫn căn cứ theo quyết định 132 của Bộ chính trị, thì theo tôi bản án đó là không đúng, bởi không thể căn cứ vào chỉ thị của đảng, để áp dụng vô một bản án hình sự được".
Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - AFP photo.
Nội dung trong Quy định mới (số 132-QĐ/TW) còn có đoạn ghi "Bảo đảm công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tố tụng, thi hành án và các hoạt động khác có liên quan, không có vùng cấm, không có ngoại lệ".
Liên quan vấn đề này, nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già hôm 8/11 từ Sài Gòn cho RFA biết ý kiến :
"Quy định 132 của Bộ chính trị cùng với Nghị định 73 của Chính phủ về việc bảo vệ cán bộ dám nghĩ dám làm… thì thứ nhất tôi thấy cách tiếp cận vấn đề giữa Bộ chính trị và Chính phủ có một sự mâu thuẫn rõ ràng. Bởi vì cả hai văn bản này sử dụng những câu chữ rất mơ hồ ví dụ như ‘kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý, không có vùng cấm’… thì những câu chữ này mơ hồ lắm".
Điểm thứ hai theo nhà báo Nguyễn Ngọc Già, hai văn bản 132 và 73 hầu hết đã được quy định trong Bộ Luật Hình sự, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng chống Tham nhũng… vì vậy hai văn bản này chỉ tô đậm thêm tính chất đảng trị, chứ còn nó xóa nhòa đi tính chất pháp trị. Ông Già cho rằng điều này có nghĩa, hai văn bản này trở nên thừa thãi, không cần thiết vì luật đã quy định hết. Điểm thứ ba theo ông Già, đối chiếu giữa hai văn bản có sự xung đột lớn trong quan điểm về chống tham nhũng, nhất là vào khi đang có vô số các vụ trọng án tham nhũng vô cùng phức tạp đã và đang diễn ra. Do đó, vị nhà báo này khẳng định :
"Cả hai văn bản này nội dung của nó xa rời thực tế với đời sống của gần 100 triệu dân, bởi vì nạn tham nhũng tràn lan, và rất nhiều vấn đề an sinh xã hội khác… Nó càng phơi bày ra rằng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không biết người dân cuộc sống ra sao ? Người dân đang cần gì ? Thành ra Quy định 132 cũng như Nghị định 73 bộc lộ rõ khả năng kỷ trị phản khoa học của Đảng cộng sản Việt Nam. Và nó cũng không đạt được yếu tố đức trị".
Ông Già cho rằng, một xã hội mà ba yếu tố pháp trị, đức trị, cho tới kỷ trị đều không có thì chỉ làm cho người dân mệt mỏi, điêu tàn, bởi sự hành hạ dân chúng trên mọi lĩnh vực, và hồi kết của nó theo ông vẫn còn bỏ ngỏ…
RFA, 08/11/2023
***********************
RFA, 07/11/2023
Bộ Nội vụ hôm 6/11 đề nghị các cơ quan tố tụng phân loại các sai phạm và khoan hồng đối với cán bộ vi phạm nhưng không vụ lợi cá nhân. Trong cùng ngày, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí cũng đề nghị xây dựng chính sách xử lý nghiêm người tham nhũng, nhưng giảm nhẹ hình phạt cho tội phạm tham nhũng nếu ‘không vụ lợi’.
AFP PHOTO
Cựu trung tá quân đội Vũ Minh Trí, hôm 7/11 nhận định với RFA về đề xuất của Bộ Nội vụ và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao :
"Tôi nghĩ đây là những đề xuất hoàn toàn bất chấp pháp luật. Bởi vì những hành vi của người cán bộ công chức đều đã được quy định bởi các điều luật có liên quan. Ví dụ như luật về công chức, viên chức, thậm chí luật hình sự… Thế nhưng bây giờ lại đi đề nghị những điều ngoài phạm vi pháp luật, như vậy tôi nghĩ đấy thật sự là bất hợp lý và rõ ràng những đề xuất này đều mang tính vụ lợi. Cụ thể tạo ra những hành lang pháp lý, hoặc tạo ra những vỏ bọc, những hàng rào che chắn cho những cán bộ làm sai".
Theo cựu trung tá Vũ Minh Trí, Việt Nam đã có nhà nước pháp quyền, có các bộ luật… nếu mà các hành vi "vi phạm hoặc không vi phạm", thì đều được soi chiếu bởi các khoản mục trong các luật hiện hành. Do đó, theo ông Trí :
"Nếu như các điều luật hiện hành không quán xuyến, không bao quát được các hành vi đấy (hành vi vi phạm - PV)… thì phải bổ sung vào luật, thậm chí phải sửa luật… Chứ không thể đưa ra những đề nghị có tính chất vượt lên trên pháp luật, ngoài pháp luật như thế được".
Trong khi đó, hôm 7/11, truyền thông Nhà nước dẫn lời Bộ trưởng Công an Tô Lâm rằng "Công an chưa bắt ai liên quan đến các vụ án tham nhũng mà không nhận hối lộ".
Nói về các đề xuất, phát biểu của giới chức Việt Nam mới đây, một nhà báo không muốn nêu tên vì lý do an toàn, hôm 7/11 cho rằng :
"Đây là cuộc chiến chống tham nhũng, những người nào vi phạm mà lại không có vụ lợi… thì hầu như không có. Mình hiểu rằng họ nói đây là lỗi không mong muốn, nhưng trong thực tế những chuyện này hầu như không có. Nói như vậy có nghĩa là ở những vị trí đó, không thấy có bằng chứng mới xảy ra chuyện ‘vi phạm mà không gắn với lợi ích vật chất’. Nó buồn cười vì chuyện đã không có bằng chứng thì kết án người ta đâu được".
Trước đó, khi trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội vào ngày 20/3/2023, ông Lê Minh Trí cũng từng đề nghị giảm phạt tù, tăng phạt tiền đối với người đứng đầu có sai phạm, nhưng không có mục đích vụ lợi.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí. Courtesy kiemsat.vn
Theo nhận định của giới luật sư lúc bấy giờ đề xuất của vị Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là hoàn toàn đi ngược với mọi nỗ lực bảo đảm về quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật đã được ghi nhận theo hiến pháp và bộ luật hình sự.
Các luật sư còn cho rằng, không chỉ dưới khía cạnh pháp luật, mà thực tế, đề xuất của ông Trí còn bị cho là có vẻ như tạo môi trường thuận lợi hơn cho nạn tham nhũng hoành hành trong xã hội. Vì người tham nhũng biết rõ, cứ tham nhũng, nếu bị phát hiện thì chỉ cần trả lại là thoát tội !
Vào thời điểm đó, luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài từ Đức Quốc nói với RFA rằng về mặt bản chất, bất kỳ một việc gì gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước, thì thế nào cũng liên quan đến động cơ vụ lợi :
"Phải khẳng định 100% quan chức Việt Nam khi giành được quyền lực ở bất kỳ vị trí nào, thì đều đạt được hai tiêu chí, là quyền và lợi ích gắn liền với vị trí đó. Cho nên những vụ án mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cho rằng quan chức cộng sản đó không vụ lợi, thì chẳng qua họ không thể chứng minh được những quan chức này đã nhận hối lộ. Vì việc đưa và nhận hối lộ rất kín đáo, cho nên họ đành phải nói quan chức này không vụ lợi mà thôi. Chứ về mặt bản chất, bất kỳ một việc gì gây thiệt hại cho tài sản của đất nước, người dân… thế nào cũng liên quan động cơ vụ lợi".
Theo luật sư Nguyễn Văn Đài, cơ quan chức năng đưa ra đề xuất này để họ biện minh cho những yếu kém của các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử ở Việt Nam. Ông Đài nói tiếp :
"Theo tôi không nên làm như vậy, vì sẽ tạo ra tiền lệ rất xấu cho những công chức yếu kém về năng lực cũng như đạo đức, họ sẽ vẫn cố tình ngồi trên ghế quyền lực đó để gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước và của người dân".
Khoản C Điều 40, Bộ luật Hình sự 2015 quy định người bị kết án tử hình về tội tham ô, mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, thì không thi hành án tử hình. Điều luật này trước đây chỉ được áp dụng riêng cho những ‘tham quan’ bị tuyên án tử hình, nhưng sau đó đã được sửa đổi bằng Nghị quyết 3/2020, bất kể mức án tham nhũng nào cũng được áp dụng việc không thi hành mức án cao nhất khung nếu nộp lại 3/4 tài sản tham nhũng.
RFA, 07/11/2023
Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Cái cách hạ bút này xảy ra chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.
Dấu ấn nhân sự 2018 : Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Đây là lần đầu tiên trong đảng cầm quyền xuất hiện một đảng văn về kiểm soát quyền lực - điều chưa từng tồn tại ở các đời tổng bí thư trước đây.
Vì sao đảng cầm quyền phải kiểm soát quyền lực ? Phải chăng do nạn nạn cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương đang nổi lên ngày càng nhiều ở các bộ ngành và tỉnh thành ? Quy định này còn có ý đồ thâm sâu nào khác ?
Cho dù đang độc tôn về quyền lực với một cái ghế đúp chủ tịch nước lẫn tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng vẫn không thể tự tin khi đang bắt đầu hiện ra những ‘âm binh’ nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta - một hiện tượng rất đặc biệt mà đã nổi bật hẳn lên từ khi Trọng bị cơn bạo bệnh ở xứ Kiên Giang ‘nhà ba Dũng’, dẫn đến niềm hy vọng khó nói và khó tả của không ít quan chức về tương lai ‘đẩy’ Trọng về vườn để ngồi luôn vào khoảng trống quyền lực để lại - quá lớn và quá hấp dẫn.
Khác với thời tiền đại hội 12 là lúc Nguyễn Phú Trọng phải đối chọi với kỳ phùng địch thủ chính trị là Nguyễn Tấn Dũng, vào lúc này Trọng hầu như không có đối thủ trực diện nào - điều có thể làm cho ông ta tạm thời yên tâm dưỡng bệnh mà không phải quá lo lắng về ‘âm mưu đảo chính’ nào.
Nhưng không có đối thủ trực diện không có nghĩa là không tồn tại những đối thủ chuyên đánh sau lưng. Sau khi Trần Đại Quang - quan chức được tạm xem là đối thủ của Nguyễn Phú Trọng - thình lình chết vào tháng 9 năm 2018, đã xuất hiện ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy không chỉ có những quan chức thuộc ‘cánh Quang’, mà cả những quan chức thuộc những cánh khác cũng tìm cách làm khó Nguyễn Phú Trọng. Hoặc những quan chức thuộc các cánh khác nhau nhưng có thể tạm thời liên minh với nhau để tìm cách loại Trọng khỏi cuộc chơi.
Ngay trước mắt là vấn đề tuổi tác và sức khỏe - cả hai đều là tử huyệt của Trọng.
Nếu Nguyễn Phú Trọng đã vượt qua đại hội 12 bằng cơ chế ‘trường hợp đặc biệt’, sẽ khó hơn hẳn cho ông ta sau 5 năm để một lần nữa tân trang lại quy định ‘đặc biệt’ về độ tuổi được ‘ngồi tiếp’, bởi nếu làm vậy sẽ thật quá bỉ bôi trong mắt thiên hạ.
Trong khi đó, vấn đề sức khỏe của Trọng còn khó coi hơn cả chuyện tuổi tác già nua.
Nhưng tham vọng của con người là vô cùng…
Nếu quy luật ‘văn là người’ là đúng trong tình cảnh oái oăm này, đảng văn về kiểm soát quyền lực đã lần đầu tiên, kể từ khi Nguyễn Phú Trọng bị bạo bệnh, hé lộ ý định ‘ngồi nữa’ của ông ta.
Nếu quy định về kiểm soát quyền lực phát huy tối đa tác dụng của nó mà nhờ đó sẽ không thể xuất hiện một đối thủ nào có thể cạnh tranh với Trọng, ông ta sẽ yên tâm ngồi tiếp tại đại hội 13, thậm chí còn có thể ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’ như ‘hoàng đế Tập Cận Bình’ ở Trung Quốc, với điều kiện không bị hành hạ bởi những cơn tai biến.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 03/10/2019
Vào những ngày này, báo đảng lại hô hào về một đợt kê khai tài sản mới dành cho cán bộ công chức. Nhưng không ai biết đợt này có ‘thắng lợi’ như những đợt trước hay không.
Ông Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị kiểm soát quyền lực ngày 10/10/2018 - Ảnh minh họa
Trong những đợt kê khai tài sản cán bộ trước đây, các tỉnh thành ủy và khối chính quyền vẫn đều đặn và thản nhiên báo cáo về trung ương ‘không phát hiện trường hợp cán bộ kê khai tài sản không trung thực’, hoặc cả nước chỉ phát hiện 5 hay 6 trường hợp cán bộ kê khai tài sản không trung thực trong tổng số… gần 1 triệu cán bộ.
Nếu không thể tìm được ít ra vài trăm mạng ‘kê khai không trung thực’, làm sao áp dụng được tiêu chí ‘trog sạch’ trong đánh giá cán bộ, ngay trước mắt là Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019 ?
Và nếu chủ trương kê khai tài sản vẫn chỉ được làm như theo cách đối phó mà chẳng có gì thực chất, làm thế nào Nguyễn Phú Trọng và ê kip đảng của ông ta có thể kiểm soát được quyền lực theo Quy định về kiểm soát quyền lực mà Trọng đã ký ban hành vào tháng 9 năm 2019 ?
Quy định kiểm soát quyền lực áp dụng với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác cán bộ. Đây là lần đầu tiên trong đảng cầm quyền xuất hiện một đảng văn về kiểm soát quyền lực - điều chưa từng tồn tại ở các đời tổng bí thư trước đây.
Về bản chất, kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm kiểm soát các quyền lực đang được giới quan chức từ Bắc chí Nam, từ trên xuống dưới giành giật ‘như chó tranh xương’, mà còn phải kiểm soát được núi tài sản gồm của nổi và của chìm của những kẻ có quyền lực.
Thế nhưng đảng của Nguyễn Phú Trọng đã kiểm soát được tài sản cá nhân quan chức đến mức độ nào ?
Hãy nhìn lại chủ trương về kiểm tra tài sản của 1.000 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị và Ban bí thư quản lý, được Tổng bí thư Trọng tung ra vào tháng Năm năm 2017 ngay sau khi xử lý kỷ luật một ủy viên bộ chính trị là Đinh La Thăng, bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Khi đó và với quy định đó, Nguyễn Phú Trọng đã tiến thêm một bước dài và mạo hiểm trong chiến dịch mang hai mục tiêu vừa "chống tham nhũng" vừa kiểm soát quyền lực - hành động tương tự như "cuộc cách mạng long trời lở đất" mà ông Tập Cận Bình và Ủy Ban Kiểm Tra Kỷ Luật Trung Ương (CCDI) đã tung ra từ năm 2012 đến nay. Chủ trương kiểm tra tài sản quan chức của Trọng đã lập tức được Ban Tuyên giáo trung ương chỉ đạo báo chí nhà nước tuyên truyền ồn ào và không kém khoa trương.
Nhưng trong thực tế chiến dịch ‘chống tham nhũng’ và kiểm tra tài sản quan chức ở Việt Nam là còn xa mới với tới cái lai quần của Tập Cận Bình. Chưa đầy một năm sau xúc cảm xuất thần ‘lò đã nóng lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy’, vào buổi chiều 17/6/2018 khi tiếp xúc cử tri tại quận Cầu Giấy (Hà Nội), ông Nguyễn Phú Trọng không còn đề cập một cách mạnh mẽ cùng những ngôn từ bóng bẩy và ẩn dụ về công cuộc ‘đốt lò’ của ông, trong khi lại cho rằng ‘vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân’, và ‘mong muốn cử tri tiếp tục tham gia đóng góp ý kiến để có thể hoàn thiện được luật này và sớm được Quốc hội thông qua’.
Về thực chất, phát ngôn trên của ông Trọng là một sự thừa nhận gián tiếp thất bại về chủ trương kê khai tài sản cán bộ và cao hơn nữa là ‘kiểm tra tài sản 1.000 quan chức’.
Thất bại đó càng rõ rệt khi đến nay đã hơn hai năm trôi qua mà vẫn không có bất kỳ động tác được hứa hẹn nào được thực hiện.
Cho đến nay, báo đảng hầu như không còn nhắc tới chủ trương kiểm tra tài sản quan chức nữa. Chủ trương này cũng vì thế đã sớm mang thân phận chết yểu, dù chưa ai chính thức khai tử nó.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 02/10/2019
Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Cái cách hạ bút này xảy ra chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức chạy quyền ngày 23/9/2019. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN
Đây là lần đầu tiên trong đảng cầm quyền xuất hiện một đảng văn về kiểm soát quyền lực - điều chưa từng tồn tại ở các đời tổng bí thư trước đây.
Từ ‘hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’
Trước đây, ‘kiểm soát quyền lực’ thậm chí còn là một cụm từ bị xem là mang màu sắc của tư bản phương Tây và nhạy cảm chính trị với chế độ xã hội chủ nghĩa, do đó dù cụm từ này đã được một số học giả cộng sản nêu ra tính cần thiết áp dụng nó, nhưng chỉ đến khi nổi lên ‘hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’ thì ‘kiểm soát quyền lực’ mới dần được giới chóp bu của đảng nhìn nhận như một khái niệm hợp thời.
‘Hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng’ đã thật sự nổi lên và trở thành một chấn động khuynh đảo quyền lực chế độ từ những năm 2009, 2010. Đến năm 2012, hiện tượng đó đã trở thành mối đe dọa rất trực tiếp đối với những quan chức chưa biết làm sao để kiểm soát quyền lực như Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư, Trương Tấn Sang - Chủ tịch nước.
Hẳn sự thiếu am hiểu về kiểm soát quyền lực đã trở thành nguyên nhân chính yếu dẫn tới thất bại chua chát của cánh Trọng - Sang tại Hội nghị trung ương 6 vào cuối năm 2012. Bởi khi đã tưởng như có thể ‘trục’ Thủ tướng Dũng khỏi Ban chấp hành trung ương thì phe muốn kỷ luật lại không ngờ có đến 75% trong tổng số 200 ủy viên trung ương bỏ phiếu không đồng ý kỷ luật ‘đồng chí X’.
Làm thế nào mà Nguyễn Tấn Dũng lại có thể ‘nắm đầu’ được đến 3/4 Ban chấp hành trung ương ? Sự thật khi đó đã nổi lên rành rành : trong khi phe Trọng - Sang còn chưa biết làm sao để kiểm soát quyền lực của Dũng, thì Dũng đã có thừa kinh nghiệm về làm cách nào để thâu tóm quyền lực, và có thể đã rất chuyên nghiệp về ‘cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền’.
Đặc biệt từ năm 2012, nhu cầu về kiểm soát quyền lực đã trở nên thiết yếu với đảng và thiết thân đối với Nguyễn Phú Trọng. Nhu cầu đó càng lớn khi ông ta phải đối mặt với một Nguyễn Tấn Dũng tưởng như chỉ đưa tay ra là nắm gọn cái ghế tổng bí thư tại đại hội 12. Năm 2015 cũng bởi thế là khoảng thời gian mà một loạt bài viết về kiểm soát quyền lực đã bất chợt rộ lên trên mặt báo đảng, bắt đầu từ Nhị Lê - Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, ‘quê hương’ trước đó của Nguyễn Phú Trọng, và sau đó là một quan chức được xem là ‘học trò cưng’ của Trọng là Vũ Ngọc Hoàng - Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương.
Thế nhưng sau đại hội 12, chủ đề về kiểm soát quyền lực bỗng lắng hẳn trên diễn đàn thảo luận của đảng. Cũng không dồn dập bài viết về chủ đề này trên mặt báo đảng. Khi đó, Nguyễn Tấn Dũng đã tạm yên phận ‘về làm người tử tế’, chỉ còn một Nguyễn Phú Trọng độc tôn nắm vận mệnh nhân sự của đảng.
‘Kiểm soát quyền lực’ cũng không còn được nhắc tới vào các năm 2017 và 2018 - khoảng thời gian đã tạm nổi lên một nhân vật khác và được dư luận xem là đối thủ chính trị với tổng bí thư : Trần Đại Quang - chủ tịch nước xuất thân từ bộ trưởng công an.
Sau khi Quang thình lình chết vào tháng 9 năm 2018, dĩ nhiên không còn ai nhắc tới cụm từ ‘kiểm soát quyền lực’ nữa.
Vậy tại sao chủ đề kiểm soát quyền lực lại được nêu ra, thậm chí còn trở thành một quy định của đảng và do đích thân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành vào tháng 9 năm 2019 ?
Cát cứ và sứ quân
Đã thành một quy luật bất thành văn và không bao giờ trở thành chính thức : văn theo người ; đảng văn theo nhân sự. Có một số quy định nội bộ của đảng chỉ xuất hiện vào mỗi lúc tình thế trở nên ‘có biến’. Chẳng phải Nguyễn Tấn Dũng đã bị đá văng khỏi vũ đài chính trị bởi một quy định ‘cực kỳ vớ vẩn’ mà hẳn ông ta, với thói kiêu căng tự mãn lộ rõ trên mặt, đã chẳng bao giờ thèm ghé mắt nhìn : "đảng viên không được phép tự ứng cử mà không có ý kiến của tập thể chi bộ" sao ?
Quy định về kiểm soát quyền lực mới ban hành sẽ nhắm tới công tác cán bộ tại Hội nghị trung ương 11, mà cụ thể là hội nghị này sẽ chọn ra một danh sách sơ bộ các ủy viên bộ chính trị cho khóa 13. Quy định về kiểm soát quyền lực cũng sẽ được duy trì liên tục từ đây đến đại hội 13 vào đầu năm 2021. Đó là bề nổi mà nhiều người nhìn ra.
Nhưng còn bề chìm và cái chiều sâu thăm thẳm đầy những góc tối của nó ?
Sau một thời gian bị quên lãng, chủ đề kiểm soát quyền lực được nêu trở lại một cách chính thức cho thấy dường như Nguyễn Phú Trọng đang lo ngại về khả năng bảo đảm quyền lực tập quyền trung ương và vấn đề tập quyền cá nhân của ông ta có thể bị đe dọa bởi những lực cản đủ mạnh nào đó.
Những lực cản đó là gì ?
Một nguy cơ mà từ năm 2017, thâm tâm đảng cầm quyền có thể còn lo sợ hơn quốc nạn tham nhũng, là tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương.
Từ sau đại hội 12, bất chấp quyền uy gần như tuyệt đối của Tổng bí thư Trọng, tình trạng cát cứ quyền lực đã nổi lên tràn lan ở một số bộ ngành và địa phương. Tất cả đều lao vào hội chứng ‘hốt cú chót’.
Không phải vô cớ mà Trọng đã chọn Đà Nẵng, TP.HCM và sau đó đến Đồng Nai là những tỉnh thành cần phải ‘đốt lò’. Đã từ lâu, ở những tỉnh thành này đã xuất hiện nhiều biểu hiện về lãnh đạo gia đình trị và hoành hành như thể những ông vua con vào thời ‘Mười hai sứ quân’ trong lịch sử Việt Nam.
Cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Phú Trọng lại ‘xẻ thịt’ Bộ Công an, xóa bỏ toàn bộ cấp tổng cục của bộ này vào đầu năm 2018, trong khi vẫn giữ nguyên 6 tổng cục ở Bộ Quốc phòng.
Nhưng kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm xử lý nạn cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương, mà còn có thể mang một ẩn ý không hề được nói ra…
‘Ngồi, ngồi nữa…’
Cho dù đang độc tôn về quyền lực với một cái ghế đúp chủ tịch nước lẫn tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng vẫn không thể tự tin khi đang bắt đầu hiện ra những ‘âm binh’ nổi lên ngay dưới chân ghế ông ta - một hiện tượng rất đặc biệt mà đã nổi bật hẳn lên từ khi Trọng bị cơn bạo bệnh ở xứ Kiên Giang ‘nhà ba Dũng’, dẫn đến niềm hy vọng khó nói và khó tả của không ít quan chức về tương lai ‘đẩy’ Trọng về vườn để ngồi luôn vào khoảng trống quyền lực để lại - quá lớn và quá hấp dẫn.
Và nếu quy luật ‘văn là người’ vẫn đúng trong tình cảnh oái oăm này, đảng văn về kiểm soát quyền lực đã lần đầu tiên, kể từ khi Nguyễn Phú Trọng bị bạo bệnh, hé lộ ý định ‘ngồi nữa’ của ông ta. Nếu quy định về kiểm soát quyền lực phát huy tối đa tác dụng của nó mà nhờ đó sẽ không thể xuất hiện một đối thủ nào có thể cạnh tranh với Trọng, ông ta sẽ yên tâm ngồi tiếp tại đại hội 13, thậm chí còn có thể ‘ngồi, ngồi nữa, ngồi mãi’ như ‘hoàng đế Tập Cận Bình’ ở Trung Quốc, với điều kiện không bị hành hạ bởi những cơn tai biến.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 01/10/2019
Đáng lo ngại hơn cho Trọng là tình trạng cấu kết giữa các nhóm chính trị - tài phiệt giữa các tỉnh thành, bộ ngành với nhau, tạo thành một mạng nhện ngày càng tán rộng và khó gỡ.
Nhan nhản cảnh tượng cảnh sát cơ động được các nhóm lợi ích sử dụng như một lực lượng làm thuê để chống lại phong trào phản kháng BOT.
Tháng 9 năm 2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng bất ngờ ký ban hành Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Quy định này áp dụng với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác cán bộ.
Đáng chú ý, quy định trên được ban hành chỉ ít ngày trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền - dự kiến tổ chức vào tháng 10 năm 2019.
Hội nghị trung ương 11 có tầm quan trọng đặc biệt, bởi trong cuộc họp của Ban chấp hành trung ương tại hội nghị đó sẽ nhiều khả năng ‘chốt’ danh sách sơ bợ các ủy viên bội chính trị cho khóa 13.Nếu Hội nghị trung ương 10 chỉ là cuộc đấu giữa những ‘cá bé’, thì Hội nghị trung ương 11 mới thật sự là cuộc sát phạt của ‘cá mập’ với nhau.
Đặc thù của thời đại mới đã được tô thắm bới tính chất đa phe phái, đa trung tâm quyền lực hơn và do đó cũng kéo theo nhiều nhóm lợi ích hơn.
Nếu cuộc chiến trước đại hội 12 chủ yếu xoay quanh trục Trọng - Dũng, thì thế trận trước đại hội 13 phong phú hơn khá nhiều : các phe phái - chủ yếu là ‘phe chính phủ’ và ‘phe đảng’ tranh giành quyền lực, còn Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một nhóm đối thủ mà có thể bao gồm phe chính phủ lẫn bên đảng muốn triệt tiêu ‘sự nghiệp cách mạng’ của ông ta.
Tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương cũng bởi thế đang diễn tiến mau lẹ, trở thành một nguy cơ mà thâm tâm đảng cầm quyền có thể còn lo sợ hơn quốc nạn tham nhũng.
Từ sau đại hội 12, bất chấp quyền uy gần như tuyệt đối của Tổng bí thư Trọng, tình trạng cát cứ quyền lực đã nổi lên tràn lan ở một số bộ ngành và địa phương. Tất cả đều lao vào hội chứng ‘hốt cú chót’.
Không phải vô cớ mà Trọng là chọn Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và sau đó đến Đồng Nai là những tỉnh thành cần phải ‘đốt lò’. Đã từ lâu, ở những tỉnh thành này đã xuất hiện nhiều biểu hiện về lãnh đạo gia đình trị và hoành hành như thể những ông vua con vào thời ‘Mười hai sứ quân’ trong lịch sử Việt Nam.
Cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Phú Trọng lại ‘xẻ thịt’ Bộ Công an, xóa bỏ toàn bộ cấp tổng cục của bộ này vào đầu năm 2018, trong khi vẫn giữ nguyên 6 tổng cục ở Bộ Quốc phòng.
Tuy nhiên sau những hành động có vẻ khá kiên quyết trên, tình trạng cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương vẫn âm thầm diễn biến ở nhiều bộ ngành và địa phương. Và thật trớ trêu, một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này lại do chính chủ trương ‘nhất thể hóa’ của Nguyễn Phú Trọng đưa vào thực hiện từ năm 2017, như một cách ‘gậy ông đập lưng ông’.
Trước đây, các bí thư tỉnh/thành ủy và chủ tịch ‘tỉnh’thành ủy luôn là hai người. Nhưng sau khi thực hiện ‘nhất thể hóa’ bí thư và chủ tịch làm một, ở nhiều địa phương đã hiện hình những ông vua con, vừa nắm khối đảng vừa nắm khối chính quyền, và trong thực tế có bí thư - chủ tịch còn chi phối luôn cả bộ máy hoạt động của hội đồng nhân dân cùng cấp.
Nhưng ông vua con trên, ngoài mặt vẫn tuân thủ trung ương và lấy lòng Nguyễn Phú Trọng, nhưng bên trong đã xuất hiện ngày càng nhiều những tổ hợp tài phiệt. Nếu trước đây bí thư hoặc chủ tịch tỉnh/thành khi quyết một vấn đề gì quan trọng của địa bàn đều phải hỏi ý kiến người kia, thì nay những ông vua con hoàn toàn có thể tự quyết, cùng lắm thì hỏi ý kiến bên hội đồng nhân dân như một thủ tục cho có.
Đáng lo ngại hơn cho Trọng là tình trạng cấu kết giữa các nhóm chính trị - tài phiệt giữa các tỉnh thành, bộ ngành với nhau, tạo thành một mạng nhện ngày càng tán rộng và khó gỡ.
Đó chính là mối họa cho Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ta trong một ngày không còn xa nữa, bất chấp Quy định về kiểm soát quyền lực vừa được ban hành.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 28/09/2019
Ông Trọng cùng bộ sậu ban Tổ chức trung ương họp hành về các vụ "kiểm soát quyền lực" và "chống tham nhũng". Chuyện này là chuyện "nội bộ" của đảng, nhưng thực chất là việc phân bổ quyền lực quốc gia đến cho các đảng viên.
Ông Nguyễn Phú Trọng và vòng đai những người "thẻ đỏ tim đen".
Theo tôi, ông Trọng đang làm chuyện "ruồi bu". Ngoại trừ thay thế 4 triệu đảng viên là 4 triệu con robot người máy, biết suy nghĩ, biết làm nhưng không biết ăn, thì nạn tham nhũng và việc lạm dụng quyền lực mới có thể diệt trừ. Chớ với tập đoàn 4 triệu con người, bản chất thì tự xưng là "giai cấp vô sản" với mục đích xây dựng một xã hội công bằng. Nhưng thực chất họ chỉ là giai cấp "tài phiệt đỏ với mục đích xây dựng một xã hội tư bản hoang dã đầy dẫy bất công. Tự bản thân họ thề thốt một đàng với lý tưởng cao đẹp, nhưng thực tế thì làm những chuyện ngược lại. Tất cả trở thành những người dối trá. Không dối trá với lý thuyết Mác Lênin và tư tưởng ông Hồ, thì cũng dối trá với chính lương tâm, lương tri của họ. Vì vậy trong đảng bây giờ không có "người cộng sản tốt", có "lý tương cộng sản", mà chỉ có đám người "thẻ đỏ tim đen". Dĩ nhiên loại trừ lớp người già cả, về hưu. Họ gia nhập đảng với trái tim nóng bỏng muốn cải cách xã hội cho tốt đẹp, công bằng hơn (xã hội tư bản).
Lớp người dối trá thẻ đỏ tim đen, họ thừa nhẫn tâm, bạo tàn của người vô sản nhưng thiếu tính "nhân đạo" của tầng lớp sĩ phu cánh tả. Nắm quyền lực trong tay họ ăn tàn, phá nát của dân, của đất nước này không từ một thứ gì.
Nhìn lại đất nước hôm nay, thật là tiêu điều hoang sơ. Bốn mươi năm liên tục hút lên bán, đào lên bán, đốn gỗ trên rừng về bán… Đất nước không còn lại gì, ngoài một bãi ô nhiễm ghê rợn.
Để cứu nguy nền kinh tế đe dọa sụp đổ vì đất nước không còn gì nữa để bán. Con người cũng trở thành món hàng với những phong trào "xuất khẩu lao động", còn phụ nữ, có giá hơn, với khẩu hiệu "bán trôn cứu đảng"...
Ông lãnh đạo nào lên cũng tán dương sắc đẹp người phụ nữ Việt, không phải để tự hào như là một giá trị cao đẹp "chân thiện mỹ" của người Việt, mà để quảng cáo làm ăn, du hí Việt Nam. Tôi hy vọng những người vợ, những đứa con gái, cháu gái… của những vị lãnh đạo này nên xung phong cầm bó đuốc đi đầu, dẫn đường phong trào "bán trôn cứu đảng".
Bây giờ ông Trọng muốn "kiểm soát quyền lực" của tập đoàn "thẻ đỏ tim đen".
Ta có thể ví đất nước như một "bồ lúa" mà đảng CS là bầy chuột.
Các tập đoàn khai thác khoáng sản, than đá, dầu khí, điện lực, viễn thông, địa ốc… các công tuy quốc doanh lớn nhỏ… là những bó lúa trong bồ lúa.
Ta cũng có thể ví đất nước như là thân thể một con người mà đảng cộng sản là những con sán lãi.
Các chức vụ lãnh đạo nhà nước, các tỉnh thành, huyện… các tướng lãnh, quan chức trong quân đội, công an…, nói theo ông Tư Sang, là những con "sâu lớn". Nói cho đúng phải là những con sán lãi hút máu trên thân thể đất nước còm cõi này.
Công tác "luân chuyển cán bộ" trong đảng là lấy con chuột này ra khỏi bồ lúa, vì con này đã mập ú rồi, sau đó bỏ con chuột khác vào thay thế. Còn trong quân đội, công an… con sán lãi vẫn là con sán lãi. Đất nước hòa bình 4 thập niên mà phải nuôi hàng ngàn ông tướng, trong khi thời chiến tranh số tướng lãnh không quá 20 người ! Nói chi tới đội ngũ công an ! Hãy nhìn đám công an hạng bét là công an giao thông, họ ăn thế nào thì tưởng tượng cái ăn tàn bạo của cấp trên.
Từ khai thiên lập địa sơ khai đến xã hội văn minh, từ xã hội loài thú cho đến xã hội loài người, cốt lõi của sinh hoạt cộng đồng xã hội là việc tranh đoạt quyền lực. Nói theo ông Trọng bây giờ là "công tác phân bổ cán bộ".
Trong "xã hội" loài chim thì không có "bầu bán", dân chủ tập trung hay dân chủ tư sản. Con chim đầu đàn chiếm lĩnh "quyền lực" trong bầy vì lẽ con chim này khôn ngoan, có khả năng dẫn dắt cả bầy đi đến những nơi chốn có đầy mồi ngon, năng ấm. Còn trong đàn sư tử, con đầu đàn là con mạnh nhứt.
Việc tuyển lựa nhân sự, phân bổ hay luân chuyển cán bộ, bề mặt là chon nhân sự lãnh đạo nhà nước, nhưng thực tế là chọn mặt chuột để đưa vào bồ lúa !
Nhân sự cả đảng cộng sản hiện nay đều "cá đối bằng đầu", không ai có tài năng xuất chúng như những thế hệ đi trước. Ai cũng bất tài, dốt nát, dối trá, nịnh bợ, phe đảng… như nhau. Ai dễ nhịn ai trong vấn đề lãnh đạo ?
Nếu họ là đàn chim thì quá dễ. Con nào kinh nghiệm, tinh khôn thì lên làm lãnh đạo. Nếu họ là đàn sư tử thì cũng dễ. Con nào mạnh thì con đó lên.
Nhưng trong đảng họ áp dụng nguyên tắc "dân chủ tập trung", thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Rốt cục tất cả quyền lực nằm trong tay ông Trọng.
Ông Trọng như "cụ tổng" tóc bạc phơ, tay cầm phong bì màu đỏ tượng trưng cho quyền lực, đang ngồi trên ghế cao xem bọn "cá đối" xum xoe nịnh bợ ở bên dưới chờ được "ơn mưa móc".
Nếu không có cơ chế nào kiểm soát được quyền lực trong tay ông Trọng thì không có cơ chế nào kiểm soát "quyền lực" nói chung.
Ở các nước dân chủ văn minh, "quyền lực quốc gia" (bây giờ gọi là quyền lực nhà nước) thuộc về nhân dân. Người dân trao "quyền lực" này cho những người đại diện lãnh đạo họ, trong một nhiệm kỳ thời gian đã xác định trước, qua một thể thức bầu cử tự do. Quyền lực như vậy vừa "chính danh", vì được sự ủy thác của người dân, vừa bị "kiểm soát" bởi chính người dân, bằng lá phiếu của họ, cũng như bằng các định chế quyền lực khác (lập pháp, tư pháp) cấu thành quyền lực quốc gia.
Lấy cái gì để bảo đảm rằng đảng viên do ông Trọng và ban tổ chức trung ương đảng tuyển chọn "xứng đáng" để lãnh đạo, thí dụ bí thư hay chủ tịch UBND thành phố Hà Nội (hay Sài gòn) ?
Không có gì hết. Nếu so sánh Hoàng Trung Hải, Nguyễn Đức Chung ở Hà Nội ta có thể tìm hàng triệu người tài giỏi hơn trong số 90 triệu người dân. Ở Sài Gòn ta cũng có thể tìm hàng triệu người giỏi hơn Nguyễn Thiện Nhân hay Nguyễn Thành Phong.
Đảng cộng sản Việt Nam, như đã nói, đó chỉ còn là một tập hợp những người dối trá, dốt nát, "thời cơ chủ nghĩa", vì họ không có lý tưởng nào, ngoài "lý tiền" và "lý quyền".
Những người này có đeo 10 cái bằng tiến sĩ, quyền lực của họ được sự chuẩn nhận của ông Trọng, thì cũng không có "chính danh" để lãnh đạo.
Quyền lực của ông Trọng không chính danh, không có cơ chế nào kiểm soát được ông Trọng, thì tất cả những hành vi chỉ định cán bộ của ông Trọng cũng đều không chính danh.
Quyền lực như con ngựa bất kham. Nó cũng như con chuột tự tung tự tác trong bồ lúa.
Nỗ lực "đốt lò" của ông Trọng là vô ích. Bắt con chuột này vì thấy quả tang nó ăn lúa nhiều quá, trong khi hàng triệu con chuột khác ăn còn nhiều hơn, nhưng nó giỏi trốn dưới những bó lúa, (hay dưới ống quần ông Trọng), thì không thể bắt được.
Chỉ có một chế độ dân chủ pháp trị, quyền lực phân lập kiểm sóat lẫn nhau, chế ngự lẫn nhau, thì mới có thể diệt trừ được nạn tham nhũng, nạn lạm dụng quyền lực hay "chạy chọt" quyền lực.
Những chuyện mà ông Trọng đang làm là những chuyện "ruồi bu", không đi tới đâu. Nhưng biết đâu đó là mục tiêu của "cụ tổng". Bởi vì trong một bầy chuột, con này lên cầm đầu thì phe cánh của con này phải được ưu tiên.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhaqntuan.truong, 20/01/2018
Phần 1
Có những người bán rẻ Tổ quốc vì quyền lợi cá nhân
Có những người lúc đầu khi chưa có quyền lực thì tốt, nhưng sau đó, khi đã có quyền lực trong tay thì dần dần trở nên hư hỏng, thành người xấu ; thậm chí đến mức có thể phản bội nhân dân, bán rẻ Tổ quốc vì ngai vàng của cá nhân.
Có những người có quyền lực trong tay trở nên tha hóa. Ảnh minh họa : Shutterstock/Thanh niên
Quyền lực như "con ngựa" bất kham, người không đủ nhân cách mà giao cho họ cầm cương thì nó sẽ tung phá, gây đổ ngã và làm chết cả người ngồi trên yên ngựa. Quyền lực là "con dao" hai lưỡi, có thể phục vụ cho đời và cũng có thể làm hại đất nước nếu rơi vào tay những kẻ bất tài, tham lam.
Năm 2011, Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cập, dù là mới thoáng qua, việc kiểm soát quyền lực. Rất tiếc là chủ trương đó chưa được triển khai thực hiện cụ thể. Trước và trong Đại hội XII, Tổng Bí thư của Đảng ít nhất đã hai lần nhấn mạnh phải kiểm soát quyền lực.
Gần hai năm trước, trong bài "Tham vọng quyền lực và sự tha hóa", tôi có viết ý kiến về kiểm soát quyền lực và trả lời phỏng vấn của báo chí về việc này. Thời gian gần đây một số tờ báo có đặt vấn đề phỏng vấn tôi yêu cầu nói tiếp ý kiến về kiểm soát quyền lực. Đó là lý do khiến tôi viết tiếp bài này trao đổi thêm để bạn đọc tham khảo.
Câu hỏi trước tiên cần nói thêm là vì sao phải kiểm soát quyền lực ? nếu không kiểm soát quyền lực thì sẽ thế nào ?
Mặt tiêu cực của quyền lực
Quyền lực vốn là của cộng đồng nhân dân, khởi đầu là thế, và mãi mãi cũng là thế, không phải của thần linh, không phải của bất kỳ cá nhân ai, của một gia đình trị hoặc một tộc họ nào ; cũng không phải của bất kỳ một tổ chức nào khác.
Từ lâu Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được và đã nhiều lần khẳng định trong các Nghị quyết rằng quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân không trực tiếp nắm giữ tất cả, mà chỉ nắm giữ một số vấn đề then chốt (sẽ nói sau), còn lại là ủy quyền cho nhà nước quản lý và sử dụng quyền lực để bảo vệ và phục vụ nhân dân, kiến tạo một quốc gia phát triển.
Tuy nhiên, trong lịch sử, đã từng có không ít trường hợp những người (hoặc nhóm người) bằng các thủ đoạn chính trị đã cướp đoạt quyền lực của nhân dân, biến nhân dân thành đối tượng bị cai trị. Nhân dân sau khi ủy quyền thì mất quyền, còn người được ủy quyền thì dần dần bị quyền lực làm tha hóa. Họ sử dụng quyền lực không phải để bảo vệ và phục vụ nhân dân như mục đích ban đầu, mà để phục vụ lợi ích của cá nhân, gia đình, dòng họ, cho một nhóm người, họ quay lại ức hiếp nhân dân, biến nhân dân từ chủ nhân của quyền lực thành đối tượng bị chèn ép, bị ức hiếp, bị tước đoạt.
Ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào, quyền lực cũng luôn có hai mặt. Mặt tích cực, nó là công cụ hữu hiệu bậc nhất để tập hợp lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu như quyền lực ấy được trao cho những con người có nhân cách tốt.
Mặt tiêu cực, nó luôn làm tha hóa những con người và bộ máy sử dụng quyền lực nhưng lại yếu kém về nhân cách và không có cơ chế tốt để kiểm soát quyền lực. Sự tha hóa như vậy có từ trong bản chất tự nhiên của con người và quyền lực. Có những người lúc đầu (khi chưa có quyền lực) thì tốt, nhưng sau đó, khi đã có quyền lực trong tay thì dần dần trở nên hư hỏng, thành người xấu ; thậm chí đến mức có thể phản bội nhân dân, bán rẻ Tổ quốc vì ngai vàng của cá nhân.
Cá biệt có những người thay đổi bản chất rất nhanh, chỉ sau một lần bỏ phiếu, họ gần như trở thành một người khác hẳn, từ dáng đi, cách nói, cách bắt tay. Họ khệnh khạng hơn, có vẻ "oai vệ" hơn, "bề trên" hơn. Khi người ta đến được đỉnh cao của "chiến thắng" trong quyền lực thì đấy là lúc người ta bắt đầu thua, mà trước tiên là thua chính mình.
Trên đỉnh cao của quyền lực ít ai nhìn thấy tai họa ẩn chứa vốn có từ bên trong quyền lực ấy, nếu không phải là người lãnh đạo có nhân cách lớn, minh triết uyên thâm, có khả năng vượt qua chính mình và ma lực cám dỗ của quyền lực, để tịnh tâm nhìn xa trông rộng. Khi đã có trong tay tất cả thì đấy cũng là lúc tự mình bắt đầu đánh mất dần.
Tha hóa quyền lực dẫn đến sụp đổ chế độ
Việc kiểm soát quyền lực trước tiên là để bảo đảm cho quyền lực luôn thuộc về đúng chủ nhân của nó, tức là thuộc về nhân dân, được sử dụng đúng mục đích, không bị lợi dụng, lạm quyền. Khi quyền lực bị lạm dụng thì tất yếu sẽ tha hóa bộ máy cầm quyền, và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tha hóa đạo đức xã hội.
Sự tha hóa quyền lực tất yếu sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị. Nếu sự tha hóa ấy không dừng lại và lành mạnh hóa thì sụp đổ là không thể khác, chỉ còn là vấn đề thời gian. Sự sụp đổ ấy chính là tự đổ, không phải do ai phá và cũng không ai cản nổi.
Có những suy nghĩ rất ấu trĩ sai lầm khi cho rằng nắm cho chắc lực lượng vũ trang là có thể đẩy lùi sự sụp đổ. Không đâu ! Liên Xô ngày trước cả quân đội và lực lượng an ninh KGB còn rất mạnh, bậc nhất thế giới, vậy mà đến một lúc, khi sự tha hóa đã đến ngưỡng, thì cả một chế độ được cho là thành trì ấy bỗng chốc đổ ào, đến mức không tưởng tượng được, không hiểu nổi.
Nhiều người đã giải thích rằng do địch phá bằng "diễn biến hòa bình"... Không phải như thế đâu ! Đấy là cách giải thích miễn cưỡng, không có cơ sở khoa học, tự trấn an mình. Địch thì lúc nào mà chả phá ta ? Do phá ta nên nó mới là địch. Địch mà không phá ta mới là chuyện lạ.
Phá là việc của địch, còn ngã đổ là chuyện của ta. Nếu cử đổ lỗi cho địch thì rồi chẳng biết cách nào mà sửa. Địch phá Liên Xô ư ? Phá sao bằng thời kỳ trước đó, khi 14 nước đế quốc tập trung bao vây nhà nước nhân dân còn non trẻ, rồi nội chiến, rồi chủ nghĩa phát-xít đã tập trung cao độ lực lượng với nửa nghìn sư đoàn thiện chiến trong đại chiến thế giới lần thứ 2 để tiêu diệt Liên Xô, nhưng không tiêu diệt được.
Ngược lại, Liên Xô đã lớn mạnh thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Sao bây giờ địch giỏi vậy, tài tình vậy, chẳng tốn một viên đạn mà Liên Xô vẫn đổ ào không cứu vãn được, cứ như một cơn đột quỵ dữ dội và bất ngờ. Địch mà giỏi như vậy thì thật đáng kính phục ?
Những nhà tuyên truyền "ngây thơ" đã vô tình tâng bốc địch, vậy mà cứ tưởng thế mới là có lập trường địch - ta. Bản chất của vấn đề Liên Xô đổ là tự đổ, do tha hóa quyền lực mà đổ, do không thể tự đứng được nữa mà đổ, do thối nát mà đổ, chứ chẳng phải ai xô ngã được.
Tham nhũng, lợi ích nhóm lan cả vào chốn thiêng liêng
Đặc điểm chính trị quan trọng nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính là quyền lực thật sự và luôn luôn thuộc về nhân dân. Chỉ khi ấy mới có một nền chính trị thật sự tốt đẹp và bền vững.
Thực tế lịch sử nhân loại đã cho thấy : nhà nước của chủ nô, của vua và các tập đoàn phong kiến, nhà nước của quan lại tha hóa (như Liên Xô giai đoạn sau chẳng hạn) và nhà nước của tài phiệt (tư bản hoang dã thời kỳ đầu) cuối cùng đều phải ngã đổ và kết thúc. Chỉ có nhà nước của dân, thật sự của dân, thì mới bền vững lâu dài, vì dân là vạn đại.
Vì vậy, việc kiểm soát quyền lực vừa là giá trị nhân văn của một xã hội tiến bộ, phòng chống sự tha hóa của Nhà nước và xã hội, đồng thời là để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính, để có được một nhà nước bền vững lâu dài phục vụ nhân dân.
Khi quyền lực không được kiểm soát thì mặt trái của nó chính là tác nhân quan trọng nhất làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực, rồi tha hóa cả bộ máy, làm cho bộ máy bị biến chất, không còn là nhà nước của dân, mà dần dần thành nhà nước phản bội nhân dân.
Trong bất kỳ điều kiện nào, sự tha hóa quyền lực ở cán bộ và các cơ quan lãnh đạo quản lý, đều là nguyên nhân lớn nhất làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc bị mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ và quốc gia không thể hưng thịnh, không có đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà nhiều người đã từng mong ước cũng trở nên xa vời và mơ hồ.
Lịch sử nước ta đã từng có nhiều lần do tha hóa quyền lực mà dẫn đến mất nước. Hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bị sụp đổ vì tha hóa quyền lực. Triều đại sau được dân chúng ủng hộ lên thay, rồi cũng tha hóa tương tự, lặp lại như cũ. Ngay cả những triều đại đã một thời rất huy hoàng, có công lao to lớn bậc nhất với lịch sử dân tộc nhưng sau đó cũng tha hóa và sụp đổ (như nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê và Tây Sơn chẳng hạn).
Nhiều năm qua lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã rất nhiều lần đề ra chủ trương và kêu gọi phải chống tham nhũng, chống "lợi ích nhóm" tiêu cực, cũng đã mất nhiều công sức cho công việc khó khăn và vất vả này, nhưng kết quả vẫn còn rất hạn chế. Tình hình tham nhũng, "lợi ích nhóm" chẳng những không dừng lại, mà đang còn khá phổ biến và phức tạp, gây nhức nhối xã hội, đau đầu các cơ quan lãnh đạo đất nước.
Nó cứ lan rộng dần vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, của công việc quản lý và quản trị quốc gia, vào ngay trong các lĩnh vực mà trước đến nay thường được cho là trong sạch, thiêng liêng (như lĩnh vực dạy người, cứu người, an ninh quốc gia, nắm cán cân công lý để bảo vệ sự nghiêm minh, kể cả cơ quan ở cấp cao, cả nhà thờ, chùa chiền, cả lĩnh vực làm từ thiện, nhân đạo, chính sách đền ơn đáp nghĩa…).
Điều đó có nguyên nhân trực tiếp quan trọng nhất là chưa làm tốt việc kiểm soát quyền lực, nói thẳng và mạnh hơn là quyền lực về cơ bản chưa được kiểm soát, từ đó dẫn đến tha hóa cán bộ và các tổ chức trong bộ máy lãnh đạo quản lý.
Vũ Ngọc Hoàng
Nguồn : TuanVietnamNet, 22/09/2016
***************
Phần 2
Nhiều việc bị lấy cớ là 'nhạy cảm' để không minh bạch thông tin
Ở Việt Nam còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Nhiều việc được cho là "nhạy cảm" để lấy cớ đó không minh bạch thông tin.
Trong phần 1, tôi đã nói về lý do phải kiểm soát quyền lực. Trong phần 2 này, tôi xin góp bàn về quyền lực cần được kiểm soát như thế nào, bằng cách nào ?
Còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Ảnh minh họa
Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Lời ấy không phải là hô khẩu hiệu, mà phải được thấm sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Mọi người phải ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng hành động thực tế.
Bảo đảm việc lập hiến là của toàn dân (thông qua cử tri toàn quốc), nhân dân phải trực tiếp quyết định những vấn đề cơ bản của Hiến pháp (chứ không phải là nhân dân góp ý để Quốc hội xem xét). Phải trưng cầu dân ý đối với những vấn đề quan trọng của đất nước. Tiến tới Chủ tịch nước phải do nhân dân trực tiếp bầu (chứ không phải Quốc hội).
Kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước
Tiếp theo, quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật liên quan về cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, trong đó có sự phân quyền giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, các nhánh ấy độc lập tương đối với nhau, giám sát chéo và điều chỉnh lẫn nhau, nhằm hạn chế sai lầm, hoặc khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.
Nói chung, các nhà nước phong kiến chưa giải quyết được việc kiểm soát quyền lực, mặc dù có lúc đã có một số quy định tiến bộ, manh nha của kiểm soát quyền lực. Luật lệ của triều đình có những quy định cấm các quan không được làm.
Một số triều đại đã từng có các quan ngự sử ghi chép trung thực, khách quan mọi việc liên quan đến các quyết định và ứng xử của nhà vua, của triều đình để lịch sử đánh giá, phán xét công, tội. Vua cũng không được kiểm duyệt các ghi chép này. Có các gián quan để can gián vua không làm việc sai ; có trống để thần dân kêu oan ; có "quan tòa" liêm chính để phán xử đúng sai…
Tuy nhiên, về cơ bản vẫn chưa giải quyết được vấn đề kiểm soát quyền lực. Nguyên nhân là do quyền lực tập trung vào tay vua và hoàng tộc, vua bảo chết thì phải chết, ý vua là ý trời, ý vua là pháp luật, còn nhân dân chỉ là đối tượng bị cai trị, không có quyền tự do, kể cả quyền sống, trái ý vua thì tùy theo mức độ và sự nóng giận của vua mà bị trị tội, kể cả tru di tam tộc.
Thời kỳ đầu của chế độ tư bản cũng vậy, quyền lực tập trung vào tay những người giàu có và cũng không được kiểm soát. Khi chế độ tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, đáng kể, có những bước tiến quan trọng về dân chủ xã hội, cộng với sự phát triển của các hệ tư tưởng, nhất là lĩnh vực triết học, làm thay đổi nhận thức và tư duy chính trị, thì quyền lực mới được kiểm soát đáng kể, và ngày nay vẫn đang phải tiếp tục hoàn thiện.
Phương pháp tiếp cận của nước ta lâu nay đối với vấn đề này chưa phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp hầu như không có kiểm soát, và trên thực tế, việc lạm dụng quyền lực đã rất nhiều. Chính nó đã tạo nên sự tha hóa đến độ rất phức tạp.
Gần đây Tổng Bí thư nói nhiều lần về việc kiểm soát quyền lực. Chúng ta có thể không dùng cụm từ "Tam quyền phân lập", không tiếp thu theo kiểu bê nguyên, rập khuôn máy móc mô hình này của các nước phương Tây, vì mỗi quốc gia có đặc điểm văn hóa và ở giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng riêng về vấn đề kiểm soát quyền lực trong đó thì rất nên nghiên cứu một cách thật nghiêm túc.
Đồng thời với việc phân quyền một cách khoa học giữa ba nhánh nói trên, còn có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp.
Thật sự tạo điều kiện để nhân dân hạnh phúc
Tiếp theo, kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự ; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được giao quyền lực ; sự giám sát của công luận, của nhân dân ; tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia làm chủ đất nước.
Trong đó, cần phát huy tốt vai trò của xã hội dân sự lành mạnh. Ở đây, cần hiểu cho đúng xã hội dân sự với tư cách là các tổ chức và phong trào lành mạnh, hợp pháp, do nhân dân tự giác và tự nguyện lập ra. Nó không phải là một hình thái kinh tế - xã hội nào mà là một bộ phận hợp thành của xã hội hiện tại ; không phải là tổ chức của nhà nước mà ngân sách phải cấp kinh phí và cũng không phải là đơn vị kinh tế hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Các tổ chức này ra đời và tồn tại nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng xã hội ; nó là phương thức rất quan trọng để thực thi quyền dân chủ của nhân dân. Nó đã từng tồn tại và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam truyền thống trước đây và trong xã hội Việt Nam hiện tại, tất nhiên là chưa hoàn chỉnh, chưa hiện đại.
Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình ; có quyền phản đối những việc làm mà nhân dân cho là sai trái ; có quyền yêu cầu cán bộ từ chức hoặc bị cách chức… Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời, giải trình, không được ngăn cản cấm đoán nhân dân thể hiện chính kiến một cách ôn hòa.
Phải khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc sai trái (kể cả của lãnh đạo) để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội. Ở đâu và khi nào mà công luận bị hạn chế, ngăn cản thì ở đó và lúc ấy cơ thể xã hội đang giảm sức đề kháng (đến một lúc bệnh nặng dần, trở thành liệt kháng - đó chính là căn bệnh HIV chết người).
Trong một xã hội tiến bộ, việc minh bạch thông tin có vị trí rất quan trọng, mọi người dân đều có quyền tiếp cận thông tin, không ai được bưng bít thông tin, giống như "ánh sáng ban ngày" thay cho "đêm tối", để cái xấu, cái ác không còn nơi ẩn nấp, phải lộ rõ nguyên hình. Lâu nay ở Việt Nam ta còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm.
Chính sự không minh bạch này đã làm cho nhân dân nghi ngờ, mất lòng tin. Nghi ngờ dung túng, bao che, cùng "lợi ích nhóm". Nhiều việc được cho là "nhạy cảm" để lấy cớ đó mà không minh bạch thông tin. Chính việc không minh bạch ấy đã làm hạn chế hiệu quả của cuộc chiến chống tham nhũng và "lợi ích nhóm", nếu như không muốn nói rằng nó cản trở các công việc ấy.
Một nhà nước của dân, cớ sao không báo cáo đầy đủ cho nhân dân biết ? Nếu lãnh đạo không có ai dính dáng gì tiêu cực trong đó thì tại sao lại sợ minh bạch ? Muốn minh bạch thông tin thì lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải mở rộng hành lang hơn nữa cho tự do ngôn luận và báo chí, còn bản thân báo chí cũng phải dũng cảm, bản lĩnh và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nhà báo dám dấn thân cho lẽ phải và không để bị mua chuộc.
Cũng có ý kiến lo ngại rằng, khi minh bạch thông tin về các vụ việc thì nhân dân sẽ mất lòng tin hơn nữa. Tôi không nghĩ như vậy ? Không minh bạch mới làm mất lòng tin. Ai cũng có quyền nghi ngờ cả. Và người lãnh đạo tốt cũng mang tiếng lây. Không dám minh bạch vì sợ mất lòng tin thì đó là thứ lòng tin bị đánh lừa, lòng tin nhầm lẫn.
Văn học nghệ thuật cũng cần phải tích cực tham gia "trừ gian" để góp phần "tải đạo" theo các giá trị nhân bản và phương pháp nghệ thuật phù hợp. Để thực thi dân chủ, việc đầu tiên là thật sự tạo điều kiện cho nhân dân được mở miệng. Đó là cách nói mộc mạc dễ hiểu nhưng là chân lý của Hồ Chí Minh.
Nhà nước rất cần nghiên cứu chỉnh sửa các điều luật về tội "Tuyên truyền chống nhà nước" để cho nhân dân với tư cách là "ông chủ" được tự do phê bình đối với bộ máy và cán bộ phục vụ nhân dân, không để cho "đầy tớ" lợi dụng những quy định chưa chặt chẽ mà quy chụp, tống giam "ông chủ", làm thay đổi bản chất của nhà nước nhân dân. Tất nhiên đồng thời phải chống loạn ngôn, chống vu cáo và xúc phạm các cá nhân và tổ chức, vi phạm tự do của người khác, kể cả nhân dân và người lãnh đạo.
Lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử
Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh những mặt làm được, nhìn chung trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng được nhân tài. Lịch sử nước ta đã nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy.
Trong chiến tranh, với sức mạnh thiêng liêng của hồn nước, nhân tài tụ về dưới cờ khởi nghĩa để chiến đấu vì mẹ hiền Tổ quốc. Đến khi hòa bình thì nhân tài, trung thần thưa vắng dần, còn nịnh thần thì chui vào ngày càng nhiều trong triều chính, dẫn đến tha hóa quyền lực và sụp đổ.
Cách làm công tác cán bộ chủ yếu là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của người lãnh đạo. Không ít trường hợp sắp xếp cán bộ theo quan hệ, hậu duệ, "lợi ích nhóm" ; bị đồng tiền chi phối, thậm chí đồng tiền đã quyết định trong nhiều trường hợp ; đề bạt con cháu, đồ đệ và những người ăn cánh.
Từ xưa tới nay, chế độ và triều đại nào cũng vậy, nạn mua bán chức quan là một trong các biểu hiện tha hóa quyền lực nguy hại nhất. Ở Việt Nam, nhiều năm rồi, cụm từ "buôn quan", "buôn vua" đã xuất hiện, tồn tại và lan truyền. Ngôn ngữ không ngẫu nhiên mà có. Nó ra đời để phản ánh một thực trạng trong đời sống chính trị - xã hội.
Đến nay nạn chạy chức, chạy quyền đã trở nên khá phổ biến, có những trường hợp cứ như là đương nhiên, rất đáng lo ngại, kể cả ở những lĩnh vực hệ trọng. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề và những năm gần đây lại cộng với mặt trái của cơ chế thị trường và sự tha hóa quyền lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản công tác cán bộ theo hướng cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử trong môi trường thật sự tôn trọng ứng cử tự do và đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội ; chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và nghiêm túc, khách quan, vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Đó cũng là cách để nhân dân và đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ. Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp lựa chọn những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân chính và xứng đáng của nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Khi các đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp đã được nhân dân bầu chọn thì phải toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, lắng nghe nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân, biểu quyết vì nhân dân. Tiến tới công khai cho nhân dân biết các đại biểu ấy biểu quyết thế nào đối với những công việc mà nhân dân bức xúc quan tâm, để giám sát sự trung thành với dân.
Tổ chức Đảng phải làm nòng cốt kiểm soát quyền lực
Nếu các đại biểu ấy là đảng viên thì càng phải gương mẫu thức hiện ý dân, coi lòng dân là sơ sở quan trọng nhất để hành động - đó là nguyên tắc cao nhất. Tổ chức Đảng đã giao cho đảng viên nhiệm vụ làm đại biểu chân chính của nhân dân, đảng viên cứ thế mà hành động ; tổ chức Đảng không cầm tay chỉ việc, không yêu cầu đảng viên phải biểu quyết và phát ngôn cụ thể theo ý kiến cấp ủy.
Trung thành với nguyện vọng của dân, nói tiếng nói của dân - đó chính là nhân cách và ý thức đảng viên chân chính. Đảng vì nhân dân mà hành động chứ không vì cái gì khác, không để cho "nhóm lợi ích" chi phối và thao túng.
Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng lâu nay không ít trường hợp đã sử dụng biện pháp hành chính và quyền lực, thậm chí đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trên thực chất, và cũng chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực.
Với cách này, nếu kéo dài thì tổ chức Đảng sẽ bị quyền lực làm tha hóa, vừa hỏng công việc lãnh đạo đất nước, vừa hỏng bản thân tổ chức Đảng. Cần đổi mới một cách căn bản nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng không làm thay, không chồng chéo với công việc Nhà nước, nhất là việc sử dụng quyền lực, mà chuyển mạnh sang lãnh đạo chủ yếu bằng các giá trị văn hóa, từ chủ trương hợp lòng dân đến noi gương và thuyết phục, không áp đặt một chiều bằng biện pháp tổ chức, hành chính và quyền lực.
Đảng phải đại diện chân chính và xứng đáng nhất cho ngọn cờ dân chủ ; phát hiện và chọn lựa cho được các hiền tài để giới thiệu với nhân dân. Đó cũng là cách làm truyền thống mà trước đây, trong điều kiện chưa cầm quyền, Đảng đã từng sử dụng để trở thành một Đảng lãnh đạo của nhân dân.
Bản thân trong tổ chức của Đảng cũng cần phải có cơ quan do đại hội cử ra để giám sát cán bộ lãnh đạo về nhân cách và việc sử dụng quyền lực. Tổ chức Đảng không đứng lệch về phía quyền lực và sử dụng quyền lực nhà nước, mà nghiêng về phía nhân dân, tập trung lãnh đạo và làm nòng cốt trong kiểm soát quyền lực, thực hành dân chủ rộng rãi và phát huy vai trò các tổ chức của xã hội dân sự lành mạnh để tham gia xây dựng, bảo đảm cho nhà nước thật sự là nhà nước của nhân dân - là mục tiêu xây dựng nhà nước mà Đảng nói lâu nay.
Vũ Ngọc Hoàng